Hầu hết mọi tôn giáo đều được thiết lập trên đức tin - đúng hơn, lòng tin có vẻ mù quáng - Nhưng đạo Phật nhấn mạnh trên sự "Thấy biết", hiểu rõ, lãnh hội, chứ không phải trên lòng tin. Trong các bản kinh văn Phật giáo có danh từ Saddhà (Skt. Sraddhà) thường được dịch là đức tin, lòng tin tưởng. Nhưng saddhà không phải là "đức tin" theo nghĩa thông thường, mà đúng hơn đấy là "tín", phát sinh do sự quyết đoán. Trong đạo Phật bình dân và cả trong cách dùng thông dụng nơi các bản kinh, ta phải công nhận danh từ "saddhà" có một phần ý nghĩa "đức tin" khi nó được giảng là sự nương theo Phật, Pháp (Dhamma) và Tăng (Sangha, đoàn thể tăng già).
Theo Vô Trước (Asanga), triết gia vĩ đại về Phật học vào thế kỷ thứ IV, "tín" có ba phương diện:
Sự tin tưởng chắc chắn và toàn vẹn về một điều gì.
Niềm vui thanh thoát trước những đức tính và
Sự ước vọng hay mong muốn hoàn thành một mục đích theo đuổi (18)
Dù hiểu thế nào đi nữa, đức tin hiểu theo nghĩa trong phần đông các tôn giáo có rất ít liên quan với đạo Phật.(19)
Vấn đề đức tin phát sinh khi không có sự thấy rõ - thấy với mọi ý nghĩa của danh từ. Khi ta thấy rõ, vấn đề đức tin biến mất. Nếu tôi bảo bạn: tôi có một hòn ngọc dấu trong nắm tay, vấn đề tin tưởng phát sinh, vì chính bạn không thấy được viên ngọc. Nhưng nếu tôi mở nắm tay và chỉ cho bạn viên ngọc thì lúc ấy chính bạn thấy nó, và vấn đề tin tưởng không đặt ra nữa. Bởi thế trong các bản kinh Phật ngày xưa có câu: "Nhận biết như người ta thấy một viên ngọc trong lòng tay".
Một môn đệ của Phật tên Musìla bảo một thầy tu khác: "Này bạn Savittha, không cần đức tin (20), lòng tin tưởng sùng bái, không cần ưa thích hay thiên vị, không cần nghe lời đồn đãi hay truyền thuyết, không cần xét đoán những lý lẽ bề ngoài, không cần lạc thú trong sự tư duy về các quan niệm, tôi biết và thấy rằng sự chấm dứt của sanh tử là Niết Bàn." (21)
Và Đức Phật đã dạy: "Hỡi các Thầy Tỳ kheo, ta nói rằng sự diệt trừ những điều xấu xa, bất tịnh là cốt để cho một người đã thấy và biết chứ không phải để cho một người không thấy và không biết." (22)
Vấn đề luôn luôn là biết và thấy chứ không phải là tin. Giáo lý của Đức Phật được gọi là ehi-passika, mời bạn "đến để thấy", chứ không phải đến để tin.
Trong các bản kinh văn, những từ ngữ luôn luôn được dùng để chỉ những người đã chứng ngộ Chân lý là: "Pháp nhãn (con mắt pháp - dhamma - cakkhu), không bụi bặm và không cấu bẩn, đã phát sinh: Người nào đã thấy chân lý, đã nhập vào chân lý, đã vượt qua hoài nghi, người ấy không còn do dự. Với trí huệ chân chính người ấy thấy sự vật đúng như sự vật (yathà bhùtam)." (23). Nói đến sự giác ngộ của chính Ngài, Đức Phật dạy: "con mắt đã phát sinh, trí thức đã phát sinh, kiến giải đã phát sinh, ánh sáng đã phát sinh" (24). Luôn luôn đấy là sự thấy biết qua trí hay huệ (nàna-dassana), chứ không phải sự tin tưởng qua đức tin.
