vienquang2

Con Đường Phật Tâm Tông.- Phần 1

vienquang2

Administrator

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,131
Điểm tương tác
1,118
Điểm
113
Bài 18.- Giáo lý DUYÊN KHỞI(Nhân Sinh Quan PG)

+ Trong các kinh Trung Bộ I, số 28; Tương Ưng III, tr.144 và Tiểu Bộ I, tr. 48 chép lời Đức Phật:

"Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp. Ai thấy Pháp là thấy Phật (= Niết-bàn)".

(Thấy Phật là sự giác ngộ tối thượng, là thấy được thực tại tối hậu, vượt ra ngoài mọi ràng buộc của thế giới Ngã tính - bị giới hạn bởi vô minh và chấp thủ cực đoan trong nhận thức và hành động theo quan niệm nhị nguyên hữu ngã) .

+ Trong kinh Ðại Duyên (Trường Bộ III, tr. 56), Đức Phật nhấn mạnh hơn:

"Này Ananda, chính vì không giác ngộ, không thâm hiểu giáo pháp Duyên khởi này mà chúng sanh hiện tại bị rối loạn như một tổ kén, rối ren như một ống chỉ, giống như cỏ munja và lau sậy babaja, không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sinh tử".

* - 12 Nhân Duyên được đức Phật trình bày là một trong nhiều dạng giáo lý thuộc đạo lý Duyên khởi của vạn pháp, nói về mối quan hệ chặt chẽ 12 Duyên (yếu tố,) vận hành, tương tục nơi các chúng sinh hữu tình, đặc biệt là nơi con người, gồm: 1.Vô Minh, 2.Hành, 3.Thức, 4.Danh Sắc, 5.Lục Nhập, 6.Xúc, 7.Thọ, 8.Ái, 9.Thủ, 10.Hữu, 11.Sanh, 12.Lão Tử.

- 12 Nhân Duyên do tính Duyên khởi, giải thích "sự phát sanh của một trạng thái tùy thuộc nơi trạng thái trước kế đó". Đây không phải là một tiến trình có bắt đầu-có kết thúc, cho nên Vô minh không phải là điểm bắt đầu mà vì tầm quan trọng của nó mà thôi.
Cũng vì là Duyên khởi cho nên trong mười hai chi thì mỗi chi được xem như là duyên chính và các chi còn lại là các duyên phụ. Chẳng hạn như duyên chính của Sinh là Hữu thì mười chi còn lại là các duyên phụ.

- Thập Nhị Nhân Duyên do tính Duyên khởi làm cho 12 chi duyên hòa hợp và nương tựa lẫn nhau. Vì sự hòa hợp nầy mà các chi
duyên cùng tác động Nhân – Quả qua lại với nhau. Nói cách khác, trong Thập Nhị Nhân Duyên không có chi nào thật là Nhân và chi nào thật là Quả, vì trong Nhân đã ngầm chứa Quả và ngược lại.

- Thập Nhị Nhân Duyên là tiến trình của thân và tâm nương tựa nhau mà hiện hữu, cho nên con người không có một thực thể hay tự
tính. Không có tự tính thì dĩ nhiên không có cái Ta.

- 12 Nhân Duyên bao gồm tất cả những nguyên nhân xa gần được đan kết thành mạng lưới. Các chi kết nối như một chuỗi xích, vì thế tìm cách bẻ gãy một mắt xích thì xem như phá tan được vòng xích vốn từ lâu đã trói buộc chúng sinh bị động trong khổ đau và sinh tử.

- Pháp quán có Duyên khởi và hoàn diệt.

