CẨM NANG TU ÐẠO (Hòa Thượng Quảng Khâm)

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

296camnangtudao.jpg

_______

CẨM NANG TU ÐẠO


--ooOoo--

Hòa Thượng Quảng Khâm

Việt Dịch: Ban Phiên Dịch Vạn Phật Thánh Thành

--**0**--





Mục Lục

Dẫn Nhập

Tiểu Sử Hòa Thượng Quảng Khâm




Chương I: Tu Hành

1. Tu Hành: Tìm Lại "Bản Lai Diện Mục"

2. Cục Ðá Cột Chân Người Tu

.....A. Tham, Sân, Si

.....B. Ngã Mạn

.....C. Thiện Ít, Ác Nhiều

3. Nẻo Chánh Ðể Tu Hành

4. Bản Sắc Của Việc Tu



Chương II: Khổ Hạnh

1. Vững Lòng Tin, Tu Khổ Hạnh

2. Làm Sao Tu Khổ Hạnh

3. Buông Xả Túi Da Thối Này!



Chương III: Rõ Nghĩa

1. Hiểu Biết, Lập Hạnh

2. Công Phu Khuya và Tối

3. Gõ Chuông



Chương IV: Pháp Môn Tịnh Ðộ

1. Tây Phương Có Phật Hiệu A-Di-Ðà

2. Niệm Phật

3. Niệm Phật Có Thể Thấy Phật Không?

4. Thầy Quảng-Hóa Tới Tham Phỏng



Chương V: Việc Làm Ba-La-Mật

1. Thẳng Thắn

2. Nhẫn Nại

3. Khéo Léo



Chương VI: Hạnh Xuất Gia

1. Xuất Gia Ðể Làm Gì ?

2. Con Ðường Siêu Thoát Của Người Tu

3. Tự Ðộ

4. Ðộ Người

.....A. Biết điều tốt của thí chủ

.....B. Tiếp đãi tín đồ

.....C. Sự nghiệp của Bồ-tát

5. Ðiểm Tốt Của Việc Tu

6. Ðạo Cao Một Tấc, Ma Cao Một Thước

7. Ni Chúng



Chương VII: Xuất Gia Và Tại Gia

1. Tại Gia

2. Xuất Gia: Báo Ðền Bốn Ân Lớn

3. Ở Ðời và Ði Tu



Chương VIII: Cảnh Giới Của Chúng Sanh

1. Tâm Chúng Sanh

2. Thói Quen, Tập Khí

3. Danh Lợi và Chậm Chạp



Chương IX: Nhân Quả Và Sám Hối

1. Nhân Quả

2. Sám Hối



Chương X: Lời Cuối

1. Thời Ðại Ðã Thay Ðổi Rồi!

2. Khai Thị - Ngộ Nhập

3. Pháp Ngữ

4. Lời Của Thầy Truyền-Văn

 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Dẫn Nhập

Tập Cẩm-Nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh, khiến ta giác ngộ như Ngài.

Kinh Hoa-Nghiêm dạy rằng: "Chúng sanh như người bệnh, Thiện-tri-thức như bác-sĩ, lời dạy của Thiện-tri-thức như thuốc hay. Thuốc hay thì đắng, song trị lành được bệnh."

Bởi vậy, trong tập Cẩm-Nang này, bạn sẽ thấy mỗi lời dạy của Ngài đều vô cùng sâu sắc, trực tiếp song đơn giản; ngắn gọn, dễ hiểu mà hàm súc. Ðây là điểm then chốt dị biệt giữa lời nói của người đã ngộ Ðạo và kẻ chưa tỉnh giác.

Kẻ còn mê muội thì cần lời giảng cao xa, sâu sắc, dùng trò chơ trí thức chữ nghĩa, song thiếu thực dụng nội tại. Những lời dạy của Hòa-Thượng Quảng-Khâm là những lời mà không ai có thể bắt chước đặng, bởi vì những lời ấy được lưu xuất từ một nội tâm thâm chứng và một cuộc đời chân thật thực nghiệm, "sống" trong sự thâm chứng ấy mỗi ngày. Ngài chỉ ăn một bửa ngọ và chỉ ăn trái cây; ngủ thì ngủ ngồi; áo mặc thì chỉ một vài bộ. Ngài rất ít lời, không nói chuyện dông dài, bàn luận thế sự tạp nhạp. Cả đời, vật sở hữu của Ngài hoàn toàn không! Chẳng có xe hơi, chẳng có trương mục ngân hàng hay thẻ tín dụng, nhà riêng, Tivi, tủ lạnh, radio.... tất cả Ngài đều không có. Chính bởi vì, và chỉ có, cuộc sống rỗng không như vậy nên Ngài mới thực sự an trụ trong cảnh giới Chân Không của tự tâm. Ðây thật là điều quý báu để chúng ta, kẻ hậu học, nhất là người xuất gia, phản tỉnh và thức tỉnh.

Ðối tượng trọng tâm của tập Cẩm-Nang này là người xuất gia, song hoàn toàn ứng dụng cho kẻ tại gia. Khi đọc Cẩm-Nang, bạn hãy hình dung như có một vị Tăng già hiền từ, chín mươi tuổi ngoài, đang nói chuyện cùng mình vậy.

Sách này, đọc là để áp dụng; đây không phải là tiểu thuyết; truyện, hay sách nghiên cứu để tăng kiến thức. Khi được đọc để áp dụng như thuốc lành trị bệnh hay như gậy đỡ chân, thì tập Cẩm-Nang này sẽ giúp chúng ta đổi cái nhìn, sửa thói hư tật xấu, trừ suy nghĩ lầm lẫn, hướng dẫn bước tu đúng đắn. Khi đó, ánh sáng bất tận của Chánh Pháp sẽ chắc chắn tràn ngập nơi nơi - trong tâm bạn và những gì quanh bạn.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Tiểu Sử Hòa Thượng Quảng Khâm

_______

aaaaaaHòa-Thượng Quảng-Khâm sinh vào đời nhà Thanh, năm Quang-Tự thứ 18 (1892). Ngài họ Hoàng, tên tục là Văn-Lai, quê ở Phúc-kiến, Trung-Hoa.

Gia đình Ngài rất nghèo, đến độ anh ruột Ngài không có đủ tiền để cưới vợ. Năm Ngài bốn tuổi, vì không đủ sức nuôi dưỡng Ngài, cha mẹ Ngài phải đem Ngài bán làm con nuôi cho gia đình họ Lý ở Tấn-giang. Hai ông bà họ Lý là người rất tốt, cả đời sống bằng nghề trồng trọt. Họ thương yêu Ngài như con ruột vậy. Bà Lý là người tin Phật sâu xa, suốt đời trường trai. Bà thường đem Ngài lên chùa cầu nguyện bởi từ nhỏ Ngài thường bệnh hoạn, thân thể yếu ớt.

Năm Ngài chín tuổi, bà Lý qua đời; hai năm sau dưỡng phụ Ngài cũng nối gót từ trần, khiến Ngài bỗng chốc trở thành cô nhi. Bấy giờ, bà con họ hàng ai nấy đều tranh dòm, chờ chực để chiếm đất đai ruộng vườn, tài sản của gia đình họ Lý để lại. Ðiều ấy khiến Ngài, một trẻ thơ, cảm nhận sâu xa mùi vị chua chát của thói đời và tánh vô thường của mọi sự. Trong đầu Ngài nảy sinh ý niệm thoát trần: Ngài đem hết của cải đất đai nhường lại cho bà con, rồi một mình tìm tới Chùa Thừa-Thiên ở Phúc-châu xin xuất gia.

Bấy giờ, phương trượng Chùa Thừa-Thiên là Hòa-Thượng Chuyển-Trần, dạy Ngài quy-y, tu Khổ-hạnh với Thầy Thụy-Phương. Ngài được phân phối cho việc lao tác, trồng rau, nhổ cỏ....; đây là những việc công quả tập sự dành cho người muốn xuất gia.

Ðến năm 19 tuổi, do nhiều nhân duyên đặc biệt, Ngài đã qua Nam-Dương. Ở đây, vì không có trình độ học vấn nên Ngài phải làm việc lao động chân tay. Một hôm, nhân cùng đồng bạn lên núi đốn củi, Ngài nói với bạn về trực giác linh cảm của mình rằng chiếc xe vận tải chở củi sẽ lật ở dốc núi, nhưng không ai tin. Không lâu, chiếc xe quả nhiên bị lật thật. Ðiều này khiến bạn Ngài ngạc nhiên, bảo rằng: "Có được trực giác như vậy sao anh không chịu tu hành, phát triển tâm linh, sau này độ thế ?" Nghe qua, Ngài như chợt tỉnh, liền đáp thuyền về lại Trung-Hoa. Bấy giờ Ngài đã 35 tuổi, sau gần 16 năm sống ở Nam-Dương.

