- Tham gia
- 2/12/06
- Bài viết
- 5,891
- Điểm tương tác
- 1,535
- Điểm
- 113
ÁNH SÁNG Á CHÂU - THE LIGHT OF ASIA
Tác giả : Sir Edwin Arnold
Việt dịch : Đoàn Trung Còn
______
Tác giả : Sir Edwin Arnold
Việt dịch : Đoàn Trung Còn
______
(Nguyên tác THE LIGHT OF ASIA đã được v/h post ở box Dhamma Doctrines : )
www.hinhdongphatgiao.com
Lời Tựa
1 Đản Sanh và Thời Niên Thiếu (Birth and Youth)
2 Hôn Phối (The Wedding)
3 Ba Tín Hiệu (The Three signs)
4 Từ Bỏ (Renunciation)
5 Tìm Đạo (The search)
6 Giác Ngộ (Enlightenment)
7 Trở Về (The Return)
8 Nhập Niết Bàn (Parinibbana)
_______
Lời tựa.
Quyển Ánh Sáng Á Châu này tức là chuyện kể đời của Phật Thích Ca bằng văn thi, bản chánh soạn bằng Anh ngữ, do công phu của nhà văn hào người Anh tên là Sir Edwin Arnold sáng tác bằng văn vần một cách thanh nhã và đoan trang. Ông Léon Sorg dịch ra Pháp văn nhan đề " La lumière de l'Asie". Nay tôi nương theo quyển Pháp văn mà dịch ra Việt văn, nhan đề "Ánh sáng Á Châu". Mặc dầu dịch ra văn vần thì rất khó khăn và phải phí rất nhiều thời gian, nhưng tôi cũng cố gắng phiên dịch bằng thi thượng lục hạ bát, mong rằng với thể văn ấy, bạn đọc cũng như tôi, chúng ta ắt dễ cảm hóa để hấp thụ Giáo lý thanh cao, Triết học thâm thúy, Siêu hình tinh vi mà các nhà tôn giáo, văn hóa, triết học và khoa học Âu Mỹ đời nay đều công nhận một cách kính phục .
Thật vậy, Đức Phật Thích Ca có sống đời cách nay hai ngàn rưỡi năm. Tuy là hàng Vương giả sang trọng, nhưng ngài hòa mình vào các tầng lớp nhân dân, nhứt là ngài thường đoái tưởng tới hạng bình dân, tới hạng nghèo hèn, chia bát cơm manh áo do họ thân tặng, uống chén nước bát sữa do bàn tay lem luốc của họ kính dâng . Nhân các dịp gần gủi thân mật ấy, Ngài đem lý từ hòa, hỷ xả mà giáo hóa họ, đem lẽ tiến hóa mà cảm thông họ. Nhờ vậy, vào thời buổi ấy, ở Ấn độ, người ta sống một đời sống rất hạnh phúc, kẻ lê thứ thì kính mến nhà trí thức, nhà tôn giáo, nhà cai trị, nhà quân quyền. Còn kẻ bề trên nhờ hấp thụ Phật lý mà đem lòng thương tưởng lê dân, cộng tác với Phật trong việc thanh bình đất nước: người người trở nên hòa lạc, thân ái từ tâm tư đến ngôn ngữ và hành vi vậy.
Chẳng những riêng đối với loài người trong các giai cấp, mà đối với hạng thú cầm sống trong cảnh đọa lạc hoặc trong cảnh kém tiến hóa, đối với các linh hồn bị trừng phạt nơi cảnh thấp vì đã lỡ lạc lầm, cùng đối với các Thần Tiên đương hưởng phước ở cảnh cao nhờ trước đã sống đời một cách phước thiện, Đức Phật cũng hằng tiếp xúc với họ để an ủi họ hoặc để nâng chí họ trên đường tiến tu tiến đức.
Khi xem qua quyển sách nầy, quí bạn sẽ thấy rằng Giáo lý của Phật không phải là mê tín, không phải là dị đoan. Mà là một nền Đạo đầy đủ, đáng tôn, đáng kính, thuần lương, ôn hòa, rất hợp với tư tưởng của đa số các nhà trí thức ngàn đời. Trong đó, có chứa thuyết trung-dung, lẽ luân thường của Khổng Tử, lý vô vi thanh tịnh của Lão Tử, lẽ huyền bí, tín ngưỡng và giải thoát của Gia Tô, lý tu thân chỉnh tâm của các nhà triết học Hy lạp, nhứt là những lẽ cao siêu về sinh vật, về vũ trụ, mà các nhà khoa học gần đây đều công nhận và các nhà khoa học hiện nay đương tìm tòi thêm ra để biện minh cho rành rẽ.
Vả lại, quyển " Ánh Sáng Á Châu " nầy có cái đặc sắc là không thần quyền hóa đức Phật, không đề cao địa vị thánh thần của Ngài, mà đặt Ngài vào vị trí một Người, cùng cảm những mối cảm của nhân gian, nhưng biết kiềm chế các mối cảm ấy để thoát ly khỏi lãnh vực cảm xúc, trìu mến mà trở nên tự tại, giải thoát và giải thoát cho đời.
Như lúc Thái tử sắp bước ra khỏi thâm cung, bấy giờ người vợ hiền đang ngủ yên, thì có mấy câu:
Ngài rằng: "Nệm ấm chăn tơ,
Trượng phu thôi chẳng bao giờ nằm đây! »
Ba lần Ngài cất bước đi,
Ba lần trở lại, ấy vì Da-Du...
Trước khi thót lên ngựa để ra khỏi hoàng thành, trước khi rời kinh đô Ca-tỳ-la-vệ để lên non tu luyện, thì có những câu:
Thương cha, mến vợ rất sâu,
Còn hơn yêu chỗ vui cầu của ta,
Nhưng nay đành phải lìa xa,
Tầm phương cứu vợ, cứu cha, cứu đời.
Và sau khi thành Đạo, sau khi thành Phật đã nhiều năm, bấy giờ Ngài trở về kinh thành Ca-tỳ-la-vệ mà hóa độ thân nhơn, thì có những câu:
Ngài đà nguyện dứt tình nồng,
Không còn đụng chạm thịt hồng nữ nhơn.
Tại sao lúc nọ đứng gần,
Để cho vợ cũ ân cần ôm hôn?
Ngài rằng: Quảng đại tâm hồn
Cũng còn luyến ái như phồn nhỏ nhen.
Mặc dầu cao nhã đáng khen,
Chớ đem Giải thoát làm phiền người ta.
Vậy mong rằng các bạn đem lòng bình thản, lòng an nhiên, lòng thanh tịnh, lòng kính tín mà xem đi xem lại quyển sách này, ắt sẽ được vững tâm trên con đường Đạo lý, sẽ vững chí để lần bước theo gót các trang Hiền Thánh ngàn xưa mà người đời hằng tôn kính vậy.
Sài Gòn, tháng năm dương lịch 1965
Phật tử ĐOÀN TRUNG CÒN