vienquang2

NƠI SẼ SINH VỀ - sau khi chết.- (Th Nhật Từ)

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,411
Điểm tương tác
1,397
Điểm
113
Lời Giới Thiệu:

Kính Quý ĐH ở Diễn Đàn mình.

Như nhiều lần đã tự bạch: VQ chỉ là người tu học PG. Nên công việc VQ chỉ là: tìm học, TRẠCH PHÁP & Trùng Tuyên mà không phải là Tác giả chế ra Chân Lý.

- Do vậy phần nhiều các bài viết .- khi VQ "Trạch pháp" thấy có ích lợi cho việc khai sáng Tâm Linh thì GHI CHÉP ĐỂ TỰ HỌC đồng thời chia sẻ cùng Các Bạn Đạo hữu Duyên.- (Mặc dù) Có khi tác giả bài viết đó chưa được quần chúng đồng tình (Vì một lý do gì đó ?)-

Hôm nay. Nhân xem bài NƠI SẼ SINH VỀ - sau khi chết.- (Th Nhật Từ)
VQ kính xin phép Thượng tọa để ghi chép vào chủ đề:

Sanh từ đâu đến ?- Tử đi về đâu ?


mà học hỏi. Đồng thời chia sẻ với Quý Bạn Đạo hữu Duyên.

Kính xin TT Hoan hỷ.
Kính mời Quý ĐH vào xem và thảo luận.
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,411
Điểm tương tác
1,397
Điểm
113
Bài 1.- QUAN ĐIỂM CỦA CÁC TÔN GIÁO VÀ TRIẾT GIA.

Nơi sẽ sinh về là mối quan tâm của nhiều người đang sống ở cõi sống và cõi chết. Thỉnh thoảng, mỗi người trong chúng ta tự đặt câu hỏi: Ta từ đâu đến? Chết đi về đâu?

Các tôn giáo và triết học đã nỗ lực tìm giải pháp cho hai câu hỏi trên mà thực tế chẳng đơn giản tí nào. Các tôn giáo như Do Thái, Thiên Chúa, Tin Lành, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Nho giáo v.v… quan niệm rằng con người đến là do Thượng đế ban tặng sự sống, và mượn bào thai của người mẹ để hình thành.

Các triết gia Hi Lạp cổ đại quan niệm rằng con người đến từ Đất, Nước, Gió, Lửa. Triết gia chủ nghĩa duy vật hiện đại quan niệm con người đến từ vật chất. Mỗi quan niệm về nguồn gốc có mặt của con người đưa đến những học thuyết lý giải về sự ra đi và nơi chốn sinh về khác nhau.

Các nhà duy vật cho rằng sau khi chết con người sẽ trở về với nguyên lý vật chất. Đời sống con người chỉ có một kiếp sống duy nhất ở hiện tại. Sinh ra từ vật chất, phát triển ý thức, sống và làm việc trong cuộc đời; đến lúc già, bệnh và chết diễn ra là dấu chấm cuối cùng, và sau cái chết sẽ không còn gì nữa. Quan điểm đó được đạo Phật cho là đoạn kiến, nghĩa là cái nhìn bị giới hạn.

Trong khi bản chất của thế giới sinh học gồm con người và các loài động vật thì cái chết không phải là dấu chấm cuối cùng. Cái chết giống như một con đường thẳng được nối kết bằng nhiều dấu chấm và nhiều điểm khác nhau. - Chết ở nơi này để tiếp nối sự sống ở nơi khác.

Các nhà tôn giáo học hữu thần cho rằng con người được tạo ra bởi Thượng Đế và khi chết chỉ có hai cảnh giới tái sinh, hoặc lên Thiên đường để hưởng nhân đức chúa đời đời kiếp kiếp nếu ai tin Chúa.- Trái lại, kẻ nào dám đặt vấn đề, thắc mắc về nội dung của kinh Thánh, không tin theo thì được xem là con chiên ngoài đàng, sau khi chết bị đày xuống hoả ngục và thiêu rụi đời đời kiếp kiếp. Quan niệm này Phật giáo gọi là đoạn kiến, bởi vì cấu trúc nhân quả trong đời sống về niềm tin tái sanh đoản hậu như thế không phản ánh được bản chất vận hành trong từng hành động, lời nói, việc làm và tư duy của con người.

Trong Bát Nhã Tâm Kinh, đức Phật đề cập: chư pháp“bất sinh bất diệt”. Bốn chữ này có ý nghĩa rất sâu sắc, có nghĩa là tất cả mọi sự vật, hiện tượng không tự sinh ra và không tự mất đi vĩnh viễn. Định lý này được khoa học ngày nay xác định như một nguyên lý, hay định luật bảo toàn năng lượng của vật chất.

