vienquang2

Con đường Phật Tâm Tông.- Phần 3

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 35.- Nghi nhân duyên:

K. NB ph 26


Nạp Y Phạm Chí lại lên tiếng hỏi Phật: Thưa Cù Đàm! Như lời Cù Đàm nói trong vô lượng đời làm điều lành điều chẳng lành, đời vị lai trở lại được thân lành thân chẳng lành. Theo ý tôi, lời trên đây không đúng.

Vì như Cù Đàm từng nói nhơn phiền não mà cảm lấy thân nầy. Đã nhơn nơi phiền não mà có thận, thời thân có trước hay phiền não có trước? Nếu phiền não có trước thời ai làm và ở chỗ nào? Nếu thân có trước thời sao lại nói nhơn phiền não mà có thân? Do đây nên nếu nói phiền não ở trước hay thân ở trước đều không được. Nếu nói đồng một thời cũng chẳng được. Thế là hoặc trước, hoặcsau, hoặc đồng một thời, đều chẳng được. Do đây nên tôi nói tất cả pháp đều có tự tánh chẳng phải từ nơi nhơn duyên.

Thưa Cù Đàm! Lại cứng là tánh của địa đại, ướt là tánh của thủy đại, nóng là tánh của hoả đại, động là tánh của phong đại, không chướng ngại là tánh của hư không, tánh của năm đại nầy chẳng phải từ nhơn duyên mà có. Nếu trong thế gian có tánh của một pháp chẳng phải từ nhơn duyên mà có, thời tánh của tất cả pháp cũng phải như vậy. Nếu có một pháp từ nơi nhơn duyên, cớ gì tánh của ngũ đại lại chẳng từ nơi nhơn duyên?

Thưa Cù Đàm! Chúng sanh mà có thân lành, thân chẳng lành, hoặc được giải thoát đều là tự tánh cả, chẳng phải từ nơi nhơn duyên. Nên tôi nói rằng tất cả các pháp do tự tánh mà có, chẳng phải là nhơn duyên sanh.

Thưa Cù Đàm! Pháp thế gian có chỗ dùng nhứt định, như người thợ nói cây nầy có thể làm xe cộ, cây nầy có thể làm cửa, làm ván, làm giừơng, làm ghế. Lại như thợ kim hoàn làm ra những đồ trang sức: Đội trên trán thờigọi là tràng, đeo dưới cổ thời gọi là chuỗi, đeo trên tay thời gọi là xuyến, đeo nơi ngón tay thời gọi là nhẫn. Vì chỗ dùng nhứt định nên gọi là định tánh. Do đây biết rằng tất cả chúng sanh cũng như vậy: Vì có tánh ngũ đạo nên có địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, nhơn, thiên. Nếu đã như vậy sao lại nói rằng từ nơi nhơn duyên.

Thưa Cù Đàm! Lại tất cả chúng sanh tánh của họ đều khác, nên gọi là tất cả tự tánh. Như con rùa sanh trên đất cao mà nó tự có thể lặn xuống nước, bò con lúc sanh ra nó tự có thể uống sữa, cá thấy mồi tự nhiên nuốt ăn, rắn độc lúc sanh ra tự nhiên ăn đất, những việc như vậy có ai dạy bảo? Như gai sanh ra tự nhiên đầu nhọn, lông cánh của loài chim bay tự nhiên có màu sắc riêng khác. Chúng sanh trong thế gian cũng như vậy: Có khôn lanh, có đần độn, có giàu, có nghèo, có đẹp, có xấu, có người đượcgiải thoát, có kẻ chẳng được. Do đây nên biết trong tất cả pháp đều riêng có tự tánh.

Thưa Cù Đàm! Lại như ngài từng nói tham, sân, si từ nơi nhơn duyên mà sanh, ba món độc nầy do nơi năm trần làm duyên. Theo ý tôi lời trên đây không đúng.

Vì chúng sanh lúc ngủ xa lìa năm trần mà cũng vẫn sanh tham, sân, si. Lúc ở trong thai cũng vậy. Lúc mới ra khỏi thai chưa phân biệt được năm trần là tốt hay xấu mà cũng sanh lòng tham, sân, si. Các vị Tiên Nhơn ở nơi chỗ vắng vẻ. Không có ngũ trần mà cũng sanh tham, sân, si. Lại cũng có người nhơn nơi năm trần mà sanh vô tham, vô sân, vô si. Do đây nên bất tất từ nơi nhơn duyên sanh ra tất cả pháp, vì tự tánh nó sẵn như vậy.

Thưa Cù Đàm! Tôi lại thấy trong đời có người căn thân chẳng đầy đủ mà giàu có thế lực lớn, có người thân thể hoàn bị mà nghèo cùng hèn hạ làm tôi làm tớ. Nếu có nhơn duyên cớ sao lại như vậy? Do đây nên các pháp đều riêng có tự tánh chẳng phải do nhơn duyên.

Thưa Cù Đàm! Trong đời những trẻ nhỏ chưa phân biệt được năm trần, chúng nó hoặc cười hoặc khóc. Lúc cười biết nó mừng, lúc khóc biết nó buồn. Do đây nên biết tất cả pháp đều riêng có tự tánh.

_ Thưa Cù Đàm! Thế pháp có hai: Có và không. Có là hư không, không là sừng thỏ. Hư không vì là có nên chẳng từ nơi nhơn duyên, sừng thỏ vì là không nên cũng chẳng từ nơi nhơn duyên. Do đây nên biết các pháp cótự tánh chẳng từ nơi nhơn duyên.

Phật nói: “ Nầy Thiện Nam Tử! Như lời ông nói tất cả pháp cũng như tánh của năm đại. Nghĩa nầy không đúng.

Vì như trong pháp của ông cho năm đại là thường, duyên cớ gì mà tất cả pháp đều chẳng phải là thường? Nếu sự vật trong đời là vô thường, tánh của năm đại nầy duyên cớ gì chẳng phải vô thường. Nếu năm đại là thường thời lẽ ra sự vật trong đời cũng là thường. Do đây nên ông nói tánh của năm đại vì có tự tánh chẳng từ nơi nhơn duyên, khiến tất cả pháp đồng như năm đại, thời không đúng nghĩa.

Nầy Thiện Nam Tử! Ông nói vì chỗ dùng nhứt định nên có tự tánh, nghĩa nầy không đúng. Vì tất cả đồ dùng đều từ nơi nhơn duyên mà được có danh tự, nếu đã từ nhơn duyên có danh tự thời cũng từ nhơn duyên mà có nghĩa.

Thế nào gọi là từ nhơn duyên mà có danh tự? Như đồ trang sức ở trên trán thời tên là tràng, ở dưới cổ thời tên là chuổi,ở nơi tay thời gọi là xuyến, và như ở nơi xe thời tên là bánh xe, lửa ở nơi cỏ cây thời tên là lửa cỏ lửa cây.

Nầy Thiện Nam Tử! Cây gỗ lúc mới sanh không có tánh mũi tên và cây lao. Vì từ nơi nhơn duyên thợ đẽo làm mũi tên, vì từ nơi nhơn duyên thợ đẽo làm cây lao. Do đây chẳng nên nói rằng tất cả pháp là có tự tánh.

Nầy Thiện Nam Tử! Ông nói như con rùa sanh trên đất mà tánh tự nó có thể lặn xuống nuớc, bò con mới sanh ra tánh nó có thể uống sửa, lời nầy không đúng. Vì nó chẳng phải nhơn duyên mà rùa tự xuống nước, sao rùa lại chẳng vào lửa? Đây là vì điều chẳng phải nhơn duyên. Bò con lúc sanh ra chẳng từ nơi nhơn duyên mà tánh nó tự có thể mút vú, sao bò con chẳng tự mút sừng? Đây là đều chẳng phải nhơn duyên cả.

Nầy Thiện Nam Tử! Nếu nói các pháp đều có tự tánh, chẳng cần dạy bảo tập làm, không có thêm lên, lời nầy không đúng nghĩa. Vì hiện nay thấy có sự dạy bảo, nhơn nơi dạy bảo mà được thêm lên. Do đây nên biết rằng không có tự tánh.

Nầy Thiện Nam Tử! Nếu tất cả pháp có tự tánh riêng, thời hàng Bà La Môn chẳng nên vì được thân thanh tịnh mà giết dê để cúng tế, nếu đã vì thân mà cúng tế thời nên biết rằng không có tự tánh.

Nầy Thiện Nam Tử! Ngữ pháp của thế gian đại phàm có ba thứ: Muốn làm, lúc làm, làm rồi.Nếu tất cả pháp đều có tự tánh cớ sao thế gian lại có ba ngữ pháp nầy? Đã có ba ngữ pháp nầy nên biết tất cả pháp đều không có tự tánh.

Nầy Thiện Nam Tử! Nếu nói các pháp đều có tự tánh, nên biết các pháp đều có định tánh. Nếu có định tánh thời một thứ mía duyên cớ gì làm ra mật mía, đường, rượu, rượu đắng. Nếu chỉ có một tự tánh duyên cớ gì lại sanh ra nhiều vị như vậy?

Nếu trong một thứ mà sanh ra nhiều thứ thời nên biết rằng các pháp chẳng phải là nhứt định riêng có một tự tánh.

Nầy Thiện Nam Tử! Nếu tất cả pháp có tánh nhứt định, cớ gì thánh nhơn uống nước mía, ăn đường, lúc thành rượu thời chẳng uống, lúc thành rượu đắng lại uống? Do đây nên biết không có tánh nhứt định. Nếu đã không tánh nhứt định tại sao lại chẳng phải từ nhơn duyên mà có?

Nầy Thiện Nam Tử! Ông nói tất cả pháp đều có tự tánh, tại sao ông lại nói thí dụ? Nếu đã có thí dụ thời nên biết rằng các pháp không có tự tánh. Người trí trong đời đều nói thí dụ, nên biết rằng các pháp không có tự tánh không có tánh nhứt định.

Nầy Thiện Nam Tử! Ông gạn hỏi thân có trước hay phiền não có trước, lời hỏi nầy không đúng. Vì nếu ta nói thân có trước, ông mới nên vấn nạn. Ông cũng đồng như ta cho thân chẳng có trước cớ gì lại vấn nạn như vậy.

Nầy Thiện Nam Tử! Tất cả chúng sanh, thân cùng phiền não đều không có trươc sau, là đồng một thời mà có. Dầu đồng một thời nhưng phải nhơn nơi phiền não mà được có thân, trọn chẳng nhơn nơi thân mà có phiền não.

Nếu trong ý ông cho rằng như đôi mắt của người đồng thời mà có, mắt tả chẳng nhơn hữu, mắt hữu chẳng nhơn mắt tả, phiền não và thân cũng như vậy. Ý ngĩ nầy chẳng đúng. Vì trong đời con mắt ngó thấy ngọn đèn cùng ánh sáng dầu là đồng một thời, nhưng anh sáng cần phải nhơn nơi ngọn đèn, chẳng phải nhơn nơi ánh sáng mà có ngọn đèn.

Nầy Thiện nam Tử! Nếu ý ông cho rằng vì thân chẳng có trước nên biết là không nhơn duyên ý nầy chẳng đúng. Vì nếu cho rằng trước thân không có nhơn duyên nên gọi là không, thời ông chẳng nên nói tất cả các pháp không có nhơn duyên. Nếu nói vì chẳng thấy nên chẳng nói, nay thấy cái bình v.v… từ nơi nhơn duyên mà có, cớ sao chẳng nói như cái bình, nhơn duyên ở trước thân cũng như vậy.

Nầy Thiện Nam Tử! Thấy cùng chẳng thấy, tất cả các pháp có ra đều từ nơi nhơn duyên, không có tự tánh.

Nầy Thiện Nam Tử! Nếu nói tất cả pháp đều có tự tánh không do nhơn duyên, cớ gì ông lại nói năm đại? Tánh của năm đại nầy chính là nhơn duyên. Dầu năm đại là nhơn duyên như vậy, cũng chẳng nên nói rằng các pháp đều đồng năm đại làm nhơn duyên. Như người đời nói tất cả người xuất gia tinh tấn trì giới, bọn Chiên Đà La cũng phải tinh tấn trì giới như vậy.

Nầy Thiện Nam Tử! Ông nói năm đại có tánh chắc nhứt định. Theo ta thấy thời tánh nầy chuyển biến chẳng nhứt định. Tô, bạch lạp, hồ giao, những thứ nầy trong pháp của ông gọi là địa, địa nầy chẳng nhứt định, hoặc đồng với nước, hoặc đồng với đất, nên chẳng được nói rằng tự tánh cứng chắc.

Nầy Thiện nam Tử! Nhôm, chì, kẽm, đồng, sắt, vàng, bạc, những thứ nầy trong pháp của ông gọi là hỏa. Hỏa nầy có bốn tánh: Lúc chảy là tánh nước, lúc động là tánh gió, lúc nóng là tánh lửa, lúc cứng là tánh đất, sao lại nói rằng nhứt định gọi là hỏa tánh.

Nầy Thiện Nam Tử! Tánh của nước gọi là chảy, nếu lúc nước đông cứng chẳng gọi là địa mà gọi là hỏa tánh, cớ gì lúc sóng động chẳng gọi là phong? Nếu nổi sóng chẳng gọi là phong, thời lúc đông đặc cũng chẳng nên gọi là hỏa. Nếu bốn tánh nầy từ nơi nhơn duyên, cớ sao nói rằng tất cả pháp chẳng từ nơi nhơn duyên?