Về lại Chùa Thừa-Thiên, Ngài chính thức xuống tóc, lạy Hòa-Thượng Thụy-Phương làm Thầỵ Pháp-danh của Ngài là Chiếu-Kính, tự Quảng-Khâm. Sau khi xuất gia, Ngài chuyên chú tu Khổ-hạnh, ăn những thức không ai thèm ăn, làm những việc không ai chịu làm, thường luôn ngồi Thiền, một lòng niệm Phật. Có một thời gian Ngài giữ trách nhiệm Hương-đăng (thắp nhang, quét tước điện Phật) và đánh bảng thức chúng mỗi sáng. Nhiều lần Ngài ngủ say quá nên trễ nãi việc đánh bảng. Ðiều này khiến Ngài vô cùng hổ thẹn, sám hối sâu xa trong lòng, rồi từ đó lập chí ngủ ngồi.

Năm 1933, sau sáu năm làm Sa-di tu Khổ-hạnh, bấy giờ Ngài mới đi cầu thọ giới Tỳ-khưu nơi Hoà-Thượng Diệu-Nghĩa, Chùa từ-Thọ, Phủ-điền. Thọ Giới rồi, Ngài liền xin phép Phương-Trượng Chuyển-Trần đi ẩn tu; lúc ấy Ngài vừa đúng 42 tuổi. Bấy giờ, một thân một mình, với ít áo quần và hơn 10 ký gạo. Ngài nhắm núi Thanh-lương, tỉnh Tuyền-châu, tiến bước. Nơi ấy, ở giữa sườn núi, Ngài tìm thấy một thạch động đủ rộng để an thân tu Ðạo. Ðộng này vốn là nơi mãnh hổ thường lui tới; thế nhưng khi gặp hổ, Ngài chẳng hãi sợ. Ngài bảo cho chúng biết ý định muốn dùng động này để tu hành và khuyên chúng hãy tìm nơi khác. Lạ thay, hổ như hiểu ý Ngài, rõ lời người. Ngài lại vì hổ mà thuyết Tam Quy-y; hổ nghe rồi vẫy đuôi đi mất. Không lâu sau, hổ ấy đem bầy hổ lại: nào hổ mẹ, hổ con... đùa giỡn, gần gủi với Ngài như gia súc vậy. Bởi thế, sau này người dân quanh đấy gọi Ngài là Phục Hổ Hòa-Thượng.

Bấy giờ, Hòa-Thượng ở sơn động ngày ngày tọa Thiền, niệm Phật; chẳng bao lâu lương thực cạn sạch, Ngài bèn hái trái cây rừng để ăn. Trong núi, ngoài hổ còn có khỉ, vượn. Bọn ấy, lạ thay, thường hay đến động; chúng lại đem cả hoa quả cây trái lại cúng dường Ngài nữa!

Hòa-Thượng thường hay nhập Ðịnh. Có lần Ngài nhập Ðịnh đến vài tháng, không ăn uống, không động đậy thân thể; thậm chí hơi thở dường như dứt tuyệt. Có người gần đấy thấy vậy thì lầm tưởng rằng Ngài đã viên tịch, nên tức tốc cấp báo với Hòa-Thượng Chuyển-Trần để lo việc hỏa táng. May thay, lúc ấy có vị cao-tăng là Ðại-Sư Hoằng-Nhất đang ở chùa gần đấy, nghe được tin trên bèn cùng Hòa-Thượng Chuyển-Trần lên núi xem hư thực. Tới nơi, Ðại-Sư Hoằng-Nhất biết Ngài đang nhập Ðịnh, liền gõ ba tiếng khánh, đánh thức Ngài dậy từ trạng thái Thiền-định. Tin Ngài nhập Ðịnh lan truyền khắp nơi khiến ai ai cũng tán thán.

Tháng ngày qua như tên bắn, thấm thoát Hòa-Thượng đã ở trên núi Thanh-lương được 13 năm. Bấy giờ Ngài, đã 54 tuổi (1945), trở về Chùa Thừa-Thiên. Hai năm sau, 1947, Ngài rời Ðại-lục, đáp thuyền tới Ðài-loan. Ở đây, bắt đầu quãng đời hoằng Pháp của Ngài:

- 1948, Ngài xây một ngôi chùa nhỏ ở Ðài-bắc, tên là Quảng-Minh Tự.

- 1951, xây Quảng-Chiếu Tự.

- 1952, Ngài tìm thấy một thạch động ở núi Thành-phước rất đặc biệt: khi mặt trời và mặt trăng mới mọc thì ánh sáng chiếu thẳng vào cửa động. Bởi thế, Ngài đặt tên là Nhật-Nguyệt Ðộng và quyết định ở đấy ẩn tu. Nơi ấy xưa nay vốn không có nước, song từ khi Ngài vào ở bỗng có một suối nước mát tự nhiên vọt lên kế bên. Trên đỉnh núi ấy, Ngài dựng một chòi tranh để ở. Một đêm nọ, có con trăn khổng lồ bò lại chòi tranh cầu Pháp; Ngài liền vì nó thuyết Pháp và truyền Tam Quy-y.

- 1955, tín đồ ở Ðài-bắc cúng dường Ngài một cuộc đất do hỏa sơn tạo nên; Ngài bèn xây Thừa-Thiên Tự ở đó.

- 1963, Ngài hưng kiến Tường-Ðức Tự; xây Quảng-Long Tự ở núi Long-tỉnh.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

aaaaa
Ðến năm 1964, Ngài đã ở Ðài-loan được 17 năm. Trong suốt thời gian ấy, Ngài đã nhập định ba lần và mỗi lần lâu hơn cả tháng. Hằng ngày, Ngài chỉ ăn một bửa và chỉ ăn trái cây; Ngài không ăn đồ nấu nướng hay chiên xào gì cả. Vì vậy, tín đồ gọi Ngài là Thủy-Quả Hòa-thượng - Ông Thầy Ăn Trái Cây - Trừ khi trời mưa, thường thì mỗi đêm Ngài đều ngồi tọa Thiền cho tới sáng ở ngoài vườn hay trong rừng, chứ không ngủ trong phòng như kẻ khác. Ðấy là những công hạnh đặc biệt của Ngài.

Năm Ngài 80 tuổi, có lần Ngài biểu thị cho Ðại-chúng biết ý định "Xả Báo" - nhập Ðịnh - của Ngài. Lúc ấy các đệ tử vô cùng khẩn thiết, cầu xin Ngài tiếp tục từ bi trụ thế. Bấy giờ Ngài vì tùy thuận chúng sanh nên trì hoãn việc nhập Ðịnh, tiếp tục công cuộc độ sinh. Từ ấy Ngài đi Nam-đầu, Ðài-trung, Gia-nghĩa, Hoa-liên, v.v... hoằng Pháp độ chúng.

Ðến năm 84 tuổi, Ngài bắt đầu cấm túc, ở luôn tại chùa Thừa-Thiên trên núi Thanh-lương không còn xuống núi nữa. Công cuộc xây chùa vẫn tiếp tục, song do các đại đệ tử của Ngài chủ động: trùng tu Chùa Thừa-Thiên, xây Quảng-Thừa Nham (1974), Diệu-Thông Tự (1982).

Năm Ngài 94 tuổi (1985), Ngài chủ trì Tam Ðàn Ðại Giới, truyền giới cho hơn 2.500 vị Tăng, Ni và cư sĩ; tạo thành một Pháp-Hội trang nghiêm vĩ đại nhất ở Ðài-loan lúc bấy giờ.

Bấy giờ tuy đã gần kề trăm tuổi, Ngài vẫn sống rất đơn giản, đạm bạc; lời nói của Ngài bình dị, khiêm nhường; bước đi của Ngài vẫn vững chãi, không cần dùng tới gậy chống, không nhờ người đỡ taỵ Nếu ai gặp Ngài lúc ấy sẽ thấy thân Ngài vô cùng nhẹ nhàng, linh hoạt; động tác thanh thoát. Ngài vẫn y nhiên ngủ ngồi, không nằm; và vẫn ngồi ngoài vườn lộ thiên tĩnh tọa mỗi đêm. Bấy giờ thức ăn trái cây của Ngài phải được nghiền thành chất lỏng để dễ ăn.