Một cơn mưa nặng hạt từ trên vầng mây lửng trong không gian, sau đó rơi xuống mặt đất. Nếu không có hệ thống thoát nước thì chắc chắn thủ đô Hà Nội sẽ chìm trong biển nước. Nước thấm xuống lòng đất sẽ bị mất đi, nhưng do tác động của khí hậu, nước lại bốc hơi và trở thành mây, và cứ thế nó vận hành khi thì là mây, khi là hơi nước, khi là mưa…Nguồn năng lượng được thay hình đổi dạng, không bị mất đi một cách vĩnh viễn, đó là quy luật bảo toàn năng lượng.

Sự sống con người không phải do Thượng đế sinh ra. Vì theo đạo Phật, Thượng đế không có thật, chỉ do niềm tin mê tín của con người nắn tạo ra mà thôi.

NƠI SẼ SINH VỀ - sau khi chết.- (Th Nhật Từ) Thuong13


Một triết gia Đức từng phát biểu:“Thượng đế đã chết”, nghĩa là khi khoa học, kiến thức, trình độ, đạo đức của con người phát triển thì lúc đó niềm tin vào Thượng đế sẽ không còn.

Hậu quả của cái nhìn đoạn kiến sau khi con người chết là hết dẫn đến một đời sống dễ dàng, buông lung. Bởi sự so sánh giữa người thiện và kẻ ác đều có kết cục giống nhau thì cần chi phải làm lành lánh dữ.

Có nhiều người, dù không tin có đời sau nhưng do sự giáo dục, giao lưu, tiếp xúc với người hiền lương, nên họ vẫn là con người tốt suốt quãng thời gian có mặt trên đời.

Người rơi vào hoàn cảnh nghèo, bị thúc ép bởi sức hút, cám dỗ của xã hội… có thể trở thành kẻ buông lung, ăn chơi sa đoạ, đánh mất trách nhiệm đạo đức về đời sống bản thân. Hậu quả lối sống buông thả đó càng làm cho họ lún lút sâu trong vũng lầy nghiệp xấu và tội ác.
(Lượt 1 đoạn)
++++++++++++++

Thảo luận:
* Có 2 loại Tôn giáo: 1. hữu Thần, 2. Phi (Hữu) Thần.

+ 1. Với TG Hữu Thần.- Thì tất cả do Thần Linh tạo ra.

+ 2. PG là loại Tôn giáo Phi Thần nhưng không phải Vô Thần.- Vì với PG Thần linh là có , nhưng do tất cả Tâm tạo ra.
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,411
Điểm tương tác
1,397
Điểm
113
Bài 2.- CẬN TỬ NGHIỆP CÓ ĐỊNH HƯỚNG.

Phật giáo Tây Tạng huấn luyện các nhà sư về nghệ thuật sắp xếp cõi đi về sau khi qua đời bằng sự phát nguyện, nghĩa là thoát khỏi vòng dẫn dắt của nghiệp vốn giam hãm và trói buộc con người trong tiến trình tái sinh. Vì có phát nguyện nên năng lực đẩy con người đi vào cuộc đời, về ngay nơi mà họ muốn đến.

Tuỳ theo ước nguyện, mà sự đi về của mỗi con người đi theo một điểm đến nào đó, theo sự sắp xếp (theo nghiệp), hoặc theo nguyện ước (theo phát tâm Bồ đề).

Các vị cao tăng, hành giả chứng đắc và người có sự huấn luyện, làm chủ vận mệnh trong tái sinh đều có thể phát nguyện để đi vào cảnh giới nhất định.

Hòa thượng Thích Trí Thủ, chủ tịch Giáo hội Phật giáo Việt Nam đầu tiên phát nguyện đời đời kiếp kiếp tái sinh làm lại con người trong cõi Ta bà này chỉ để làm một trong hai việc. Thứ nhất, nếu tái sinh dưới hình thức là người cư sĩ, ngài phát nguyện sẽ là vị minh quân hay nguyên thủ quốc gia để hướng dẫn mọi người trở về con đường chánh pháp, mang đạo lý Phật truyền bá cho muôn dân; giúp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, cơm no, áo ấm, lúa thóc được mùa, mưa thuận gió hòa; chiến tranh, khủng bố, đói nghèo không còn nữa.

Thứ hai, nếu tái sinh là người tu sĩ, ngài phát nguyện luôn là người lãnh đạo Giáo hội, để hướng dẫn cho các thế hệ sau đi đúng quỹ đạo của chánh pháp, giúp ích cho người hữu duyên với Phật pháp.