Quán sanh khởi:
Tùy thuộc nơi Vô Minh phát sanh Hành.
Tùy thuộc nơi Hành phát sanh Thức.
Tùy thuộc nơi Thức phát sanh Danh-Sắc
Tùy thuộc nơi Danh-Sắc phát sanh Lục Căn.
Tùy thuộc nơi Lục Căn phát sanh Xúc.
Tùy thuộc nơi Xúc phát sanh Thọ.
Tùy thuộc nơi Thọ phát sanh Ái.
Tùy thuộc nơi Ái phát sanh Thủ.
Tùy thuộc nơi Thủ phát sanh Hữu.
Tùy thuộc nơi Hữu có Sanh.
Tùy thuộc nơi Sanh có Lão, Tử, Sầu Muộn, Ta Thán,Đau Khổ, Buồn Rầu, và Thất Vọng.

Quán hoàn diệt:
Tận diệt Vô Minh dẫn đến chấm dứt Hành.
Chấm dứt Hành dẫn đến chấm dứt Thức.
Chấm dứt Thức dẫn đến chấm dứt Danh-Sắc.
Chấm dứt Danh-Sắc dẫn đến chấm dứt Lục Căn.
Chấm dứt Lục Căn dẫn đến chấm dứt Xúc.
Chấm dứt Xúc dẫn đến chấm dứt Thọ.
Chấm dứt Thọ dẫn đến chấm dứt Ái.
Chấm dứt Ái dẫn đến chấm dứt Thủ.
Chấm dứt Thủ dẫn đến chấm dứt Hữu.
Chấm dứt Hữu dẫn đến chấm dứt Sanh.
Chấm dứt Sanh dẫn đến chấm dứt Lão, Tử, Sầu Muộn,Ta Thán, Đau Khổ, Buồn Rầu, và Thất Vọng.

Con Đường Phật Tâm Tông 12_nha10


Thập Nhị Nhân Duyên vốn không là một lý thuyết triết học, nó được đức Phật chỉ ra về nguồn gốc của chuyển hóa và nguồn gốc của khổ đau nơi con người, để từ đó vạch ra phương pháp thực hành chủ động để không phải vướng mắc vào chúng. (theo trang chuaadida.com )

Kính các Bạn.

Cô Động lý Duyên khởi;

“Tất cả pháp do duyên sanh.
Do cái này có nên cái kia có,
Do cái này sinh nên cái kia sinh,
do cái này diệt nên cái kia diệt”.

* Sự Giác Ngộ Duyên khởi là sự Giác Ngộ Nhân Sinh Quan của Đức Phật về Chân lý Vũ Trụ.- Đây là CHÁNH KIẾN.

* Đây là phương cách tu hành "NGUYÊN THỦY".- không bị các quan niệm (loài chùm gửi) cầu nguyện, van xin vào "tha lực"...của Ngoại Đạo và Bà la Môn pha tạp .
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Administrator

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,131
Điểm tương tác
1,118
Điểm
113
Bài 19.- Chánh Kiến (bát chánh Đạo).

-Chánh kiến: Chánh là ngay thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận biết. Nghĩa là sự nhận thức sáng suốt và hợp lý trên căn bản của trí tuệ, không còn vướng bụi của tà kiến, mê lầm vọng chấp.

* Những kiến chấp Vô Minh che lấp Chánh Kiến:

1+ Thân kiến: là chấp 5 Ấm.- sắc, thọ, tưởng, hành, thức là "Ngã" .- Mà không biết chúng là duyên hợp không có thật "Ngã".(phỏng theo TIỂU Kinh PHƯƠNG QUẢNG - 44.Trung I, 655 Nikaya).

2+ Biên Kiến: Là sự thấy biết thiêng lệch vào một bên:
  • Chấp vào một bên của tương đối như chấp có, chấp không, chấp thường, chấp đoạn v.v... đều gọi là biên kiến.
  • Chấp Thường: Là chấp thế giới này vĩnh tồn. Chấp Linh hồn là không mất, mà đi đầu thai lại người hoàn người, thú hoàn thú, trời hoàn trời...(nhà Phật gọi là Thường kiến ngoại Đạo)
  • Chấp Đoạn: Là chấp Chết là hết, là đoạn diệt hư vô

3+ Tà Kiến:tà-kiến cố-định là tà-kiến chấp-thủ cố-định, không thay đổi.