Cuối năm 1985, Ngài trở về Chùa Thừa-Thiên. Ngài thị hiện có bệnh; cự tuyệt mọi thứ ẩm thực, thuốc men; cũng không tiếp kiến tín đồ.

Ngày Tết Nguyên-đán năm ấy, 1986, Ngài triệu tập tất cả đệ tử ở các chùa và tu viện khắp nơi lại để phú chúc, phân phối hậu sự. Ngài chỉ bảo việc hỏa táng, phân chia linh cốt tại Thừa-Thiên Tự, Quảng-Thừa Nham, và Diệu-Thông Tự, đồng thời trả lời mọi nghi vấn của tín chúng.

Sáng ấy, sau giờ thọ trai, Ngài quyết định xuống Diệu-Thông Tự ở Cao-hùng.

Hôm sau, mồng hai Tết, khí lực của Ngài vô cùng suy nhược.

Mồng ba Tết, thể lực của Ngài bình phục. Ngài cùng đại chúng lên điện niệm Phật. Ngài lại nói chuyện một cách thong dong tự tại với các tín đồ đệ tử; tinh thần vô cùng sáng suốt và lạc quan như không có chuyện gì xảy ra.

Sáng mồng bốn Tết, Ngài gọi tất cả đệ tử cùng Ngài ra bên ngoài điện đón nắng. Ngài nói với một đệ tử, Thầy Truyền-Văn, rằng: "Ngươi được rồi đấy; song bọn họ - đại chúng - còn chưa xong đâu!"

Mồng năm Tết (ngày 13 tháng 2 năm 1986), Ngài ngồi xếp bằng yên định, tinh thần hòa hoãn, chẳng chút xao động; rồi dạy các đệ tử đồng thanh niệm Phật.

Vào hai giờ chiều hôm ấy, Ngài bảo đại-chúng: "Vô lai vô khứ, một hữu sự!" (chẳng đến chẳng đi, chẳng việc gì); rồi nhìn đại-chúng gật đầu, mỉm cười. Không lâu sau, đại chúng thấy Ngài ngồi yên bất động liền đến bên quan sát kỹ, mới hay Ngài đã an nhiên theo tiếng niệm Phật, viên tịch rồi.

Nhìn lại cả đời Ngài, xuất thân tuy nghèo khổ song bản tánh tự an, ngay thật, bình dị; đến khi xuất gia, Ngài thật sự buông bỏ vạn sự, chân thành ẩn tu, thực hành đủ thứ khổ-hạnh gian khó. Bởi nhân địa chân thật như vậy, nên kết quả là cảm ứng bất khả tư nghị - sau khi xuống núi, tới Ðài-loan hoằng dương Phật Pháp, Ngài đã tiếp độ không biết bao nhiêu chúng sanh, từ người đến thú, từ dương giới đến âm giới, từ hữu tình đến vô tình... Và, nhất là sự viên-tịch vô cùng tự do tự tại của Ngài - một minh chứng hùng hồn nhất về sự diệu kỳ của Phật Pháp, cũng như về khả năng thành tựu sự giải thoát, đạt Ðạo của những bậc chân tu, thật hành.

Thầm nguyện Hòa-Thượng sẽ không xả bỏ đại nguyện, tiếp tục chèo thuyền từ bi trở lại cõi này để không ngừng đưa lớp lớp chúng sanh tới bờ bên kia, đến nơi an ổn, vô úy, vô ưu não!
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

guangqin.jpg


CẨM NANG TU ÐẠO

Hòa Thượng Quảng Khâm

Việt Dịch: Ban Phiên Dịch Vạn Phật Thánh Thành

---o0o---

Chương I: Tu Hành



1. Tu Hành: Tìm Lại "Bản Lai Diện Mục"

Pháp môn mà ta tu học là pháp Vô-thượng, là Pháp chẳng có hình tướng gì, bởi vì nó là pháp ở trong tâm.

Xuất gia tu hành là vì mục đích tìm lại bản lai diện mục - khuôn mặt thật của mình trước khi được cha mẹ sanh ra. Khi các bạn chưa sáng tỏ việc này thì trí huệ chưa khai mở; cũng giống như mặt trăng bị mây đen che kín, không thể hiển xuất quang minh được.

Tu đạo là vì giải thoát, không bị chìm đắm trong luân hồi. Coi bạn có thể tu đến chỗ Ngũ Uẩn (Sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều "không" chăng ?

Tu đạo thì cần trừ tham, sân, si; đạt đến chỗ thân, miệng, ý đều trong sạch.

Từ thuở vô thủy tới nay, nghiệp chướng mà mình tạo ra thì đầy ngập như núi cao. Ngày nay các bạn xuất gia tu hành thì cần phải tiêu trừ nghiệp chướng của mình đi. Nếu không khéo tu hành, mà ngược lại, tạo tội nghiệp, thì núi cao nghiệp chướng kia ngày càng đắp cao thêm; vĩnh viễn bạn không còn cách gì thoát khỏi vòng sanh tử.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

2. Cục Ðá Cột Chân Người Tu


aaaaA. Tham, Sân, Si

Hễ bạn khởi tâm động niệm thì tự mình đã sai lầm rồi đó, là bởi do cái "ngã", cái "tôi" tồn tại. Ðây là niệm rất vi tế; chỉ do niệm này bắt đầu khởi dậy, mà tất cả ý nghĩ khác dấy lên.

Cứ chê kẻ khác sai, kẻ khác xấu, còn mình thì luôn luôn đúng, luôn tốt;
nghe người ta nói mình tốt thì vui, thì thích;
bị kẻ khác chê xấu thì khó chịu, thì rầu;
đó đều là nhân-ngã tướng- thấy thật có mình, có người.

Khi tu hành mà còn có tướng nhân-ngã như thế thì không thể yên ổn tu hành.
Khi còn ngã-tướng thì làm gì cũng thấy có cái "ta", coi cái "ta" này trọng lắm, phân định ranh giới "ta" và "bọn họ" rõ ràng lắm.
Như vậy thì chẳng có lợi gì cho việc tu, mà ngày ngày lại do đó phát sinh phiền não.

Nếu bạn đắm trước, chấp chặt vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp
(hình sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, chạm xúc, và ý tưởng)
thì trí huệ không thể khai phát đặng.

Tai các bạn lúc nào cũng thích nghe, nghe xem có ai nói xấu mình chăng;
mắt lúc nào cũng thích nhìn hình sắc đẹp đẽ;
đó là những thứ chẳng lợi cho việc tu.


Không trừ sạch tham, sân, si, thì không có cách gì khai trí huệ đâu !

Chỉ cần Tham một thứ gì đó là đủ khiến ta trở lại vòng luân hồi rồi !

Tham một thứ thì nhiều thêm một thứ.
Ít đi một vọng niệm thì bớt đi một chút nghiệp,
lại tăng thêm một phần giải thoát.


Không nên nổi lòng tức giận, dù nhỏ như sợi lông; nếu không mình chẳng thể nhập đạo đặng.


Nếu bạn vẫn còn lòng yêu đương, tình ái trong quan hệ phụ mẫu, bạn bè, đồng sự, bà con...,
thì trăm ngàn vạn kiếp bạn vẫn mãi ở trong luân hồi.

Nếu có hạt giống Phật thì sự tu hành tương đối mau hơn.

Không nên để những thứ xấu xa, rác rến chất đầy đầu não, thật là thống khổ đấy !
Không nên yêu thích cái đẹp; hãy mặc cái y này (chỉ áo cà-sa của chư Tăng, Ni) mà trực tiếp tới cõi Tây Phương.
Nếu bạn thích (mặc áo) đẹp thì sau này khi ở Tây Phương sẽ tự nhiên có y phục đẹp mặc vào, không cần phải may phải mua.
Có kẻ chưa tới Tây Phương song hiện đã có hình dáng như ở đó rồi.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
aa
aaaa
B. Ngã Mạn

Không nên học tánh cứng đầu, cố chấp.

Không nên có ngã-chấp (luôn nghĩ tới cái "ta", luôn cho rằng "ta" đúng).

Có ngã-chấp thì trí huệ không khai mở.

Ðừng nên sanh lòng cống cao ngã mạn bởi vì nó chướng ngại đường Ðạo.