Sự phát nguyện lúc lâm chung sẽ định thành cận tử nghiệp có định hướng, giúp cho sự ra đi sẽ ở một trong hai nơi này. Ngài đã qua đời vào năm 1984.

Nếu áp dụng nguyên tắc tái sinh trung bình là 9 tháng 10 ngày trong thai mẹ, cậu bé nào ra đời khoảng một năm sau trong khoảng thời gian Hòa thượng viên tịch, chỉ cần quan sát tâm tính, hành động, lời nói, việc làm có những dấu hiệu gần giống Hòa thượng lúc sanh tiền thì đoán biết đó là hậu thân của Hòa thượng

Nghiệp do con người tạo ra trở thành chất keo gắn bó, nhất là những gì gắn bó trong mấy mươi năm cuộc đời tạo cảm giác gần gũi, thân mật hơn cái vừa mới quen. Ví dụ ở đạo tràng Pháp Hoa - chùa Diệu Tú này, phần lớn quý Phật Tử mặc áo tràng lam theo văn hóa pháp phục của Phật giáo miền Nam.

Nếu đạo tràng này được thiết lập ở miền Bắc trong trong những năm trước thì quý vị sẽ mặc áo tràng nâu của miền Bắc tượng trưng cho sự thanh bần. Ai đã quen với áo tràng lam, đến cuối đời chắc chắn vẫn sẽ tiếp tục mặc màu áo này. Áo tràng lam vẫn gắn bó hơn so với áo tràng nâu. Hoặc quý vị nào có thói quen dùng xâu chuỗi để lần và niệm Phật, giá trị xâu chuỗi có thể chẳng đáng là bao.

Rồi quý vị được một nhà sư tặng một xâu chuỗi khác bằng đá quý, mà giá trị cao gấp nhiều lần so với xâu chuỗi mà mình đang lần niệm, nhưng quý vị vẫn cảm thấy nó không quý bằng.

Nếu được lựa chọn, chắc chắn quý vị sẽ chọn xâu chuỗi gắn với sự hành trì của mình trong nhiều năm qua Khi còn sống, bất cứ kỉ niệm vật nào đều tạo nên sự gắn bó.

Đến lúc qua đời, tất cả năng lượng, hành động, chức nghiệp, và sự hành thiện của con người không bị mất đi. Theo nguyên lý bảo toàn năng lượng, nó tồn tại cùng một lúc tại thời điểm mà ta đầu thai, tâm thức ta trở thành phôi trong bào thai người mẹ. Vì vậy, nhiều cậu bé hay cô bé vừa mới chào đời đã có những thiên hướng bẩm sinh, mà tâm lý học Phật giáo gọi đó là:“câu sanh chủng tử”, tức là những hạt giống năng khiếu xuất hiện ngay cùng thời điểm đứa bé ấy chào đời, khiến chúng có thói quen chọn những vật liệu từng quen thuộc, gắn bó.

Hành giả nào ở đời trước từng có thói quen lần chuỗi, niệm Phật, khi tái sinh ở đời sau nếu quan sát sẽ thấy rõ trong buổi lễ thôi nôi; đứa bé ấy có khuynh hướng chọn xâu chuỗi - một vật liệu từng gắn bó với nó từ đời trước. Nếu là một nhà sư tu hành chân chính, phát nguyện trở lại cuộc đời để độ sinh, khi nhìn thấy xâu chuỗi, cái mỏ, cái chuông chắc chắn đứa bé sẽ chọn những vật dụng biểu tượng của người tu. Bởi vì với quá khứ từng là một nhà sư trong niềm an vui, hạnh phúc phục vụ nhân sinh, khiến người đó có khuynh hướng gợi nhớ lại những hạt giống ấy

Người tu có phương pháp có thể làm chủ được vận mệnh lúc lâm chung, để tái sinh ở những gia đình thích hợp với nguyện ước của mình, tiếp tục thực hiện công việc còn dở dang.

+++++++++++++

Thảo Luận:

Năng lượng để tái sanh có 2: 1. Nghiệp dẫn, 2. Nguyện dẫn

1. * Nghiệp:

  • Có 3 nơi : 1.Thân, 2. Khẩu, 3. Ý
  • Có 2 khuynh hướng: 1. Thiện, 2. Ác

* Dẫn đến 6 đường:1 Thiên, 2 A tu La,3 Người, 4 Địa ngục, 5 ngạ quỷ, 6 súc sanh.

  • 3 Nghiệp Ác dẫn đến 3 đường khổ : Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
  • 3 Nghiệp Thiện dẫn đến 3 đường Vui: Thiên, A tu La, Người.