Tà-kiến cố-định có 3 loại:

1- Natthikadiṭṭhi: vô-quả tà-kiến.

2- Ahetukadiṭṭhi: vô-nhân tà-kiến.

3- Akiriyadiṭṭhi: vô-hành tà-kiến.

1- Vô-quả tà-kiến như thế nào?

1a+ vô-quả tà-kiến cố-định là tà kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có quả của nghiệp”.-Tất cả chúng-sinh chết rồi là hết, không có nghiệp nào cho quả tái-sinh kiếp sau”.

Vô-quả tà-kiến cố-định này còn gọi là đoạn-kiến (ucchedadiṭṭhi) chết là hết, không có kiếp sau.


1b+ tà-kiến thấy sai rằng: Trong đời này, không có các Sa-môn, Bà-la-môn thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, các bậc thiền vô-sắc, chứng đắc các phép thần-thông; thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, thấy rõ, biết rõ cõi giới này, các cõi giới khác.

Người có vô-quả tà-kiến cố-định này là người phủ nhận quả của ác-nghiệp, quả của thiện-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận nhân là ác-nghiệp, thiện-nghiệp.

2- Vô-nhân tà-kiến như thế nào?
vô-nhân tà-kiến cố-định là tà-kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có nhân là không có nghiệp”.

Người có vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có nghiệp sinh cho quả (janakahetu), cũng không có nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp. Nghĩa là không có thiện-nghiệp cho quả an-lạc, không có ác-nghiệp cho quả khổ; cũng không có thiện-nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp, không có ác-nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp”.

Như vậy, người có vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng:

2a). “Tất cả mọi chúng-sinh hiện hữu trong cõi đời này theo tự nhiên, không do quả của thiện-nghiệp, không do quả của ác-nghiệp nào cả. Tất cả mọi chúng-sinh bị ô nhiễm tự nhiên, đến thời-kỳ được trong sạch thanh-tịnh tự nhiên. Cho nên, tất cả mọi chúng-sinh là người ác và người thiện; kẻ ngu và bậc trí, trải qua tử sinh luân-hồi nhiều đời nhiều kiếp, đến thời-kỳ nào đó cũng đều giải thoát khổ cả thảy”.

2b). – Không có nghiệp riêng của mình, không có nghiệp của người khác. Tất cả chúng-sinh sống tùy thuộc vào sự may, sự rủi, thọ khổ tự nhiên, thọ lạc tự nhiên.

2c). – Tất cả chúng-sinh là người ác, người thiện; kẻ ngu, bậc trí, trải qua tử sinh luân-hồi nhiều đời nhiều kiếp, đến thời-kỳ nào đó cũng đều giải thoát khổ cả thảy”.

2d) Người có vô-nhân tà-kiến cố-định này là người phủ nhận nhân đó là thiện-nghiệp, ác-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận quả an-lạc của thiện-nghiệp, quả khổ của ác-nghiệp.

(nói chung người tà kiến là người bài bác nhân quả thiện ác. Cho là tất cả là tự nhiên có...)

3- Vô-hành tà-kiến như thế nào?
vô-hành tà-kiến cố-định là tà-kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện”.

Người có vô-hành tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Người tạo ác-nghiệp không có hành ác, người tạo thiện-nghiệp không có hành thiện. Hành chỉ là hành mà thôi, không có hành ác, không có hành thiện”.

Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta vị Đạo-sư ngoại đạo Puraṇakassapa có tà thuyết Akiriyadiṭṭhi: vô-hành tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện” như sau:

Tự mình hành ác, sai khiến người khác hành ác đều không có hành ác như:

– Tự mình sát-sinh, sai khiến người khác sát-sinh đều không có hành ác sát-sinh.