Không dẹp sạch ý niệm về "ta" và "người" (nhân-ngã tướng), thì không cách gì giải thoát.

Sư-Phụ vốn dạy mình Pháp-môn Giải-thoát;

Ngài nói Pháp không phải để thu nhập nhân tài.

Nếu kẻ có tài năng song không khéo tu hành, do đó cứ nghĩ lăng xăng, tính toán việc này việc nọ.

Tu hành là tu ở sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp;
là mặc áo thô, ăn cơm đạm, coi thử bạn có khả năng tu luyện để đầu óc được thanh tịnh hay chăng.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

aaaa
C. Thiện ít. Ác nhiều

Trong tâm, thế lực xấu ác thì mạnh còn khuynh hướng tốt thì yếu.

Thế tốt thì nói: "Tôi là tốt lắm đây"; thế xấu thì nói: "Tôi là tốt nhất đây!"
Tư tưởng xấu ác luôn đứng đầu, lấn át tư tưởng thiện; nên thiện chung cuộc bị ác đè bẹp.
Ðó là điều không tốt.

Từ thuở vô thủy đến nay, do ý niệm thiện trong lòng ta ít ỏi còn ý niệm xấu ác lại nhiều, nên tự-tánh trong sạch (Phật-tánh) bị che phủ, không xuất hiện được.
Bởi vì niệm ác tích lũy ấy mà ta cứ khởi vọng niệm, thích ngủ, thích hưởng thụ... mà không cách gì đề kháng đặng.
Ðó chính là nghiệp chướng; do đó mình phải tu để chế phục nó.
Nếu không, dù bạn đi đây đi đó nghe giảng, bạn chỉ là nghe vô một đống mà phiền não thì vẫn đầy dẫy, chẳng chỗ nào thông đạt !

Khi nghiệp chướng tới thì phiền não khởi. Khi không chánh niệm thì tà niệm khởi.

Lúc ấy, bạn thấy người nào cũng không hợp nhãn; thấy việc gì cũng chẳng vừa lòng.
Có kẻ vì vậy mà muốn rời bỏ chùa; hoặc có kẻ cảm thấy không có ý vị gì nên muốn hoàn tục.
Thật ra, không cần biết bạn có lý hay vô lý, hễ bạn khởi phiền não là bạn đã sai lầm rồi đó !

Không sợ hãi thì tâm mới an định. Khi tâm sợ hãi thì không thể an định.

Sợ hãi là tâm lý chỉ cho mình cảm nhận thôi, kẻ khác không cảm thấy như mình; do đó, chỉ có mình là bất lợi.
Khi mình không tự chủ thì mới sợ. Sợ quá, sợ hoài, thì sanh phiền não.
Khi ấy, tâm không an định thì sẽ chẳng còn Ðạo tâm tu hành nữa !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

3. Nẻo Chánh Ðể Tu Hành


aaaaA. Trừ Tướng

Hỏi: Thưa Thầy, khi thực hành mới thấy không giản dị.

Ðáp: Ðừng nói là "không giản dị." Bạn cứ làm thì sẽ hết sức giản dị.

Hỏi: Song con là kẻ phàm phu cho nên...

Ðáp: Nói mình là "phàm phu", tức là chấp trước.

Hỏi: Song con không có tu hành gì...

Ðáp: Ðừng nên nói không có tu hành (rồi không tu). Bạn cần phải có lòng tin, rằng: "Tôi cũng có khả năng thành Phật. Tôi cũng có khả năng tu tới nơi tới chốn." Nghĩ như vậy thì bạn mới tinh tấn hơn. Ðừng nên cứ thường nói: "Tôi, tôi..."; bởi chính nó (quan niệm về "tôi") tác quái, làm chướng ngại bạn đấy !

Xưa kia có một vị quan từ chức, xuất gia tu hành. Ông ta sợ kẻ khác biết được thân phận của mình do đó không hề tiết lộ thân thế cao quý (kẻ có chức vị cao, ăn mặc đầy đủ, thì rất dễ bị đọa lạc vì phú quý không thể vĩnh cửu). Ông ta làm đủ thứ việc thấp kém như lau chùi, quét dọn...; không ai biết thân thế của ông. Một ngày nọ, ông ta quét dọn rồi khai ngộ. Ông ta biết ra là xưa kia mình đã từng làm bể bao nhiêu cái chén cái bát của chùa, do đó cấp tốc bồi thường cho chùa.

Chính vì ông ta không có ý niệm về cái "tôi" (ngã tướng) nên mới được khai ngộ. Bởi vậy, hãy trừ sạch ngã-tướng.

Cần phải không có tâm phân biệt thì mới trừ nỗi ngã-tướng. Khi còn chấp chặt vào ý niệm về "tôi", thì tu chẳng đến đâu. Trừ được ngã-tướng thì trí huệ mới khai phát.

Tu hành, không thể chấp trước. Chấp trước tức sanh phiền não.

Tu Ðạo là cần trừ tham, sân, si; đạt tới thân, miệng, ý thanh tịnh.

Muốn trừ cái cái chấp về "tôi" thì phải từ nơi mặc áo thô, ăn cơm đạm mà dụng công - giảm bớt ham muốn, không có tâm phân biệt, không suy nghĩ về mình, về người, về chúng sanh, hay về thọ mạng.

Mọi thứ đều là anh-tôi tranh chấp mà ra. Coi xem bạn có thể tu đến chỗ chẳng còn anh-tôi, mình-người chăng ?

Bạn cần tu nhẫn; nhẫn nhục, nhẫn nại là căn bản, gốc rễ của việc tu. Nếu bạn không thể tu nhẫn, thì chỉ uổng công mang ngoại biểu, hình tướng kẻ xuất gia !

Ðừng nên cho mình lúc nào cũng đúng. Thái độ như vậy không thể tu tâm.

Tu hành không cần có ý niệm về "tôi." Không nên kể lể mình hồi xưa, lúc chưa xuất gia, thì có chức phận thế này, địa vị thế nọ; nếu làm vậy thì không thể buông bỏ mọi thứ, không thể tu Ðạo. Khi đã xuất gia thì chẳng còn chức phận, địa vị, học lực, bằng cấp, tài năng...; mọi người đều như nhau cả.

Tốt thì mỉm cười, xấu cũng mỉm cười; bởi tốt hay xấu đều do tâm phân biệt đặt bày ra. Do đó, đừng phân biệt.

Khi gặp việc khiến bạn cao hứng, vui vẻ, hãy tự hỏi: "Ai đang vui vẻ ?"

Khi gặp chuyện phiền não, hãy tự hỏi: "Ai đang buồn lo ?"

Khi bạn có ý nghĩ không tốt, hoặc khi có phiền não, thì hãy hướng về Ðức Phật A-Di-Ðà mà nói.

Hễ những thứ ý niệm xấu ấy đến, thì đập nát chúng ngay.

Do đó bạn cần niệm Ðức A-Di-Ðà, tự nói rằng:

"Phiền não ! Hãy mau đi khuất, chẳng có việc gì cho bây cả!"

Ðó là dùng tâm trị tâm vậy.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

aaaa
B. Xả Bỏ Tâm Phân Biệt

Con đường tu cần phải trải qua gian khổ; như vậy mới có thể khai ngộ.

Không nên hy vọng mọi người đối với mình tốt; nếu người tu chẳng vậy thì không khác gì kẻ thế tục.

Tu hành thì phải chịu thiệt thòi, thua lỗ; có vậy tu mới tiến bộ.

Tu hành là làm những việc mà không ai chịu làm; luôn dũng mãnh, tinh tấn, chứ không phải tính toán, so đo rằng:
"Việc này đâu phải để tôi làm!";
bởi đó là thái độ chẳng khác người đời.

Làm những việc mà kẻ khác không làm, đó là cách tu phước huệ.

Tu hành không phải là làm việc tính toán so đo; không cần phải toan tính, sắp đặt.

Ðiều tốt thì góp nhặt để học; điều xấu thì vất qua một bên.
Tự mình trong lòng thông hiểu là đủ rồi; thuận theo đây mà tu hạnh Nhẫn-nhục Ba-la-mật.
Tu thì đừng hỏi "đúng" với "sai", đừng kể "hữu lý" hay "vô lý."

Tu thì đừng nói thị phi, ai đúng ai sai. Dù mình đúng lý mà người khác nói mình sai, mình cũng cứ tiếp nhận ý kiến ấy.