Nầy Thiện Nam Tử! Nếu nói rằng năm căn, vì tánh nó hay thấy, nghe, giác, xúc, nên đều là có tự tánh chẳng từ nơi nhơn duyên. Lời nầy không đúng nghĩa. Vì tánh của tự tánh là không thể chuyển đổi. Nếu nói tánh của nhãn căn là thấy, lẽ ra phải thường thấy, chẳng nên có lúc thấy có lúc chẳng thấy. Do đây nên biết rằng nhãn căn thấy là có nhơn duyên, chẳng phải không nhơn duyên.

Nầy Thiện Nam Tử! Ông nói chẳng phải nhơn nơi trần mà có tham cùng giải thoát, lời nầy không đúng nghĩa. Vì dầu chẳng phải do nơi năm trần mà có tham cùng giải thoát, nhưng vì ác giác quán thời sanh tham dục, vì thiện giác quán thời được giải thoát. Do nội nhơn duyên mà có tham cùng giải thoát, do ngoại nhơn duyên mà hai món nầy được tăng trưởng. Do đây nên lời ông nói tất cả pháp đều riêng có tự tánh, chẳng nhơn nơi năm trần sanh tham và giải thoát, là không đúng nghĩa.

Nầy Thiện Nam Tử! Ông nói người thân thể đầy đủ lại nghèo thiếu chẳng tự do, người tàn tật thời giàu có tự do, nhơn đây chứng minh là có tự tánh, chẳng từ nơi nhơn duyên. Lời nầy chẳng đúng.

Nầy Thiện Nam Tử! Chúng sanh do nơi nghiệp mà có quả báo. Quả báo nầy có ba: Hiện báo, sanh báo và hậu báo. Những người nghèo cùng giàu có, lành lặn hay tàn tật, đều do nghiệp riêng khác. Nếu là có tự tánh, người lành lặn lẽ ra phải giàu có, người giàu có lẽ ra phải lành lặn. Nay chẳng như vậy, nên biêt rằng không có tự tánh, mà đều từ nơi nhơn duyên.

Nầy Thiện Nam Tử! Ông nói trẻ nhỏ chưa phân biệt được năm trần mà cũng khóc cũng cười, để chứng minh tất cả đều có tự tánh. Lời nầy chẳng đúng. Vì nếu có tự tánh lẽ ra cười phải thường cười, khóc phải thường khóc, chẳng nên một cười một khóc. Nếu đã một cười một khóc, thời biết rằng tất cả đều từ nhơn duyên. Do đây chẳng nên nói rằng tất cả pháp đều có tự tánh chẳng từ nơi nhơn duyên.

Phạm Chí nói: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp từ nhơn duyên mà có, thân thể nầy từ nhơn duyên nào?

_ Nầy Thiện Nam Tử! Phiền não cùng nghiệp là nhơn duyên của thân nầy.

_ Bạch Thế Tôn! Như thân nầy từ nơi phiền não và nghiệp mà có, vậy phiền não và nghiệp nầy có thể dứt được chăng?

_ Có thể dứt được.

_ Bạch Thế Tôn! Xin vì tôi giải nói, cho tôi được nghe liền đây đều dứt đượcphiền não và nghiệp.

_ Nầy Thiện nam Tử! Nếu rõ biết hai bên và chặn giữa không chướng ngại, thời người nầy có thể dứt phiền não và nghiệp.

_ Bạch Thế Tôn! Tôi đã hiểu biết, đã được chánh pháp nhãn.

Ông biết thế nào?

_ Bạch Thế Tôn! Hai bên là sắc và sắc giải thoát, trung gian chính là bát chánh đạo. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.

_ Lành thay! Lành thay! Nầy Thiện Nam Tử! Ông biết rõ hai bên phiền não và nghiệp.

_ Bạch Thế Tôn! Xin cho tôi xuất gia.

_ Thiện Lai Tỳ Kheo!

Liền đó Nạp Y Phạm Chí dứt trừ phiền não trong ba cõi được quả A La Hán.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 36.- Tu Bạt Đà La.- Nghi Nghiệp & Thật Tướng.
K.NB ph 26

Phật bảo A Nan, ngoài rừng Ta La nầy có một Phạm Chí tên Tu Bạt Đà La đã một trăm hai mươi tuổi, ông ấy dầu được ngũ thông mà chưa bỏ kiêu mạn, được phi phi tưởng định cho là nhứt thiết trí đã được Niết Bàn. Ông nên đến nói với Tu Bạt Đà La rằng: Đức Như Lai ra đời như hoa Ưu Đàm. Giưã đêm nay đức Như Lai sẽ nhập Niết Bàn. Nếu có chỗ phải làm nên làm kịp thời, chớ để ngày sau sanh lòng hối hận.

Ông nói, Tu Bạt Đà La chắc sẽ tin thọ. Vì ông thuở quá khứ đã từng năm trăm đời làm con trai của Tu Bạt Đà La. Lòng yêu thương của ông ấy vẫn còn, nên có thể tin thọ lời của ông.

A Nan tuân lời Phật đến nói với Tu Bạt Đà La.

Tu Bạt Đà La bảo rằng: Lành thay! Thưa ngài A Nan! Nay tôi sẽ đến chỗ Như Lai.

A Nan cùng Tu Bạt Đà La trở về ra mắt Phật.

Thăm hỏi xong, Tu Bạt Đà La nói: Thưa Cù Đàm! Nay tôi muốn hỏi xin ngài đáp cho.

Phật liền hứa khả.

Tu Bạt Đà La nói: Thưa Cù Đàm! Có các nhà Sa Môn, Bà La Môn nói rằng tất cả chúng sanh thọ báo khổ vui đều theo nơi nghiệp đã tạo ra ngày trước. Do đây nếu có người trì giới tinh tấn, thân tâm chịu khổ thời phá hoại được nghiệp đời trước. Nghiệp cũ đã hết thời quả khổ cũng dứt hết, khổ đã dứt thời chứng được Niết Bàn. Nghĩa trên đây là thế nào?

_ Nầy Thiện Nam Tử! Nếu có Sa Môn hay Bà La Môn nói như vậy, ta sẽ vì xót thương mà thường đến chỗ người ấy để hỏi rằng: Quả thiệt ngài có nói như vậy chăng? Nếu họ đáp là có và họ bảo rằng vì họ thấy cbúng sanh làm điều ác mà giàu sang tự tại, lại thấy người làm lành mà nghèo hèn mất tự do, lại thấy có người ra công ra sức nhiều mà không có của, thấy kẻ ở không tự nhiên có của, có người từ tâm chẳng sát sanh mà chết yểu, có kẻ ưa sát sanh lại sống lâu, có người tinh tấn trì giới phạm hạnh thanh tịnh hoặc được giải thoát hoặc chẳng được, do đây nên nói rằng tất cả chúng sanh thọ báo khổ vui đều do nghiệp nhơn ngày trước.

Nầy Tu Bạt Đà La! Tasẽ hỏi họ các ngài có thiệt thấy nghiệp quá khứ chăng? nếu có, nghiệp ấy nhiều hay ít? Khổ hạnh hiện tại phá được nhiều ít? Các ngài biết được nghiệp nầy đã hết hay chẳng hết chăng? Nghiệp nầy đã hết là hết tất cả chăng? _ Nếu họ đáp là họ thiệt chẳng biết, thời ta sẽ vì họ mà dẫn ví dụ: Như có người thân bị tên độc, gia quyến rước y sĩ đến để nhổ mũi tên độc, lấy độc xong người đó được lành mạnh. Sau đó mười năm, người nầy còn nhớ rõ rằng: Y sĩ đó nhổ tên độc cho tôi rồi dùng thuốc thoa đắp khiến tôi được lành mạnh an vui.

Các ngài đã chẳng biết nghiệp nhơn quá khứ làm sao biết được khổ hạnh hiện tại quyết định phá được nghiệp quá khứ?

Nếu họ nói rằng: Nay Cù Đàm cũng có nghiệp quá khứ, cớ sao lại riêng trách nghiệp quá khứ của chúng tôi? Trong kinh của Cù Đàm cũng nói rằng: Nếu thấy người giàu sang tự tại, thời nên biết người nầy đời trước ưa bố thí. Như vậy chẳng phải gọi là nghiệp quá khứ ư?

Ta bảo họ rằng: Nầy các ngài! Biết như vậy gọi là tỉ tri, chẳng gọi là chơn tri. Trong Phật pháp hoặc có do nhơn mà biết quả, hoặc có do quả mà biết nhơn. Trong Phật pháp có nghiệp quá khứ có nghiệp hiện tại. Các ngài thời chẳng như vậy, chỉ có nghiệp quá khứ mà không biết nghiệp hiện tại.

Phật pháp của ta do nơi phương tiện mà dứt nghiệp, giáo pháp của các ngài thời chẳng từ nơi phương tiện mà dứt nghiệp.

Giáo pháp của các ngài cho rằng nghiệp đã hết thời khổ hết, Phật pháp của ta thời phiền não đã hết nghiệp và khổ cũng hết. Do đây nên ta trách nghiệp quá khứ của các ngài.

Nếu họ nói rằng: Thưa Cù Đàm! Chúng tôi thiệt chẳng biết, đó là lời của thầy chúng tôi, không phải lỗi của chúng tôi.

Ta sẽ bảo họ rằng thầy của các ngài là ai? Nếu họ đáp là Phú Lan Na. Thời ta lại bảo họ rằng: Trước kia sao các ngài chẳng thưa hỏi cho rõ ràng coi thầy của các ngài có thiệt biết nghiệp quá khứ không? Nếu Thầy của các ngài bảo là chẳng biết, tại sao các ngài lại nhận lấy lời ấy. Nếu thầy của các ngài bảo là biết thời nên hỏi rằng: Hạ khổ làm nhơn duyên có thọ trung và thượng khổ chăng? Trung khổ làm nhơn duyên có thọ hạ và thượng khổ chăng? Thượng khổ làm nhơn duyên có thọ hạ và trung khổ chăng? Nếu đáp là không thời nên lại hỏi: Sao nhà thầy nói báo khổ vui chỉ do nghiệp quá khứ mà chẳng phải nghiệp hiện tại?

Lại nên hỏi: Khổ hiện tại, quá khứ có chăng? Nếu quá khứ có khổ thời nghiệp quá khứ đều đã dứt hết, nếu đã đều dứt hết sao lại còn thọ lấy thân ngày nay? Nếu quá khứ không khổ chỉ có nơi hiện tại, tại sao lại nói chúng sanh khổ vui đều do nghiệp quá khứ?

Nầy các ngài! Nếu cho rằng khổ hạnh hiện tại có thể phá hoại nghiệp quá khứ, lại lấy gì để phá khổ hạnh hiện tại? Nếu như chẳng phá thời khổ là thường, nếu khổ là thường sao lại nói rằng được giải thoát khổ? Nếu lại có hạnh nhiệp phá hoại khổ hạnh, thời quá khứ đã hết tại sao có khổ?

Nầy các ngài! Khổ hạnh như vậy có thể làm cho nghiệp vui thọ lấy quả khổ chăng? Có thể làm cho nghiệp khổ thọ lấy quả vui chăng? Có thể làm cho nghiệp không khổ không vui chẳng thọ quả chăng? Có thể làm cho báo hiện tại thành báo đời kế chăng? Có thể làm cho báo đời kế thành báo hiện tại chăng? Có thể làm cho hai báo nầy thành không quả báo chăng? Có thể làm cho định báo thành không quả báo chăng? Có thể làm cho không quả báo thành định báo chăng?

Nếu họ trả lời rằng không thể được, ta sẽ bảo rằng: Nầy các ngài! Nếu như không thể được, duyên cớ gì các ngài lại thọ khổ hạnh nầy?

Các ngài nên biết rằng quyết định có nghiệp quá khứ và nhơn duyên hiện tại. Do đây nên tôi nói nhơn nơi phiền não mà sanh ra nghiệp, nhơn nơi nghiệp mà thọ quả báo.

Các ngài nên biết rằng tất cả chúng sanh có nghiệp quá khứ và có nhơn hiện tại. Dầu chúng sanh có nghiệp sống lâu quá khứ, nhưng phải nhờ nhơn duyên ăn uống hiện tại. Nếu nói chúng sanh thọ khổ thọ vui quyết định chỉ do nơi nghiệp quá khứ thời không phải. Vì như có người trừ được kẻ thù cho nhà vua, do đây mà được vua ban cho nhiều của báu, do có nhiều tiền của mà hiện tại được sung sương. Người nầy hiện tại làm nhơn sung sướng nên thọ báo sung sướng hiện tại. Lại như có người giết chết Vương Tử, do đây mà phải bị tru lục. Người nầy hiện tại tạo nhơn khổ nên phải thọ báo khổ hiện tại.

Nầy các ngài! Tất cả chúng sanh hiện tại nhơn nơi tứ đại, thời tiết, đất đai, nhơn dân mà thọ khổ thọ vui. Do đây nên ta nói tất cả chúng sanh bất tất đều nhơn nơi nghiệp đời trước mà thọ khổ, thọ vui.

Nầy các ngài! Nếu do nhơn duyên dứt nghiệp mà được giải thoát, thời tất cả thánh nhơn chẳng được giải thoát. Vì bổn nghiệp quá khứ của tất cả chúng sanh là vô thỉ vô chung. Do đây nên ta nói lúc tu thánh đạo, thánh đạo nầy có thể ngăn nghiệp vô thỉ vô chung.

Nầy các ngài! Nếu thọ khổ hạnh bèn đắc đạo đó, thời tất cả loài súc sanh lẽ ra đều đắc đạo. Do đây nên phải trước điều phục tâm mình mà chẳng điều phục thân. Vì thế nên trong kinh ta nói chặt đốn rừng nầy chớ chặt đốn cây, vì do nơi rừng sanh kinh sợ chẳng phải do nơi cây. Muốn điều phục thân phải trước điều phục tâm. Tâm dụ như rừng, thân dụ nơi cây.

Tu Bạt Đà La thưa: Bạch Thế Tôn! Tôi đã trước điều phục tâm rồi.