– Tự mình trộm-cắp, sai khiến người khác trộm-cắp đều không có hành ác trộm-cắp, v.v…

– Tự mình bố-thí, khuyên dạy người khác bố-thí đều không có hành thiện bố-thí.

– Tự mình cúng dường, khuyên dạy người khác cúng dường đều không có hành thiện cúng dường, v.v…

Người có vô-hành tà-kiến cố-định này là người phủ nhận nhân đó là thiện-nghiệp, ác-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận quả của thiện-nghiệp, ác-nghiệp.

Ba loại tà-kiến cố-định này là ác-nghiệp cực kỳ nặng hơn 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội là giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật và chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng, bởi vì, người có loại tà-kiến cố-định này hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp của họ.

Tuy người ấy không tin nghiệp và quả của nghiệp, nhưng sự thật, người ấy đã tạo ác-nghiệp cực kỳ nặng, nên sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp tà-kiến cố-định ấy có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci, phải chịu quả khổ thiêu đốt suốt thời gian lâu dài, không có hạn định.(lượt trích:Niyatamicchādiṭṭhi tỳ kheo Hộ Pháp)


4. Kiến thủ kiến: Là chấp giữ sự thấy biết sai lầm cho là đúng. Còn gọi là Sở Tri Chướng.

+ Sở Tri Chướng: (chỗ biết là chướng ngại), cũng còn gọi là Trí Chướng (Trí khôn là chướng ngại: Sự chấp nệ chỗ biết, chỗ chứng của mình ngăn bít cái Tánh Trí Huệ ....) là tất cả những điều hiểu biết do tâm ý thức, dù được cho là đúng, hoặc sai, đều thuộc phạm vi nhị biên , tương đối, không phải là bổn tâm thanh tịnh bất nhị, nếu còn giữ lại một mảy may tri kiến nào thì đều là còn có sở trụ, tâm còn bị vướng mắc, chưa giải thoát. Trong kinh Kim Cang, đức Phật dạy :"...Pháp còn phải xả bỏ, huống là phi pháp", là nghĩa này vậỵ

+ Sở tri chướng là một thứ tri thức hữu hạn; thứ trí này chỉ có khả năng hiểu biết "tục đế" những gì thuộc về "thế gian pháp". Nó trở ngại con đường tiến triển đến: nhất thiết trí, tự nhiên trí, vô sư trí và nhất thiết chủng trí của quả vô thượng bồ đề.

Hòa thượng Thích Hành Trụ giảng rằng:

- "Sở tri chướng" cũng gọi là Trí chướng, bởi ngu si mê ám, không hiểu thấu được sự tướng và thực tánh của các pháp, nên bảo là Trí chướng. Cái chướng này do bệnh "Pháp chấp" sanh ra ...(A Di Đà Sớ Sao, trang 246)

Hòa thượng Thích Duy Lực giảng rằng:

- "Sở tri chướng" : Tri kiến do bộ óc nhận thức được đều làm chướng ngại sự kiến tánh .

Chúng tôi thiết nghĩ , chúng ta đang sống trong thế giới tương đối, có quy luật, có đúng, có sai, chúng ta cần có "sở tri" để biết đúng mà làm, biết sai mà tránh. Chỉ khi nào chúng ta giác ngộ lại bản thể chân tâm tuyệt đối (chư Tổ dùng chữ "tạm nói" để chỉ cái chuyện "tuyệt đối" này, vì có nói ra được là có "năng, sở" có đối đãi, làm sao mà mô tả "tuyệt đối", chư Tổ gọi tình trạng này là"gãi ngứa qua giầy"), thì lúc đó chúng ta đã" tuyệt kiến văn", đã bừng tỉnh khỏi cơn mê mụ của "kiến, văn, giác, tri" này, lúc đó chắc chắn chúng ta hết sở tri chướng,(Danh Từ Thiền Học Chú Giải, trang 43)