Hễ bạn tự nhận mình sai - dù mình đúng - thì phiền não sẽ không khởi; bằng ngược lại, tâm bạn sẽ không an, phiền não sẽ kéo tới.

Trên đường tu, có rất nhiều thứ không giống với đường đời, thế tục; do đó, đừng nên tranh chấp "đúng" với "không đúng."

Xưa, có hai người đồ đệ cùng tọa Thiền, một người ngồi rất nghiêm trang, còn người kia thì nghiêng qua ngả lại; nhưng Sư-Phụ của họ lại lấy roi quất người ngồi nghiêm trang. Nếu là người thời nay thì có lẽ y đã nổi giận, sanh phiền não rồi; song người đệ tử ấy thì lại vô cùng xấu hổ, thỉnh vấn Sư-Phụ khai thị dạy bảo.

Tu hành không phải là tranh chấp "đúng" với "sai." Tu hành cần phải có công phu nhẫn nhục; dù mình đúng mà bị trách là sai, mình cũng phải nhận chịu.

Nếu bạn thật có lòng muốn tu, thì đó chính là phước của bạn; do vậy cần tu cả phước lẫn huệ.
Mỗi người cần trừ sạch hết những nghiệp chướng đã tạo xưa kia, rồi đừng tạo thêm nghiệp mới nữa; như vậy thì phước, huệ sẽ tăng gia.

(Phương pháp: Niệm Phật, lạy Phật, phát tâm làm việc lao tác ở chùa, không tính toán. Hễ tính toán thì sanh phiền não, tức là tạo thêm nghiệp mới.)
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

aaaa
C. Tâm Kiên Cố

Khờ khạo mà tu hành, ngốc nghếch mà ăn uống, niệm Phật cho nhiều.

Hôm nay là hôm nay. Ngày mai là ngày mai. Chuyện gì cũng đừng rớ tay, xỏ mũi vào.
Ðó chính là tâm kiên cố, chính là tu hành.

Khi tu thì cứ tu, cần gì phải suy nghĩ, tính toán nào là đi học Phật-học, lấy bằng cấp, làm này làm nọ ? Ðó đều không phải là chuyện tu hành.

Sau này, khi tôi (Hòa-Thượng Quảng Khâm) không còn, các bạn đừng buồn; chỉ nghe theo lời tôi mà niệm Phật, tu Khổ-hạnh. Ðối với hoàn cảnh tốt hay xấu, đều không nên chấp trước, cần phải tùy duyên.

Tu hành cần phải gạt bỏ cái thân. áo quần, ăn uống, chỗ ở đều phải giản dị. Cần phải mặc áo thô, ăn cơm lạt. Nếu quá chú trọng đến ăn, mặc, ở, thì bạn nào khác gì kẻ thế tục. Khi bạn coi nhẹ việc ăn, mặc, ở, thì mới trừ nổi tham, sân, si.

Khi những thứ ấy (áo quần, ăn uống, nhà cửa...) quá sung túc, thì dục vọng sẽ phừng phừng, lòng tham sẽ cao ngất. Do đó, muốn buông bỏ thân tâm thì phải từ nơi ăn, mặc, ở hạ thủ công phu.

Khi có chuyện tốt xấu gì bạn cũng đừng để hiện ra ngoài mặt. Như bạn sanh bệnh thì chớ để kẻ khác biết bạn bị bệnh. Như tôi tuy có bệnh, song ai nhìn tôi cũng nói:

_ "Trông Thầy thân thể khỏe lắm";

Không ai biết tôi lúc ấy có bệnh cả !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

aaaa
D. Canh Gác Sáu Căn

aaaaaaaaaaa
a) Mắt

Khi thấy khuyết điểm, lỗi lầm của kẻ khác, đừng nên khỏi tâm phân biệt, so sánh. Hãy quán sát chính mình. Ai ai cũng có Phật tánh cả.

Không nên tối ngày cứ dòm ngó lỗi xấu của người. Phải thường xuyên tự nhìm xem mình có lỗi lầm, sai trái gì hay không. Tu như vậy mới không đi ngược lại vời Ðạo.

Phàm thấy việc gì cũng đừng quá chấp tướng. Thấy tướng mạo tốt thì chớ sanh lòng vui thích; thấy tướng mạo xấu cũng chớ khởi phiền não.


aaaaaaaaaa
b) Tai

Tu hành cần phải tự tại. Ðừng để tâm vào lời dư luận phê bình bạn này nọ.

Nói bạn tốt, phê bình bạn xấu: Ðây chẳng phải là người ta sai, mà thật ra là bạn không an định.

Người khác phê bình bạn: Chính đây là nơi bạn phải tu.

Tu hành cần có cảnh giới tới thử thách thì mình mới tu đặng. Tự tu, tự ngộ - phiền não là Bồ-đề.
Tu hành chính là tu ở chỗ đó. Khi có kẻ công kích mà tâm bạn vẫn an nhiên, bình lặng, không nổi sóng gió; thì đó là tu.

Không phải nói rằng: "Mỗi ngày tôi lạy Phật bao nhiêu lạy, niệm Phật bao nhiêu chuỗi" và cho như thế là đủ;
phải biết đó là những nhân duyên thiết yếu (song phải biết tu trong những lúc còn lại).

Khi bạn quét chùa sạch sẽ rồi, có Thầy lại hằn học nói bạn quét chưa sạch.
Nếu lúc đó bạn cùng Thầy ấy biện bác, giải thích, thì bạn còn tánh tình kẻ tục.
Nếu bạn chấp nhận lời mắng nhiếc, rồi trả lời: "Vâng, tôi sẽ quét sạch ngay"; thì đó là tu hành.

Khi tu tới chỗ có chánh niệm, lòng sáng tỏ, thì tai bạn thích nghe lời tốt hay lời xấu, bạn đều cảm nhận rất rõ.
Khi tai bạn chỉ thích nghe lời hay lời tốt, thì hãy đem lời xấu lại mà tu.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

aaaaaaaaaa
c) Miệng

Khi nói, lời lẽ cần phải tinh (chỉ nói điểm chính) và giản (đơn giản). Khi lời không cần phải thốt ra, đừng nói!

Tu hành đừng nên thị phi (chê bai, nói xấu người khác), đừng đặt điều.

Trong đạo Phật, sợ nhất là nói thị phi. Kẻ nói chuyện thị phi là kẻ thị phi (không đáng tin cậy), chỉ tạo khẩu nghiệp.
Tu hành chính là ở chỗ này mà tu thành; nếu không thì là kẻ chỉ biết ăn ngày ba bữa.

Ðừng nói thị phi; vì nói thị phi thì sẽ dẫn tới thất bại, và khiến kẻ khác không được yên ổn.

Muốn nói gì về người khác, trước hết hãy tự hỏi lương tâm mình.

Ðừng phê phán người khác là sai, là có lỗi. Lời nói một khi thốt ra, bạn đã sai trái rồi. Do đó, cái miệng thật quan trọng lắm.

Mỗi ngày phải tự huấn luyện để lòng đừng tham, đừng nói lăng nhăng.

Khi mở miệng, hãy nói về Phật Pháp, cầu sanh Tây Phương.
Chủng tử "thói quen thế tục" bạn đã trồng trong tâm quá đủ rồi; do đó,
đừng nên tiếp tục nói những lời thế tục, thi phi nữa!

Có kẻ khi nói thường làm cho người nghe phiền não, tâm không thể an định;
khiến người nghe không biết phải xử lý làm sao cho đúng.
Ðã vậy, y còn làm người ta phải nghe y mà chẳng biết y có nghe cho họ chăng.
Kết quả là người nghe phiền não, buồn bực, không cách gì giải khai nổi.

Trong chùa, không được hai, ba người tụm lại nói chuyện lăng nhăng;
hoặc kết bè đảng, phê bình người này kẻ nọ, thị phi đúng sai, trong lúc họ không hiện diện.
Nếu làm vậy sẽ dễ gây ra sự bất an trong chúng, phạm vào giới quấy nhiễu đại-chúng.

Tu hành cần phải trong ngoài nhất trí, không tự mâu thuẫn; nghĩa là không được "khẩu thị tâm phi"
(miệng nói một đằng, tâm nghĩ một ngả).
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Tu hành phải chú ý đến khẩu nghiệp. Miệng tốt thì tâm mới tốt.
Ðừng cho rằng: "Tôi miệng tuy không tốt, song lòng tốt!"