2. Nguyện dẫn: Do TÂM có tu.- Dẫn đến 4 Cảnh Thánh: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán.


CHẾT ĐI VỀ ĐÂU ?.- (Th Nhật Từ) Tei_xu13
Phật dạy:

“Trong chính tấm thân dài một trượng này, cùng với tri giác và tư tưởng, Như Lai tuyên bố thế gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế gian và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian”
(Kinh Rohitassa: )

Cũng có kệ rằng:

Vạn pháp giai tùng tâm tự hiện,
Lục phàm tứ Thánh thể hà thù,
Mê thời vọng hiên thiên sai biệt,
Nhất niệm hồi quang tánh tự tri.
nghĩa
Vạn pháp đều do tâm mà hiện,
6 phàm, 4 Thánh cũng như như,
Vọng tâm mê tánh ngàn sai khác,
Một phút hồi quang lý nhất Như.

Có thể tóm tắc: Thân này, Tâm này, Nghiệp này, Nguyện này, 6 Phàm này, 4 Thánh này. Đều do TÂM sở Hiện.- có trong tấm thân một trượng này.- Chớ không phải tìm ở đâu xa.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,411
Điểm tương tác
1,397
Điểm
113
Bài 3.- (Chuyện: Ông) LÃO PHÚ HỘ VÀ THÂN PHẬN CON CHÓ.

Chuyện kể có ông phú hộ giàu sang, phú quý nhưng lại keo kiệt.

Ngoài gia tài đồ sộ, ông còn có cả một lọ vàng và kim cương mà ngay cả vợ con ông cũng giấu giếm không cho biết.

Một hôm, ông cho phép vợ con mình đi chơi xa, ở nhà ông đào một cái hố nhỏ dưới gầm giường với độ sâu vừa đủ chôn hũ vàng và kim cương lấp lại.- Rồi đến một ngày, trong lúc đi đường thì tai nạn giao thông ập đến. Ông đã chết bất đắc kỳ tử trong lúc vàng bạc, kim cương chưa kịp sử dụng, vợ con cũng không hề hay biết.- Ông tiếc nuối vô cùng, chính cái tâm luyến tiếc ấy đã khiến ông tái sinh làm con chó được sinh ra trong nhà của ông. Thời gian về sau, người con trai trong gia đình có cảm giác thương con chó nhiều lắm, luôn gần gũi và ngủ chung với nó.

Mỗi ngày, nó được tắm gội, cho ăn uống thịnh soạn và được chủ dắt đi dạo phố. Thậm chí ngay lúc còn sống, ông phú hộ chưa chắc nhận được sự chăm sóc, hiếu thảo của người con chu đáo đến thế.

Một hôm, đức Phật cùng tăng đoàn đi khất thực ngang qua nhà ông phú hộ này, bỗng con chó từ trong nhà nhảy ra sủa ầm ĩ. - Khi ấy, đức Phật dừng lại, những người đệ tử lo ngại con chó này sẽ cắn Ngài, nhưng đức Phật bảo:- Không sao đâu, con chó này có duyên với ta đấy!

Con chó lại tiếp tục sủa ầm ĩ. Đức Phật quán tưởng và thấy rõ con chó này tiền thân là lão phú hộ, do vì chấp trước vào vàng bạc, châu báu nên phải tái sinh mang thân phận con chó để tiếp tục canh giữ của cải ấy. Vì con chó không có ngôn ngữ truyền thông như con người, nên nó không thể báo lại cho gia đình này biết. Mặc dù ngày nào nó cũng nằm ngay vị trí gầm giường, nơi chôn giấu của cải.- Đức Phật sờ vào đầu nó, dùng năng lực từ bi truyền tần số tâm thức giúp nó nhớ được tiền kiếp mình là phú hộ. Đột nhiên, nó ngưng bặt không sủa nữa.

Ngài nói với con chó:
- Mong mãn báo thân này, ông nhớ lại tiền thân của mình và hãy từ bỏ sự luyến tiếc về gia tài. Lúc đó, ông mới có thể tái sinh làm con người, được tiếp tục hưởng phước báu mà ông đã tạo.