Tà Kiến : Là tâm sở có trạng thái khiến tâm hiểu sai sự thật thay vì là sự không hiểu như ở tâm sở Si. Kinh giải thích rằng tâm sở Si khiến ta không thấy những khía cạnh Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Từ đó tâm sở Tham mới có cơ hội làm công việc ưa thích hay nắm chặt và tâm sở Tà Kiến thì ghép các khái niệm Thường, Đoạn vào đó. Đây là lý do tại sao tất cả các Tà Kiến đôi khi được gọi chung là Thân Kiến hay Ngã Kiến , vốn chỉ được chấm dứt hẳn khi một người chứng Sơ quả .(trích Triết Học A Tỳ Đàm).
Đức Phật dạy rất rỏ ở Kinh Phạm Võng.- Kinh Trường Bộ- 62 LOẠI TÀ KIẾN.

Con Đường Phật Tâm Tông - Page 2 Mt_tri10


Các thứ loại Tà Kiến Chấp. Giống như áng mây mờ vô minh đen tối. Chúng che lấp tầm mắt Chánh Tri Kiến của chúng sanh.- Nên cần dẹp trừ thì Tầm Nhìn CHÁNH TRI KIẾN mới hiển hiện được.

* Điều quan trọng nhất để có Chánh Tri Kiến. Là có TRÍ TUỆ soi sáng.
 

vienquang2

Administrator

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,131
Điểm tương tác
1,118
Điểm
113
Bài 20.- Phân biệt Trí Thức & TRÍ TUỆ.

Phật dạy:
Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến. Tại sao thế? Vì tự tính của Không không có vị trí trong không gian, không có hình tướng, không thể khái niệm được, chưa bao giờ từng sinh khởi, tri kiến không nắm bắt được và thoát ly mọi sự nắm bắt. Vì thoát ly được mọi sự nắm bắt nên nó bao hàm được tất cả các pháp và an trú nơi cái thấy bình đẳng không phân biệt.
Cái thấy ấy là cái thấy chân chính và xác thực. Quý vị khất sĩ! Quý vị nên biết rằng không những tự tính của Không như thế mà tất cả các pháp cũng đều như thế. Đó gọi là pháp ấn. (trích k. Pháp Ấn)

Thế nào là Trí Thức ?

+ Theo Trung quán tông/Nguyệt xứng thì Phú đế là hiện tượng giới công ước mà chân lý bị che lấp bởi ý thức vô minh. Hay nói cách khác chính ý thức vô minh lầm chấp rằng những hiện tượng giới như mộng, huyễn, bào, ảnh, sương mai, ánh chớp là hiện hữu tự thân (tự hữu) mà không nhận ra chúng chỉ là giả hữu.(trích theo Bác Trừng Hải).

Vâng ! Kiến, văn, giác, tri của Ý Thức là Trí Thức. Mà Tam pháp Ấn (nguyên thủy) nói: (chúng) nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, có tướng sinh, có tướng diệt, và vướng mắc trong tri kiến phàm phu.

+ Thế nào là Trí Tuệ ?

Đó là từ nhân duyên đến vô ngã tánh không.- Mà Đức Phật thuyết Kinh Bát Nhã Ba la Mật.- Nói về KHÔNG TUỆ.

* "KHÔNG" nên Vô Sanh, vì vô sanh nên Tịch Diệt. Vì Tịch diệt nên là Vô Vi Niết Bàn.

Tức TRÍ TUỆ "KHÔNG" cũng là Đệ Tam Pháp Ấn.- Tịch Diệt vô sanh.
k bat nhã1.jpg

Tóm lại:


  • Trí Thức là Vô Minh kiến. Là Tri kiến phàm Phu.
  • Trí Tuệ là Tri Kiến Vô Kiến. là Đệ Tam Pháp Ấn.- Tịch Diệt vô sanh. - Là Tri Kiến Phật.
(Mời các Bạn xem tiếp Phần 2.- Thiên về kinh điển Bắc truyền PG)
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm

TOP 5 Tài Thí

Top