Sau khi xuất gia rồi, trong chùa vẫn có kẻ nói chuyện thị phi.
Song le, bạn đừng cùng bọn họ nói thị phi là đủ.
Ðừng nên cứ mở miệng là thị phi hoài.
Kẻ nào nói phiếm, lẻo mép về chuyện người khác, thì y là kẻ thị phi.

Hễ có thời giờ rảnh rỗi, bạn hãy lạy Phật, niệm Phật.

Khi bạn khởi phiền não, buồn lo, chớ nên kiếm kẻ khác nói này nói nọ. Nói lui nói tới, thế nào bạn cũng mắc vào thói thị phi lăng nhăng.
Tốt nhất là hãy lạy Phật cho nhiều để giải trừ phiền não.

Hỏi: Nghe Thầy giảng (về tiết thực) nên con không dám ăn nhiều quá, ăn no quá; song sức lực yếu ớt, con phải làm sao đây ?

Ðáp: Cần ăn cho đủ. Chủ yếu là không tham, không chấp trước.

Không phải là hễ thức nào ngon thì ăn nhiều một chút, thức nào dở thì ăn ít một tí. Ðừng tham cầu hương, vị, xúc, pháp.

Khi bạn khởi ý nghĩ xấu, đừng chấp trước nó;
hãy tự nhủ thầm: "Mình không nên nghĩ ác!"
Không thể dùng hình phạt, bởi vì hình phạt chỉ làm tổn hại chính mình mà thôi.

Sự vật có tướng trạng thì dễ thấy. Việc vô hình vô tướng thì khó thấy (như nói thị phi...);
ta cần có lòng cứng rắn, đừng để bị chúng lôi kéo.

Hỏi: Có nghiệp mang theo thì làm sao khai trí huệ ?

Ðáp: Niệm "Nam mô A-Di-Ðà Phật" cho nhiều.

Nếu các bạn noi gương đức hạnh của Sư-Phụ (Hòa-Thượng Quảng Khâm) thì đi đâu cũng yên ổn cả.

Thân thể giả dối của chúng ta khó tránh bệnh tật; song, thân bệnh là bệnh nhỏ.

Có vọng tưởng, tham, sân, si mới là bệnh lớn. Còn vọng tưởng là còn tiếp nối chuỗi luân hồi, không dứt được vòng sanh tử.

Ðể bảo đảm có được chánh niệm ở giây phút lâm chung, bình thường mình cần phải uống thuốc "A-Di-Ðà Phật"; nếu không, chết rồi chẳng biết về đâu !

Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, phải luôn thể hội Phật pháp, giác ngộ đạo lý; vậy mới không uổng phí thời gian. Thời gian qua rất chóng, phải tận dụng nó để thể nghiệm. Nếu tu như vậy, ý nghĩ xấu mới không có cơ hội nảy sanh; không làm vậy, sẽ không có được chánh niệm.

Khi miệng không nói thì tâm suy nghĩ; song đừng suy nghĩ những thứ có sắc tướng, hình bóng;
phải suy nghĩ thư ra ngoài sắc tướng.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

aaaaaaaaaaa
E. Tâm Trường Viễn (bền bĩ lâu dài)

Bạn cho là tu hành thì dễ lắm sao ?

Bây giờ, việc chúng ta làm chỉ là thứ khổ công, khổ tu mà thôi. Bởi vì hiện tại chúng ta chưa đoạn được tham, sân, si, do đó đây là giai đoạn tu luyện tâm trí. Chờ khi những thứ ấy bị đoạn không còn một mảy may, thì mới gọi là nhập Ðạo.

Tu hành không phải là việc dễ "ăn" như đậu hủ, bỏ vô miệng là có thể ăn ngay !

Các bạn cần để 10 năm, 20 năm trì một câu "A Di Ðà Phật" không buông lơi, cộng thêm công phu Tín, Nguyện, Hành mới được.

Nếu các cô có Ðạo-tâm, từ từ tu tới 40, 50 tuổi, không có quái ngại, trở thành "lão sư bà", thì lúc đó các cô mới có đặng một chút xíu tự tại; song không phải là tự tại gì lắm.
Nếu các cô không ngộ Ðạo, thì dù đến 40, 50 tuổi, phiền não sẽ vẫn tràn ngập, dễ thành điên đảo.

Tu hành cần giữ Trung Ðạo (trạng thái cân bằng).
Ðừng quá gấp, đừng chậm; phải như "tế thủy trường lưu", nước chảy từ từ mà không ngừng.

Tu hành, phải giữ Trung Ðạo bằng công phu buông bỏ và nhìn thủng.
Cần mặc áo thô, ăn cơm đạm, và không chấp trước vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Song le, phải hành trì một cách tự nhiên; không phải miễn cưỡng, bày đặt không ăn cơm, không mặc áo dù trời lạnh, hay không ngủ nghỉ để chứng tỏ mình là một tay tu hành cừ khôi (cũng chẳng phải tốt lành gì !)
Khi tu tới một trình độ nào đó, tự nhiên bạn sẽ không còn biết đói, không còn cần ngủ nghỉ nữa.

Hãy tinh tấn, dũng mãnh tu hành. Tu tới lúc bạn không còn nhu yếu về ăn, mặc, ở, thì khi ấy bạn có thể lên núi bế quan; như thế thì may ra bạn có thể thành tựu.
Nếu tu chưa tới trình độ như vậy mà bế quan, thì sau này sẽ gặp chướng ngại.

Trong quá trình tu hành, nảy sanh phiền não là việc không tốt.
Cần phải không có phiền não, lo âu, buồn vui, thì mới tốt.

Nếu có thể mỗi ngày yên ổn, bình tĩnh để niệm Phật, lạy Phật, tu trì, không có chuyện gì xảy ra, là tốt rồi; chớ nên vọng tưởng chuyện này chuyện nọ.

Khi không tạo tội lỗi, thì đó là công đức rồi !

Hôm nay là hôm nay, ngày mai là ngày mai.

Hôm nay không xảy ra chuyện bất tường, có thể niệm Phật qua ngày, là đủ lắm rồi.

Việc ngày mai, để ngày mai - chớ quái ngại, chớ âu lo.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

aaaaa
4. Bản Sắc Của Việc Tu

Trừ bỏ nhân-ngã tướng (ý niệm và sự chấp trước vào quan niệm có mình và người) là việc mà người tu phải làm cho thấu. Làm được, đó gọi là công phu thiệt. Nếu không làm được, bạn đi tới chỗ nào, chùa nào tu cũng vô ích. Tu tới trình độ như vậy, công phu của bạn mới thành tựu.

Chuyện gì cũng là do "tôi, anh", mình, người" tranh chấp, phân tranh mà ra. Xem bạn có khả năng tu tới chỗ không còn "mình, người" chăng?

Cứ nhậm vận mà làm, tùy duyên qua ngày, thì chuyện gì cũng chẳng quấy nhiễu được tâm bạn. Mọi thứ: ăn, uống, ngủ, nghỉ, mặc, ở, thị phi, vinh nhục... hãy lạnh lùng buông bỏ chúng đi. Khi quét sạch được những ngoại duyên ấy, thì trí huệ trong tâm sẽ tự nhiên khai phát.

Tâm bình thường chính là Ðạo: Mỗi ngày cứ giữ cho tâm đừng khởi phiền não, âu sầu, cũng không vui vẻ thái quá. Ðối đãi với mọi người thì không tốt cũng không xấu; cứ tùy duyên mà kết mối giao hảo với họ. Song, chớ phan duyên, tức là đừng lợi dụng họ để thủ lợi.

Lúc nào cũng phải chú ý đến sự khởi tâm động niệm, sự suy nghĩ của mình. Khi có ý tưởng xấu thì phải lập tức thức tỉnh, dẹp đi.

Tu hành, cần tu với thái độ vô ngại, ví như con hạc làm tổ vậy. Con hạc không lo lắng gì về ăn uống cả; nó thích chỗ nào thì làm tổ chỗ đó. Khi nào muốn, nó lại tung cánh bay đi nơi khác. Ðó là giống chim tự do, tự tại nhất.

Khi tu, bạn phải có thái độ "vô quái ngại" ở mọi nơi, mọi chốn. Ðược vậy, thì tâm mới an tĩnh, mới như như bất động.

Tu hành, cần tu tới mức không còn quái ngại trong hoàn cảnh động hay tĩnh.