Nhìn thấy con chó đang sủa mà bỗng dưng tắt lịm, người con trai vừa ngạc nhiên vừa tức giận mắng chửi đức Phật:
- Ông đã làm gì con chó tôi mà đột nhiên nó im bặt vậy?
Đức Phật nói:
- Này người trai trẻ, đừng vội nóng giận. Con chó này thực ra là cha ruột của anh, do vì bị tiếc nuối nhiều quá nên ông ấy phải mang thân phận là con chó nhà này.
Chàng thanh niên tức giận nói:
- Tại sao ông lại dám chửi bới tổ tiên tôi, bàn hương án của cha tôi vẫn còn nghi ngút khói, sao ông dám bảo con chó là cha tôi?
Đức Phật nói:
- Nếu anh không tin, hãy vào ngay chiếc giường nơi cha anh thường ngủ, phía dưới gầm giường đào xuống độ sâu khoảng 1,5m, sẽ thấy một lọ vàng và kim cương được chôn giấu bên dưới. - Cha anh vì tiếc nuối số của cải này mà đầu thai làm thân phận con chó, mỗi ngày được ngủ dưới gầm giường để canh giữ.- Nghe đức Phật nói thế, người con trai ông phú hộ chợt nhớ lại suốt thời gian qua, quả thật con chó này thường hay nằm dưới gầm giường. Thế là anh cho người đào bới ngay vị trí đó, và quả thật tìm thấy hũ vàng.

Vì được sự hướng dẫn của đức Phật, nên chỉ một, hai ngày sau con chó đã qua đời dù không bệnh tật gì. Bởi lẽ nó đã cảm nhận được, buông bỏ sự tiếc nuối và chấp trước nên nhẹ nhàng ra đi.- Đây là câu chuyện lịch sử diễn ra trong thời của đức Phật.

Câu hỏi chết đi về đâu đã có lời giải đáp - chết đi theo nghiệp, đó là công thức tổng quát. Nhiều người làm phước lành, gieo trồng công đức, phước báu, mà lẽ ra nếu chịu buông xả, không còn tiếc nuối thì chắc chắn họ sẽ tái sinh làm người để tiếp tục hưởng gia tài và các hạt giống mà mình gieo trồng trong quá khứ.

May mắn thay con chó này được gặp đức Phật, nếu gặp những người khác không có năng lực tha tâm thông, thiên nhãn thông thì chẳng biết đến khi nào nó mới có thể đầu thai làm người.
CHẾT ĐI VỀ ĐÂU ?.- (Th Nhật Từ) Chz1_j10
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,411
Điểm tương tác
1,397
Điểm
113
Bài 4.- BUÔNG XẢ ĐỂ NHẸ NHÀNG RA ĐI .

Trạng thái tiếc nuối làm trì hoãn quá trình tái sinh làm con người ở một hay nhiều kiếp. Cận tử nghiệp là nhận thức, thái độ, kéo theo hành động trong những giờ phút cái chết sắp diễn ra.

Trong tiến trình tái sinh cũng vậy, có người mải mê nhìn ngắm hoa thơm cỏ lạ bên vệ đường mà quên mất đường đi,mục đích và điểm đến của mình là đâu.

Hành giả Tịnh độ tông có điểm đến là Tây Phương Cực Lạc, nhưng khi qua đời không hướng tâm về Tây Phương mà lại hướng tâm về ngôi nhà mình mới vừa xây xong chưa kịp hưởng thụ, đành phải tái sinh trở lại ngôi nhà đó,làm người con hay cháu ở nhà ấy. - Những điều này đôi lúc chúng ta không tin nhưng có thật. - Các vị công thần với triều chính, suốt
cuộc đời sống liêm minh, đứng đắn, quên mình để phục vụ cho quê hương nhưng vì lời sàm tấu, bị vua nghi oan nên phải tru di tam tộc. Chẳng hạn như cụ Nguyễn Trãi đến mấy trăm năm sau mới được minh oan, hoặc ngài khai quốc công thần trạng nguyên Lê Văn Thịnh và nhiều vị tướng tài ba lỗi lạc khác.

Những người chết trong nỗi hàm oan nếu không là Phật tử, được huấn luyện kỹ về sự buông xả, lỡ mà chấp trước thì khó được siêu thoát. Họ bị lẩn quẩn trong cái án mà danh thơm tiếng tốt của mình bị chôn vùi trong tủi nhục, đau đớn, bị lịch sử khinh thường, phỉ nhổ, lúc đó tiến trình ra đi sẽ bị trì hoãn lại.

Trong những tình huống như thế, hương linh thường về mách bảo, đưa đường chỉ lối cho con cháu biết để giúp họ tháo mở nỗi hàm oan [...]

Câu chuyện thiền của Phật giáo Nhật Bản có dạy một câu rất sâu sắc chỉ với hai từ:“thế à”, đó là cách thức đưa nỗi hàm oan ra bên ngoài, không than oán cuộc đời, không qui trách nhiệm cho tha nhân, xem đó là chuyện không đáng để bận lòng.

“Thế à” .- với nụ cười tươi, như một sự trả nghiệp, giải nghiệp oan trái của mình với một người nào đó. - Tuy nhiên, đạo Phật dạy muốn tháo gỡ nỗi hàm oan thì cần phải lên tiếng, trình bày hoặc giải thích.

Luận Bảo Vương Tam Muội có dạy: “Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là hèn nhát.” Tôi khuyên quý vị không nên thực hành theo, bởi lời Phật dạy trong kinh xác thực hơn rất nhiều.

Đức Phật từng bị biết bao nỗi hàm oan trong cuộc đời với lời vu khống, thị phi, nói xấu v.v… nhưng trước mỗi sự việc Ngài đều lên tiếng như sau:“Điều này không có trong tôi, tôi không phải là tác giả của điều gán ghép này.”

Việc người ta có tin hay không thì tùy. - Ít nhất về phương diện trách nhiệm xã hội trong việc phơi bày chân lý, Ngài đã thực hiện trọn vẹn, không rơi vào cái tôi bị tổn thương, cái tôi là nạn nhân, xem đây là cơ hội để tuyên bố chân lý, vì vậy cái gút hàm oan được tháo gỡ phần nào. - Nếu bị oan mà không nói ra, người ta cứ ngỡ đó là sự thật, rồi những lời vu khống, xấu xa được lan truyền khắp nơi, quần chúng mất hết niềm tin về con đường đạo đức, gây nhiều trở ngại trong cuộc đời.

Dĩ nhiên, trong chế độ quân chủ, năng lực tự minh oan rất khó, bởi lẽ ta nói chưa chắc vua đã nghe, và đôi lúc cũng không có cơ hội để phân trần, nhưng khi tuyên ngôn rằng mình không phải là tác giả của việc ấy, lập tức ta cũng học được bài học về sự buông xả, không giận hờn, hận thù với người kết án sai hay cố tình hại ta.

Thực tập được như thế, ta không còn bị trở ngại trong tiến trình tái sinh, bằng không phải mất đến vài mươi năm,vài trăm năm, hoặc kém may mắn hơn có thể là vài ngàn năm.

Như vậy trong tiến trình chết đi về đâu, người bị hàm oan nếu không được tháo mở sẽ bám víu, tồn tại mãi với nỗi oan ấy, tiến trình tái sinh cũng bị gián đoạn.

Một câu chuyện khác kể rằng, vị Hòa thương nọ đạo cao đức trọng, những năm cuối đời có thú vui đam mê trồng hoa. -Vườn hoa được chính tay ông chăm sóc kỹ lưỡng, đến độ nó như một phần sự sống của ông. Rồi đến một ngày, Hòa thượng viên tịch.- Do bởi Hòa thượng ngày đêm nhớ tưởng mãi về vườn hoa mà quên mất tâm Bồ đề, đành phải tái sinh làm con sâu ngay vườn hoa ấy. May thay có một vị Hòa thượng khác biết việc này, nên đứng bên con sâu bảorằng:“Ngài là một vị Hòa thượng đức độ nhân từ, không nên luyến tiếc vào những bông hoa đẹp này.”

Nhờ sự hỗ trợ và nhắc nhở như thế khiến con sâu thức tỉnh, sớm từ bỏ thân phận và tái sanh lại một tu sĩ, tiếp tục con đường Bồ-tát đạo.- Đó là những câu chuyện không nên xem thường và không tin. Những năm tháng cuối đời, đừng để lòng tham, sân, si tác động, chi phối hoặc ảnh hưởng; thái độ luyến tiếc, hận thù, hờn dỗi, oan ức bám vào mảnh đất tâm. Vì như vậy, ta sẽ bị lẩn quẩn trong cảnh giới không tương ứng với nghiệp phước mà mình đã gieo tạo. Dĩ nhiên, trong thời gian trung chuyển, nếu ta bị vướng thì các phước báu từng gieo trồng bị mất đi, nó tồn tại dưới dạng tích năng lượng, nhưng không đủ cơ hội phát triển.

Trải qua nỗ lực của tự thân hoặc thông qua khoá lễ cầu siêu, được hướng dẫn rủ bỏ sự chấp trước, lúc đó nguồn năng lượng tái sinh mới tiếp tục ứng với nghiệp cảm tương thích.
CHẾT ĐI VỀ ĐÂU ?.- (Th Nhật Từ) Ghzenh11
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,411
Điểm tương tác
1,397
Điểm
113
Bài 5.- TÂM LÝ TRONG CẬN TỬ NGHIỆP .

Tâm muốn về chỗ nào, nguồn năng lượng tái sinh đẩy ta về chỗ đó nhiều hơn. Những đột biến thay đổi tâm lý vào giờ phút cuối cùng trước khi chết có thể diễn ra theo chiều hướng tốt hoặc xấu. Có người suốt cuộc đời làm điều xấu, nhưng những năm tháng cuối đời được hướng dẫn điều hiền lương, đạo đức, nên họ hồi đầu, ăn năn, sám hối, làm lành, ăn chay, tu phước thì cận tử nghiệp này lại mở ra tiến trình tái sinh tốt đẹp. Còn người tu hình thức, tức là chưa chuyển hoá được nội tâm, sự thanh tịnh chưa trọn vẹn thì cận tử nghiệp ấy lại mở ra tiến trình tái sinh xấu đi.

Tình huống của người bệnh xơ gan cổ trướng thường được hướng dẫn một phương pháp cổ truyền rằng, nên ăn các loại ốc bươu bằm nhuyễn, nhất là ăn sống sẽ tạo ra nguồn dưỡng chất giúp duy trì lá gan, trì hoãn tiến trình xơ hoá dẫn đến cái chết.

Nhiều Phật tử là con thảo cháu hiền phân vân, chẳng biết có nên làm theo lời khuyên của y học cổ truyền hay không. Họ đến chùa hỏi, và câu trả lời của tôi là đề nghị họ nên thương thảo ý kiến người bệnh trước khi quyết định. Dù thương thảo hay quyết định của tự thân, tôi luôn cân nhắc họ nên đặt lên bàn cân ba yếu tố sau:

- Tính thời gian kéo dài sự sống cho bệnh nhân được bao lâu?

Nếu theo y học chỉ là một năm hoặc vài tháng tuỳ từng trường hợp phát hiện sớm hay muộn thì đây không phải là giải pháp tối ưu. Bởi sớm muộn gì cái chết cũng diễn ra, đôi lúc việc kéo dài thời gian chỉ làm tăng thêm tình trạng khổ thọ, tức là duy trì dòng cảm xúc khổ đau, đau đớn trên cơ thể bệnh nhân.

- Việc giết và làm thịt các loại ốc bươu mỗi ngày lên đến vài chục con, và nếu trong vòng một năm như thế thì nghiệp sát sẽ tăng lên đến hàng trăm lần. Phước tuổi thọ mà thân nhân giúp người bệnh chẳng đạt là bao nhưng tác hại lại nhiều hơn, gây hậu quả yểu thọ và bệnh tật trong tiến trình tái sinh ở đời sau thêm nặng nề.

- Trong thời gian được nuôi dưỡng bằng những thực phẩm tạo nghiệp sát như thế, liệu người thân có hướng tâm về cảnh
giới an lành hay không, hoặc ngày đêm cứ nôm nốp lo sợ cái chết. Nếu cái chết diễn ra trong trạng thái bị khủng hoảng tâm thức như thế là điều vô cùng nguy hại.- Chi bằng hướng dẫn tâm của người thân giúp họ bình thản đối với sự sống và cái chết, không bận lòng bởi vì sớm hay muộn ai cũng phải một lần trải qua. Vấn đề sống thọ hay chết yểu không quan trọng. Điều quan trọng là sống như thế nào với chất liệu và chất lượng ra sao. Nếu suốt quá trình sống ta làm
lành lánh dữ, an vui, hạnh phúc thì nghiệp này sẽ tạo ra tiến trình cận tử nghiệp có cùng chiều hướng giống nhau, lúc đó tâm được an và ra đi nhẹ nhàng. Đó là điều phúc cho người quá cố lẫn thân bằng quyến thuộc.

Người lớn tuổi khi được bác sĩ đề nghị muốn ăn gì thì cứ ăn, đừng nên vì thế mà hưởng thụ quá nhiều. Bởi cái chết sẽ diễn ra sớm hơn và nghiệp hưởng thụ này sẽ ám ảnh làm cho người đó khi tái sinh ở đời sau lại tiếp tục làm người hưởng thụ. Trong khi suốt cuộc đời họ sống rất hiền lương, nhưng lại bị thay đổi khuynh hướng nghiệp vào giờ phút cuối đời từ tốt thành xấu là điều không nên.

Nếu lỡ phát hiện ra mình mắc phải những chứng bệnh nan y trong giai đoạn cuối, sự sống chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn ngủi, người Phật tử hãy thản nhiên với điều này và thốt lên một câu:“thế à”.

Trạng thái không sợ hãi tạo thành nguồn năng lượng kháng sinh giúp sống bình an và kéo dài cái chết. Kháng thể đó lệ thuộc vào tâm lý tích cực hay tiêu cực.

Năm 2003, tôi được UNICEF tài trợ đến viếng thăm 10 trung tâm AIDS của Phật giáo Thái Lan dọc theo biên giới Chiang-rai,Chiang-mai, Chiang-nai giữa Thái Lan và Miến Điện.

Các bệnh nhân nơi đây đều là những người Thái ở vùng nông thôn nghèo khó. Do thiếu kiến thức về bảo hộ sức khỏe, cái nghèo chi phối và do muốn có nhiều tiền nên nhiều chị em đã trở thành nạn nhân của căn bệnh thế kỷ trên đất nước này.

Có dịp tiếp xúc với các bệnh nhân giai đoạn cuối, mỗi khi đến, tôi đều tụng một bài kinh bằng tiếng Việt. Trong lúc thời
kinh diễn ra, tôi quan sát thấy một số bệnh nhân cố gượng ngồi dậy. Trong số đó có một phụ nữ tuổi ngoài 30 với thân thể gầy còm cố gượng dậy mà không đủ sức. Tôi ra dấu yêu cầu cô hãy nằm xuống. Cô cố gắng chắp tay để xá chào nhưng với sức lực yếu ớt khiến cô không thể nào đưa tay lên được.- Trong lúc tôi tiếp tục tập trung cao độ để tụng niệm, chưa hết bài thần Chú Đại Bi thì cô đã qua đời. _Trước khi qua đời, trên môi cô còn nở nụ cười mỉm khi sức lực không còn và hơi đã tàn. - Tình huống của người phụ nữ này sẽ là một cảnh giới tái sinh rất tốt.

Tìm hiểu thông tin về người phụ nữ này, tôi được nhà sư trụ trì tại ngôi chùa này cho biết, cô mắc phải căn bệnh này mới chỉ 3 năm. - Thái độ tâm lý tiêu cực sợ chết luôn là nỗi ám ảnh, hành hạ cô. Cô luôn nguyền rủa người chồng ăn chơi trác táng đã truyền nhiễm bệnh cho cô và đứa con. Vì mang tâm lý tiêu cực nên kháng thể trong cô tụt xuống nghiêm trọng, khiến cô chết trước thời điểm.

Trong khi đó, đến viếng thăm một ngôi chùa khác cũng có một bệnh nhân nữ mắc phải căn bệnh này hơn 10 năm rồi nhưng vẫn khỏe. Ngày nào cô cũng tụng kinh niệm Phật, ngoài thời gian tu tập hành trì, cô còn nhận đan mây tre lá thủ công tạo thêm nguồn thu nhập để điều trị bệnh. Khi được phỏng vấn, cô cho biết không hề sợ hãi trước cái chết, vì đã có Tam Bảo gia trì, đồng thời được quý thầy trong làng SIDA quanh khu vực thiền viện quan tâm, nâng đỡ. Chính niềm hạnh phúc hân hoan đó tạo nguồn kháng thể giúp cô kéo dài thêm sự sống.

Tôi thiết nghĩ, nếu các trung tâm từ thiện Phật giáo tạo được sự hỗ trợ cho người quá cố trong giai đoạn cuối tương tự như Thái Lan là điều rất đáng tán thán.
+++++++++++++++==

Thảo luận:
* CẬN TỬ NGHIỆP: là Nghiệp, là hành động hoặc tư tưởng ngay trước khi chết, là tất cả những hoạt động cơ thể, tâm lý của người sắp lâm chung. Cận tử nghiệp quan trọng vì theo Phật giáo, nó trực tiếp quyết định điều kiện, môi trường sinh sống trong cuộc đời kế tiếp của người chết.

* Ở PG Nguyên Thủy cũng có giáo lý về Thức Tái Sanh: (trong tiếng Phạn là patisandhi vinnana) là thuật ngữ chỉ sự tiếp nối tâm thức, hay nói cách khác là sự khởi đầu của một đời sống mới sau khi chết, theo quan niệm luân hồi. Nó là giai đoạn chuyển tiếp từ kiếp trước sang kiếp sau, được quyết định bởi nghiệp lực của cá nhân.

Cụ thể hơn, thức tái sinh được hiểu như sau:
Sự tiếp nối của tâm thức:Thức tái sinh không phải là sự chuyển giao linh hồn hay một thực thể cố định từ kiếp này sang kiếp khác, mà là sự tiếp nối của dòng tâm thức, mang theo những dấu ấn nghiệp từ kiếp trước.

* CẬN TỬ NGHIỆP.- Có tầm ảnh hưởng rất mạnh, có thể dẫn Nghiệp để tái sanh ở đời sau.

CHẾT ĐI VỀ ĐÂU ?.- (Th Nhật Từ) Ho_nim10
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm
Top