Điểm này càng ngày càng được tán dương vào thời mà giáo lý chính thống Bà La Môn bắt buộc phải tin tưởng và đương nhiên chấp nhận truyền thống và thẩm quyền của họ như Chân lý độc nhất. Một ngày kia, một nhóm Bà La Môn học thức lỗi lạc đến viếng Đức Phật và tranh luận rất lâu với Ngài. Một người trong bọn, một thiếu niên Bà La Môn mười sáu tuổi tên là Kàpathika, được cả bọn xem là thông minh xuất chúng, đã hỏi Đức Phật (25):
-- "Thưa Đức Cồ-Đàm, có những bài thánh kinh xưa cũ của những người Bà La Môn được truyền tục liên tục qua những bản kinh khẩu truyền. Về những bài kinh ấy, những người Bà La Môn đã có kết luận tuyệt đối này: "Chỉ có đây mới là Chân lý, và mọi điều khác đều là sai lầm." Vậy Đức Cồ-Đàm sẽ nói gì về điều ấy?"
Đức Phật hỏi: "Trong những người Bà La Môn, có một người Bà La Môn nào tuyên bố tự mình biết và thấy rằng "chỉ có đây là mới chân lý, mọi điều khác đều là sai lầm" chăng?"
Người thiếu niên thật thà đáp: "Không"
-- Thế thì, có một vỴ thầy nào, hay một vị thầy của những vị thầy nào trong những người Bà La Môn mãi đến thời đại thứ bảy, hay cả đến bất cứ một người nào trong số những tác giả đầu tiên của những kinh điển ấy, đã tuyên bố rằng ông ta biết và thấy: "chỉ có đây mới là chân lý, mọi sự khác đều sai lầm?"
-- Không.
-- Vậy thì họ giống như một chuỗi những người mù nối đuôi nhau, người đầu tiên không thấy, người giữa cũng không thấy, và người cuối cùng cũng không thấy. Như thế thì dường như trạng huống của những người Bà La Môn giống như trạng huống của một chuỗi người mù."
Rồi Đức Phật cho nhóm người Bà La Môn một lời khuyên vô cùng quan trọng: "Một người trí giữ gìn chân lý không nên đi đến kết luận: Chỉ có đây mới là sự thật, và mọi điều khác đều sai lầm"
Khi người thiếu niên Bà La Môn yêu cầu Ngài giải thích ý nghĩa thế nào "giữ gìn chân lý", Đức Phật dạy:
"Một người có một lòng tin. Nếu y nói: "Đây là lòng tin của tôi" như thế là y đã gìn chừng ấy sự thật. Nhưng bởi thế y không thể tiến lên đến kết luận tuyệt đối: " Chỉ có đây mới là chân lý và mọi sự khác đều sai lầm". Nói cách khác một người có thể tin điều gì tùy ý, và có thể nói "tôi tin điều này". Như thế là y tôn trọng sự thật. Nhưng y không nên vì lòng tin ấy mà nói rằng chỉ có cái gì y tin mới là chân lý, và mọi sự khác đều sai."
Đức Phật dạy: "Chấp trước vào một điều gì (một quan điểm nào) và khinh miệt những điều khác (quan điểm khác) xem là thua kém - đấy người trí giả gọi là một xiềng xích. (26)
Một hôm Đức Phật giảng dạy (27) cho môn đệ lý thuyết về nhân quả, và họ thưa rằng đã thấy và hiểu rõ điều ấy. Đức Phật liền dạy:
"Hỡi các Tỳ kheo, ngay cả quan niệm ấy, minh bạch và rõ ràng như thế, nhưng nếu các ông bám chặt vào đó, nếu các ông quý chuộng nó, nếu các ông cất giữ nó, nếu các ông ràng buộc vào với nó, thì vậy là các ông đã không hiểu rằng giáo lý chỉ như một chiếc bè, cốt dùng để qua sông chứ không phải để mà ôm giữ lấy'. (28)
Ở một chỗ khác, Đức Phật giảng lời dụ danh tiếng này trong ấy giáo lý được ví như một chiếc bè dùng để qua sông, chứ không phải để nắm giữ và mang trên lưng.
"Hỡi các Tỳ kheo, một người đi du lịch, đến một khoảng sông rộng. Bờ bên này rất nguy hiểm, nhưng bờ bên kia thì an ổn và không có nguy nan. Không có một con thuyền nào để qua bên kia bờ sông, cũng không có một chiếc cầu nào để đi qua. Người ấy tự nhủ: "bể nước này thì rộng, và bờ bên này đầy cả hiểm nguy, nhưng bờ bên kia thì an ổn và không hiểm nguy. Không có con thuyền nào để sang bờ bên kia, cũng không có một chiếc cầu để đi qua. Bởi thế, thật sẽ rất tốt nếu ta lượm cỏ, gỗ, cành cây và lá để làm một chiếc bè, và nhờ chiếc bè đó mà qua bờ bên kia cho an ổn. Dùng tay chân của ta để chống chèo. Rồi người ấy, hỡi các Tỳ kheo, lượm cỏ, gỗ và cây lá làm một chiếc bè, và nhờ chiếc bè ấy đưa sang bờ bên kia một cách an ổn, chống chèo bằng chân tay cuả y. Sau khi đã vượt qua sông và đến bờ bên kia, y nghĩ: "Chiếc bè này thật đã giúp ích cho ta rất nhiều. Nhờ nó ta đã vượt qua an ổn đến bờ sông bên này, chống chèo bằng tay chân ta. Thật đáng nên mang chiếc bè này trên đầu hay trên lưng ta bất kỳ đi đâu."
"Các ông nghĩ thế nào, hỡi các thầy Tỳ Kheo? Nếu người ấy làm như thế thì hành động của y có phải là một hành động thích đáng đối với chiếc bè hay không?
--"Bạch Thế Tôn, không phải".
--"Vậy thì y sẽ nên làm thế nào với chiếc bè? Sau khi đã vượt qua sông và đến bờ bên kia, giả sử người ấy suy nghĩ: "Chiếc bè này thật đã có công dụng rất lớn với ta. Nhờ nó ta đã sang đến bờ sông bên này một cách an ổn, chống chèo bằng tay chân của ta. Ta nên để chiếc bè này trên nước, rồi tiếp tục đi, bất kỳ đi đâu." Làm như thế là người ấy hành động một cách thích đáng đối với chiếc bè.
"Cũng thế, hỡi các Tỳ Kheo, ta đã truyền dạy một giáo lý tương tự như một chiếc bè, nó cốt dùng để vượt qua, chứ không phải để mang theo (ôm giữ lấy). Hỡi các Tỳ Kheo, đã hiểu rằng giáo lý chỉ như một chiếc bè, các ông cần phải lìa bỏ ngay cả những thiện pháp (dhamma), huống nữa là các phi pháp (adhamma) (29), các ông lại càng nên xả bỏ biết chừng nào."
Từ lời dụ này ta thấy rõ rằng giáo lý của Đức Phật là cốt để đưa con người đến an ổn, thanh tịnh, hạnh phúc, đạt đến Niết bàn (Nirvàna). Toàn bộ lý thuyết Đức Phật dạy đều dẫn đến cứu cánh này. Ngài không nói ra những điều chỉ để mà thỏa mãn tò mò của trí thức. Ngài là một vị Thầy thực tiễn chỉ dạy những điều sẽ đem lại hạnh phúc an vui cho con người.
Một lần Đức Phật ở lại trong một rừng Simsapa ở thành Kosambi (gần Allanhabad). Ngài cầm một nắm lá, và hỏi các môn đệ: "Hỡi các thầy Tỳ Kheo, các thầy nghĩ thế nào? Lá trong tay ta nhiều hơn hay lá trong rừng nhiều hơn?"
-- Bạch Đức Thế Tôn, lá trong tay của đấng Giác ngộ rất ít, nhưng lá trong rừng Simsapa đây quả thật nhiều hơn muôn vàn."
-- Cũng thế, hỡi các Tỳ Kheo, ta chỉ dạy các ông rất ít từ những gì ta đã kiến giải được. Những gì ta không nói với các ông thật nhiều hơn muôn vàn. Và tại sao Như Lai đã không giảng dạy những điều ấy? Bởi vì nó không ích lợi - không đưa đến Niết Bàn. Chính vì thế mà ta đã không nói những điều ấy".(30)
Thật là vô ích cho ta khi cố suy tưởng - như vài học giả đã cố làm một cách vô vọng - về những gì Đức Phật biết nhưng không nói cho môn đệ Ngài.
Đức Phật không muốn bàn đến những vấn đề siêu hình không cần thiết, hoàn toàn thuộc địa hạt tư duy và phát sinh những chuyện tưởng tượng. Ngài xem chúng như một "rừng quan niệm". Dường như chính trong số những môn đệ của Phật cũng có những người không thích thái độ này của Ngài. Trường hợp một người trong số ấy là Man-đồng-tử (Màlunìkyaputta) đã thưa hỏi mười câu hỏi cổ điển danh tiếng về những vấn đề siêu hình và xin Đức Phật trả lời. (31)
Một ngày kia Màlunikyaputta, sau khi xuất thiền vào buổi xế trưa, đi đến Đức Phật đảnh lễ, ngồi xuống một bên và hỏi:
-- "Bạch Đức Thế Tôn, khi con đang ngồi thiền định một mình, ý tưởng này đã đến với con: "Có những vấn đề mà Đức Thế Tôn đã không giải thích, để sang bên và loại bỏ. Đấy là:
vũ trụ trường tồn hay không trường tồn,
vũ trụ hữu hạn hay vô hạn,
linh hồn là một với thể xác hay
linh hồn là một vật và thể xác là một vật khác,
Đức Như Lai có còn tồn tại sau khi chết hay
Ngài không tồn tại sau khi chết,
Ngài vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi chết hay
Ngài vừa không tồn tại và cũng vừa không không-tồn tại.
Những vấn đề này Đức Thế Tôn đã không giải thích cho ta. Thái độ này không làm cho ta thỏa mãn. Ta không ưa thích thái độ ấy. Ta sẽ đi đến Đức Thế Tôn và thưa hỏi Ngài về việc này. Nếu Đức Thế Tôn không giải thích cho chúng ta, ta sẽ từ bỏ đoàn thể tăng chúng và ra đi. Nếu Đức Thế Tôn biết được vũ trụ là trường cửu, Ngài hãy nói thế. Nếu Đức Thế Tôn không biết vũ trụ là trường cửu hay không,v.v.. thì một người không biết hãy nên nói thẳng ra là "Ta không biết, ta không thấy rõ".
Sự trả lời của Đức Phật cho Màlunikyaputta quả đáng lợi ích cho hàng triệu người trên thế giới hiện nay đang phung phí thì giờ quý báu vào những vấn đề siêu hình và làm bận trí mình một cách không cần thiết:
-- "Này Màlunikyaputta, ta có bao giờ nói với ông: Hãy lại đây, Màlunikyaputta, sống đời thánh thiện dưới bóng ta, ta sẽ giải thích những vấn đề ấy cho ông hay không?",
-- Bạch Thế Tôn, không.
-- Còn ông, này Màlunikyaputta, ông có nói với ta: Bạch Thế Tôn, con sẽ sống đời thánh thiện dưới bóng Ngài và Ngài sẽ giảng giải những vấn đề ấy cho con không?
-- Bạch Thế Tôn, không.
-- Ngay bây giờ, Màlunikyaputta, ta không nói với ông: "Hãy đến sống đời thánh thiện dưới bóng ta, ta sẽ giải thích những vấn đề ấy cho ông". Và ông cũng không nói với ta: "Bạch Thế Tôn, con sẽ sống đời thánh thiện dưới bóng Đức Thế Tôn và Ngài sẽ giải những vấn đề ấy cho con. Trong những trường hợp ấy, hỡi người điên rồ kia, ai chối từ ai?" (có nghĩa không có gì ràng buộc giữa hai bên).
"Hỡi Màlunikyaputta, nếu một người nào nói: "Tôi sẽ không sống đời thánh thiện dưới bóng Đức Thế Tôn nếu Ngài không giải thích cho tôi những vấn đề ấy" thì y có thể chết trước khi những câu hỏi được Như Lai giải đáp. Giả sử, hỡi Màlunikyaputta, một người bị trúng mũi tên độc và bạn bè bà con y đưa y đến một y sĩ. Giả sử khi ấy người kia nói: Ta sẽ không để rút mũi tên này ra nếu ta không biết được ai bắn người ấy là một người Sát-Đế-lị (Ksatriya) hay một người Bà-La-môn (thuộc giai cấp tu sĩ) hay một người cư sĩ (Vaisya, giai cấp thương nông) hay một người Thủ đà-la (Sùdra- thuộc giai cấp hạ tiện), tên người ấy là gì, gia đình ra sao, người ấy cao, thấp hay tầm vóc trung bình, da người ấy đen, nâu hay vàng, người ấy đến từ làng tỉnh hay đô thị nào. Ta sẽ không để rút mũi tên này ra nếu ta không biết được loại cung nào đã bắn ta, dây cung ra sao, loại mũi tên gì, làm bằng lông gì và đầu tên làm bằng chất gì. Hỡi Màlunikyaputta, người ấy sẽ chết trước khi biết được điều nào trong số những câu hỏi ấy. Cũng thế, hỡi Màlunikyaputta, nếu một người nói: "Ta sẽ không theo đời sống thánh thiện dưới bóng Đức Như Lai cho đến khi Ngài giải đáp những câu hỏi như thế giới trường tồn hay không,v.v..", người ấy sẽ chết trước khi được Như Lai giải đáp."
Khi ấy Đức Phật giải thích cho Màlunikyaputta rằng đời sống thánh thiện không phụ thuộc vào những quan niệm ấy. Dù người ta có quan niệm thế nào về những vấn đề ấy đi nữa, thì vẫn có sanh, lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não.. mà sự chấm dứt những điều ấy (nghĩa là Niết Bàn) ta nói là có thể thực hiện ngay trong cuộc sống này.
"Bởi thế, này Màlunikyaputta, hãy ghi nhớ trong tâm trí: những gì ta đã giải thích, thì coi là được giải thích, và những gì ta đã không giảng giải thì xem là đã không được giảng giải. Những gì là điều ta đã không giảng giải? Thế giới trường cửu hay không v.v..(10 quan niệm trên) ta đã không giải thích. Vì sao, hỡi Màlunikyaputta, mà ta đã không giải thích chúng? Bởi vì nó không ích lợi, không quan hệ căn bản đến đời sống thánh thiện tâm linh, không đưa đến sự chán bỏ, sự giải thoát, sự chấm dứt khổ đau, sự an tĩnh, sự thâm nhập, sự liễu ngộ, Niết Bàn. Chính vì thế mà ta đã không nói cho ông về những vấn đề ấy.
"Còn những gì, hỡi Màlunikyaputta, ta đã giải thích? Ta đã giải thích khổ (dukkha), nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ, và con đường đưa đến sự diệt khổ (32). Hỡi Màlunikyaputta, vì sao mà ta đã giải thích chúng? Bởi vì nó ích lợi, nó quan hệ căn bản đến đời sống thánh thiện tâm linh, nó đưa đến sự chán bỏ, sự giải thoát, sự chấm dứt khổ đau, sự an tĩnh, sự thâm nhập, sự liễu ngộ, Niết Bàn. Bởi thế ta đã giải thích chúng" (33)
Bây giờ ta hãy xét đến Tứ Diệu Đế mà Đức Phật bảo Màlunikyaputta rằng Ngài đã giải thích.