Thế nào là "động và tĩnh không còn quái ngại?" Tức là ở trong hoàn cảnh động mà tâm bạn không động: Bạn không bị hoàn cảnh động bên ngoài ảnh hưởng làm tâm bạn lay chuyển, nghĩ ngợi. Và khi ở trong hoàn cảnh tĩnh lặng, bạn không có ý nghĩ là yên lặng.

Phải dùng tiếng niệm Phật để quét sạch hai trạng thái bụi bặm đó, khiến liên hoa khai mở; như vậy mới đắc chánh niệm. Khi niệm Phật, bạn cần phải chuyển niệm - chuyển hóa, biến ác niệm thành chánh niệm!

Việc gì cũng phải buông bỏ. Buông bỏ chính là công phu.

Bình thường, đối đãi với việc gì cũng buông xả hết; không có vướng mắc, quái ngại vào việc gì. Ðó là để tránh trường hợp lúc lâm chung, giây phút tối hậu, vọng tưởng nổi lên lôi kéo mình vào vòng luân hồi bất tận.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Mục đích việc tu là để lúc chết, bạn không còn vướng bận, không còn quái ngại chuyện gì cả; chỉ thảnh thơi đem theo linh quang (công đức trí huệ sáng suốt) của chính mình mà thôi!

Tu hành, cần phải ở chỗ nào cũng tu như nhau; đâu đâu bạn cũng có thể tự tại. Tu là tu ở chỗ này đây.

Tu hành, cần không để cho ngoại cảnh bên ngoài ảnh hưởng, lôi kéo tâm mình.

Bạn cần chú ý tự tâm: Cần phải có niềm vui khởi dậy từ nội tâm chứ không phải là cái vui do hoàn cảnh tốt đẹp bên ngoài đưa đến. Do đó, bạn phải luôn quan sát tự tâm, xem xét sự suy nghĩ của mình, và đừng chú ý tới ngoại cảnh. Phải tu tới độ "tôi chẳng có gì cả" mới được!

Tu hành là tu ở phước lẫn huệ. Tu tới lúc bạn lớn tuổi, "lão" rồi, thì phước và huệ sẽ đầy đủ; bấy giờ, mọi người sẽ cung kính bạn (đừng tham được cung kính khi còn trẻ, lúc còn thiếu phước huệ).

Khi bạn tu chân thật, đúng đắn, thì dù bạn ở đâu người ta cũng sẽ tìm đến; ai ai cũng vui vẻ muốn cùng bạn đàm đạo.

Cần tu đến chỗ chánh niệm lúc nào cũng hiện tiền. Có chánh niệm thì mới có khả năng phân biệt thế nào là đúng, thế nào là sai; rồi từ đó mà hành động.

Tu hành, là tự mình tu. Tu tới lúc thể ngộ - ngộ cái khổ ở Ta-bà, cái khổ phải luân hồi. Hễ ngộ một việc thì một chút trí huệ xuất hiện.

Tu hành, cần tu tới lúc có trí huệ. Chuyện gì tới tay, bạn đều biết vận dụng nó. Khi nói, cần phải biết nói sao cho viên dung. Khi mình đã đứng vững rồi thì mới có thể khiến cho người khác tin theo và vui vẻ tiếp nhận.

Có trí huệ mới không tạo ác nghiệp. Do đó, phải tập nuôi dưỡng tâm từ bi và thực hành hạnh Bồ Tát.

Tu hành, cần tu cho có tướng mạo từ bi. Tu làm sao để người khác có thể thấy được vẻ hiền hòa, từ bi trong ánh mắt của mình!

Khi một người tu hành thành tựu thì những kẻ khác sẽ được nhờ phước. Lúc đó, ai ai cũng khởi tâm dũng mãnh, tinh tấn học theo gương người ấy.

Khi ai cũng muốn tu hành thì hãy cùng nhau khuyến khích, cùng nhau tu. Nếu không vậy thì mọi người sẽ khởi chuyện thị phi, sanh lòng đố kỵ, tranh chấp, và trở nên ngu si; bấy giờ, việc tu ở chùa sẽ không còn yên ổn nữa.

Tu cho tốt thì tự nhiên có người ủng hộ; chứ không phải bắt ép người ta mà được.

Ðừng nên hy vọng, mong cầu thí chủ lại cúng dường này nọ. Ðừng ỷ lại vào thí chủ. Bạn chỉ cần nỗ lực tu hành; khi tu thành tựu thì Thiên, Long, Bát Bộ đều tới ủng hộ bạn.

Khi ngồi Thiền, thấy cảnh giới tốt hay xấu đều đừng chấp trước; cũng đừng nói về nó.

Phật Pháp thì không dính mắc, ngưng trệ nơi cảnh giới Lạc, Minh và Không.

Khi thân khinh an, nhẹ nhàng, thì tâm sẽ hoan hỷ (Lạc); khi trong lòng ít vọng niệm thì tâm sẽ sáng suốt (Minh); và khi chẳng có một ý nghĩ hay vọng niệm sanh khởi thì đạt tới trạng thái không.

Nếu bạn vướng mắc ở cảnh giới Lạc thì đọa và Dục-giới Thiên, chấp trước vào cảnh giới Minh thì kẹt trong Sắc-giới Thiên, và bám chặc vào cảnh giới Không thì mắc ở Vô-sắc-giới Thiên.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Chương II: Khổ Hạnh



1. Vững Lòng Tin, Tu Khổ Hạnh

Nhân sinh có Bát Khổ--Sanh, Lão, Bệnh, Tử, Cầu bất đắc (khổ do mong cầu mà không được toại ý), Ái biệt ly (khổ vì phải xa lìa người mình yêu thương), Oán tằng hội (khổ vì phải gần gũi người mình oán ghét), và Ngũ-ấm xí thạnh (khổ do bị tấm thân Ngũ-ấm này khống chế).

Nếu bạn có nguyện lực tu Khổ-hạnh thì sau này sẽ có chút thần thông, sẽ biết được chuyện này chuyện nọ. Lúc ấy, tự mình cảm biết, tự mình làm chủ.

Nếu ai ai cũng có nguyện tu Khổ-hạnh, thì ai ai cũng có thể thành Phật, có thể được vãng sanh Tây Phương, được hóa sanh từ hoa sen. Các vị xuất gia thì tấm cà-sa chính là y áo Tây Phương đấy.

Cơm của kẻ xuất gia phải đạm bạc; coi đây chính là một Khổ-hạnh.

Tu hành cần phải chịu cực khổ. Càng chịu cực khổ thì càng có điều tâm đắc.

A. Khuyến Khích Tu Hành

Việc tu thì dựa vào sự thực hành của mình. Như uống nước, khi chưa uống thì bạn không biết mùi vị của nó; uống xong rồi mới biết mùi vị. Có thực hành mới đảm bảo được việc tu là chân thật.

Ði, đứng, nằm, ngồi--bạn phải dùng nó để thể hội Phật Pháp. Ngày tháng qua mau như tên bắn, chớ phóng dật!

"Một ngày đã qua,

Mạng cũng giảm dần,

Như cá cạn nước,

Thử hỏi gì vui?"

Mạng người vô thường--một hơi thở ra mà không vào lại, đời người tức hết! Bởi vậy, mau mau dũng mãnh, tinh tấn; chớ buông lung, lơi lỏng! Hãy coi việc niệm Phật là gấp rút, khẩn trương nhất!

Gia tài, của cải--mọi thứ ta chẳng đem theo khi sanh ra và cũng sẽ không mang theo lúc chết đi:

"Mọi thứ chẳng đem đặng,

Chỉ có nghiệp tùy thân."

Ðừng nên vì những thứ ở ngoài thân mình mà lãng phí quãng đời trân quý của mình. Phải mau, sớm tu hành!

B. Hạnh Nguyện

Thứ niệm thiện, nghiệp thiện mình đem theo (từ kiếp trước) thì ít, mà niệm ác thì nhiều. Bởi vậy, nay mình cần phải tu Khổ-hạnh để tiêu trừ nghiệp chướng. Vì thế, không nên tham ngủ, tham ăn...; phải quét cho sạch những thứ niệm xấu ấy! Có chánh niệm thì sẽ ít phiền não.

Khổ-hạnh là hạnh nguyện của lịch đại Tổ-Sư, của Ðức Phổ-Hiền, Văn-Thù, Quán-Âm, Ðịa-Tạng, các Ðại Bồ-tát. Ngày nay mình bắt chước, học theo gương các Ngài.