Phật nói: Nầy Thiện Nam Tử!Nay ông làm thế nào có thể trước điều phục tâm ông?

_ Bạch Thế Tôn! Tôi trước suy nghĩ rằng: Dục ái là vô thường, vô lạc, vô tịnh, quán sát sắc là thường, lạc, ngã, tịnh. Suy nghĩ như vậy rồi kiết sử cõi dục dứt mà được sắc xứ, nên gọi là trước điều phục tâm.

Kế đó tôi quán sát sắc là vô thường: Như mụn nhọt ghẻ, như thuốc độc như mũi tên, thấy vô sắc là thường tịch tịnh trong sạch. Quán sát như vậy rồi kiết sử cõi sắc dứt mà được vô sắc xứ. Do đây nên gọi là trước điều phục tâm.

Kế đó tôi lại quán sát tưởng là vô thường như nhọt như ghẻ như độc như tên. Quan sát như vậy rồi được phi tưởng phi phi tưởng xứ. Phi phi tưởng xứ nầy là nhứt thiết trí vắng lặng thanh tịnh thường hằng bất biến không sa đọa. Do đây nên tôi có thể điều phục lấy tâm mình.

Phật nói: Nầy Thiện Nam Tử! Như thế thời ông đâu có điều phục được tâm! Phi tưởng phi phi tưởng xứ định của ông được vẫn còn gọi là tưởng, Niết Bàn là vô tưởng, sao ông nói rằng chứng được Niết Bàn?

Nầy Thiện Nam Tử! Trước ông đã có thể nhàm trách thô tưởng, nay sao ông lại tham trước nơi tế tưởng. Chẳng biết nhàm trách phi tưởng phi phi tưởng xứ định, định nầy vẫn gọi là tưởng như nhọt ghẻ như độc như tên.

Nầy Thiện Nam tử! Thầy của ông là Uất Đầu Lam Phất thông minh lanh lợi còn không thể dứt được phi tưởng phi phi tưởng xứ nầy mà phải thọ lấy thân ác đạo, huống là những kẻ khác.

_ Bạch Thế Tôn! Thế nào có thể dứt được tất cả các cõi?

_ Nầy Thiện Nam Tử! Người quán thiệt tướng có thể dứt tất cả các cõi.

Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là thiệt tướng?

_ Nầy Thiện Nam Tử! Tướng vô tướng gọi là thiệt tướng.

_ Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là tướng vô tướng?

_ Nầy Thiện Nam Tử! Tất cả pháp không tự tướng, không tha tướng và không tự tha tướng, không tướng vô nhơn, không tướng tác, không tướng thọ gỉa, không tướng pháp, tướng phi pháp, không tướng nam nữ, không tướng sĩ phu, không tướng vi trần, không tướng thời tiết, không tướng làm ra mình, không tướng làm ra người, không tướng làm ra mình ra người, không tướng có tướng không, không tướng sanh, tướng sanh giả, không tướng nhơn, tướng nhơn nhơn, không tướng quả, tướng quả quả, không tướng ngày đêm, không tướng sáng tối, không tướng kiến tướng, kiến giả, không tướng văn tướng văn giả, không tướng giác tri, tướng giác tri giả, không tướng Bồ Đề, không tướng Đắc Bồ Đề giả không tướng nghiệp, tướng nghiệp chủ, không tướng phiền não, tướng phiền não chủ.

Nầy Thiện Nam Tử! Những tướng như vậy tùy theo chỗ nó diệt thời gọi là tướng chơn thiệt. Tất cả pháp đều là hư giả, tùy theo chỗ nó diệt thời gọi là thiệt. Đây gọi là thiệt tướng, là pháp giới, là tất cánh trí, là đệ nhứt nghĩa đế, là đệ nhứt nghĩa không.

Nầy Thiện Nam Tử! Nơi thiệt tướng nầy, người hạ trí quán đó thời được Thanh Văn Bồ Đề, người trung trí quán đó thời được Duyên Giác Bồ Đề, người thượng trí quán đó thời được vô thượng Bồ Đề.

Lúc Phật nói pháp nầy, có mười ngàn Bồ Tát chứng được nhứt sanh thật tướng, có mười lăm ngàn Bồ Tát chứng được nhị sanh pháp giới, có hai mươi lăm ngàn Bồ Tát được tất cánh trí, có ba mươi lăm ngàn Bồ Tát ngộ đệ nhứt nghĩa đế. Đệ nhứt nghĩa đế nầy cũng gọi là đệ nhứt nghĩa không, cũng gọi là Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Lại có bốn mươi lăm ngàn Bồ Tát được hư không Tam Muội, hư không Tam Muội nầy cũng gọi là Quảng Đại Tam Muội, cũng gọi là Trí Ấn Tam Muội. Năm mươi lăm ngàn Bồ Tát được bất thối nhẫn, bất thối nhẫn nầy cũng gọi là như pháp nhẫn, cũng gọi là như pháp giới. Có sáu mươi lăm ngàn Bồ Tát được Đà La Ni, Đà La Ni nầy cũng gọi là Đại Niệm Tâm, cũng gọi là vô ngại trí. Có bảy mươi lăm ngàn Bồ Tát được Sư Tử Hống Tam Muội, Tam Muội nầy cũng gọi là Kim Cang Tam Muội, cũng gọi là Ngũ Trí Ấn Tam Muội. Có tám mươi lăm ngàn Bồ Tát được bình đẳng Tam Muội, Tam Muội nầy cũng gọi là Đại Từ Đại Bi. Có vô lượng hằng hà sa chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ Đề, vô lượng hằng hà sa chúng sanh phát tâm Duyên Giác, vô lượng hằng hà sa chúng sanh phát tâm Thanh Văn. Có hai muôn ức nhơn nữ và thiên nữ hiện đời chuyển thân nữ được thân nam.
Lúc đó Tu Bạt Đà La nghe đức Phật nói pháp thậm thâm vi diệu, được pháp nhãn thanh tịnh bỏ tà kiến xin xuất gia.

Phật nói: “ Lành thay! Lành thay! Thiện Lai Tỳ Kheo!”

Tu Bạt Đà La vui mừng hớn hở, râu tóc tự rụng thành tướng Sa Môn, dứt hết phiền não đặng quả A La Hán.

Được chứng quả rồi, Tu Bạt Đà La chiêm ngưỡng tôn nhan, đầu mặt đãnh lễ chơn Phật, quỳ chắp tay tự trách tội lỗi ngày trước của mình mà bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Tôi rất hờn thân độc nầy nhiều kiếp đến nay luôn khi dối, làm cho tôi chìm mãi trong vô minh tà kiến trôi đắm theo giáo pháp của ngoại đạo. Rất đau đớn thay! Thân nầy làm hại quá nhiều. May mắn thay! Nay nhờ ơn Như Lai mà được vào chánh pháp.

Trí huệ của Đức Thế Tôn như biển cả, lòng từ bi của đức Thế Tôn vô lượng. Tôi tự suy xét dầu nhiều kiếp nát thân cũng chưa báo được ơn đức nầy.

Tu Bạt Đà La buồn khóc rơi lệ không thể tự ngăn được, lại bạch Phật rằng: “ Bạch Thế Tôn! Tôi tuổi đã già suy, không còn sống bao lâu, bị hành khổ bức não. Xin đức Thế Tôn nán lại để dạy dỗ chớ nhập Niết Bàn.

Đức Thế Tôn nín lặng chẳng hứa.

Thỉnh Phật chẳng được, Tu Bạt Đà La sầu khổ kêu to lên rằng: “ Khổ thay! Khổ thay!Thế gian trống rỗng! Thế gian trống rỗng! Nay cớ gì sự kinh sợ lớn liền đến, khắp nơi phải khổ não.

Than ôi! Chúng sanh phước đã hết; huệ nhãn đã dứt.

Than xong, ông càng khóc lóc nghẹn ngào, cả mình ửng máu, té xuống trước Phật hôn mê ngất xỉu.

Giây lâu tỉnh lại, ông nghẹn ngào rơi lệ mà bạch Phật rằng: “ Bạch Thế Tôn! Nay tôi không nỡ thấy đức Như Lai nhập Niết Bàn xin Đức Thế Tôn cho phép tôi diệt thân nầy trước, rồi sau Đức Thế Tôn sẽ nhập Niết Bàn.

Bạch xong, Tu Bạt Đà La liền ở trước Phật mà nhập Niết Bàn.
 

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 37.- Di Giáo
K.NB ph26

Lúc đó ngài A Nâu La Đà an ủi A Nan rằng: “ Đâu nên quá sầu khổ như vậy! Đã đến giờ Đức Như Lai nhập Niết Bàn, ngày nay dầu có Phật, sáng mai thời đã không. Ông y theo lời tôi để thưa hỏi Đức Như Lai bốn điều.

_ Sau khi Phật nhập Niết Bàn Lục Quần Tỳ Kheo làm việc ô tha gia, cùng Xa Nặc ác tánh, các Tỳ Kheo làm thế nào để cùng họ cộng trụ và chỉ dạy họ?

Đức Như Lai còn thời dùng Phật làm Thầy, Đức Như Lai đã diệt độ rồi lấy gì để làm Thầy?

_ Lúc Phật còn nương nơi Phật mà trụ, Như Lai đã diệt độ nương gì để trụ?

_ Sau khi Phật diệt độ, lúc kết tập pháp tạng, đầu các kinh phải để những lời gì?

A Nan như ở trong mộng nghe ngài A Nâu Lâu Đà khuyên bảo hỏi Phật bốn điều. Lần lần được tỉnh ngộ chẳng xiết buồn thảm, A Nan đem bốn điều trên hỏi Phật.

Đức Như Lai bảo A Nan: “ Sao lại quá buồn khổ như vậy! Chư Phật thuyết pháp giáo hóa việc làm đã xong, theo phải về nơi đây.

Lành thay! Lành thay! Bốn điều ông vừa hỏi, là lời hỏi tối hậu, có lợi ích lớn cho tất cả thế gian. Các ông lóng nghe và khéo suy nghĩ ghi nhớ.

Sau khi Phật nhập Niết Bàn, Tỳ Kheo Xa Nặc tâm tánh sẽ lần lần điều phục nhu hòa bỏ ác tánh cũ.

Nầy A Nan! Ông Nan Đà trước kia rất nặng ái dục, tánh rất xấu ác, Đức Như Lai dùng thiện phương tiện chỉ dạy cho ông ấy được lợi ích vui mừng. Phật rõ biết căn tánh của ông ấy, dùng huệ bát nhã mà giảng thuyết mười hai nhơn duyên: Chính là vô minh duyên hành, hành duyên thức, nhẫn đến lão tử ưu bi khổ não, đều là rừng bụi vô minh yêu ghét, tất cả hành khổ đầy tràn trong ba cõi, chạy khắp trong lục đạo. Cội gốc sự khổ từ vô minh khởi lên. Dùng huệ bát nhã hiển bày tánh tịnh, quán sát kỹ cội gốc thời dứt được tội lỗi trong ba cõi. Vì cội gốc vô minh dứt nên vô minh dứt, vô minh dứt thời hành dứt, nhẫn đến lão tử ưu bi khổ não đều dứt.

Lúc được quán niệm nầy nhiếp tâm đứng dừng thời được nhập Tam Muội, do sức Tam Muội được nhập sơ thiền lần lượt nhập tứ thiền không rời chánh niệm luôn tu tập như vậy, rồi sau tự sẽ được chứng thượng quả thoát khỏi khổ trong ba cõi Nan Đà Tỳ Kheo, tin sâu lời dạy của Phật, siêng năng tu tập trong một ít lâu được chứng quả A La Hán.

Nầy A Nan! Sau khi ta nhập Niết Bàn, các ông nên y theo giáo pháp chánh quán của ta mà chỉ dạy cho Lục Quần cùng Xa Nặc, hết lòng nương theo chánh pháp thanh tịnh nầy, tự sẽ được chứng thượng quả.

Nầy A Nan! Phải biết rằng đều do nơi vô minh mà tăng trưởng cây sanh tử trong ba cõi, nên mãi trôi chìm trong ái hà, chịu khổ mãi dưới vực tối tăm, vòng quanh cột sanh tử. Sáu thức là nhánh, vọng niệm là gốc, lượn sóng vô minh xúc khiến tâm thức dạo chơi theo lục trần, sanh mầm các sự khổ não. Vô minh nó tự tại như vua, không ai chế ngự được. Do đây nên ta nói ông chủ vô minh niệm niệm làm hại, chúng sanh chẳng hay biết, mãi luân chuyển trong sanh tử.

Nầy A Nan! Tất cả chúng sanh vì vô minh nầy mà khởi những tham ái, bị ngã kiến che đậy, tám muôn bốn ngàn phiền não sai sử thân họ, làm cho thân tâm họ tan vỡ không được tự tại.

Nầy A Nan! Nếu vô minh dứt thời ba cõi đều hết, nên gọi là người xuất thế.

Nầy A Nan! Nếu có thể quán sát kỹ mười hai nhơn duyên rốt ráo không có ngã, sâu vào nơi bổn tánh thanh tịnh, thời có thể xa lìa ngọn lửa lớn ba cõi.

Nầy A Nan! Đức Như Lai là đấng chơn ngữ nói lời thành thật, đây là lời phó chúc tối hậu, các ông phải y theo tu hành.

Nầy A Nan! Ông hỏi sau khi Phật diệt độ lấy gì làm Thầy?â Nên biết giới Ba La Đề Mộc Xoa là Đại Sư của các ông. Nương theo đó tu hành thời có thể được định huệ xuất thế.

Nầy A Nan! Ông hỏi sau khi Phật nhập Niết Bàn nương gì để trụ? Phải nương pháp tứ niệm xứ mà trụ: Quán sát tánh tướng của thân đồng như hư không gọi là thân niệm xứ, quán sát sự cảm thọ chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chặn giữa, gọi là thọ niệm xứ, quán sát tâm chỉ có danh tự tánh danh tự rời rạc gọi là tâm niệm xứ, quán sát pháp thiện chẳng thể được pháp bất thiện cũng chẳng thể được gọi là pháp niệm xứ. Tất cả người tu hành phải nương theo pháp tứ niệm xứ nầy mà trụ.

Nầy A Nan! Ông hỏi sau khi Như Lai diệt độ lúc kết tập pháp tạng, đầu tất cả kinh để những lời gì?

Nầy A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ lúc kết tập pháp tạng đầu tất cả kinh nên để như vầy: “ Như thị ngã văn nhứt thời Phật trụ mỗ phương mỗ xứ, cùng hàng tứ chúng mà nói kinh nầy “.

A Nan lại bạch Phật: Lúc Phật ở đời, hoặc sau khi Phật nhập Niết Bàn, có tín tâm đàn việt đem vàng bạc bảy báu cùng tất cả đồ cần dùng dưng cúng cho Như Lai thời phải xử trí thê nào?

Phật nói: Lúc Phật còn, những vật cúng dường Phật, thời chúng Tăng nên biết. Sau khi Phật diệt độ những vật cúng dường Phật, thời nên dùng tạo tượng Phật và tạo y của Phật, phan lọng bảy báu, sắm các thứ hương dầu bông để cúng dường Phật. Trừ việc cúng dường Phật ngoài ra chẳng được dùng. Người lạm dụng thời phạm tội lấy trộm vật của Phật.

A Nan lại bạch: Lúc Phật còn có người đem vàng bạc bảy báu điện đường phòng nhà y phục đồ uống ăn tất cả đồ cần dùng, hoặc vợ con tôi tớ mà cung kính cúng dường Như Lai. Sau khi Phật nhập diệt nếu có người đem những vật như trên mà cung kính cúng dường tượng Phật. Bạch Thế Tôn! Phước đức của hai người nầy ai nhiều hơn?

Phật nói: Vì đều cung kính cúng dường cả nên phước đức của hai người được đồng nhau. Dầu Phật diệt độ nhưng pháp thân vẫn thường còn, nên cung kính cúng dường được phước vẫn đồng như Phật hiện tại.
A Nan lại bạch; Lúc Phật hiện tại nếu có người đem những vật như trên cung kính cúng dường Phật, sau khi Như Lai nhập Niết Bàn, nếu có người đem những vật như trên cung kính cúng dường toàn thân Xá Lợi, phước đức của hai người nầy, ai nhiều hơn?

Phật nói: Hai người nầy được phước đồng nhau công đức rộng lớn vô lượng vô biên nhẫn đến hết khổ, phước đó chẳng hết.

A Nan lại bạch: Lúc Phật hiện tại, nếu có người cung kính cúng dường Phật như trên, sau khi Phật nhập Niết Bàn nếu có người cung kính cúng dường nửa thân Xá Lợi ai được phước nhiều hơn?

Phật nói: Vì hai người đều cung kính cúng dường nên được phước đồng nhau phước đức nầy vô lượng vô biên.

Nầy A Nan! Nhẫn đến cung kính cúng dường một phần tư Xá Lợi, một phần tám , một phần trăm, một phần ngàn, một phần muôn, một phần hằng hà sa, hoặc chừng bằng hột cải, người nầy được phước cũng đồng như người cung kính cúng dường Đức Như Lai hiện tại.

A Nan nên biết rằng hoặc Phật hiện tại hoặc đã nhập Niết Bàn, nếu có người cung kính cúng dường lễ bái tán thán, được phước đức đồng nhau không khác.

Phật bảo A Nan cùng đại chúng: Sau khi ta nhập Niết Bàn, tất cả chúng sanh hoặc thiên thượng hay nhơn gian , được Xá Lợi của ta mà vui mừng thương cảm cung kính lễ bái cúng dường thời được vô lượng vô biên công đức.
xá lợi.jpg


Nầy A Nan! Nếu thấy Xá Lợi của Như Lai thời là thấy Phật, thấy Phật là thấy Pháp, thấy Pháp là thấy Tăng, thấy Tăng là thấy Niết Bàn.

A Nan nên biết rằng do nhơn duyên trên đây mà Tam Bảo thường trụ không biến đổi, có thể làm chỗ quy y cho tất cả chúng sanh.
(lượt trích)
 

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 38.- Ứng Tận Hườn Nguyên.
K.NB ph 27


Đức Phật bảo đại chúng: “ Giờ đây ta nhập Niết Bàn, cả mình ta đau nhức.”

Nói vừa xong, đức Phật liền nhập sơ thiền, xuất sơ thiền nhập nhị thiền, xuất nhị thiền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập tứ thiền, xuất tứ thiền nhập không xứ định, xuất không xứ định nhập thức xứ định, xuất thức xứ định nhập bất dụng xứ định, xuất bất dụng xứ định nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ định, xuất phi tưởng xứ định nhập diệt tận định, xuất diệt tận định nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ định, xuất phi tưởng xứ định nhập bất dụng xứ định, xuất bất dụng xứ định nhập thức xứ định, xuất thức xứ định nhập không xứ định, xuất không xứ định nhập tứ thiền, xuất tứ thiền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập nhị thiền xuất nhị thiền nhập sơ thiền.

Đức Thế Tôn thuận nghịch nhập các thiền định xong, lại phổ cáo đại chúng: “ Ta dùng thậm thâm bát nhã xem khắp ba cõi tất cả lục đạo chúng sanh, ba cõi nầy bổn tánh rời lìa rốt ráo tịch diệt đồng như hư không, không danh,không thức, dứt hẳn các cõi, bổn lai bình đẳng không có tưởng niệm cao hạ, không thấy nghe, không hay biết, không hệ phược, không giải thoát, không chúng sanh, không thọ mạng, không sanh không diệt, chẳng phải thế gian chẳng phải chẳng thế gian, Niết Bàn sanh tử đều không thể được, trước sau bình đẳng vì bình đẳng với các pháp, nhàn cư tịnh trụ không có chỗ thi vi, an trí rốt ráo quyết định bất khả đắc, từ pháp vô trụ pháp tánh thi vi, dứt tất cả tướng, trọn không chỗ có. Pháp tướng như vậy, ai biết rõ thời gọi là người xuất thế, kẻ chẳng biết như vậy thời gọi là đầu mối sanh tử. Đại chúng phải dứt vô minh, diệt đầu mối sanh tử!

Bảo xong, Đức Thế Tôn nhập thiền định siêu việt: Từ sơ thiền xuất liền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập không xứ định, xuất không xứ định nhập vô sở hữu xứ định, xuất vô sở hữu xứ định nhập diệt tận định, xuất diệt tận định nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ định, xuất phi tưởng xứ định nhập thức xứ định, xuất thức xứ định nhập tứ thiền, xuất tứ thiền nhập nhị thiền, xuất nhị thiền nhập sơ thiền.

Đức Thế Tôn nghịch thuận nhập thiền định siêu việt xong, lại bảo đại chúng: “ Ta dùng Ma Ha Bát Nhã xem khắp ba cõi tất cả nhơn pháp hữu tình vô tình thảy đều rốt ráo, không hệ phược, không giải thoát, không chủ, không y, không thể nhiếp trì, chẳng ra ba cõi, chẳng vào các cõi, bổn lai thanh tịnh không cấu nhơ, không phiền não, đồng như hư không, chẳng bình đẳng chẳng phải chẳng bình đẳng, dứt hết những động niệm tư tưởng tâm thức. Pháp tướng như vậy gọi là Đại Niết Bàn, thấy rõ được pháp tướng nầy thời gọi là giải thoát, phàm phu chẳng thấy biết thời gọi là vô minh.

Nói xong Đức Phật lại nhập thiền định siêu việt xuất sơ thiền nhập tam thiền nhẫn đến nhập diệt tận định, xuất diệt tận định nhẫn đến nhập sơ thiền.

Nghịch thuận nhập thiền định siêu việt xong, Đức Thế Tôn lại bảo đại chúng: “ Ta dùng Phật nhãn xem khắp ba cõi tất cả các pháp, thể tánh của vô minh vốn là giải thoát, tìm khắp mười phương trọn không thể được. Vì cội gốc đã không nên nhánh lá thảy đều giải thoát. Vì vô minh giải thoát nên hành đến lão tử đều được giải thoát. Do đây nên ngày nay ta an trụ thường tịnh diệt quang gọi là Đại Niết Bàn.

Lúc đó A Nan quá sầu khổ bi ai tâm trí cuồng loạn, như người quá say không còn biết những việc xung quanh, chẳng thấy đại chúng, cũng chẳng biết Như Lai đã nhập Niết Bàn hay chưa.

Đức Thế Tôn nhập siêu thiền định thuận nghịch ba lần, xem khắp pháp giới ba phen phổ cáo đại chúng, Đức Như Lai lần lượt nhập các thiền định hai mươi bảy lần như vậy.

Vì chẳng biết, nên khi Phật nhập một thiền định A Nan liền hỏi một lần, hai mươi bảy lần hỏi ngài A Nâu Lâu Đà: Phật nhập Niết Bàn hay chưa?

Ngài A Nâu Lâu Đà rõ biết Như Lai nhập các thiền định, hai mươi bảy lần đều trả lời với A Nan rằng Phật chưa nhập Niết Bàn.

Sau khi ba lần thuận nghịch nhập các thiền định cùng phổ cáo đại chúng, đức Thế Tôn nằm nghiêng bên hữu trên giường thất bảo: Gối đầu phương bắc, chưn chỉ thẳng phương Nam, mặt hướng về phương Tây, lưng day qua phương Đông.

Bốn phía giường, tám cây Ta La chia làm bốn cặp: Một cặp phương Tây ở trước mặt Như Lai, một cặp phương Đông che sau lưng Như Lai, một cặp phương Bắc che trên đầu Như Lai, một cặp phương Nam đứng phía chưn Như Lai.

Lúc đó đúng giữa đêm Đức Như Lai nằm trên giừơng thất bảo trong rừng Ta La nhập tứ thiền yên lặng mà Bát Niết Bàn.
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 39.- THIỀN.- Đạo lộ Niết Bàn.

Nhìn lại tiến trình Thành Đạo của Đức Phật Thích Ca. Chúng ta thấy:

+ Đức Phật 6 Năm Tầm Đạo ở Thâm Sơn để học pháp Thiền với Tu sĩ Bà La Môn Uất-đầu-lam-phất , là một nhà hiền triết và đạo sư về thiền định đã dạy các trạng thái thiền tinh tế được gọi là chứng đắc vô sắc thiền (arūpa samāpatti).

+ 49 ngày Phát huy pháp Tứ Thiền, Tứ Định (arūpa samāpatti). Chứng Đắc Tam Minh. Lục Thông.- Cũng là Pháp THIỀN.

+ 49 năm Thuyết Pháp, giáo hóa chúng sanh ở Ấn Độ đương thời.- Cũng là Pháp THIỀN.- Trong đó phát huy Tứ Thiền, Tứ Định đến đỉnh cao là Thiền Diệt Tận Định, diệt thọ tưởng định. Cô Động Thành Cửu Thứ Đệ Định.- Tiến Trình Vô Vi Niết Bàn A la Hán.

+ Khi Ứng Tận Hườn Nguyên. Đức Phật vào Siêu Việt Định, để Bát Đại Niết Bàn.- Cuối cùng Cũng là Pháp THIỀN.

Có thể khẳng Định. Con đường dẫn Đến Niết Bàn là THIỀN ĐỊNH.

Chúng ta hãy thử trầm tư theo dấu chân Đức Phật. Thẳng tiến vào Vô Vi an lạc.
Con Đường Phật Tâm Tông Phần 3 - Page 2 Thian410
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 40.- Khái quát về Thiền PG.

K.NB phẩm 27. Ứng Tận Hườn Nguyên: - Đoạn: Đức Phật bảo đại chúng: “ Giờ đây ta nhập Niết Bàn, cả mình ta đau nhức.”

Nói vừa xong, đức Phật liền nhập sơ thiền, xuất sơ thiền nhập nhị thiền, xuất nhị thiền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập tứ thiền, xuất tứ thiền nhập không xứ định, xuất không xứ định nhập thức xứ định, xuất thức xứ định nhập bất dụng xứ định, xuất bất dụng xứ định nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ định, xuất phi tưởng xứ định nhập diệt tận định, xuất diệt tận định nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ định, xuất phi tưởng xứ định nhập bất dụng xứ định, xuất bất dụng xứ định nhập thức xứ định, xuất thức xứ định nhập không xứ định, xuất không xứ định nhập tứ thiền, xuất tứ thiền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập nhị thiền xuất nhị thiền nhập sơ thiền. (hết trích)

Con Đường Phật Tâm Tông Phần 3 - Page 2 Thian510

Phần thảo luận:

Lộ Trình Bát Niết Bàn. Đức Phật thị hiện rõ để đệ tử noi theo.- Đó là THIỀN.

A/. Thế nào là THIỀN ?

* Đức Phật dạy: "Này các tỳ kheo, tập trung tâm lại... đó là hạnh thiền định" .

* THIỀN.- Là một con đường "Trực Nhận"- dẫn đến Chân lý, đã được Chư Phật vạch ra từ vô thỉ kiếp...

* Thiền. Đưa người vượt ra khỏi mọi sự đối đải, có- không, tội- phước v.v... để đưa vào một thực tại vô chung, không chỗ trụ...

Chính vì thế. Tìm hiểu về Thiền là hiểu về chỗ không thể hiểu bằng ý thức, trụ vào chỗ không có gì để trụ trong pháp hữu vi .

B/. Các Phương Thức Hành Thiền PG:

Có 3 Phương thức Hành Thiền:

1). Thiền Chỉ (Samàdhi) là dừng lặng Tâm Thức.- Có nhiều đề mục như: - Sổ Tức, - Niệm Phật v.v...

2). Thiền Quán là tập trung vào các đề mục quán chiếu để thấy rõ bản chất của sự vật.- có nhiều đề mục như: Quán nhân duyên, quán Tánh Không, quán Thật Tướng v.v...

3). Thiền Na là Phương pháp chỉ quán song tu hay còn gọi chung là thiền định.

C/. Đạo Phật có 2 "Trường phái Thiền" lớn:

1/. Trường Phái Phát triển: Pháp hành tu THIỀN NA.- Lấy HUỆ làm nồng cốt.

+ Vẫn tu Chỉ và Quán, nhưng Lấy "Trí Huệ Bát Nhã" dẫn đạo .- Chủ yếu để "Kiến Tánh".-

Khi được Kiến Tánh là Thể nhập Chân Như. Mà Chân Như, hay Đạo, hoặc Vô Vi là tên khác của Niết Bàn.

* THIỀN PHÁI PHÁT TRIỂN DÙNG HUỆ MÀ ĐẮC NIẾT BÀN.- Có dùng các Pháp Thiền của Chư Tổ để tu nên còn gọi là Tổ Sư thiền.

2/. Trường phái Nguyên Thủy : Pháp hành tu CHỈ và QUÁN.- Lấy ĐỊNH làm nồng cốt. Trường phái này dùng Như Lai Thiền để tu tập.

+ Lộ Trình Thiền Định:


  • Sơ Thiền.
  • Nhị Thiền.
  • Tam Thiền.
  • Tứ Thiền.
  • Không vô biên xứ Định.
  • Thức vô biên xứ Định.
  • Vô sở hữu xứ Định.
  • Phi Hữu tường, phi vô tưởng xứ Định.

- Cuối cùng đến Diệt Thọ Tưởng Định là đắc Niết Bàn.

* THIỀN PHÁI NGUYÊN THỦY DÙNG ĐỊNH MÀ ĐẮC NIẾT BÀN.

Nhưng đặc điểm chung của các Pháp Thiền PG là: Dù hành đề mục nào đi nữa. Cũng phải căn cứ tiến trình 9 Thứ Đệ Định.- là Tứ Thiền, Tứ Định và Diệt Tận Định để làm bản đồ và thước đo trong tiến trình Đắc Tam Muội- Đáo Niết Bàn.- Điển hình là Đức Phật lúc Bát Niết Bàn vẫn y cứ vào Lộ trình này để Thể Nhập Vô Vi.
 

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 41.- Sơ Thiền.

K.NB ph27

"Nói vừa xong, đức Phật liền nhập sơ thiền,"

Lộ trình vào Sơ Thiền:

Con Đường Phật Tâm Tông Phần 3 - Page 2 Se_thi10

+ Từ vị trí "Phàm phu". Muốn Đi đến Sơ Thiền Thiên.

- Chúng sanh "Phàm phu" có đặc điểm là DỤC và BẤT THIỆN.- Dục có: Tham Dục, Thực Dục và Dâm Dục.
Thật vậy, trong cái vui của dục, vị ngọt rất ít mà chất cay đắng rất nhiều, cái hưởng thụ rất bé mà cái tai họa rất lớn. Đeo đuổi theo những đối tượng của dục, người ta đã không tạo dựng được hạnh phúc chân thật mà còn tạo nhiều khổ đau cho bản thân và tha nhân.

Lòng ham muốn càng mạnh thì chấp ngã, chấp thủ càng mạnh. Đây chính là động cơ, là nghiệp lực dẫn đến tái sinh từ đời này sang đời khác. Như vậy, dục chính là nguồn gốc của khổ đau. Do đó, con người muốn được an vui, hạnh phúc cần phải ly dục.- Ly DỤC, ly Bất Thiện Pháp.- Cột móc đầu tiên vào Sơ Thiền.

+ Các Trạng thái "Tâm" ở Sơ Thiền:

1. Sơ Thiền Vô Lậu Định thứ lớp duyên 6 Địa (xứ), dẫn sanh 6 Định. Đó là: 2 Tự Địa và 4 Thượng Địa. ĐT ĐL dạy.- Như bài kệ:

Ly dục và ác pháp,
Có giác và có quán,
Ly sanh được hỷ lạc,
Tức vào được Sơ Thiền.

Trong A Tỳ Đàm nói: “Vào Sơ Thiền có 4 giai đoạn”. Đó là:
Tương Ưng Vị.
Tịnh.
Vô Lậu.
Đắc Thiền.
Người vào được Tịnh và Vô Lậu là vào được Sơ Thiền.
Vào Đệ Nhị Thiền và Đệ Tam Thiền cũng như vậy.(ĐT ĐL)
* Sơ Thiền có 5 trạng thái Tâm: 1. Tầm, 2. Tứ, 3. hỷ, 4. lạc, 5. nhất tâm.

Kinh Trung A-hàm, đức Phật định nghĩa: “Tỳ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, có giác và quán (còn gọi là tầm và tứ), ly sanh hỷ lạc, chứng từ sơ thiền đến tứ thiền, gọi là định vô lậu học”.

 

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 42.- Sơ Thiền & Các Thiền Chi.

Sơ THiền Ly Sanh Hỷ Lạc Địa.

Thiền chi 1:+ Giác (Tầm): Là tỉnh thức. Khi đi biết mình đang đi, khi ăn biết mình đang ăn v.v...như bài kệ:

Thở vào, tâm tĩnh lặng,
Thở ra, miệng mỉm cười.
An trú trong hiện tại,
Giờ phút đẹp tuyệt vời.
+ Chữ “tầm” trong giải thích về sơ thiền trong tiếng Anh là: thought (bản dịch của Bhikkhu Bodhi), directed thought (bản dịch Thanissaro Bhikkhu), initial thinking (bản dịch Leigh Brasington), applied thought (bản dịch Henepola Gunaratana). Nghĩa là: niệm hướng vào.

Thiền chi 2: + Tứ: Chữ “tứ” trong giải thích về sơ thiền trong tiếng Anh là: examination (bản dịch của Bhikkhu Bodhi), evaluation (bản dịch Thanissaro Bhikkhu), sustained thinking (bản dịch Leigh Brasington), sustained thought (bản dịch Henepola Gunaratana). Nghĩa là: niệm trụ vào.

Thiền chi 3: + Hỷ: Tướng người trụ tâm (Thiền) thì thân nhẹ nhàng, vui vẻ.

Những Sân hận, buồn rầu, các pháp não tâm đều đã dứt hẳn, tâm được sự khoái lạc chưa từng có, hơn hẳn năm dục.- Đây là Thiền Hỷ sanh.

Thiền chi 4:+ Lạc: mới tập pháp thiền. Nếu trong khi tập quán mà bị ngũ cái che tâm thì phải diệt trừ. Như sức gió phá tan mây đen che mặt trời, nếu dâm dục cái làm phát sanh tâm nghĩ năm dục, liền nên tư duy: “Ta ở trong đạo tự bỏ năm dục, tại sao nay còn nghĩ lại? Như người ăn lại thức ăn mửa ra. Ðây là tội pháp của thế gian. Nay ta học đạo, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, cho đến trọn đời tình nguyện mãi mãi xa lìa, đoạn trừ năm dục, vì sao trở lại sanh đắm trước, thật là điều chẳng nên” thì liền trừ diệt. Như không cho loài rắn độc vào nhà vì nó là tai họa lớn.

Lại nữa, giả sử đủ năm dục nhưng còn không thấy đủ, nếu không thấy đủ thì không có vui, như khát uống nước tương, chưa trừ hết khát thì đâu có vui. Như gải ghẻ lở, bệnh ấy chưa khỏi thì không thể vui...

Khi đã có "Lực Thiền Định" đẩy lùi được Ngũ cái che tâm thì sanh an lạc.- Đây là Thiền Chi thứ 4.

Thiền chi 5: + Nhất Tâm. Do sức của Thiền Định mà mọi vọng tưởng bị sơ kỳ hóa giải, chỉ có Chánh Niệm hiện tiền.- Đây là Thiền Chi thứ 5.- Nhất Tâm
Con Đường Phật Tâm Tông Phần 3 - Page 2 Th10
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 43.- Nhị Thiền & Các Thiền Chi.

K. NB ph27:

"xuất sơ thiền nhập nhị thiền"

Con Đường Phật Tâm Tông Phần 3 - Page 2 P71112

* Định Sanh Hỷ Lạc Địa.

ĐT ĐL dạy về Nhị Thiền:
Nhị Thiền Vô Lậu Định thứ lớp duyên 8 Địa, dẫn sanh 8 Định. Đó là: 2 Tự Địa, 2 Hạ Địa và 4 Thượng Địa.

Khi nhiếp tâm vào thiền
Giác quán gây trở ngại,
Nên phải trừ giác quán,
Để vào Nhất Thế Xứ.
Vào Nhất Thế Xứ rồi,
Khiển nội tâm thanh tịnh.
Định ấy sanh hỷ lạc,
Dẫn vào Đệ Nhị Thiền.

* Nhị Thiền có 3 trạng thái Tâm:1. Hỷ.2. Lạc.3. Nhất Tâm
(trích ĐT ĐL)

Thế nào là Nhất Thế Xứ mà đắc Định (Nhị Thiền) sanh hỷ lạc ?
- Đó là Thế đệ nhất vị của Tứ Gia Hạnh.

1. Tứ gia hạnh: Muốn đoạn trừ kiến hoặc, trước tiên người tu hành phải rời xa các tà thuyết, xoay tâm ý, tư tưởng dần vào chân lý: vô thường, vô ngã, bất tịnh, tứ đế, để nhận chân được các tánh cách vô thường, vô ngã, bất tịnh, không thật v.v... của cuộc đời. Nhờ sự gần gũi với chân lý như thế, nên những điều thấy biết sai lầm điên đảo sẽ tan hết và 88 món kiến hoặc cũng không còn. Tuy nhiên, không phải chỉ trong một lúc mà đoạn được tất cả kiến hoặc; trái lại, phải cần nhiều thời giờ, công phu tu tập. Từ những tư tưởng, thành kiến mê lầm của phàm phu mà đến Thánh trí để dự vào dòng Thánh quả, người tu hành phải tu bốn gia hạnh sau đây:

a) Noản vị: Noản là hơi nóng; vị là địa vị. Người xưa, khi muốn lấy lửa, họ dùng hai thanh củi tre cọ sát vào nhau; trước khi lửa sắp bật lên, phải qua giai đoạn phát ra hơi nóng. Người tu hành muốn có lửa trí tuệ, cũng phải trải qua giai đoạn hơi nóng. Tất nhiên hơi nóng lửa trí tuệ chưa đốt cháy được củi phiền não, nhưng không thể không qua giai đoạn nầy được. Ðó là giai đoạn "Noản vị".

b) Ðảnh vị: Ðảnh là chóp cao. Qua khỏi giai đoạn Noản vị, người tu hành tiếp tục tiến bước và lên được trên chóp đỉnh núi mê lầm. Ðứng ở địa vị nầy, toàn thân hành giả được tắm trong khoảng không gian rộng rãi vô biên, nhưng chân chưa rời khỏi chóp núi mê lầm.

c) Nhẫn vị: Nhẫn là nhẫn nhịn, chịu đựng. Người biết nhịn, luôn luôn vẫn yên lặng sáng suốt trước sự khuấy phá của đối phương. Người tu hành lên đến bậc này, trí giác ngộ đã gần sáng tỏ, thân tâm vẫn giữ được mực yên lặng trong sáng, mặc dù các pháp có lăng xăng và ẩn hiện.

d) Thế đệ nhất vị: Bậc nầy cao quí nhất trong đời. Tu đến bậc này là một công phu rất to tát, gần giải thoát ra ngoài vòng Dục giới, như con diều giấy bay liệng giữa không trung, tự do qua lại, không còn bị cái gì làm ngăn ngại, ngoài sợi giây gai nhỏ. Nếu bứt sợi gai kia là diều bay luôn. Cũng như thế, người tu hành phá hết phần kiến hoặc nhỏ nhít sau cùng là được giải thoát luôn.

Luận dạy:
Bồ tát đạt Đảnh pháp và Nhẫn pháp rồi, sẽ vào Thế đệ nhất pháp. Đây là chỗ Thuận pháp nhẫn, dẫn đến Vô sanh pháp nhẫn.- Pháp Đẳng Nhẫn.

+ Là quán hết thảy các pháp thiện ác, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi... đều bình đẳng. Quán được như vậy mà vào trong Bất Nhị Môn, trong Thật Tướng Môn, là thâm nhập vào Thật Tướng của các pháp. Quán được như vậy rồi, thì được Tâm Nhẫn, chẳng khởi tranh cãi, chẳng có gì ngăn ngại. Như bài kệ thuyết:
Các pháp vẫn thường chẳng “sanh”, chẳng “diệt”
Cũng lại chẳng phải “chẳng sanh”, “chẳng diệt”
Chẳng “ “sanh điệt ”, chẳng phải “chẳng sanh diệt”
Cũng chẳng phải “chẳng phải chẳng sanh diệt”.
Như vậy gọi là Pháp Đẳng Nhẫn. Pháp Đẳng Nhẫn là Pháp môn trợ đạo đầu tiên dẫn đến Giải thoát.(hết trích)

+ Hỷ , Lạc và Nhất Tâm ở Đệ Nhị Thiền do "Thế Đệ Nhất" sanh khởi.- Vi Tế , thù thắng hơn ở Sơ Thiền.


  • "Tỷ-kheo ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm".
  • Vậy “diệt tầm tứ” là gì?, theo nghĩa Hán việt, “Diệt”ở đây không phải là giết mà có nghĩa là loại bỏ, loại trừ, “Tầm” là suy tư, “Tứ” là tác ý hay còn gọi là tâm sinh. “Diệt tầm tứ” nghĩa là loại trừ những tham dục thỏa mãn trí tuệ thì mới nhập nhị thiền. Muốn loại trừ được thì phải dùng “như lý tác ý”.
“Như lý tác ý” còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật. Nó là một trạng thái của tâm thức dấy khởi do duyên sự tiếp xúc giữa các giác quan và các đối tượng tương ứng đưa đến sự hiện hành của dòng tư duy hay chuỗi tư tưởng.

Theo quan niệm của đạo Phật thì do sự xúc chạm giữa các giác quan và các đối tượng tương ứng mà ý thức bắt đầu sinh khởi và hoạt động gọi là tác ý hay còn gọi là tâm sinh. Thông thường, tác ý hay tâm sinh hiện khởi theo hai khuynh hướng, hoặc thiện hoặc bất thiện, tùy thuộc vào thói quen, nhân của mỗi người. Nếu một người còn nặng về tham, sân, si thì ý thức sinh khởi theo chiều hướng đưa không tốt tức là tác ý (tâm sinh) bất thiện pháp. Kinh Phật gọi đó là phi như lý tác ý hay tâm đặt sai hướng.
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 44.- Tam Thiền & Các Thiền Chi.

K. NB ph27:

Ly Hỷ Diệu Lạc Địa.

Tam Thiền Vô Lậu Định thứ lớp duyên 10 Địa, dẫn sanh 10 Định. Đó là: 2 Tự Địa, 4 Hạ Địa và 4 Thượng Địa.

Lại rời tâm hỷ lạc,
Nhiếp tâm đệ nhất định,
Tịch nhiên không chỗ niệm,
Ưu hý đều xả sạch.
Do thọ mới sanh hỷ,
Mất hỷ sẽ sanh ưu,
Ly hỷ được diệu lạc,
Vào được Đệ Tam Thiền.
(ĐT ĐL)
* Tam Thiền có 2 trạng thái Tâm:1. Lạc.2. Nhất Tâm

Trích kinh Sa Môn Quả đoạn 79 Lưu trữ 2017-10-12 tại Wayback Machine: "Lại nữa, này Đại vương, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là “Xả niệm lạc trú”, chứng và an trú thiền thứ ba. "

Được Phật diễn tả toàn thân như một bông hoa sen đang vươn lên từ trong nước, được nước bao phủ với nội tâm là xả niệm lạc trú (dứt bỏ ý niệm, thường xuyên an lạc).

Niềm vui của Tam thiền rất đằm thắm nhỏ nhiệm và đầy khắp, giống như hoa sen ngập trong nước, tẩm ướt, tràn ngập, nhưng không thấm nước, cũng vậy, niềm vui của Tam thiền rất tự tại, bình an và vượt khỏi cơ thể, giống như cả không gian đều cùng an vui vậy. Thân của hành giả lúc này giống như một khối không khí hân hoan an lạc.

Ý nghĩa của xả niệm là hành giả đã vào được Vô thức (theo khoa học, Vô thức chiếm hơn 90% cuộc sống của con người, ý thức chỉ chiếm phần nhỏ). Kiểm soát được nó nghĩa là tâm hồn đã thật sự ổn định. Những bản năng sinh tồn, bản năng hưởng thụ... đều bị kiềm chế.

Lúc này khi ngồi thiền nhập định, hành giả không còn nghe thấy mọi cảnh vật, tiếng động bên ngoài, hoàn toàn an trú vững chắc trong thế giới nội tâm sáng suốt vi diệu thanh tịnh của mình.

* Thiền Chi "Lạc" ở Tam Thiền: Ý nghĩa của xả niệm là người hành thiền đã vào được “vô thức”, kiểm soát được nó nghĩa là tâm hồn đã thật sự ổn định, những bản năng sinh tồn, bản năng hưởng thụ… đều bị kiềm chế. Lúc này khi ngồi thiền nhập định, người hành thiền không còn nghe thấy mọi cảnh vật, tiếng động bên ngoài, hoàn toàn an trú vững chắc trong thế giới nội tâm sáng suốt vi diệu thanh tịnh của mình. Niềm vui của Tam thiền rất tự tại, bình an và vượt khỏi cơ thể, giống như cả không gian đều cùng an vui vậy.(TVHS)
 

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 45.- Tứ Thiền .
K. NB ph27

"xuất tam thiền nhập tứ thiền,"
Xã Niệm Thanh Tịnh Địa.
Tứ Thiền Vô Lậu Định .

Con Đường Phật Tâm Tông Phần 3 - Page 2 Thian-10

Lại biết lạc cũng bệnh,
Nên liền xả bỏ lạc,
Được xả niệm phương tiện,
An trú nơi bất động.
Ưu hỷ trước đã trừ,
Khổ lạc cũng xả luôn,
Tâm xả niệm thanh tịnh,
Vào được Đệ Tứ Thiền.
Nơi cõi Dục đoạn ưu,
Sơ, Nhị Thiên trừ khổ.
Trước đã trừ ưu hỷ,
Nay đoạn dưt khổ lạc,
Ở nơi Đệ Tứ Thiên,
Được trí huệ bất động.(ĐT ĐL)

* Tứ Thiền có 1 trạng thái Nhất Tâm.

Đây là mức thiền cuối cùng và cao nhất trong bốn cấp độ để đạt được trạng thái “xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh”

Muốn “xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh” thì phải trú tâm vào một đối tượng duy nhất vào hơi thở dùng pháp hướng tâm tịnh chỉ thân hành thì xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh sẽ đạt được kết quả như ý muốn.

Trích kinh Sa Môn Quả : "Tỷ-kheo, xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh."
 

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 46.- Tam Muội Vương Tam Muội..

K.NB ph27:

* Vào Sơ Thiền, do Giác quán nên tâm còn động; vào Đệ Nhị Thiền, do Đại hỷ, nên tâm còn động; vào Đệ Tam Thiền, do Đại Lạc, nên tâm còn động; vào Đệ Tứ Thiền do xã niệm thanh tịnh, nên tâm được bất động.

....... Bởi vậy nên phải ở trong Đệ Tứ Thiền mới vào được Tam Muội Vương Tam Muội.

.......Lại nữa, Tam Muội vương Tam Muội là bậc nhất, vì hết thảy các Tam Muội khác đều vào trong Tam Muội này. Ví như hết thảy nguồn nước từ các sông đều chảy về biển cả.(trích ĐT ĐL)

Tư duy:
Có một số hành giả, khi tu Thiền đến Tứ Thiền Thiên. Vội cho là đã đắc Thánh Quả Vô Vi Niết Bàn.

Thật ra. Dù đến Tứ Thiền vẫn có thể sa A Tỳ Ngục như Tỳ Kheo Thiện Tịnh con Phật. Như sau:

"Bạch Thế Tôn! Thiện Tinh Tỳ Kheo là con trai của đức Phật lúc chưa xuất gia, sau khi làm Tỳ Kheo, Thiện Tinh thọ trì đọc tụng giải thuyết mười hai bộ kinh, phá kiết sử cõi dục chứng được tứ thiền. Tại sao đức Như Lai nói Thiện Tinh là hạng Nhứt Xiển Đề, là người hạ tiện người không thể trị được phải ở nơi địa ngục cả kiếp. Cớ gì đức Như Lai chẳng trước diễn nói chánh pháp cho Thiện Tinh, để được làm Bồ Tát. " (Trích K. NB phẩm 24 Ca Diếp BT)

Do vậy cần biết "Tam Muội vương Tam Muội" ?

(Trích bài giảng ĐTĐL của HT Pháp Sư Thích Thiện Trí)

+ Tam Muội vương Tam muội: Không trú chấp vào mọi Tam muội đó là Tam Muội Vương Tam Muội.
Khi vào Tam muội vương tam muội, nhận ra bản tâm thanh tịnh, tức thời thoát khỏi mọi qui ước không gian và thời gian nơi phàm phu. Như vậy trăm năm hay ngàn năm cũng chỉ là ý niệm.( Như vậy là Đắc Thiền).

* Do xã Niệm Thanh Tịnh, mà cũng không trú chấp Tứ Thiền nên Đức Phật tự tại qua lại trong Tứ Thiền.- Như Sư tử chúa tự tại làm chủ trong lãnh địa của mình. Không bị các Thiền Vị trói buộc.- đó là Tam Muội Vương Tam Muội.

* Khi Bát Niết Bàn. Từ Tam Muội Vương này Đức Phật vào tiếp Tứ Vô Sắc Định.
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 47.- Không Vô Biên Xứ Định.

"xuất tứ thiền nhập không xứ định"
K.NB ph27

Vô Biên Hư Không Xứ Định:

Niệm phân biệt tướng, diệt hết thảy các tướng Hữu thì vào được Vô Biên Hư Không Xứ Định.
Vào Định này, thiền giả lại quán “sắc thân thô trọng do duyên hòa hợp tạo thành”. Đã có thân là có Khổ, nên lại quán thân như hư không. Khi đã được thân nhẹ nhàng rồi, thiền giả thấy 4 đại ở bên trong thân và ở bên ngoài đều như nhau cả. Do vậy mà thấy vô lượng vô biên hư không, cả trong lẫn ngoài, khiến tâm trở nên nhẹ nhàng thanh thoát, nên được gọi là Vô Biên Hư Không Xứ Định. Ví như chim bị nhốt trong lồng, khi được thả tự do,thư thái, bay vút lên không trung.

Phần Thảo luận:
Vô Biên Hư Không Xứ Định thuộc Tứ Vô Sắc Định.- Pháp Thiền này Đức Phật tu học nơi Bà La Môn Uất Đầu lam Phất lúc 5 năm tầm Đạo.

Sau khi thành Đạo. Đức Phật chỉ tinh túy hóa và phát triển trên nền tảng 4 Định. Đức Phật dùng 4 Thiền (Ở trên không BLM) phối hợp 4 Định và thăng hoa Định thứ 9 để dạy chúng đệ tử vào Vô Vi Niết Bàn Hữu Dư y.

Theo HT .Thích Trí Quảng: Chứng được Tứ thiền cao hơn trời Đại Phạm. Từ trước, người ta vẫn nghĩ Đại Phạm sáng tạo loài người, nhưng tu chứng quả vị của Tứ thiền thì thấy không phải như vậy. Đó là đạo sĩ Uất Đầu Lam Phất đã tìm thấy Tứ không thiên cao hơn trời Đại Phạm. Và Thái tử Sĩ Đạt Ta đã tìm học và tu với ông này, không lâu sau đó Ngài liền chứng Tứ không. Phật giáo gọi đó là Tứ thiền Bát định.

Tu thiền của chúng ta khởi xuất từ chỗ này, trải qua quá trình sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, cộng với Tứ không gọi là Bát định .

Trên bước đường tu, nâng hiểu biết của chúng ta lên, nâng độ sáng của mắt huệ, thấy không có gì. Tạm ví cho dễ hiểu, giống như ngày nay, phát minh khoa học thấy thân con người qua quang tuyến X, không thấy hình hài con người nữa, nhưng thấy ruột, gan, tim, phổi, xương… của họ.

Nâng tầm nhìn thấy thế giới không là Không vô biên xứ, hay tâm chúng ta ở trong hư không, chỗ nào tâm cũng tới được, nên hư không vô biên, thì tâm chúng ta tới đâu biết tới đó.(hết trích).

* Còn " Vô Sắc" là thế nào ?


  • Sắc Giới: Là cảnh giới thuộc phạm trù có Vật Chất.
  • Vô Sắc Giới: Là cảnh giới thuộc phạm trù phi Vật Chất.

Và ở điểm này, Luän nói: “Với sự hoàn toàn vượt qua sắc tưởng, với sự biến mất những chướng ngại tưởng không tác ý sai biệt tướng, biết rằng “Hư không là vô biên”, vị ấy chứng và trú “Không vô biên xứ”(Vbh.245).
truong lão.jpg


* Theo kinh nghiệm riêng của VQ. Quán Tánh Không và trầm tư vào đó, sẽ dễ vào Hư Không Xứ. Nhưng cũng dễ lạc vào Hư Không Vô Biên, không khéo sẽ khó nhập Chân Như.

* Ở bài này. Vào Không Định là tiến trình Bát Niết Bàn khi Ứng Tận Hườn Nguyên. Đức Phật đã dạy ở K. NB
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 48.- Vô Biên Thức Xứ Định.

(Vô Biên Thức Xứ Định duyên 9 Địa, dẫn sanh 9 Định. Đó là: 2 Tự Địa, 4 Hạ Địa và 3 Thượng Địa.)
Thiền giả lại duyên Thọ, Tưởng, Hành, Thức xem như bệnh hoạn, quán Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã, rồi xả Vô Biên Hư không Xứ Định để duyên hiện tại, quá khứ,vị lai,duyên thức xứ ở nhiều đời.

Rồi thiền giả lại thấy “thức xứ”cũng chẳng có biên giới, vào được Vô Biên Thức Xứ Định.(ĐT ĐL)

Tu hành mở rộng tầm nhìn, sống bằng trí tuệ, không sống bằng thân vật chất hữu hạn. Và bằng trí tuệ, chúng ta thấy hư không vô biên. Hư không vô biên, nên Thức cũng trở thành vô biên. Vì hiểu biết của chúng ta nương theo hư không, nên hư không tới đâu, hiểu biết của ta tới đó. Vì thế, hành giả ngồi một chỗ nhưng trí tuệ rọi khắp mười phương thì hiểu biết của họ đi khắp mười phương gọi là Thức vô biên xứ.

Thanh Tịnh Đạo Luận viết:
Khi hành giả muốn tu tập thức vô biên xứ, trước tiên cần phải đạt đến sự làm chủ theo năm cách, trong thiền chứng về không vô biên xứ. Rồi hành giả cần thấy nguy hiểm của không vô biên xứ như sau: “Thiền này có sắc thiền là kẻ thù gần, và nó không được an tịnh như Thức vô biên xứ”. Bởi thế sau khi chấm dứt ràng buộc của hành giả đối với không vô biên xứ, vị ấy hãy tác ý thức vô biên xứ như là an tịnh hơn, tác ý nhiều lần “Thức, thức với thức biến mãn không gian làm đối tượng. Hành giả nên tác ý, quán sát nó, tác động trên thức ấy bằng tầm và tứ, nhưng không nên chỉ tác ý theo cách nầy “vô biên, vô biên” (nghĩa là hoặc tác ý “vô biên” không)

Khi hành giả hướng tâm thiền nhiều lần trên tướng ấy như vậy, những triền cái được từ bỏ, niệm được an trú và tâm trở nên định tĩnh trong cận hành định. Hành giả tu tập tướng ấy nhiều lần, làm cho sung mãn. Khi hành giả làm như vậy, thức thuộc về thức vô biên xứ khởi lên trong định, với cái thức biển mãn hư không làm đối tượng cũng như cái thức thuộc về không vô biên xứ đã khởi lên với khoảng không làm đối tượng. Phương pháp giải thích tiến trình đắc định ở đây cần được hiểu theo cách đã tả.

Ở điểm này, kinh nói: “Hoàn toàn vượt qua không vô biên xứ, biết rằng “Thức là vô biên”, vị ấy chứng và trú “Thức vô biên xứ”. (Vbh.245)
 

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 49.- Vô Sở Hữu Xứ Định.

K.NB ph27


"xuất thức xứ định nhập bất dụng xứ định"

Bất dụng xứ định còn có tên là Vô Sở Hữu Xứ Định.- Thuộc Tứ Vô Sắc Định.

ĐT ĐL dạy:
(Vô Sở Hữu Xứ Định duyên 7 Địa, dẫn sanh 7 Định. Đó là: 2 Tự Địa, 4 Hạ Địa và 1 Thượng ĐỊa.)
Dùng Vô Biên Thức Xứ làm duyên khởi, thiền giả lại quán Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều như bệnh, như mụt nhọt,
quán Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã là hư dối, quán Thức cũng là như vậy. Rồi thiền giả phá được “thức tướng”, tán thán “Vô sở hữu xứ”, vào được Vô Sở Hữu Xứ Định.(hết trích)

Thanh Tịnh Đạo Luận giải rằng:

Khi hành giả muốn tu tập Vô sở hữu xứ, trước hết, cần phải thành tựu sự thiện xảo (làm chủ) theo năm cách trong thiền chứng về Thức vô biên xứ. Rồi hành-giả nên thấy nguy hiểm trong thức vô biên xứ như sau: “Thiền này có Không vô biên xứ là kẻ thù gần của nó và nó không được an tịnh như vô sở hữu xứ.” Sau khi đã từ bỏ sự bám víu vào Thức vô biên xứ, hành giả nên tác ý Vô sở hữu xứ xem là an tịnh. Hành giả nên tác ý đến sự phi-hữu (hiện tại) sự trống rỗng, khía cạnh viễn ly của chính cái Thức (quá khứ) thuộc về Không vô biên xứ đã trở thành đối tượng của (thức thuộc về) Thức vô biên xứ . Hành giả thực hiện điều này như thế nào?

Không còn tác ý đến thức này nữa, bây giờ hành giả phải chú ý nhiều lần như sau: “Không có gì cả ” hoặc “Không, không” và quán sát nó, tác động lên nó với tầm và tứ.

Khi hành giả hướng tâm đến tướng như vậy, thì những triền cái bị áp đảo, niệm được an trú, và tâm hành giả tập trung ở cận hành định. Hành giả tu tập tướng ấy nhiều lần, làm cho nó sung mãn.Khi làm như vậy, thức thuộc về vô sở hữu xứ khởi lên trong định, đối tượng của nó là trạng thái không, phi hữu, viễn ly của Thức đã biến mãn hư không trước đấy, cũng như thức thuộc Thức vô biên xứ đã lấy cái Thức biến mãn hư không làm đối tượng, (Nói tóm lại, thì: Không vô biên xứ có đối tượng là Không vô biên, Thức vô biên xứ có đối tượng là cái Thức đã quán Không vô biên, và Vô sở hữu xứ thì có đối tượng là cái phi hữu, trống rỗng của cái Thức đã quán không vô biên vậy.)

Và ở đây cũng vậy, phương pháp giải thích định là như cách đã nói trước.

Nhưng có sự khác nhau này. Ví như một người thấy một đoàn thể tăng chúng nhóm họp tại một phòng hội họp,thấy xong thì bỏ đi chỗ khác. Sau buổi họp, khi chúng tăng đã đứng lên ra về, người kia trở lại, và khi anh ta đứng ở bực cửa nhìn lại phòng họp chỉ thấy đó là một khoảng không, chỉ thấy nó vắng vẻ, chứ không nghĩ “Bao nhiêu tỳ kheo ấy đã chết, bao nhiêu tỳ kheo ấy đã đi khỏi vùng này. Ðúng hơn, người ấy chỉ thấy “Ðây đã vắng vẻ, trống không” – cũng vậy, sau khi bằng con mắt thiền thuộc về Thức vô biên xứ, vị ấy đã trú và quán cái Thức đã khởi lên lấy hư không làm đối tượng, bây giờ khi Thức đó đã biến mất do vị ấy tác ý “Không có gì” từ trước trong công việc chuẩn bị, thì hành giả chỉ trú và quán sự phi hữu của nó,nghĩa là sự ra đi của thức ấy, khi Thức thuộc vô sở hữu xứ đã khởi lên trong định.

(Kinh Văn Và Giải)

Và tại điểm này, kinh nói: “Hoàn toàn vượt qua Thức vô biên xứ, biết rằng “Không có gì”, hành giả chứng và trú Vô sở hữu xứ” (Vbh. 245).
 

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 50.- Phi Hữu- phi Vô Tưởng Xứ Định.

K.NB ph27

"xuất bất dụng xứ định nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ định"

ĐT ĐL dạy:

Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ Định.(Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ Định duyên 6 Địa,dẫn sanh 6 Định. Đó là: 2 Tự Địa và 4 Hạ Địa.-Tất cá các Tịnh Địa khác đều lợi ích cho Tự Địa cả.)
Ở nơi Vô Sở Hữu Xứ, thiền giả lại duyên Thọ, Tưởng,Hành, Thức, thấy rõ thân là Vô thường, Khổ, Không, Vô
ngã, do duyên hòa hợp mà thành, nên xả Vô Sở Hữu Xứ Định, vào được Vô Tưởng Định.
Vào được Vô Tưởng Định rồi, là thiền giả được “Đệ nhất diệu xứ” là Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ Định.

Hỏi: Nơi Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ vẫn còn Thọ,Tưởng, Hành, Thức. Như vậy vì sao lại gọi Phi Hữu Tưởng
Phi Vô Tưởng Xứ?
Đáp: Ở nơi đây vẫn còn Thọ, Tưởng, Hành, Thức nhưng rất vi tế. Vì quá vi tế khó có thể biết được, nên gọi là gọi Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ.Phàm phu tưởng rằng Định này là Niết bàn. Theo Phật pháp thì do nhân duyên tu tập mà thấy rõ “Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng”rất vi tế, nên gọi Định này là Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Định vậy thôi.

Sơ Thiền Vị thứ lớp sanh 2 Tịnh Địa VỊ: 1 Tịch và 1 Chiếu. Dẫn đến Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ cũng là như vậy.

Tới Định vị này. Hành giả coi chừng rơi vào Vô Tưởng Định (ngoại thiền).

Hỏi: Thể nào gọi là Vô Tưởng?
Đáp: Phải hiểu nghĩa Vô Tưởng theo 3 trường hợp:
  • Vô Tưởng định.
  • Diệt Thọ Tưởng định.
  • Vô Tưởng Thiên.
Phàm phu Ngoại đạo muốn diệt sự sanh khởi của Tâm nên vào Vô Tưởng Định.
Các đệ tử của Phật muốn diệt tâm vô tưởng sanh khởi, nên vào Diệt Thọ Tưởng định. Còn chư Thiên thì vào Vô
Tưởng Thiên.
Hỏi: Có bao nhiêu thứ Thiền định?
Đáp: Có hai thứ. Đó là: Thiển định Hữu Lậu-Thiền định Vô Lậu
Thiển của phảm phu Ngoại đạo là Hữu Lậu Thiền. Thiên của Thánh Hiền là Vô Lậu Thiền.
Đệ tử của Phật muốn ly phiền não ở các cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc, phải tu 9 phẩm Giải thoát (3 thượng,3 trung,3 hạ). Muốn vậy, hành giả phải y nơi Hữu Lậu để vào Sơ Thiền. Nơi đây có đủ 9 Vô Ngại Đạo, 8 Giải thoát Vô Lậu Đạo, nên dù hiện tại là hữu lậu, mà trong tương lai sẽ được vô lậu. Nếu y nơi hữu lậu vào Sơ Thiên, thì vào Đệ Nhị Thiền cũng sẽ có đủ 9 Vô Ngại Đạo và 8 Giải thoát.
Vào Đệ Nhị Thiển, hành giả vừa tu Hữu Lậu Thiền, vừa tu Vô Lậu Thiền. Như vậy ở nơi hiện tại có tu hữu lậu mà ở vị lai sẽ được vô lậu. Cho đến khi vào được Đệ Nhị Thiển thanh tịnh thì được vô lậu hoàn toàn. Nhờ tu 9 phẩm Giải thoát, Vô Ngại Đạo và 8 Giải thoát Vô Lậu Đạo màthiển Ø1ả ra vào vô ngại nơi hữu lậu và vô lậu vậy.
Từ Sơ Thiền đã tu Hữu Lậu đề dẫn đến Vô Lậu Đạo. Vào Đệ NhịThiền tu Tịnh Vô Lậu, khởi tu Hữu Lậu Xứ, vào Vô
Lậu Xứ,rồi tiến tu Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ.
Khi đã ly dục hoàn toàn,là có đủ 9 Vô Ngại Đạo và 8 Giải thoát Vô Lậu Đạo. Nếu tu thêm giới Thiện Căn Vô Lậu Đạo đề trừ Vô Định Tâm thì sẽ có được hết thảy 9 Vô Lậu Đạo. (hết trích)

Thánh Tịnh Đạo Luận ghi:
Phi tưởng phi phi tưởng xứ: khi ấy nơi hành giả, có cái tưởng mà, với sự có mặt của nó, thiền chứng này được gọi là “Phi tưởng phi phi tưởng xứ” và trongVibhanga, để chỉ con người chứng ấy, một người trước hết được xác định là người không có tưởng cũng không không tưởng,” có nói: “vị ấy tác ý đến cùng một đối tượng vô sở hữu xứ ấy xem là an tịnh, tu tập thiền chứng với các hành còn dư tàn do đó mà gọi là “người không tưởng cũng không phi tưởng”. (Vbh. 263)
 

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 51.- 4 Thiền 8 Định vẫn ở ngoài cửa.

K. NB ph25:
Phật bảo A Nan: Lúc ta chưa thành Phật thị hiện vào trong pháp ngoại đạo của Uất Đầu Lam Phất, tu học tứ thiền bát định.

Từ khi ta thành Phật đến nay bác bỏ những pháp ấy khuyến dụ lần lần các phái ngoại đạo, cuối cùng đến ông Tu Bạt Đà La, cho họ đều vào Phật Đạo.


Con Đường Phật Tâm Tông Phần 3 - Page 2 Duyzon13

Kính các Bạn. - Tứ thiền bát định. Tuy cao siêu bí ẩn như thế. Nhưng với Trí Tuệ Phật thì vẫn còn ngoài cửa.- Chưa Nhập lưu.

Theo HT. Th Trí Quảng:
Đức Phật cũng vậy. Đầu tiên, trên bước đường tham học, Ngài học với Uất Đầu Lam Phất và tu đạt tới Không trụ xứ định (Không vô biên xứ định). Cao hơn nữa, Uất Đầu Lam Phất dạy pháp mà ông chứng đắc là Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Phật cũng thực tập theo và Ngài chứng được Tứ thiền Bát định là bằng với thầy Uất Đầu Lam Phất.

Phật hỏi Uất Đầu Lam Phất sau quả vị Tứ thiền Bát định còn có gì cao hơn không. Ông đáp đến đó là tột cùng rồi. Nhưng với trí tuệ, Phật nghĩ vẫn còn, chỉ vì ông chưa thấy thôi. Phật mới từ giã ông, Ngài về khổ hạnh lâm tu, tìm con đường mới. Từ điểm này, người ta coi đạo Phật xuất phát từ Bà-la-môn, nhưng Bà-la-môn chỉ biết đến Tứ thiền Bát định thôi, từ ngã rẽ này, họ không thấy biết thế giới cao hơn.

Phật về Khổ hạnh lâm, tìm thế giới tâm linh, quên thế giới vật chất, nghĩa là quên con người tứ đại mình đang sống. Thực tế là người có đời sống tinh thần cao thường quên sự đòi hỏi của thân này, nên họ nhịn ăn một tuần là bình thường, vì họ đang sống trong thế giới tâm tưởng, nhưng khi trở lại thực tế cuộc sống thì phải đáp ứng nhu cầu của thân vật chất.

Phật nhập Tứ thiền Bát định, sống trong thiền định, sống với trạng thái tâm thức, không sống với vật chất bên ngoài. Ngài an trụ thiền định ở Bồ Đề Đạo Tràng, tâm Ngài bừng sáng, đạt đến tột đỉnh của tuệ giác là Tam minh, Lục thông...
(hết trích)

Như vậy,

Ðấng Cứu thế vô song đã nói:
Bốn cõi vô sắc
biết những điều tổng quát này
Sẽ không phải là vô ích.

Vì các thiền vô sắc
Kể về sự vượt qua đối tượng
thì gồm có bốn thứ
Bậc trí không nhận sự vượt qua các thiền chi.(TTĐL)

Muốn đến Vô Vi Niết Bàn. Cần đạt cấp Tam Muội thấp nhất của Đạo Phật. Hành giả cần theo bước chân Đức Phật mà vào cảnh giới Nội Thiền.
 

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113

Bài 52.- Diệt Tận Định- Diệt Thọ Tưởng Định.

K.NB ph27

"xuất phi tưởng xứ định nhập diệt tận định"

Diệt Tận Định—Định Tam muội, làm cho tâm và tâm sở của Lục Thức dập tắt hoàn toàn những cảm thọ và suy tưởng. Đây là một trong những phương thức thiền cao nhất dẫn tới định tâm (tâm ý không nhiễm không nương vào một cảnh nào, không tương ứng với một pháp nào. Đây là phép định của bậc Thánh. Khi vào phép nầy thì tâm trí vượt tới cõi vô sắc giới, truớc khi đi vào cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Định, rồi đắc quả Phật và nhập Niết Bàn.- Từ Điển Phật học)

LUẬN:


....... Hỏi: Thế nào gọi là Vô tưởng ?

....... Đáp: Phải hiểu nghĩa Vô tưởng theo 3 trường hợp:

  • Vô tưởng Định.
  • Diệt Thọ tưởng Định.
  • Vô Tưởng Thiên.

....... Phàm phu Ngoại đạo muốn diệt sự sanh khởi của Tâm nên vào Vô tưởng Định.

....... Các đệ tử Phật muốn diệt tâm vô tưởng sanh khởi, nên vào Diệt Thọ tưởng Định. Còn chư Thiên thì vào Vô tưởng Thiên.(ĐT ĐL)

Theo HT Th Chơn Thiện:

Diệt Thọ Tưởng Ðịnh:

Gọi định này là định Diệt thọ tưởng, do vì khi chứng nhập định này hơi thở dứt (thân hành diệt), tầm tứ dứt (khẩu hành diệt) và đặc biệt là thọ, tưởng dứt (tâm hành diệt). (Theo "Hữu Minh Tiểu Kinh", Trung Bộ I, tr .302, bản dịch của HT. Minh Châu, 1973).

Ở đây thọ uẩn và tưởng uẩn diệt nên thật khó để đề cập đến định này. Vì vậy, chỉ có thể trình bày một ít nét đại cương. Khi vào Diệt thọ tưởng định thì khẩu hành, thân hành và ý hành diệt theo thứ tự đó. Hành giả không hề nghĩ rằng: "Tôi đang chứng Diệt thọ tưởng định", do vì vị ấy trước đó tu tập như vậy nên dẫn đến kết quả như vậy (Ibid., tr.302).

Khi ra khỏi Diệt thọ tưởng định, hành giả không có nghĩ rằng: "Tôi sẽ ra khỏi Diệt thọ tưởng định", hoặc "Tôi đã ra khỏi Diệt thọ tưởng định". Nhưng, khi ra khỏi định này thì tâm hành, thân hành và khẩu hành lại theo thứ tự này khởi lên trở lại. (Ibid., tr.302).

Ðặc biệt khi ra khỏi Diệt thọ tưởng định thì hành giả cảm nhận ba loại xúc: Không xúc (cảm xúc vô ngã), Vô tướng xúc (vô thường), và Vô nguyện xúc (không đưa đến khổ, hành giả nhận rõ Niết-bàn không có tham, sân, si) và có khuynh hướng độc cư ( Ibid., tr. 302).

Chính tại định Diệt thọ tưởng, một khi hành giả đã chứng nhuần nhuyễn định này thì tất cả lậu hoặc tiêu. Chánh trí phát khởi và chứng đắc vô lậu Niết-bàn.

Qua phần trình bày lộ trình tu chứng của Thế Tôn trải qua chín cảnh giới định, và qua các định mà Thế Tôn dạy cho các đệ tử về sau, chúng ta nhận ra một điểm nhất quán rằng: từ cảnh giới định này bước vào một cảnh giới định cao hơn, hành giả cần khởi tâm từ bỏ. Tâm từ bỏ có thể do hai động cơ: hoặc khởi tâm mong muốn đi vào sâu trong cảnh giới định mà từ bỏ giới định đang trú, hoặc thấy tướng vô thường và khổ đau của định đang trú mà khởi tâm nhàm chán từ bỏ ra đi. Ra đi là đi vào định cao hơn. Năng lực giác tỉnh mạnh mẽ nhất và có tính "Phật giáo" nhất là luôn nhận thức rõ khổ đau của cảnh giới đang là, như chính chúng ta đang nhận rõ khổ đau của kiếp người, để phát khởi tinh tấn lực và tăng cường niệm giác tỉnh đi vào giải thoát. Nhận thức này rất phù hợp với điều mà Thế Tôn thường nhấn mạnh: "Ta chỉ dạy rõ khổ đau và con đường đoạn tận khổ đau".
( HT. Thích Chơn Thiện.)

Phần Thảo Luận:
Con Đường Phật Tâm Tông Phần 3 - Page 2 La_hze10

Hành giả khi đắc Định này là đắc Quả Vô Vi A la Hán. Được Niết Bàn Hữu Dư Y.
 

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 52.- Diệt Tận Định- Diệt Thọ Tưởng Định.
K.NB ph27
"xuất phi tưởng xứ định nhập diệt tận định"

Diệt Tận Định.- Định Tam muội, làm cho tâm và tâm sở của Lục Thức dập tắt hoàn toàn những cảm thọ và suy tưởng. Đây là một trong những phương thức thiền cao nhất dẫn tới định tâm (tâm ý không nhiễm không nương vào một cảnh nào, không tương ứng với một pháp nào. Đây là phép định của bậc Thánh. Khi vào phép nầy thì tâm trí vượt tới cõi vô sắc giới, truớc khi đi vào cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Định, rồi đắc quả Phật và nhập Niết Bàn.- Từ Điển Phật học)
LUẬN:
....... Hỏi: Thế nào gọi là Vô tưởng ?
....... Đáp: Phải hiểu nghĩa Vô tưởng theo 3 trường hợp:

  • Vô tưởng Định.
  • Diệt Thọ tưởng Định.
  • Vô Tưởng Thiên.
....... Phàm phu Ngoại đạo muốn diệt sự sanh khởi của Tâm nên vào Vô tưởng Định.
....... Các đệ tử Phật muốn diệt tâm vô tưởng sanh khởi, nên vào Diệt Thọ tưởng Định. Còn chư Thiên thì vào Vô tưởng Thiên.(ĐT ĐL)
Theo HT Th Chơn Thiện:
Diệt Thọ Tưởng Ðịnh:
Gọi định này là định Diệt thọ tưởng, do vì khi chứng nhập định này hơi thở dứt (thân hành diệt), tầm tứ dứt (khẩu hành diệt) và đặc biệt là thọ, tưởng dứt (tâm hành diệt). (Theo "Hữu Minh Tiểu Kinh", Trung Bộ I, tr .302, bản dịch của HT. Minh Châu, 1973).
Ở đây thọ uẩn và tưởng uẩn diệt nên thật khó để đề cập đến định này. Vì vậy, chỉ có thể trình bày một ít nét đại cương. Khi vào Diệt thọ tưởng định thì khẩu hành, thân hành và ý hành diệt theo thứ tự đó. Hành giả không hề nghĩ rằng: "Tôi đang chứng Diệt thọ tưởng định", do vì vị ấy trước đó tu tập như vậy nên dẫn đến kết quả như vậy (Ibid., tr.302).
Khi ra khỏi Diệt thọ tưởng định, hành giả không có nghĩ rằng: "Tôi sẽ ra khỏi Diệt thọ tưởng định", hoặc "Tôi đã ra khỏi Diệt thọ tưởng định". Nhưng, khi ra khỏi định này thì tâm hành, thân hành và khẩu hành lại theo thứ tự này khởi lên trở lại. (Ibid., tr.302).
Ðặc biệt khi ra khỏi Diệt thọ tưởng định thì hành giả cảm nhận ba loại xúc: Không xúc (cảm xúc vô ngã), Vô tướng xúc (vô thường), và Vô nguyện xúc (không đưa đến khổ, hành giả nhận rõ Niết-bàn không có tham, sân, si) và có khuynh hướng độc cư ( Ibid., tr. 302).
Chính tại định Diệt thọ tưởng, một khi hành giả đã chứng nhuần nhuyễn định này thì tất cả lậu hoặc tiêu. Chánh trí phát khởi và chứng đắc vô lậu Niết-bàn.
Qua phần trình bày lộ trình tu chứng của Thế Tôn trải qua chín cảnh giới định, và qua các định mà Thế Tôn dạy cho các đệ tử về sau, chúng ta nhận ra một điểm nhất quán rằng: từ cảnh giới định này bước vào một cảnh giới định cao hơn, hành giả cần khởi tâm từ bỏ. Tâm từ bỏ có thể do hai động cơ: hoặc khởi tâm mong muốn đi vào sâu trong cảnh giới định mà từ bỏ giới định đang trú, hoặc thấy tướng vô thường và khổ đau của định đang trú mà khởi tâm nhàm chán từ bỏ ra đi. Ra đi là đi vào định cao hơn. Năng lực giác tỉnh mạnh mẽ nhất và có tính "Phật giáo" nhất là luôn nhận thức rõ khổ đau của cảnh giới đang là, như chính chúng ta đang nhận rõ khổ đau của kiếp người, để phát khởi tinh tấn lực và tăng cường niệm giác tỉnh đi vào giải thoát. Nhận thức này rất phù hợp với điều mà Thế Tôn thường nhấn mạnh: "Ta chỉ dạy rõ khổ đau và con đường đoạn tận khổ đau".
( HT. Thích Chơn Thiện.)
Phần Thảo Luận:
Con Đường Phật Tâm Tông Phần 3 - Page 2 La_hze10
Hành giả khi đắc Định này là đắc Quả Vô Vi A la Hán. - "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; không còn trở lui trạng thái này nữa".- Được Niết Bàn Hữu Dư Y.
 

vienquang2

Administrator
Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,095
Điểm tương tác
1,038
Điểm
113
Bài 53.- Các Tầng Niết Bàn.

Kinh Niết Bàn dạy: “Các phiền não diệt gọi là Niết Bàn, xa lìa các pháp hữu vi cũng gọi là Niết Bàn”.

+ Niết (Nir) là ra khỏi; Bàn (vana) là rừng mê, Niết Bàn là khỏi rừng mê.

+ Niết là chẳng; Bàn là dệt. Còn phiền não thì còn dệt ra sanh tử, không phiền não thì không còn dệt ra sanh tử. Vậy Niết Bàn là không dệt ra sanh tử luân hồi.

+ Chữ Bàn cũng có nghĩa là không ngăn ngại. Niết Bàn còn có nhiêu fnghĩa khác nữa, song tóm lại không ngoài ba nghĩa: Bất sanh, giải thoát, tịch diệt.
(Lượt)....v.v...

theo HT. Th Thanh Từ:

1. Hữu dư y Niết Bàn: (Niết Bàn chưa hoàn toàn). Từ quả vị thứ nhất Tu đà hoàn đến quả vị thứ ba A na hàm, tuy đã đoạn trừ tập nhân phiền não, những chưa tuyệt diệu, tuy đã vắng lặng an vui, nhưng chưa viên mãn, tuy an vui chưa hoàn toán, vì phiền não và báo thân phiền não còn sót lại, nên gọi là nó hữu dư y. Vì phiền não còn sót lại nên phải chịu quả báo sanh tử trong năm bảy đời; song ngã chấp đã phục, nên ở trong sanh tử mà vẫn được tự tại, chứ không bị ràng buộc như chúng sinh.

2. Vô dư y Niết Bàn: (Niết Bàn hoàn toàn). Ðến quả vị A La Hán, đã đoạn hết phiền não, diệt hết câu sanh ngã chấp, nên hoàn toàn giải thoát cả khổ nhân lẫn khổ quả. Sự sanh tử không còn buộc ràng vị nầy được nữa, nên gọi là Niết Bàn vô dư y. Ðây là quả vị cao tột của hàng Thanh văn. Ðến đây ngọn lửa dục vọng đã hoàn toàn tắt hết, và trí vô ngại hiện ra một cách đầy đủ, không khi nào còn trở lại tâm khởi chấp ngã nữa. Vì thế, nên được tự tại giải thoát ngoài vòng ba cõi: Dục, Sắc, và Vô sắc giới.
(hết trích)
* Theo PG.- Các Pháp Vô Vi chính là Niết Bàn. Lượt có 6 Vô Vi Pháp:

Vô Vi Pháp là pháp xa lìa nhân duyên tạo tác hay không còn chịu ảnh hưởng của nhân duyên. Vô Vi Pháp là pháp thường hằng, không thay đổi, vượt thời gian và siêu việt. Trong Phật giáo, Niết Bàn và 6 pháp vô vi được xem như là Vô Vi Pháp. có:

1. Hư không vô vi
2. Trạch diệt vô vi
3. Phi trạch diệt vô vi
4. Bất động vô vi
5. Tưởng thọ diệt vô vi
6. Chân như vô vi .

* Ngoài ra. kinh còn chia Niết Bàn và Đại Niết Bàn:
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Top