Khi Hòa-Thượng Hư-Vân đi ba bước một lạy triều sơn, Ngài một mình, một gậy, một bao ăn tạm qua ngày. Ngày nào lạy tới đâu thì tính tới đó; chuyện ngày mai thì để hôm sau tính. Tâm Ngài hoàn toàn không chấp trước vào đâu cả. Do đó Long, Thiên, Hộ-Pháp đều bảo vệ Ngài. Chúng ta thì chẳng có nguyện gì cả; nếu có nguyện thì việc gì cũng có thể làm tới nơi tới chốn!

Tu Khổ-hạnh là để nuôi dưỡng cái nguyện; xem bạn có hay không có nguyện. Kẻ ít nghiệp chướng thì mới có thể phát nguyện tu Khổ-hạnh. Chư Phật, Bồ-tát thành Ðạo cũng bởi do nhờ nguyện.

Hỏi: Song tôi không thể phát đặng nguyện Khổ-hạnh?

Ðáp: Nguyện không phải là "tôi muốn như thế này, thế nọ"; bởi như vậy thì vẫn còn cái "ngã", cái "tôi." Nguyện cần phải được phát một cách tự nhiên, và phải vì lợi ích của chúng sanh.

Như bản thân tôi, tôi có hề nói tôi ra sao, ra sao đâu? Ngày nay dù có thành tựu, tôi cũng không biết được!
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

2. Làm Sao Tu Khổ Hạnh


Thế nào là tu Khổ-hạnh ? Tức là không so đo, tính toán mọi sự. Ðối với chuyện hằng ngày, chớ khởi tâm phân biệt.

Tu Khổ-hạnh tức là rửa sạch đầu óc, thay đổi chủng tử.

Khổ-hạnh không phải là việc giản dị, vì tu Khổ-hạnh là tu tâm.

Khổ-hạnh không phải là việc đơn giản, là cứ làm "bừa." Làm "bừa" không phải là biện pháp đúng. Nếu làm "bừa" thì dù có đến hết kiếp, rồi đầu thai trở lại cũng chẳng tới đâu !

Việc làm Khổ-hạnh không có nghĩa là làm cho nhiều.

Làm việc là để rèn luyện đầu óc suy nghĩ của bạn.

Làm việc thì phải thong thả; không được quá gấp gáp, hấp tấp.

Làm việc lâu ngày thì sẽ quen tay; khi ấy, bạn có thể khai trí huệ. Bấy giờ, công việc cần làm ra sao, bạn chỉ cần nhìn qua là tự nhiên biết ngay; không cần phải bóp trán, suy đi nghĩ lại mới biết.

Muốn tu Khổ-hạnh, cần phải rèn luyện xem mình có khả năng xả bỏ thân này hay chăng.

Thân này là giả tạm, nhất định sẽ bị hủy hoại; dù muốn cứu vãn cũng không có cách gì khôi phục.

"Xả bỏ thân này" là thế nào ? Tức là ăn cơm đạm, mặc áo thô, đắp ba lớp cà-sa; chẳng kể gì đến ăn ngon, mặc đẹp !

Tôi dạy các bạn dựa vào Pháp-môn Niệm Phật mà tu.

Xưa, tôi ở trên núi tu hành thì chỉ tùy duyên. Hễ thức gì mọi chúng sanh ăn được thì loài người cũng có thể ăn được; đó gọi là đồ cúng dường tự nhiên của trời đất.

Nếu quá đói mà bạn cứ bướng bỉnh nhẫn chịu, thì thân thể sẽ hư hoại. Tu hành thì cần phải dụng tâm; không nên tu luyện những thứ cực đoan như không ăn uống như vậy.

Tôi tu đến ngày nay, lòng cảm thấy rằng nếu vạn nhất, chẳng may mà tu trật tu sai, thì thật nguy hiểm. Duy có môn Niệm Phật là tốt nhất.

Thế nào là "mặc áo thô, ăn cơm đạm"?

Không phải là chẳng ăn cơm đâu ! Mà là ăn để no, chứ chẳng phải ăn cho ngon; mặc đủ ấm đủ che thân, chứ chẳng phải mặc cho đẹp. Ngủ vừa để có đủ tinh thần là tốt rồi; chớ ham ngủ. Ngủ nhiều rất dễ bị hôn trầm, dật dờ, nặng nề.

Nếu bạn bày đặt không ăn cơm, nhịn đói, thì sẽ khiến thân thể suy nhược, rồi khó an tâm tu đặng. Vậy là uổng phí cho bạn tới đây tu hành.

Tôi xưa kia đã từng làm qua việc ấy (nhịn đói); nay già rồi mới biết là sai lầm.

Rèn luyện ngủ ngồi là việc đòi hỏi thiện căn; nó không giản dị đâu. Ðừng nói tới phương pháp, cách thức luyện tập nó, làm sao đối trị, v.v... Nói ra, các bạn thêm chấp trước.

Ðây là việc mà kẻ có thiện căn có lòng muốn tu. Khi thực hành, hễ có chánh niệm thì tự nhiên sẽ thành công. Song le, nếu lầm đường trật bước, thì "thân người mất đi, khó phục hồi !" Ðã có rất nhiều người lầm lẫn rồi đấy !

Hỏi: Hòa-Thượng thường dạy chúng con học theo gương các lịch đại Tổ-Sư. Song le, nếu hoàn cảnh quá tốt đẹp: ăn, mặc, ở đều không thiếu thốn gì, thì làm sao học gương chư Tổ ?

Ðáp: Các bạn không nên tham lam, đắm trước vào mọi thứ (ăn, mặc, ở); chỉ cần có thể sống qua ngày là tốt rồi.

Ðừng nói rằng có thức ăn cúng dường nhiều, rồi cắm đầu cắm cổ ăn, tự làm nô lệ cho cái miệng. Song le, cũng không được ăn quá ít, để bụng đói lả. Bạn phải lượng bụng mình mà ăn, ăn đủ vừa no là tốt rồi--chớ phân biệt đồ ngon đồ dở !

Hiện tại, thực phẩm đều có chất hóa học, hoặc đã bị nhiễm hóa chất, thuốc sát trùng... Khi thức ăn thật sự là không thể ăn được, hoặc là hư hoại rồi, thì chớ ăn. Cứ ăn bừa, ăn cho nhiều vào, thì có thể chết đấy !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

3. Buông Xã Túi Da Thối Này !


Túi da thối này là để ta mượn mà tạm ở. Song le, cũng vì nó (thân này) mà ta tạo vô lượng vô biên nghiệp.

Chúng ta, ai cũng do mang nghiệp mà sinh ra, do đó đầy dẫy bệnh khổ.
Bớt sát sanh, niệm Phật nhiều, thì mới có thể tiêu nghiệp đặng.

Khi thân thể có bệnh mà uống thuốc gì cũng chẳng lành, hãy niệm Phật thì bệnh sẽ lành, bởi Ðức Phật A-Di-Ðà là vị "Vô Thượng Y Vương" (vị vua thầy thuốc cao tuyệt nhất).

Con người phải chăng có thể trốn được kiếp số và bệnh khổ ?

Thí dụ có kẻ bị đau tim; nếu y chuyên tâm niệm Phật thì bệnh tim chắc chắn sẽ lành.
Nếu y tuy niệm Phật mà vẫn còn muốn đi bác sĩ kiểm tra bệnh tình, thì niệm Phật trả về niệm Phật, bệnh không thể lành nổi (thiếu thành tâm).
Nếu y có thể chuyên tâm trì niệm Phật hiệu thì bệnh sẽ lành, mà chính y cũng không hay biết nữa!

Thân thể này giống như cái nhà; chắc chắn sẽ hư sụp, lúc ấy dù có sửa chữa đến cách nào nó cũng sụp.
Do đó chúng ta phải buông bỏ sự chấp trước vào thân thể giả dối này; đừng nên quá chăm sóc, lo lắng cho nó.

Xét cho cùng, thân này là thứ huyễn hóa; song le, chúng ta phải khéo léo lợi dụng nó để tu hành.

Không nên quá quý tiếc thân này. Khi sanh bệnh, chớ quá quan tâm; vì đó là một thứ thử thách.
Quá quan tâm thân này nên mới bị thử thách.

Khi bệnh, bạn phải càng thể hội sự vô thường của đời người.
Khó ai tránh nổi sanh, già, bệnh, chết, và khổ; do đó, càng phải nỗ lực, tăng sức tu hành
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.
Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên