nguyenvanhoc2006

CUỘC ĐỜI ĐỨC PHẬT (phổ thơ)

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
ÁNH SÁNG Á CHÂU - THE LIGHT OF ASIA

Tác giả : Sir Edwin Arnold
Việt dịch : Đoàn Trung Còn

______​

(Nguyên tác THE LIGHT OF ASIA đã được v/h post ở box Dhamma Doctrines : )
www.hinhdongphatgiao.com

Lời Tựa
1 Đản Sanh và Thời Niên Thiếu (Birth and Youth)
2 Hôn Phối (The Wedding)
3 Ba Tín Hiệu (The Three signs)
4 Từ Bỏ (Renunciation)
5 Tìm Đạo (The search)
6 Giác Ngộ (Enlightenment)
7 Trở Về (The Return)
8 Nhập Niết Bàn (Parinibbana)


_______​

Lời tựa.

Quyển Ánh Sáng Á Châu này tức là chuyện kể đời của Phật Thích Ca bằng văn thi, bản chánh soạn bằng Anh ngữ, do công phu của nhà văn hào người Anh tên là Sir Edwin Arnold sáng tác bằng văn vần một cách thanh nhã và đoan trang. Ông Léon Sorg dịch ra Pháp văn nhan đề " La lumière de l'Asie". Nay tôi nương theo quyển Pháp văn mà dịch ra Việt văn, nhan đề "Ánh sáng Á Châu". Mặc dầu dịch ra văn vần thì rất khó khăn và phải phí rất nhiều thời gian, nhưng tôi cũng cố gắng phiên dịch bằng thi thượng lục hạ bát, mong rằng với thể văn ấy, bạn đọc cũng như tôi, chúng ta ắt dễ cảm hóa để hấp thụ Giáo lý thanh cao, Triết học thâm thúy, Siêu hình tinh vi mà các nhà tôn giáo, văn hóa, triết học và khoa học Âu Mỹ đời nay đều công nhận một cách kính phục .

Thật vậy, Đức Phật Thích Ca có sống đời cách nay hai ngàn rưỡi năm. Tuy là hàng Vương giả sang trọng, nhưng ngài hòa mình vào các tầng lớp nhân dân, nhứt là ngài thường đoái tưởng tới hạng bình dân, tới hạng nghèo hèn, chia bát cơm manh áo do họ thân tặng, uống chén nước bát sữa do bàn tay lem luốc của họ kính dâng . Nhân các dịp gần gủi thân mật ấy, Ngài đem lý từ hòa, hỷ xả mà giáo hóa họ, đem lẽ tiến hóa mà cảm thông họ. Nhờ vậy, vào thời buổi ấy, ở Ấn độ, người ta sống một đời sống rất hạnh phúc, kẻ lê thứ thì kính mến nhà trí thức, nhà tôn giáo, nhà cai trị, nhà quân quyền. Còn kẻ bề trên nhờ hấp thụ Phật lý mà đem lòng thương tưởng lê dân, cộng tác với Phật trong việc thanh bình đất nước: người người trở nên hòa lạc, thân ái từ tâm tư đến ngôn ngữ và hành vi vậy.

Chẳng những riêng đối với loài người trong các giai cấp, mà đối với hạng thú cầm sống trong cảnh đọa lạc hoặc trong cảnh kém tiến hóa, đối với các linh hồn bị trừng phạt nơi cảnh thấp vì đã lỡ lạc lầm, cùng đối với các Thần Tiên đương hưởng phước ở cảnh cao nhờ trước đã sống đời một cách phước thiện, Đức Phật cũng hằng tiếp xúc với họ để an ủi họ hoặc để nâng chí họ trên đường tiến tu tiến đức.

Khi xem qua quyển sách nầy, quí bạn sẽ thấy rằng Giáo lý của Phật không phải là mê tín, không phải là dị đoan. Mà là một nền Đạo đầy đủ, đáng tôn, đáng kính, thuần lương, ôn hòa, rất hợp với tư tưởng của đa số các nhà trí thức ngàn đời. Trong đó, có chứa thuyết trung-dung, lẽ luân thường của Khổng Tử, lý vô vi thanh tịnh của Lão Tử, lẽ huyền bí, tín ngưỡng và giải thoát của Gia Tô, lý tu thân chỉnh tâm của các nhà triết học Hy lạp, nhứt là những lẽ cao siêu về sinh vật, về vũ trụ, mà các nhà khoa học gần đây đều công nhận và các nhà khoa học hiện nay đương tìm tòi thêm ra để biện minh cho rành rẽ.

Vả lại, quyển " Ánh Sáng Á Châu " nầy có cái đặc sắc là không thần quyền hóa đức Phật, không đề cao địa vị thánh thần của Ngài, mà đặt Ngài vào vị trí một Người, cùng cảm những mối cảm của nhân gian, nhưng biết kiềm chế các mối cảm ấy để thoát ly khỏi lãnh vực cảm xúc, trìu mến mà trở nên tự tại, giải thoát và giải thoát cho đời.

Như lúc Thái tử sắp bước ra khỏi thâm cung, bấy giờ người vợ hiền đang ngủ yên, thì có mấy câu:
Ngài rằng: "Nệm ấm chăn tơ,
Trượng phu thôi chẳng bao giờ nằm đây! »
Ba lần Ngài cất bước đi,
Ba lần trở lại, ấy vì Da-Du...

Trước khi thót lên ngựa để ra khỏi hoàng thành, trước khi rời kinh đô Ca-tỳ-la-vệ để lên non tu luyện, thì có những câu:
Thương cha, mến vợ rất sâu,
Còn hơn yêu chỗ vui cầu của ta,
Nhưng nay đành phải lìa xa,
Tầm phương cứu vợ, cứu cha, cứu đời.

Và sau khi thành Đạo, sau khi thành Phật đã nhiều năm, bấy giờ Ngài trở về kinh thành Ca-tỳ-la-vệ mà hóa độ thân nhơn, thì có những câu:

Ngài đà nguyện dứt tình nồng,
Không còn đụng chạm thịt hồng nữ nhơn.
Tại sao lúc nọ đứng gần,
Để cho vợ cũ ân cần ôm hôn?
Ngài rằng: Quảng đại tâm hồn
Cũng còn luyến ái như phồn nhỏ nhen.
Mặc dầu cao nhã đáng khen,
Chớ đem Giải thoát làm phiền người ta.

Vậy mong rằng các bạn đem lòng bình thản, lòng an nhiên, lòng thanh tịnh, lòng kính tín mà xem đi xem lại quyển sách này, ắt sẽ được vững tâm trên con đường Đạo lý, sẽ vững chí để lần bước theo gót các trang Hiền Thánh ngàn xưa mà người đời hằng tôn kính vậy.


Sài Gòn, tháng năm dương lịch 1965

Phật tử ĐOÀN TRUNG CÒN
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
Phần thứ nhất
ĐẢN SANH VÀ THỜI NIÊN THIẾU
Birth and Youth

______​

Trên Trời giữa Hội quần Tiên,
Thế-Tôn quyết định giáng miền trần gian.
Bấy giờ điềm lạ ứng ban,
Thần-Tiên khắp chốn hân hoan bảo lần:
"Phật Ngài sắp xuống cõi trần,
Ấy là kỳ chót mang thân độ đời."
Thế-Tôn truyền dạy mấy lời :
"Rằng ta giáng thế một đời nữa thôi,
Tử Sanh ta sắp khỏi rồi,
Và chư đệ tử những người theo ta.
Rồi ta chọn họ Thích Ca,
Vua hiền dân thiện gần tòa Tuyết san [1]."
***
Đêm kia, hoàng hậu nghỉ an,
Gần vua Tịnh Phạn [2], bên màn thấy qua:
Một ngôi sao đẹp túa ra,
Trên trời sa xuống sáng lòa hào-quang,
Bên trên, bạch tượng rõ ràng,
Sáu ngà oanh liệt, đoan trang thay là.
Lướt mây xuống tới cung bà,
Do hông bên mặt Ma-Da [3] mà vào.
Hoàng phi tỉnh giấc mộng đào,
Thấy lòng khoan khoái biết bao mà lường!
Bấy giờ cõi thế mười phương,
Hào quang êm dịu mịn màng chiếu ngay;
Núi non hùng vĩ lung lay,
Bông hoa đua nở như ngày ban trưa.
Tấm lòng hoàng hậu thích ưa,
Chiếu đi Địa ngục, độ vừa Âm ty.
Khắp trong các cảnh mê si,
Nghe ra có tiếng tiên tri như vầy:
"Rằng nay kẻ chết tỉnh ngay,
Chúng sanh mờ mịt được ngày tấn tinh;
Đua nhau lướt tới nẻo lành,
Vì chưng Đức Phật giáng sanh giữa trần!"
Khắp trong các giới Tiên Thần,
Đâu đâu đều cũng được phần an vui;
Thế gian muôn vật tỉnh tươi,
Một luồng gió thiện lại bồi thổi qua.
Sáng ngày tin ấy truyền ra,
Mấy ông Đạo sĩ bàn xa mấy lời:
"Mộng điềm Hoàng hậu tuyệt vời,
Thánh nhơn Thái tử đầu thai vào nhà.
Một trang lỗi lạc tài ba,
Giúp trong muôn vật, độ qua muôn loài.
Nếu Ngài chẳng thuận ở ngai [4] ,
Thì đi cứu thế, khiến đời dứt mê."

***
Đức Bà ngày tháng gần kề,
Một hôm dạo cảnh vườn huê giải sầu.
Dưới cây đứng tựa hồi lâu,
Lá tươi sáng rỡ, hoa mầu thơm tho.
Cây linh quật nhánh che cho,
Đất linh nảy nở hoa to hầu bà.
Đá kia cũng cảm sâu xa,
Tuôn ra suối nước cho bà tắm chơi.
Bấy giờ Hoàng tử ra đời,
Băm hai (32) tướng tốt chói ngời trong thân.
Tin nầy thấu đến trào thần,
Kiệu hoa đem tới ân cần một khi.
Thiên Vương hiện xuống bốn vì,
Ghé lưng vào kiệu khiêng đi như thường.
Tiên Thần ở khắp các phương,
Cũng đều hiện đến trên đường rất đông;
Cõi Trời ai cũng vui lòng,
Vì nơi Dương thế được hồng phước ban;
Ấy là đức Phật giáng phàm,
Trở về cõi thế cứu an vật người.

***
Đức vua Tịnh Phạn chẳng nguôi,
Dữ lành chẳng rõ, hên xui chẳng tường.
Mấy thầy tường số khuyên thường,
Hoàng nam mạng lớn Đại Vương [5] đó mà,
Cả ngàn năm mới hiện ra,
Có theo bửu vật thảy là bảy phương [6];
Lễ mừng sắp đặt tinh tường,
Trên đường quét sạch, mùi hương rưới cùng.
Đèn treo, cờ phất, trống thùng,
Chúng dân ăn lễ thảy đồng vui thay!
Múa men, đánh võ, hát hay,
Địch đờn, đu lộn, chạy bay đủ điều.
Những nhà thương khách dập dìu,
Lễ mừng đem nạp rất nhiều món xinh:
Ngọc, ngà chói nước sáng anh,
Dầu thơm, khăn khiếu tốt lành mịn trơn.
Lại thêm vua chúa nước gần,
Tặng mừng trân báu thập phần tinh vi.
Tướng xinh Hoàng tử chúng vì,
Đặt tên Tất-Đạt [7] nhờ uy phát cùng.

 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
***
Khách xa bỗng thấy một ông,
Tư-Đà đạo sĩ [8] có công tu trì,
Việc đời thị thị phi phi,
Ngoài tai dẹp để chẳng ghi vào lòng.
Nhơn khi nhập định cội tòng,
Nghe thần mách bảo Thế hùng giáng lâm.
Ông người tu đắc Phép thâm,
Lâu năm tập luyện, giữ tâm tịnh thành.
Ông vào, vua rất hoan nghinh,
Và bà Hoàng hậu đem trình Hoàng lang.
Tiên nhơn làm lễ vội vàng,
Giập đầu xuống đất, niệm vang mấy lời:
" Bạch Ngài, tôi kính thờ Ngài,
Từ bi Phật Tổ chẳng sai đâu mà:
Hào quang vàng hực chói xa,
Bàn chơn, trước ngực hiện ra dấu lành [9].
Ba mươi hai tướng tinh anh,
Tám mươi tướng nhỏ khuôn linh tô bồi,
Hẳn ngài Phật Tổ đó rồi,
Từ bi thuyết pháp lần hồi độ sinh.
Tôi đây chẳng thọ Pháp linh,
Vì tôi già cả lanh quanh gần tàn.
Nhưng nay tôi được vui an,
Vì tôi trông rõ dung nhan đức Thầy."
Trước vua, Ông Đạo tâu ngay :
" Hoa nầy thật hiếm nở rày trần dương ;
Cả muôn năm mới hiện tường,
Mùi thơm Trí huệ bốn phương bay cùng.
Ngọt ngào như mật ổ ong,
Là lòng bác ái phổ trong muôn loài.
Hoàng gia hạnh phúc trên đời,
Được Hoa sen lạ cõi Trời nở ra.
Nhưng rồi vua phải lụy sa,
Vì chưng Hoàng tử xuất gia tu hành.
Lệnh bà Hoàng hậu hiền lành,
Trổ sanh đức Phật, ắt dành phước sâu.
Cho nên dứt sự khổ đau,
Trở về Tiên cảnh cách sau bảy ngày."

***
Khen tài ông Đạo đoán hay,
Ma-Da hoàng hậu đúng ngày qui Tiên,
Sanh lên Đao Lợi [10] là miền,
Thiên thần tôn-trọng, tiếp liên hầu bà.
Còn phần Thái tử Đạt-Đa,
Ba-Xà hoàng hậu [11] rước mà dưỡng nuôi.
Môi nhà phổ khuyến ngọt bùi,
Đã từng nhờ vú của người mà nên.

***
Đạt-Đa tám tuổi lớn lên,
Vua cha định chọn thầy riêng dạy Chàng,
Đặng sau nối giữ ngôi vàng,
Sợ e thành Phật nhiều đàng khổ ghê [12].
Triệu chư quan chức tựu tề,
Hỏi: “Ai thông thái giỏi bề văn chương?“.
Các quan đồng ứng tỏ tường:
Ngài Tỳ-Xa-Mật hẳn trang hiền tài,
Dẫu kinh kệ, dẫu sách ngoài,
Việc văn việc võ, cả hai đều đồng.
Vua bèn triệu đến đền rồng,
Phong cho chức trọng khai thông con mình.
Một hôm vừa đến ngày lành,
Thích Ca Hoàng tử đứng nhanh hầu thầy:
Tay nâng bảng ngọc, bút chì,
Mắt thời ngó xuống, chờ ghi lời truyền.
Tôn sư chầm chậm hô lên
Bài kinh cầu nguyện Đấng trên Thiên Tào [13] .
Kinh nầy thật ít truyền trao,
Riêng nhà quí phái nghe vào tu tâm.
Đạt-Đa cầm bút chú chăm,
Viết bài Kinh ấy ra trăm ngàn hình.
Viết theo chữ các dân tình,
Viết từ chữ cổ đến thành chữ kim,
Viết theo tiếng nói các miền,
Của người động đá với ven biển hồ,
Những người thờ rắn đất sâu,
Những người thờ lửa, thờ lâu mặt trời,
Những nhà phù phép cao vời,
Những vì ở chốn điện đài cố kiên.
Khen tài Thái tử siêu nhiên,
Các tuồng chữ lạ tiếp liên viết rành.
Tôn sư rất thỏa tấm tình,
Bảo rằng : Thôi hãy học hành tính phân [14] .
Ta đây đếm trước một lần ,
Trăm ngàn [15] trò sẽ liệu chừng học theo.
Đạt-Đa tập cũng đúng chìu,
Một, Mười, Trăm,... Vạn đếm đều như nhau.
Nhưng còn nối tiếp thêm sau,
Thật là tỉ mỉ khó âu biết tường.
Đếm ngay tới vật tiểu lường,
Tới loài nguyên tử [16] , bụi đường khó trông ;
Số sao đêm tối cũng thông [17],
Bao nhiêu giọt nước biển hồng đếm ra ;
Tính luôn số cát Hằng hà [18]
Tinh thông tới giọt mưa sa cõi trần,
Mưa hoài trong cả vạn năm,
Sức ngài biết nổi bao lăm giọt rời :
Tính qua Đại Kiếp [19] chẳng chơi,
Ngàn muôn triệu ức năm dài đó chi ;
Đại Tiên hưởng phước đủ đầy,
Lâu dài rồi mới giáng đi xuống trần.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
***
Tôn sư chừ mới tỏ phân:
Trò mà giỏi vậy có cần tôi chi ?
Thôi còn môn nữa nói đi,
Kỷ hà học với đường ghi đó mà.
Đạt-Đa nhỏ nhẹ phân qua:
"Xin Thầy nghe trẻ trình ra mấy điều:
Bắt từ vật nhỏ mà nêu,
Người đời khó nổi hiểu nhiều như đây,
Sức đo phương tiện ai tày,
Đo lần lên tới bụi đầy cõi ni;
Bụi kia bảy hột nhập đi,
Ấy bằng một sợi râu thì chuột ta;
Bảy lần hột lúa mạch nha,
Với lưng vò vẻ [20] thật là bằng nhau;
Mạch nha mười hột kê vào,
Tức bằng một lóng tay dao của người;
Mười hai lóng, một gang rồi,
Kế là thước chỏ [21], sào khơi đó mà.
Cũng dùng cung ná, giáo ta,
Hai mươi cây giáo hiệp là một hơi.
Ấy là trên khoảng đường dài,
Một người phải chạy một hơi cho vừa,
Bắt qua phép tính cái "gưa" [22]
Một gưa bốn chục hơi thưa tiếp bền;
Do-tuần [23] bốn chục gưa trên,
Như thầy muốn nữa tôi nên chỉ tường,
Do-tuần dài dặc trên đường,
Chứa bao nhiêu bụi tôi lường cũng xong.
Nói rồi tính một hơi ròng,
Bao nhiêu hột bụi kể hồng đúng y. "
Tôn sư chừ mới lạy quỳ:
"Thầy là ngài đó, tôi ni đáng trò;
Nay tôi tôn kính, xưng to :
Ngài thông tất cả chẳng dò sách chi,
Thế mà ngài cũng kính vì,
Làm như chẳng biết đặng đi học hành”.

***
Ngài từng cung kính thầy mình,
Tuy Ngài trổi sức thông minh nhiều lần.
Nói năng êm ái, ân cần,
Mặc dầu quảng bác, giữ phần chẳng kiêu.
Nết đi, cách đứng đáng yêu,
Mặt mày ra vẻ đúng chìu Đông cung.
Nhỏ nhoi, nhu nhượng, lành lòng,
Nhưng mà gan dạ anh hùng biết đâu;
Trong khi săn lộc rừng sâu,
Đố ai tế ngựa chạy mau bằng Ngài;
Và khi đua cộ đền đài [24],
Chính Ngài đệ nhứt thị oai hơn người.
Những cơn săn bắn vui cười,
Ngài thường bỏ dở, thả loài thú ra ;
Lại trong mấy cuộc đua xa,
Thấy người mệt nhọc, ngài thà dừng chơn,
Thấy chư hoàng tử thua, buồn,
Chạnh lòng Ngài chẳng nỡ hơn làm gì.
Hoặc trong trí tưởng đều chi,
Tức thì bỏ cuộc vui đi chẳng màng:
Lâu ngày đức ấy tràng mang,
Cũng như cây cỏ to tàng về sau.
Nhưng Ngài chẳng biết âu sầu,
Chẳng hề khổ não đớn đau khóc vùi.
Có khi họ tỏ khúc nôi,
Nhưng mình chẳng khổ, chẳng nguy, chẳng tường.

***
Một hôm xuân nở ngoài vườn,
Có bầy hạc nội thuận đường bay khơi,
Lần về Hy Mã là nơi,
Thảy đều vui với bạn đời mến yêu.
Xảy đâu gặp chuyện buồn hiu,
Mà con hạc chúa mắc điều họa đây:
Đề-Bà thế tử nhắm ngay,
Bắn lên một mũi tên bay vào mình;
Chim kia bị nạn thình lình,
Tức thì sa xuống thân hình đỏ tươi [25].
Đạt-Đa Thái tử đến bươi,
Dịu dàng lượm lấy, ôm thôi vào lòng.
Ngài ngồi chơn xếp vào trong,
Cũng như Đức Phật nhập vòng thiền na [26];
Tay Ngài sửa cánh chim sa,
Vỗ về mơn trớn, như cha thương tình.
Thấy chim dứt sự hãi kinh,
Ngài bèn nhổ lấy mũi tên phá đời.
Kế Ngài lựa lá mát tươi,
Trộn cùng mật tốt rịt nơi vết trầy.
Bấy giờ thử đặt vào tay,
Mũi tên nhọn vắt đâm rày rất đau.
Ngài vừa mơn trớn vuốt đầu,
Vừa sa nước mắt, ưu sầu hạt rơi [27].
Một người bỗng bước tới nơi,
Tâu rằng : " Thế tử cho vời kiếm chim.
Bị tên một mũi sa liền,
Như Ngài bắt được, xin phiền trả giao. "
Đạt-Đa hoàng tử lời trao :
"Chim kia chẳng chết, nỡ nào trả ai !
Em ta bắn chửa được tài,
Sức bay giết được, mạng loài thì không. "
Đề-Bà đáp lại cũng thông :
"Hạc rừng chẳng lẽ khi không rớt liền ;
Chim sa chết sống nằm yên,
Vốn là của kẻ đầu tiên bắn nhằm;
Trên mây, ai được giam cầm,
Nhưng mà sa xuống là phần của tôi.
Xin anh giao trả cho rồi,
Công tôi đã bắn thì tôi hưởng nhờ. "
Thích Ca ôm hạc úm hơ,
Phán rằng: Chưa dễ trông chờ nơi đây;
Từng phen bác ái, từ bi,
Rộng quyền ta có thiếu gì của sao?
Món nầy vừa mới thâu vào,
Ta đây sẽ có biết bao mà lường!
Tự ta biết lấy sức đương,
Từ bi ta sẽ dạy tường chúng sanh;
Đứng ra chỉ rõ nẻo lành,
Nhờ ta, sự khổ bớt hành bớt đau.
Đó dầu chẳng nghĩ trước sau,
Việc nầy xử lý cho nhau có tòa.
Các quan nhóm họp xét qua,
Luận bàn, cãi lẽ chưa ra thể nào.
Một ông Sư lạ bước vào,
Lý hay giảng giải thanh tao gọi là:
"Mạng đời ví đáng kể ra,
Kẻ mong hại vật kém xa người lành;
Ai mà cứu tử hồi sanh,
Đáng cho con vật theo mình tỏ ơn.
Một người cứu vớt, đỡ đần,
Một người phá hoại, toan phần sát sanh,
Chim kia nhờ kẻ cứu lành,
Thôi thì giao nó người đành giữ luôn."
Mấy lời sau trước vừa buông,
Cả tòa ai cũng phục luồng lý sâu;
Vua hay, ngự giá thỉnh cầu,
Nhưng nhà Sư lạ ẩn đâu chẳng tường.
Có người thấy rắn bò ngang,
Cho rằng Tiên Thánh phàm dương hóa hình.
Thế Tôn tế độ muôn linh,
Kể từ lúc nọ cứu sanh chim rừng.
Sự tình đau khổ tưng bừng,
Ngài vừa cảm thấy mới chừng đầu tiên:
Chính vì con hạc bị tên,
Trị lành, Ngài thả về miền núi non.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
***
Một hôm vua phán cùng con:
"Trời xuân, theo Trẫm hương thôn ngắm nhìn.
Con xem đất tốt vườn xinh,
Những người trồng tỉa mặc tình hưởng qua;
Nầy là đất tốt của ta,
Đủ đều huê lợi nuôi nhà chúng dân;
Đâu đâu đều cũng siêng cần,
Kho vua đầy đặn, thuế phần cũng xuê ;
Nước cha cai trị chỉnh tề,
Chừng cha trăm tuổi giao về cho con.
Mùa nầy đẹp đẽ vẹn tròn,
Cò xanh, hoa mịn, lá non trên cành,
Gần xa mấy đám ruộng lành
Nông phu cười cợt kêu quanh vui vầy."
Cha con dạo khắp đó đây,
Trải qua vườn tược, cỏ cây, suối nguồn,
Bò cày trên thửa ruộng vuông,
Vai to mang ách trì luôn cả mình,
Đất như thịt mỡ kéo lên,
Bủa ra như lượn sóng trên mặt hồ,
Sức người cày ruộng tiếp xô,
Lưỡi cày đạp xuống ăn vô sâu hàng.
Trong đoàn dừa, nước suối mương,
Móng tay [28], lá sả dọc đường nở ra.
Kìa người gieo mạ ngoài xa,
Vừa đi vừa rảy hột sa túa bùa.
Khắp rừng vui vẻ cười đùa,
Tiếng nơi hang ổ ca khua vang lừng;
Và trong bờ bụi lưng chừng,
Dế, ong, rắn mối tưng bừng dấy rân,
Vui xuân đây đó dự phần,
Cành xoài chim đẹp phô thân đủ màu.
Loài chim gõ-kiến lau chau,
Mổ vào cây cối kiếm sâu mà nhờ;
Thứ chim có mỏ cong quơ,
Đuổi loài bươm bướm phất phơ từng hồi;
Sóc rằn cũng chạy kiếm mồi,
Và phường se-sẻ ăn thôi no cành;
Có loài chim nhỏ xinh xinh,
Thường đi đủ bảy, tỏ tình kết giao.
Trên cành, gần lối bờ ao,
Chim mèo thích cá đậu cao mà chờ.
Cò ngà quanh quẩn trâu tơ,
Trên không diều ó lờ đờ liệng chơi.
Bên chùa màu sắc chói ngời,
Đoàn công nhảy múa nhặt lơi đủ đường ;
Chim câu tố hộ trên tường,
Xa xa tiếng trống của phường rước dâu.
Vui thay trong cõi hoàn cầu!
Nhìn xuân, Thái- tử cũng hầu ái lân:
Nhưng Ngài ngó kỷ cõi trần,
Toàn là gai nhọn ẩn lần dưới hoa!
Kìa ngươi nắng táp mưa sa,
Mồ hôi đổ hột mới là có ăn:
Dưới trời nắng bủa hung hăng,
Miệng hô "thá ví", tay phăng đôi bò,
Kiến thì rắn mối ăn no,
Cả hai bị ó rình mò xớt ngay;
Chim mèo tầm cá cũng hay,
Con diều lại chận giựt ngay miếng mồi.
Bướm kia lòe lẹt phấn vôi,
Chim sâu bắt được một thôi nuốt liền.
Chim ăn no bụng đứng yên,
Có loài két dữ xớt khiêng lên cành.
Đâu đâu cũng sự đấu tranh,
Giết rồi bị giết, quẩn quanh nơi vòng;
Cảnh đời ngoài mặt tươi trong,
Nhưng mà chứa ẩn vô cùng nạn lây;
Hại nhau đủ cuộc vần xây,
Từ loài trùng dế đến ngay loài người;
Ai mà muốn sống vui cười,
Cùng trong đồng loại giết mười, giết trăm!
Nhìn sâu, Ngài phải khổ tâm:
Thương người làm ruộng hằng năm đói nghèo;
Thương bò cổ bị ách treo,
Thương đoàn sanh chúng cùng theo tranh phần!
"Vui chi cái cuộc thế trần,
Bao nhiêu cơm trắng, bao lần mồ hôi!
Thân bò lao khổ vô hồi!
Xót nơi hang ổ đứng ngồi đánh nhau;
Dưới nước thảm, trên trời sầu,
Đâu đâu đều cũng một màu đấu tranh.
Thôi thôi tôi phải xét rành,
Phụ-vương lui bước, mặc tình cho con ."

***
Nói rồi, chân Phật xếp tròn,
Cội cây ngồi tưởng tân toan cõi trần.
Gốc nguồn sự khổ xét lần,
Xét luôn cách thế diệt mầm khổ lao.
Từ bi đức rộng lướt vào,
Tấm lòng bác ái nâng cao trí Ngài.
Dốc lòng cứu khổ cho đời,
Ngài bèn gom trí nhập nơi Định thần [29].
Thoát vòng nhơ bẩn phàm trần,
Thoát tình luyến ái, thoát thân buộc ràng.
Trí Ngài lúc ấy rảnh rang,
Đạt vào cảnh tịnh Sơ thoàn [30] đó chi.

***
Bỗng đâu Tiên-trưởng năm vì
Lướt mây bay tới tức thì phải ngưng;
Hỏi: "Ai sức lạ lẫy lừng,
Làm cho ta lại tạm dừng chốn ni?"
Chư Tiên nhận xét rất hay,
Biết rằng có Đấng cao tay dưới trần.
Các vì ngó xuống một lần,
Thấy đầu đức Phật túa lằn hào quang;
Ngài đương nghĩ cứu các đàng [31],
Bỗng trong bụi rậm tiếng vang như vầy :
"Chư Tiên! hãy đáp xuống đây,
Lễ mầng đức Phật ra tay độ đời ".
Năm ông Tiên trưởng xuống nơi,
Đến gần ra mắt, ngâm bài xưng công [32].
Lễ rồi, mấy ổng thẳng xông,
Tin lành đem rảy khắp trong Tiên Thần.

***
Một người vua phái đến gần,
Thấy ông Hoàng tử đương cơn định thiền;
Xế qua, mặt nhựt chói nghiêng,
Nhưng còn bóng mát che riêng hầu Ngài.
Viên quan bỗng nhận ra lời:
"Để cho Thái tử yên nơi thuận lèo;
Lòng Ngài bóng tối còn đeo,
Bóng ta còn hãy dựa theo mà chầu!"
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
Chú thích :

[1] Himalaya ( Hy Mã Lạp Sơn) núi cao nhất ở hoàn cầu.
[2] Suddhôdana (Tịnh-Phạn vương): cha của Thái tử Thích Ca.
[3] Tên bà Hoàng hậu, mẹ của Thái tử Thích Ca.
[4] Nếu Ngài chẳng ở ngai vàng mà làm một vị Vua cai trị hoàn cầu.
[5] Vương tứ thiên hạ (Chakravartin),
[6] Vương tứ thiên hạ có bảy món báu: cái vành để đánh giặc, hột ngọc, con ngựa bay, con bạch tượng, vị quan thông minh, vị tướng tài và bà vợ tuyệt đẹp.
[7] Tất-Đạt-Đa (Siddârtha), nguyên chữ là Savârthasiddh, nghĩa là làm cho vật chi cũng thạnh phát.
[8] A-tư-Đà (Asita): vị Tiên nhơn đắc Ngũ-Thông.
[9] Bàn chân có dấu Bánh xe, trước ngực có dấu chữ Vạn (kiết tường).
[10] Đao lợi ( Ciel Trayastrinshas ) ở cảnh Tiên dục-giới.
[11] Ba-xà-ba-Đề (Mahâprâjâpathi), em bà Ma-Da, vợ kế vua Tịnh-Phạn.
[12] Vua lo cho Thái-tử học để thái-tử khỏi bỏ nhà ra đi tu mà chịu các nỗi khổ hạnh.
[13] Bài kinh cầu nguyện chữ Phạn như vầy : Om, tatsavi-turvarenyam Bhargo devasya dhimahi Dhiyoyora prachodayât. Dịch nghĩa: Kính trọng đấng Thái-Dương (Soleil divin), chúng ta hãy quán tưởng đến sự sáng suốt vô cùng của đấng Thái Dương để Ngài soi sáng tâm trí ta.
[14] Học toán số.
[15] Đọc từ một (1) cho đến 100.000 (chữ Phạn : un lakh ) là 100.000.
[16] Nguyên tử; vật rất nhỏ.
[17] Tính tới số sao trên trời đêm hôm.
[18] Biết tính tới số cát dưới sông Hằng Hà bên Ấn Độ.
[19] Đại-kiếp: Maha-Kalpa. Một Đại-kiếp có 4.320 triệu năm.
[20] Ong vò-vẽ.
[21] Thước đo từ bàn tay tới cùi chỏ.
[22] Gưa, chữ Phạn gow, là 40 hơi dài (40 souffles).
[23] Do-tuần (yôdjana): 16 dặm tàu.
[24] Cầm cương cho xe cộ chạy các nẻo trong thành vua.
[25] Vì dính máu.
[26] Nhập định, suy nghĩ về đạo lý.
[27] Ngài khóc cho con hạc chịu đau vì trúng tên.
[28] Hoa móng tay.
[29] Nhập định (État d'extase).
[30] Sơ-thoàn (Sơ-thiền) : Premier pas dans le sentier.
[31] Chúng-sanh thọ khổ trong sáu đàng Luân hồi.
[32] Ngâm bài kệ xưng công đức của Phật.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
Phần thứ hai - HÔN PHỐI

(Book the Second - The Wedding)

THẾ-TÔN mười tám tuổi đầu,
Đức Vua truyền cất ba lầu an cư ;
Cái bằng đà tốt cưa tư,
Cây hương lợp chắc, ấm trừ tiết đông ;
Cái nhì cẩm thạch gân trong,
Mùa hè ẩn mát khỏi nồng nực chi ;
Cái sau lợp ngói xanh rì,
Mùa thu chiêm-bặc [1] nở đầy thơm tho.
Theo nhà, vườn suối quanh co,
Chòm hoa, bồn cỏ, chỗ chờ nghỉ chơn.
Dạo chơi thong thả chi sờn,
Càng lâu, càng thấy lắm cơn sướng kỳ!
Đạt-Đa đương tuổi dậy thì,
Máu hồng mãnh liệt chảy đầy trong thân;
Nhưng Ngài có lúc định thần,
Có hồi suy xét truy lần viễn vông;
Cảnh như mặt nước gương trong,
Kế cơn sóng dợn chẳng trông thấy hình.
***
Đức Vua dòm thấu nỗi tình,
Triệu chư quan chức phán rành mấy câu:
"Các khanh hãy xét buổi đầu,
Lời ông đạo sĩ vào chầu nơi đây,
Lại thêm tướng số mấy thầy,
Đã nghe mộng triệu lời bày cũng thông.
Trẻ nầy ta mến vô song,
Sau nầy ra mặt anh hùng Đại vương.
Một tay chinh phục phi thường,
Các vua khiếp sợ đều nhường bực trên;
Ý ta muốn vậy cũng nên,
Song còn e nỗi xuống lên bất kỳ:
Con ta sẽ chán cõi nầy,
Bước vào nẻo Đạo, đường đầy khổ thô;
Công trình chẳng hiểu ra mô,
Mà đành bỏ cả cơ đồ nước non!
Lúc nầy Hoàng tử lo toan,
Trong đều đi lại tính lòn thoát thân.
Các quan mưu trí như thần,
Xét coi cách thế nào hơn tỏ bày.
Làm sao Hoàng tử đổi thay,
Đặng chàng bước tới đường đầy oai vinh?
Làm sao điềm trước hiển linh,
Đặng cho Thái tử trị quanh hoàn cầu?"

***
Một ông quan lão quỳ tâu :
"Bạch Ngài, tình ái thuốc mầu đó chi.
Nếu mà có gái phương phi,
Tơ tình bủa khéo bắt ghì như chơi.
Tấm lòng Hoàng tử còn tươi,
Chưa từng biết sắc, biết cười cợt duyên;
Môi thơm chưa được kề bên,
Với con mắt đẹp khiến quên cõi trời!
Hãy tầm gái lịch, bạn trai,
Giúp chàng vui hưởng cuộc đời thì xong.
Những ai quyết chí dốc lòng,
Dây đồng, tói sắt chẳng trông giam cầm;
Nhưng mà sợi tóc mỹ nhân,
Buộc vào dính cứng chẳng cần sức chi."

***
Các quan chịu kế tinh vi,
Nhưng vua còn hãy hồ nghi, ngỡ ngàng :
"Mỹ nhân kén chọn cho chàng,
Sau nầy có biết bước đàng thế nao ?
Ái tình há một giống sao ?
Cung phi dầu lắm, lảng xao không chừng!"
Một ông quan khác tỏ phân :
"Cảnh nầy như lộc trên rừng mê chơi,
Đến chừng tên bắn tới nơi,
Thôi đành nạp mạng há nài thác oan!
Chẳng phân kẻ thế, ông hoàng,
Mùi tình nếm phải, tránh đàng sao xong!
Có tuồng mặt, có hình dung,
Làm cho mình thích như trong cõi Trời;
Lại như thấy một ít người,
Có chìu đẹp đẽ hơn hồi rạng đông.
Thế nầy nghĩ lại cũng xong,
Xin Vua mở cuộc mời ròng mỹ nhơn.
Tranh nhau sắc lịch thua hơn,
Ngồi trên, Hoàng tử ban phần thưởng xuê.
Cô nào bước tới hầu kề,
Mặt mày hoan lạc, phải lề lối sang,
Làm cho Thái tử nhìn tường,
Thích tình chàng mới tìm đường ái ân.
Như vầy chọn lựa cân phân,
Tự do luyến ái phước phần cũng nên."

***
Lời nầy chấp thuận dưới trên,
Hôm sau có kẻ rao rền khắp nơi:
Các cô mỹ nữ được mời ,
Vào đền Thái tử ban thời của xinh.
Mỗi cô được tặng đã đành,
Cô nào đẹp nhứt phần mình trổi hơn.
Các cô thiếu nữ ân cần,
Cùng nhau tề tựu ở gần cửa vô.
Ai ai đều cũng điểm tô,
Rửa mình, chải tóc, ướp đồ thơm tho;
Long nheo đánh phấn láng o [2],
Áo quần, khăn khíu như hoa tốt màu.
Tay chơn son phết làu làu,
Ngôi sao giữa trán đỏ au chói ngời [3].
Cảnh tình xem thật tốt tươi,
Bao nhiêu thiếu nữ trước ngôi bước lần;
Thảy đều mắt ngó xuống chân,
Lấy làm bối rối, tỏ phần khiếp thay!
Thấy Ngài cao thượng sợ ngay,
Tuy Ngài trầm tỉnh, mặt mày hòa vui.
Mỗi cô bước tới trước ngôi,
Rước nâng lễ vật, lui cui rút hình ;
Cô nào công chúng hoan nghinh,
Được Ngài cười mỉm với mình chút chi,
Tức thời hốt hoảng chạy đi,
E mình thấp thỏi, người thì cao sang.
Cả đoàn mỹ nữ đi ngang,
Của đà ban hết, bạn loan chưa nhìn.
Cuối cùng một ả bước lên,
Da-Du [4] trinh nữ rất nên mặn mà ;
Các quan chừ mới thấy qua,
Đông cung nhổm dậy người đà khác đi.
Hình nàng, Tiên nữ cung mây,
Tướng đi như thể hoa ti [5] trên Trời;
Mắt nàng như mắt con nai,
Đương mùa thích cuộc duyên hài tóc tơ;
Mặt nàng đẹp đẽ khó ngờ,
Dẫu bao nhiêu tiếng cũng chưa tả rành,
Nàng nhìn thẳng, mắt sáng anh,
Hai tay chắp lại trên mình nở nang,
Đưa ra cổ ngực đoan trang,
Hỏi rằng: "Điện hạ tặng sang món nào ?
Ngài rằng : "Phát hết chớ sao,
Song ta còn có món trao đỡ đàng,
Ở người đẹp đẽ muôn vàng,
Xứ nầy rỡ tiếng nhờ nàng đó nghe ! "
Sợi dây ngọc bích mang theo,
Cởi ra khỏi ngực mà đeo cho nàng.
Hai người nhìn đã chán chường,
Ái tình lúc ấy hào quang nháng liền.

 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
***
Về sau thành Phật giảng truyền,
Có người hỏi lại căn duyên sự nầy:
Tại sao vừa thấy mà ngây,
Tấm lòng Thánh Chúa cũng vầy tình men?
Ngài rằng: "Ta trước có quen [6],
Những đời quá khứ từng phen vợ chồng:
Thuở xưa, ở chốn núi đồng,
Một chàng tuổi trẻ con dòng đi săn,
Một hôm giữa cảnh suối, ngàn,
Đứng ra giám thị mấy nàng tranh chơi;
Dưới rừng thông, chạy khắp nơi,
Cũng như thỏ giỡn lúc trời sẫm qua.
Một cô, chàng kết vòng hoa,
Nháng ra như thể sao loè trên không;
Một cô chàng thưởng lông công,
Kết cùng lông trĩ, gà rừng, gà lôi;
Một cô, tặng trái thông đồi,
Còn cô sau chót giựt mồi cuộc đua;
Chàng đem nai nhỏ trao cô,
Trao luôn tình ái khá tua mặn nồng.
Với nhau vui vẻ rừng tòng,
Sống thời đồng tịch, chết cùng đồng quan.
Các ngươi thấy đó khá bàn:
Giống chôn xa thẳm cũng làn mọc lên;
Những tuồng thiện ác, khổ hên,
Oán thương mến ghét có phen tái hồi.
Việc làm những kiếp xa xôi,
Thảy đều sống lại để rồi báo lâm.
Lá kia sáng láng, tối tăm,
Trái nầy ngọt dịu, dằng chằng bởi duyên.
Ta là chàng mới nói trên,
Da-Du, nàng ấy bạn hiền thuở xưa.
Bánh xe sanh tử còn đưa,
Thì còn thấy lại việc xưa báo đền."

***
Phát đồ đâu đó vừa yên,
Các quan nhìn rõ nghe liền hết trơn.
Trở vào tâu lệnh Thiên nhan,
Hoàng nam tưởng đã phàn nàn chẳng ai.
Bỗng đâu bước tới bên ngai,
Da-Du con lão Xu-rai-Phật-đà [7]
Thấy nàng, chàng ngẩn người ra,
Hai bên bốn mắt nhìn qua rõ ràng;
Ngọc đeo chàng lấy tặng nàng,
Ngó nhau cũng đủ tỏ tường tình thâm.
Vua nghe vui vẻ phán rằng:
"Mồi ngon kiếm được, hãy tầm cách xoay,
Chim ưng duỗi cánh trên mây,
Lấy mồi ta nhử xuống đây mắc hàm.
Sai quan qua đó hội đàm,
Hỏi cô gái ấy, cưới đem vào đền".

***
Nhưng trong họ Thích tục truyền:
Cưới người sang trọng phải nên tranh tài;
Con vua thì cũng như ai,
Thắng người tranh cuộc, duyên hài mới xong.
Cha cô gái đẹp bảo cùng:
Các ông hoàng tử cũng đồng mến yêu,
Quý ngài về tấu giữa triều,
Cung, thương, kỵ mã đủ điều thì vâng;
Nếu chàng sức có trổi hơn,
Thắng người đoạt cuộc, lão mầng gả ngay.
Nhưng e chàng chẳng tài hay,
Vì không từng thoát khỏi bầy cấm cung."
Vua nghe, rất đỗi sầu lòng,
Vì lo Thái tử thất trong diễn tràng.
Tài tình gẫm lại nhiều trang,
Đề-Bà bắn giỏi tiếng vang trong thành,
Ác-Xu- Na [8] cỡi ngựa lanh,
Nan-Đà [9] thí võ có danh chúng tường.
Cười thầm, tâu với Phụ vương:
"Những môn thao lược con thường học qua;
Nay xin cha kíp truyền ra,
Môn nào ai giỏi thì con đấu cùng.
Khó gì cái cuộc kiếm cung,
Con không để mất tình chung đâu mà."
Lịnh truyền bảy bữa chẳng xa,
Đông cung Tất Đạt đứng ra sánh bày.
Ai mà thắng cuộc đấu nầy,
Da-Du mỹ nữ sẽ vầy căn duyên.

***
Đến ngày nhứt định như trên,
Vương tôn công tử bốn bên tựu về;
Những người thị tứ thôn quê,
Cùng nhau hội lại vì mê cuộc nầy.
Mỹ nhơn cũng có đến đây,
Bà con cha mẹ bao vây bên mình;
Làm như đám cưới linh đình,
Trống kèn chập trổi rang rình rất xuê,
Cộ xe kết tuội treo huê,
Có thêm màn trướng, nệm kề dưới lưng.
Mấy con bò có bông chưng,
Màu vàng tô điểm trên sừng ửng ra.
Đề-Bà cũng gốc hoàng gia,
Đứng ra xin cưới con nhà trâm anh;
Nan-Đà vương tử tài danh,
Ác-Xu-Na cũng ra tranh vợ hiền.
Kế là Thái tử bước lên,
Cỡi con Càn-Trắc [10] hí rền đám đông.
Cuộc nầy ngựa chửa từng trông,
Đến nay thấy lạ nên vùng hí lên.
Đông cung Ngài cũng ngạc nhiên,
Trông qua dân chúng sống bên hoàng thành.
Tuy là họ chẳng như mình,
Uống, ăn, mặc, ở, chẳng vinh sang bằng;
Nhưng mà vốn một tâm càn,
Khoái vui, sầu não cũng hằng trải qua.
Da-Du, vừa mới thấy ra,
Nụ cười ửng nở mặt hoa đức Thầy.
Tay gò cương lụa thẳng ngay,
Chân liền bước xuống, miệng rày hô lên:
"Ai người tài trí bực trên,
Mới là đáng đoạt ngọc liền quý ưa.
Ta đây có đáng hay chưa,
Hãy ra mà thử cho vừa lòng đi".
Nan-Đà bày cuộc bắn thi,
Trống đồng đem để cách thì sáu gưa [11] ;
Ác-xu-Na sức cũng vừa,
Đề-Bà xin để tám gưa thẳng lằn.
Hoàng nam Tất Đạt bảo rằng :
Trống ta hãy để xa bằng mười gưa.
Thật là xa lắc chẳng vừa,
Trông như đồng điếu [12] hồi xưa thường dùng.
Bấy giờ ai nấy giương cung,
Nan-Đà bắn lủng trống đồng đã treo,
Ác-xu-Na bắn lủng theo,
Đề-Bà bắn tới có chiều chính hơn:
Mọi nguời ai cũng khen rân,
Da-Du thục nữ có phần ngại lo.
Ngồi che tay áo co ro,
Sợ e Thái tử để cho trật ngoài.
Cung vàng [13] Ngài nắm thảnh thơi,
Dây cung hẳn thật gân loài thú se;
Ai người sức mạnh chúng ghê,
Mới là giương nổi kéo xê nửa phần.
Đạt-Đa có ý cười thầm,
Thẳng tay kéo hết chẳng cần sức chi.
Hai đầu giáp lại tức thì,
Cây cung lúc ấy gãy đi chỗ cầm.
Phán rằng : "Đồ bỏ ai ham,
Cung nào đáng nữa, khá đem đến hầu. "
Có người hiểu việc liền tâu,
"Trong đền thờ phượng, tớ âu nhớ tường:
Cung vua Sư-Tử Hiện-Vương [14],
Đời xưa còn đó chờ trang đặc kỳ."
Ngài rằng : "Đi lấy lại đây,
Cung thần mới xứng vào tay ta cầm."
Quân khiêng cung ấy lại gần,
Sườn làm bằng thép, cẩn gân bằng vàng;
Hai đầu cuốn lại bằng ngang,
Cũng như sừng quới bò mang trên đầu.
Đạt-Đa thử sức cung sau,
Để trên đầu gối kéo đâu hai lần.
Bấy giờ bảo mấy hoàng thân:
"Các em kéo thử xem chừng ra sao? "
Mấy ông kéo chẳng được nào,
Thôi đành để xuống mà giao đức Thầy.
Ngài liền đón lấy vào tay,
Nghiêng mình giương nỏ, kéo dây mạnh vào.
Nghe ra có tiếng thanh tao,
Ngồi nhà kẻ tật hỏi: nào tiếng chi ?
Người nhà đáp lại một khi:
"Tiếng cung đền Thánh kêu đi khắp cùng.
Hôm nay Hoàng tử giương cung,
Và Ngài sắp bắn trống đồng để xa."
Cây tên Thái tử rút ra,
Tra vào, kéo thẳng, tay đà buông đi,
Mũi tên nhọn lướt đường mây,
Bắn vào lủng trống để thì tót xa;
Sức còn nên lại lướt qua,
Bay trên đồng ruộng ngó ra mịt mù.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
Đề-Bà bày cuộc gươm đua,
Cội cây sáu ngón chém đùa đứt trơn.
Ác-xu-Na sức trổi hơn,
Lựa cây bảy ngón, gươm trân chặt liền.
Nan-Đà kiếm thuật chúng kiêng,
Cây dày chín ngón, người bèn chém ngay.
Đến phiên Thái tử ra tay,
Có hai cây lớn mọc bày theo nhau,
Lưỡi gươm nương sức nhiệm mầu,
Phụp vào một cái, lìa đầu hai cây;
Gươm Ngài chém thật rất ngay,
Hai cây đều đứt, đứng y như thường.
Nan-Đà vội vã lời buông:
Lưỡi gươm chẳng phủn, tìm đường trở lui.
Mỹ nhơn lo sợ bồi hồi,
Xem hai cây nọ nhánh chồi còn nguyên.
Thần phong làm gió nổi lên,
Hai tàn cây mịch ngã trên mặt đồi.

***
Quân đem ngựa giỏi tới rồi,
Chạy quanh đồng cỏ ba hồi thật mau;
Nhưng con Càn-Trắc dẫn đầu,
Lướt ăn hạng nhứt, bỏ sau xa vời.
Ngựa Ngài sức chạy rất tài,
Trong mồm nước dãi chảy nhoài đường đi,
Nước vừa thấm đất một khi,
Hai mươi lằn giáo nó thì chạy xong.
Nan-Đà nói giữa đám đông:
"Cỡi con Càn Trắc ta không thua mà,
Bây giờ ngựa chứng đem ra,
Xem ai cỡi giỏi mới là đáng hơn."
Mã phu được lệnh đem dâng,
Ngựa ô đen hắc như cơn tối trời;
Ba dây lòi tói cột ngoai,
Mắt xem dữ tợn, mũi ngời nở bung;
Bộ đồ bắt kế đã không,
Móng chơn bằng sắt chưa dùng đóng mang;
Là vì ngựa hãy còn hoang,
Chưa ai lên cỡi tập đường bước thông.
Ba vì thế tử lên xong,
Bị con ngựa chứng vẫy vùng té ngay;
Áo quần bụi bặm dính đầy,
Lại thêm hổ thẹn tài nầy thô sơ.
Ác-xu-Na sức có thừa,
Được ngồi trên ngựa, tay quơ mở xiềng;
Hai chơn thúc lấy hai bên,
Cái hàm thiết ngựa, người bèn siết vô.
Một phen sợ sệt, điên rồ,
Cánh đồng ngựa hoảng chạy phô một vòng.
Thình lình trở mặt sau hông,
Miệng nhăn răng dữ, chơn vùng đá lên;
Làm cho chàng té một bên,
Và toan lướt tới đạp trên thân hình.
Nhờ đoàn giữ ngựa mắt lanh,
Mau chân chạy tới tách rành ra cho.
Mọi người khi ấy nói to :
"Ngựa yêu, Hoàng tử hãy lo chớ gần,
Ruột gan tợ bão tưng bừng,
Máu me như thể lửa phừng đỏ au."
Đạt-Đa Thái tử yêu cầu:
" Dây xiềng bỏ hết, mặc dầu ta đương."
Nắm nơi gáy ngựa nhẹ nhàng,
Buông lời nhỏ nhắn dịu dàng dễ nghe;
Bàn tay bên mặt lấy che,
Đắp trên mắt ngựa, vuốt ve mặt dài;
Kéo lần từ cổ tới vai,
Lòn qua hông ngựa, tay Ngài măn mo.
Lạ lùng ai cũng nhận cho,
Thấy con ngựa dữ co ro hiền lành.
Chẳng còn cứng cổ tinh ranh,
Đứng êm dường thể biết rành kỉnh vâng.
Để cho Thái-tử lên lưng,
Chơn lần bước tới, ý tuân theo Ngài.
Xem ra, công chúng ghê ai?
Hô rằng: "Tất-Đạt cao tài hết trơn,
Thôi đừng tranh nữa còn hơn.
Có ai qua nổi người Nhơn trong Đền."
Mấy vì tranh đấu hô lên:
" Thật Ngài đệ nhứt, đứng trên bọn nầy."
Cha cô mỹ nữ nói ngay:
" Lòng ta cũng muốn chàng nay thắng người;
Chúng ta đã mến chàng rồi,
Bây giờ thêm phục, hết hồi nghi nan.
Lạ cho kẻ ở điện đàn,
Miệt mài trong cuộc truy hoan đã nhiều;
Thế mà cung kiếm cao siêu,
Hơn người vượt bể, lên đèo, xuống hang.
Nay chàng thắng cuộc vẻ vang,
Hãy đem bạn ngọc mỹ nương về đền."
Dứt lời, Công chúa đứng lên,
Vòng hoa lài tốt cầm bên tay mình,
Lướt qua khỏi đám chung quanh,
Khăn vàng sọc sặm phủ xinh trán đầu [15].
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
Tướng nàng trân trọng làu làu,
Đi qua trước mặt vương hầu chư công.
Đến nơi giáp mặt Đông cung,
Xem Ngài rất đẹp, đứng cùng ngựa ô,
Ngựa thần đưa thẳng cổ to,
Để cho Ngài vịn đặng chờ mỹ nương.
Cúi chào Hoàng tử thiện lương,
Mặt nàng sáng rỡ có đường khoái vui,
Vòng hoa nàng tặng Ngài đeo,
Nghiêng đầu ngực bạn, bùi ngùi yêu thương.
Hai chơn quì xuống gọn gàng,
Thưa rằng : " Tiện-thiếp vì chàng xin theo."
Mọi người ai nấy mừng reo,
Trông ra đôi bạn mỹ miều xứng thay!
Cùng nhau tay lại cầm tay,
Càng thuần vẻ ngọc càng say tấm tình.
Bước đi nàng vấn khăn xinh,
Khăn vàng sọc sặm bên mình thường mang.

***
Chừng Ngài thành Phật mở đàng,
Trong khi truyền Giáo, chúng thường hỏi thưa,
Hỏi qua nghĩa cũ tình xưa,
Tại sao nàng vấng khăn tua đen vàng,
Và đi dáng điệu oai cường,
Xem trong công chúng như dường chẳng ai?
Thế Tôn phán dạy mấy lời:
"Việc này ta rõ, người đời khó thông;
Tử sanh còn mắc trong vòng,
Việc xưa tình cũ thảy đồng tái sanh.
Những đời từ trước khó rành,
Vẫn còn hiện lại cho mình cũng y.
Ta đây nhớ việc thuở kia,
Hằng sa năm trước, có khi bao đời !
Bây giờ ngôi Phật viễn khơi,
Ngày xưa làm cọp ở nơi rừng già,
Ngày ngày ẩn dưới hố xa,
Nằm trong bụi cỏ đợi mà hươu nai;
Chúng đi ăn cỏ hôm mai,
Đến gần sẽ nạp mạng đời chớ lo !
Có khi dưới ánh sao mờ,
Ta đi kiếm thịt ăn cho đỡ lòng,
Lơ thơ đường suối nẻo cong,
Người không chừa bỏ, thú hòng ngại đâu!
Trong khi ta ở rừng sâu,
Hoặc nơi lầy rậm, đế lau mọc đầy,
Ta cùng chúng bạn họp bầy,
Bỗng con cọp cái làm gây mối thù.
Cọp nầy tốt đẹp đứng đầu,
Vàng đen xen lẫn hai màu nơi thân;
Cũng như khăn của mỹ nhân,
Vì ta nàng đội trong sân võ đài.
Trong rừng lũ cọp tranh tài,
Nanh qua vuốt lại chẳng ai nhịn nhường.
Dưới hoa, cọp cái nhìn tường,
Trông ta cùng bạn máu hường tuông trôi.
Sau cùng, ta thắng được rồi,
Nàng bèn đi đến, tỏ hồi vui ưng ;
Bước ngang mấy vị vua rừng,
Nàng không đoái chúng vừa chừng thua ta.
Hông ta đương lúc thở ra,
Lưỡi nàng liếm lấy chừng là vuốt ve.
Tướng nàng lúc ấy oai ghê,
Song song đôi lứa đề huề rừng sâu.
Bánh xe Sanh tử lần lâu,
Thấp cao đều chuyển, đâu đâu cũng vần."
[/i]
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
***
Bên người chịu gả mỹ-nhân,
Chọn ngày tháng tốt châu-trần kết duyên.
Gối bằng vàng thiệt kê lên,
Trải ra khảm quí lót trên mà ngồi:
Dây bông giăng sẵn đó rồi,
Tơ hồng nối lấy hai người bên tay;
Bánh ngon cắt bẻ ra ngay,
Cơm ăn dầu xức cũng bầy hết ra.
Sữa tươi son đỏ trộn pha,
Thả rơm hai cọng là đà trôi xê:
Song song hai cọng giao kề,
Ấy là điềm tốt tình kia tới già.
Có người đem bếp lửa ra,
Vợ chồng bảy bước lướt qua ba vòng [16];
Kế là bố thí bần cùng,
Sư tăng, chùa miễu cũng đồng cúng dâng.
Các sư cầu phước cầu phần,
Kệ kinh, thần chú đọc rân trong ngoài.
Áo xiêm đôi bạn hòa hai,
Buộc ràng nhau lại, sống đời có nhau.
Cha cô mỹ nữ liền tâu:
"Con tôi rày đã về hầu Ngài đây;
Sắn bìm nương tựa bóng cây,
Xin người quân tử khá hay rộng tình! "
Trống kèn chập trổi liên thinh,
Họ hàng đưa gái về dinh nhà chồng,
Từ đây phu phụ họp đồng,
Càng lâu càng thắm càng nồng tấm yêu.

***
Ái tình thắt buộc vẫn nhiều,
Nhưng vua chưa chắc, còn điều hồ nghi.
Cất nên ngục thất tinh vi,
Kiểu nhà khéo lạ cảnh chi chẳng bằng,
Để cho Thái tử ở ăn,
Hưởng đời thư thả vui hằng hơn ai.
Giữa nơi cảnh đất cất đài,
Có hòa núi biếc mọc ngay lên trời.
Dưới chơn núi, có dòng khơi [17],
Từ non Hy-Mã [18] là nơi phát nguồn,
Chảy lần như vậy mãi luôn,
Sau cùng đổ cả mà tuôn sông Hằng [19].
Phía Nam cây lớn chặn ngang,
Tách riêng biệt thự bởi tàng nhánh cao.
Cảnh đền êm ái thanh tao,
Chẳng nghe thấy tiếng xôn xao thị thiền.
Lâu lâu, một ngọn gió xiên,
Bạt vào nghe tiếng dưới miền chợ xa.
Trên phía Bắc, núi Hy-Ma [20],
Dốc cao chớn chở thấy mà phát ghê;
Phân ra hàng ngũ chỉnh tề,
Trên thì tuyết phủ chẳng hề rã tan,
Núi cao lên chí mây ngàn,
Xem ra to lớn, đủ giàn oai-nghi.
Đảnh thì nhiều cái khác đi,
Nhọn, tròn, bằng phẳng, trơn lì cũng nên.
Nhiều hòn xanh biếc nhô lên,
Có hòn nhọn lểu như kim đồng hồ.
Hố sâu thăm thẳm đường vô,
Có nhiều vực hiểm dốc phô ra ngoài.
Thấy vầy, trí nghĩ vượt khơi,
Tưởng điều cao thượng, xa vời đâu đâu,
Dường như bay bổng tít mù,
Ta cùng Tiên Thánh gặp nhau luận đàm.
Dưới miền tuyết phủ hằng năm,
Ấy toàn rừng rậm tối tăm mịt mờ;
Xen vào những thác nên thơ,
Nước tuôn sáng rỡ, mây lờ đờ trôi.
Phía dưới nữa, mấy cảnh đồi,
Bá, tùng, cổ thọ mọc thôi dẫy đầy,
Trĩ kêu, beo rống vang vầy,
Chiên rừng bé hé, ó bầy la rân.
Dưới thấp nữa, cảnh đồng gần,
Xem ra như khảm trải chân bàn thờ.
Đồi cao, rừng rậm, non mờ,
Xa trông như thể bàn thờ Thánh linh.
Những nhà mỹ thuật tài tình,
Chọn nơi cao ráo cất đình nguy nga;
Hai bên xây tháp mấy tòa,
Với nhiều phòng ốc cột hoa rỡ ràng.
Mấy cây đà lớn bắt ngang,
Thảy đều chạm trổ những tích nước nhà:
Tích nàng mỹ nữ Ra-Đa [21],
Cùng ông hiền thánh Rích-Na [22] yêu vì;
Lại còn mấy chuyện ly kỳ,
Si-Ta [23] trinh nữ thọ nguy giữa rừng,
Hung thần ép buộc phải ưng,
Chồng nàng đến kịp liệu chừng cứu ra.
Tích cô gái đẹp Rô-Ba [24],
Cũng là chuyện ngộ trên đà có ghi,
Giữa nhà, cửa lớn oai nghi,
Khắc hình Voi thánh [25], thần nầy rất linh:
Tục người Ấn Độ kinh thành,
Hình Voi biểu hiện thông minh, phú cường.
Lần theo mấy nẻo trong vườn,
Đi qua sân rộng đến giàn cửa trong;
Cửa bằng cẩm thạch gân hồng,
Thanh ngang, tấm ngạch cũng đồng đá xinh.
Đàn hương nhiều cửa rất tinh,
Với nhiều khuôn chạm họa hình tốt tươi,
Bước qua ngạch cửa dạo chơi,
Phía trong, phòng thất lắm nơi trang hoàng;
Thang lầu nhiều cái đẹp sang,
Hành lang mấy dãy có tường có song.
Vách thì họa khéo vô cùng,
Cột nhà xây dựng dính chùm với nhau.
Có làm hồ chứa nước sâu,
Hoa sen đua nở làu làu tốt xinh;
Pha lê nhiều chậu trắng tinh,
Chứa đoàn cá lội, vàng, xanh, đỏ, hồng.
Ngoài vườn ánh sáng tươi trong,
Xem ra bầy lộc đương cùng nhau ăn.
Một đoàn chim chóc lăng xăng,
Khoe nhiều màu sắc trong lằn dừa xanh.
Dài theo mấy kẹt vách thành,
Chim câu làm ổ sống sanh mãn đời.
Ở trong sân gạch sáng ngời,
Bầy công qua lại, đuôi phơi tốt lành.
Cò ngà lông lá trắng tinh,
Với chim mèo đậu đưa mình trở vô.
Két xanh cổ tợ son tô,
Bay theo ăn trái tựa hồ chín cây;
Mấy con rắn mối nhác thay,
Cũng đeo rào sắt phơi ngay bóng trời;
Ít con sóc nhỏ quen hơi,
Vào tay mổ hột của người đưa ra;
Cảnh nhà hẳn thật an hòa,
Kìa con rắn hổ dưới hoa ngủ ngày;
Rắn nầy cho chủ điềm may,
Nằm khoanh hơ nắng chói rày ấm lưng.
Con dê chạy giỡn tưng bừng,
Đây bầy khỉ đột nháy trừng quạ kia.
Thảy đều bác ái đề huề,
Kẻ hầu người hạ sớm khuya chí bền,
Bao giờ có lệnh bề trên,
Tức thì kẻ dưới chạy lên ứng chào,
Mặt mày ai nấy thanh tao,
Nói lời dịu ngọt, việc nào cũng lanh;
Mọi người vui vẻ làm lành,
Tuân lời chỉ bảo, thích tình thi ân,
Cuộc đời phỉ chí muôn phần,
Cũng như dòng nước bên gần có hoa;
Hẳn là một cảnh trào ca,
Da-Du rày đã làm bà hoàng-phi.

 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
***
Có trăm phòng thất tinh vi,
Lại còn một chỗ ẩn đi xa vòng;
Chốn nầy khéo léo vô song,
Những điều bày trí thích lòng hưởng qua.
Một sân rộng rãi tách ra,
Bốn bề vách phủ, cách xa cõi ngoài,
Giữa là hồ nước trong ngời,
Làm bằng cẩm thạch trắng tươi sáng lòa.
Dựa bờ, thang bực, miệng hồ,
Thảy đều cẩn đá bông hoa tốt màu,
Chốn nầy mát mẻ hơn đâu,
Ở chơi cũng sướng, giải sầu cũng xuê.
Tỷ như trong buổi mùa hè,
Mà đi trên tuyết có bề thích ưa,
Ánh trời chiếu xuống buổi trưa,
Lòn qua cánh cửa, thấu vừa tới trong,
Chẳng còn nóng nảy, nực nồng,
Dịu dàng, mát mịn như lồng ánh mai,
Êm đềm tình ái thanh mai,
Ban trưa lại giống sớm mai và chiều.
Phía trong cửa, chốn mỹ miều,
Phòng loan lộng lẫy, khác chiều thế gian;
Ánh đèn dịu chiếu trướng màn,
Thắp bằng dầu tốt, thơm tràn chỗ dư.
Cửa hông bằng ốc xà cừ,
Màn treo có kết sao như giăng hàng;
Mùng tơ, trướng phủ bằng vàng,
Để cho ngọc nữ riêng nàng bước qua.
Trong phòng khó nhận cho ra,
Ban ngày hay tối cũng là như nhau,
Mịn màng ánh sáng một màu,
Trưa, chiều cũng thấy như đầu buổi nay.
Gió lòn mát mẻ đêm ngày,
Lúc nào cũng có tiếng hay địch đờn.
Kẻ hầu dâng các món hơn,
Bánh làm có tuyết trên sườn Hy-ma;
Trái cây còn đọng sương sa,
Mứt thì đủ thứ ăn qua ngọt ngào;
Nước dừa mới bẻ đưa vào,
Chén ngà đựng lấy dồi dào vẻ tươi;
Một đoàn vũ nữ vui cười,
Múa men, hầu rượu, vóc người như mai.
Lại thêm bọn nhạc trổ tài,
Chực hầu dưới trướng ngày dài lẫn đêm.
Chờ Ngài tỉnh giấc mộng êm,
Tức thì xướng họa cho thêm vui lòng;
Dưới hoa, nhạc trổi lung tung,
Hòa cùng tiếng hát mặn nồng tình yêu.
Mấy cô vũ nữ mỹ miều,
Ôm nhau nhảy múa có chiều gợi duyên,
Dưới chân lục lạc khua lên,
Hai tay dịu nhiễu rập bên tiếng cầm.
Trong phòng nồng nực hương trầm,
Với mùi chiêm-bặc [26] âm thầm xông ra.
Dường như Thái tử ngà ngà,
Tựa đầu tay bạn [27] ngủ qua một thời;
Đạt-Đa hưởng đủ sự đời,
Ở trong đền ấy quên ngoài chúng sanh!

***
Đức vua truyền dạy rành rành:
Trong cung Thái tử khéo trình lời phân;
Chẳng ai được phép than thân,
Chết, già, đau ốm chẳng cần nói ra.
Cô nào hình sắc phôi pha,
Hai chân mệt mỏi nhảy ca chẳng đồng,
Tức thì xa lánh cấm cung,
Để cho Thái tử khỏi trông mà buồn.
Có quan hầu cận coi luôn,
Chẳng cho ai nói đến tuồng thế gian:
Choán đầy sầu, khổ, khóc, than,
Sợ, lo, đau đớn, với giàn hỏa thiêu.
Ca nhi vũ nữ kém chiều,
Tóc xen màu bạc, phạm điều lịch thanh.
Hoa khô, lá rụng xa cành,
Có người hái quét, chẳng đành để lâu.
Bao nhiêu những cảnh u sầu,
Các quan phải liệu mà hầu tránh ra.
Vua rằng: "Thái tử Đạt Đa,
Trong khi niên thiếu cách xa khổ đời,
Khỏi điều trước mắt bên tai,
Khỏi điều suy nghĩ, trí thời được êm;
Rồi ra cõi Đạo chẳng tìm,
Lên ngôi trị nước càng thêm vững lòng;
Một mình oai thế anh hùng,
Các nơi xếp giáp phục tùng sức cao."

***
Đông cung ngự cảnh thanh tao,
Nhưng mà đâu có khác nào ngục trung,
Ái tình buộc giữ chim lồng,
Mấy điều thỏa dục như song nhốt Ngài.
Đức vua xây vách thành dài,
Ngoài thì cửa sắt phải gài hai bên;
Cả trăm người mới dở lên,
Trong khi mở đóng tiếng rền thấu xa.
Vua còn làm cửa thêm ra,
Có hai cái nữa mới là chắc tay.
Vậy nên muốn thoát đền nầy,
Phải qua ba bận cửa dày, song to,
Cắt người đứng giữ siêng lo,
Vua truyền: "Chẳng được mở cho kẻ nào,
Dầu là Thái tử trong trào,
Nếu người trái lịnh thì ta chém đầu."
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
CHÚ THÍCH :

[1] Chiêm-bạc hoa (champaks): thứ hoa Sứ ở Ấn Độ rất thơm.
[2] Có một thứ phấn làm bằng kim khí để thoa long nheo.
[3] Người đàn bà Ấn độ có tục để nơi trán kẽ giữa lông mày một món đồ trang điểm bằng ngọc.
[4] Da-du-đà-la (Ysôdhara) .
[5] Parvati : Tiên trên trời, vợ của đức Shiva.
[6] Chúng ta có quen từ những đời trước.
[7] Soubra-Bouddha.
[8] Arjouna .
[9] Nanda .
[10] Ngựa Càn (Kiền)-Trắc (Kantaka) .
[11] Phía trước đã có nói rằng một người chạy đặng bốn chục hơi thở thì bằng một gưa, hay là nói cho rõ hơn, một gưa là 1.300 thước chơn ăng lê (1.300 pieds anglais).
[12] Hồi xưa dùng đồng điếu bằng miểng sò, miểng ốc.
[13] Cung sơn vàng và đỏ.
[14] Sư Tử Hiện Vương ( Sinhahânou).
[15] Cái khăn choàng màu vàng xen lẫn màu đen sạm.
[16] Phong tục Ấn Độ của phái Bà La Môn thì làm lễ đi vòng theo ngọn lửa ba lần.
[17] Sông Rohini.
[18] Himalaya.
[19] Sông Hằng-Hà (Gange).
[20] Himalaya.
[21] Ra-Đa (Radha).
[22] Rích-Na (Krishna). Ra-Đa là tình nhơn của Rích-Na. Ông nầy là một vị Thánh sống rất có danh tiếng ở Ấn Độ. Người ta có làm nhiều thi ca về tình sử của ông.
[23] Si-Ta (Sita): vợ của Ra-Ma, nàng là cốt chuyện thần tiên Ra-ma-da-na ( Ramayana ).
[24] Rô-Ba (Draupadi): Mỹ nữ, cốt chuyện Ma-ha-ba-ra-ta (Ma-ha Bharata).
[25] Voi Thánh, tiếng Phạn : Ga-nết-ha ( Ganesha ) là một vị Thiên-thần, mình người đầu voi, hình vẽ ngồi thòng vòi xuống nghiêng nghiêng.
[26] Chiêm-bặc (Champak): một thứ hoa Sứ hương thơm rất quý.
[27] Ngủ trên tay vợ.
[/b]
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Phần thứ ba
BA TÍN HIỆU
Book the Third - The Three Signs

Thế Tôn yên trụ đền lầu,
Ăn chơi vui thỏa, bạn bầu bao quanh,
Nào dè sự khổ chúng sanh,
Buồn, lo, sầu tủi, già đành chết mon?
Kê đầu trên ngực bạn loan,
Da-Du quạt mát, giữ tròn thảo ngay.
Bỗng Ngài nửa tỉnh nửa say,
Ngồi lên, hô lớn: "Cõi này! cõi Ta!
Ta nghe! Ta biết! Ta ra!"
Làm cho nàng sợ, hỏi là việc chi?
Bấy giờ Ngài luống xót bi,
Nhãn quang từ ái chiếu đi xa vời;
Mặt như tiên ở cõi Trời,
Trông chàng, nàng sợ, bời bời tấc son,
Thấy nàng hoảng hốt, nỉ non,
Ngài cười an ủi bạn loan tỉnh lòng.
Và Ngài truyền lịnh nơi cung,
Đem đờn ra gảy nội trong ít bài.
Một cây đờn gáo dây dài,
Để nơi ngạch cửa, lai rai gió lồng.
***
Cũng là một sự lạ lùng,
Gió lòn lại trổi tơ đồng nhặt khoan.
Nhạc âm nghe rõ cả đoàn,
Một mình Thái Tử nghe toàn tiếng linh;
Thần tiên mách bảo đinh ninh,
Hòa cùng dây bạc ca thinh như vầy:
"Chúng tôi là tiếng gió bay,
Bay đi kiếm sự an bày trong tâm,
Nhưng mà hết tháng qua năm,
Cái bề an lạc chẳng tầm đâu ra.
Đời người như gió thoảng qua,
Thở than, khóc lóc, phá dài đấu tranh.
Chúng tôi đâu có biết rành:
Tại sao có sự sống sanh của người?
Cội nguồn của cuộc sống đời,
Sống trên dương thế khắp nơi chi vầy?
Dầu Ngài hay chúng tôi đây,
Chẳng qua hình ảnh cõi nầy vốn Không.
Vui chi cái cuộc não nùng,
Khổ sầu đưa tới trong lòng mãi đi ?
Vui chi mà hưởng cuộc nầy,
Năm năm, tháng tháng, ngày ngày như nhau.
Ái tình ví được bền lâu,
Thì đành vui hưởng về sau cho dài.
Một cơn gió thoảng: cuộc đời,
Cũng như tiếng lạ lai rai dây đờn,
Chúng tôi trải khắp cảnh trần,
Rày đây mai đó lần lần bay đi.
Hôm nay nương mấy đường dây,
Chúng tôi than thở cho khuây tấm lòng;
Bản vui khó nổi hát thông,
Vì đi lắm chỗ thấy ròng khổ đau,
Biết bao con mắt khóc sầu,
Với bàn tay siết chán câu chẳng bền!
Chúng tôi rầu rĩ ca lên,
Nhưng mà trong dạ chẳng quên cười thầm:
Người đời ai cũng lạc lầm,
Mê theo cuộc sống chẳng tầm thấy xa;
Chẳng qua bóng dáng đó mà,
Hiện rồi lại mất, lộ và rã tan,
Nhưng Ngài chẳng phải kẻ thường,
Sanh ra cứu thế, đắc đường chúng sanh,
Thời giờ sắp tới bên mình,
Thế trần đương đợi đức Linh cứu nàn;
Mắt mù, họ bước chẳng an,
Lanh quanh trong chốn trần gian khổ sầu.
Xin Ngài đứng dậy cho mau,
Tỉnh đi chớ có nghĩ lâu làm gì!
Chúng tôi tiếng gió bay đi,
Xin Ngài cất bước, chơn ghi dấu đàng,
Đi mà tầm cảnh Lạc bang,
Đi ra, dứt bỏ tình thương lại nhà;
Từ nay thương khắp gần xa,
Chúng sanh thương hết mới là từ bi;
Xót người đau khổ lâm li,
Xin Ngài dứt bỏ ngôi vì một phen;
Đi ra cứu kẻ thấp hèn,
Độ người sa lệ, giải phiền, thoát thân.
Chúng tôi than thở trên đờn,
Vì Ngài chưa hiểu thế nhơn việc đời.
Tiếng nương dây bạc reo chơi,
Nực cười cho kẻ theo nơi bóng hình,
Chúng tôi cười kẻ si tình,
Bóng mà tưởng thiệt, giam mình vào trong."



 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
***
Một hôm ở chốn đền rồng,
Cầm tay bà vợ thong dong buổi chiều;
Một cô cung nữ mỹ miều,
Tay đờn miệng hát ít nhiều bản xưa,
Hát chầu một tích tình tơ,
Chuyện con ngựa lạ, xa lơ muôn trùng;
Nơi người da trắng ở đông,
Chiều về trời lặn trong vùng biển khơi.
Đông cung than thở mấy lời:
Si-Tra [1] khêu gợi cái bài gió đưa.
Nàng thuật tích, ta thích ưa,
Nhưng ta nhớ chuyện gió thưa trên đờn.
Da-Du! Bạn hãy trã ơn,
Lấy ra hạt ngọc mà ban cho người;
Ờ nầy bạn tốt nàng ơi!
Có chăng một cõi xa vời mênh mông?
Nơi nào có bóng trời hồng,
Buổi chiều xen lặn vào vùng biển xanh?
Người xa có giống tánh mình?
Nơi xa lắm kẻ khổ tình hay chăng?
Biết bao kẻ khổ vô ngần,
Nhưng ta đâu rõ mà phăng vớt dùm!
Lắm khi mặt nhựt lộ dòm,
Ánh ngời sáng chói, đỏ lòm phương Đông;
Tự ta hỏi lấy, ngại ngùng,
Ai người trước nhứt đứng trông mà chào?
Lắm khi sum họp má đào,
Đương cơn vầng nhựt lặn vào cõi Tây;
Lòng ta lại muốn đi ngay,
Vì ta ưng thấy mặt mày dân kia.
Chúng ta đâu có riêng chia,
Người xa muôn dặm, há lòng lìa yêu ?
Lúc nầy, ta luống buồn hiu,
Môi nồng, tình ái chẳng xiêu tấc sầu.
Si-Tra biết lắm xứ mầu,
Ngựa nàng thuật đó, ở đâu mà tầm?
Ngựa hay, dây khấu ta cầm,
Ôi! đành gác lại cung thâm điện rồng;
Ấp thành, làng mạc ruổi giong,
Rồi ta sẽ biết trần hồng bao xa,
Hoặc tra cánh thứu [2] vào ta,
Ta liền bay tới Hy-Ma núi Thần;
Vượt trên cảnh tuyết mấy lần,
Mặc tình nhìn xuống bang lân, nước ngoài.
Sao ta không biết xem coi?
Sao không chịu khó tìm tòi mà trông?
Nay ta xin hỏi cho thông,
Những chi hiện có ngoài vòng cửa cao?"

***
Tiếp theo, có kẻ tâu chào:
"Bạch Ngài điện hạ! Xiết bao cảnh tình:
Hoàng thành, chợ búa, chùa đình,
Vườn hoa, đồng ruộng, rạch kinh, đại hà,
Rừng sâu, núi lớn bao la,
Kế là Đại quốc Tần-Bà [3] Đế vương;
Lại nhiều đồng rộng khó lường,
Với bao dân chúng kể hàng triệu lên!"
Đạt-Đa đáp: " Vậy thì nên!
Bảo chàng Xa-Nặc đứng bên xe hầu;
Mai nầy, vầng nhựt ngay đầu.
Ngoài thành du ngoạn, mặc dầu xem qua,"
Có người chạy báo vua cha:
" Đông cung có dặn long xa sẵn bày;
Đón Người giờ ngọ mai đây,
Đặng Người viếng cảnh nọ nầy ngoại ô."
Thánh vương nghe tấu liền cho,
Sai người truyền bá dặn dò thế ni:
"Đô thành trang bị uy nghi,
Đừng cho thấy những cảnh chi gợi phiền;
Mù, què, bệnh tật triền miên,
Ghẻ cùi, già cả chớ nên ra ngoài."
Mé đường quét dọn một ngoai,
Nước trong đem tưới lộ nhai khắp cùng;
Ở nơi ngạch cửa giao thông,
Mấy bà rắc rải bột hồng mạt hương;
Lá hoa kết tụi treo giương,
Tuôn-si [4] cành quý phô trương ngõ nhà;
Vách tường sơn lại phết qua,
Trên cây cờ phất, cột thờ điểm tô.
Ở nơi đại lộ tứ cù,
Nhựt thần [5] tượng Thánh ngự vô bàn thờ.
Hoàng thành chỉnh bị bấy giờ,
Dường như đô thị huyền cơ nhiệm mầu.
Trên đường, chiêng trống trổi mau,
Nhơn viên cáo thị truyền tâu như vầy:
"Quí vì công chúng nghe đây,
Nhà vua phán dạy hiện bày nghiêm trang :
Mù, què, bệnh, tật, ghẻ sang,
Cùng người già cả, chớ mang ra ngoài,
Đừng đem thiêu đốt xác hài,
Hãy chờ chiều tối, bi ai tống hành.
Đó là Thánh chỉ dạy rành,
Su-đà-na [6] Chúa ở thành chúng ta."

***
Cảnh tình đẹp đẽ rườm rà,
Khắp thành La Vệ [7] nhà nhà dọn chưng,
Đông cung ngự đến vừa chừng,
Xe loan rực rỡ sau lưng đôi bò.
Bạch ngưu thạnh tráng, cổ to,
Bướu mang ách chạm, sơn tô đẹp màu.
Chúng dân khánh hạnh chen nhau,
Hoan hô vang dậy, ca âu tưng bừng.
Đạt-Đa trông thấy cũng mừng,
Dân trung, áo đẹp, chí hừng cười rân.
Ngài rằng: "Thế giới đẹp, hân;
Trai thì hòa, gái cần, nết na.
Ta đây có giúp chi mà,
Họ nay được vậy, ấy là nhờ đâu?
Ta yêu dân chúng như nhau,
Họ nào có biết tình sâu lòng nầy? "
Một chàng Thích tử đâu đây,
Ném hoa mà tặng đức Thầy ngự du.
Ngài liền truyền lịnh mã phu:
"Hãy mời trẻ ấy mặc dầu lên xe!"
"Nước ta tình cảnh cũng xuê,
Làm vua cai trị có bề thích ưa !
Dân đây thỏa dạ chẳng vừa,
Vì ta đến họ như trưa hôm nầy.
Nhà nhà nếu được vui vầy,
Khiến cho đô thị đủ đầy hân hoan,
Thì ta hạnh phúc châu toàn,
Ích chi vật khác mà toan có nhiều ;
Nầy Xa-Nặc! cứ thuận chiều,
Dẫy xe qua khỏi bấy nhiêu cửa nhà;
Đặng ta thấy hết gần xa,
Cảnh đời tươi thắm nay ta mới tường."
Giá loan trực chỉ trên đường,
Đó đây dân chúng chạy bương áp vào.
Trước xe, vài kẻ đón chào,
Vòng hoa cầm lấy, thảy trao đôi bò ;
Hông bò trơn mịn, vuốt mò,
Có người bánh ngọt quả to hiến mời.
Ai ai đều cũng tỏ lời:
"Chúc nguyền Điện-hạ sống đời muôn xuân. "
Chiếu vua đã được kính tuân,
Người người hoà duyệt, cảnh hân hoan chào.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
***
Bỗng đâu một kẻ lạc vào,
Khốn cùng, rách rưới, hỗn hào, lọ lem;
Từ nơi hang lỗ ẩn êm,
Lướt ra giữa lộ chẳng thèm kể ai.
Già khù, má tóp, xuội vai,
Da nhăn, đen đúa, sát ngoài xương khô.
Lưng còm mang nặng xuân thu,
Đôi vành mắt đỏ, lù lù ghèn xanh.
Miệng móm sọm, hàm trống quanh,
Rút co vì bại, vì kinh đám người,
Gậy cùng, tay ốm chống bơi,
Hai chơn lảo đảo như người quá say.
Tay kia bóp lấy sườn gầy,
Phát ra hơi thở lẫn lây khổ buồn;
Than rằng: "Cô bác khá thương,
Tớ xin bố thí, chết đường nay mai! "
Tay sè, cổ lại ho dai,
Mắt nheo lia lịa, miệng nài thi ân.
Quân hầu kéo xển, quở rân:
"Đông cung ngự tới, lão lần tránh xa."
Trên xe, Thái tử dứt nà:
"Khoan! Khoan! Xa-Nặc! đó là người chi ?
Cúp lưng, tiều tụy, dị kỳ,
Trong đời có những kẻ vầy hay chăng ?
Tại sao ngươi thốt la rằng:
Tớ xin bố thí, chết bằng nay mai?
Hình thù ốm yếu, xương lòi,
Chính người chẳng được cơm xơi chớ gì ?
Kẻ nầy khốn khổ lắm thay! "
Viên quan hộ giá trình bày lược qua:
"Tâu Điện-hạ! Đó người già,
Tuổi dư tám chục, lưng đà uốn cong;
Xưa người mình khoẻ, mắt trong,
Bây giờ lão mại, cạn dòng nhựa thân.
Tráng cường, nghị lực, trí căn,
Hao mòn, lụn bại, lần lần dứt thôi.
Đèn kia dầu mỡ cạn rồi,
Mảnh tim nát ngướu, ánh bồi hồi băng.
Đó là kết quả tuổi hằng,
Tại sao Điện hạ nằng nằng chú tâm?"
Đông cung tiếp đó hỏi thăm :
"Già nầy là một, hay trăm triệu người ?"
"Bạch Ngài! Xa-Nặc đáp lời,
Những ai cao tuổi, chịu nơi khổ Già."
Nhưng mà Thái tử hỏi qua:
"Nếu ta trường thọ, cũng là vậy sao?
Da-Du, thể nữ tại trào,
Tám mươi há cũng má đào lợt phai ?"
"Bạch Ngài! Như vậy chẳng sai."
Ngài truyền:" Xa-Nặc! hãy dời trở lui;
Quay về cung điện thế thôi,
Đã trông tận mắt, việc ôi không ngờ! "

***
Đường về nghĩ cảnh Già lờ,
Ngự vào cung cấm, dật dờ buồn thiu.
Đến khi cơm dọn buổi chiều,
Trái ngon bánh ngọt dẫu nhiều chẳng xơi.
Mấy cô vũ nữ đền đài,
Tranh khoe sắc thắm, nhưng Ngài chẳng trông.
Da-Du thấy sự lạ lùng,
Quì bên chân bạn, rỉ cùng Trượng phu:
"Tại sao Điện hạ ưu sầu,
Chẳng vui với thiếp như hầu các hôm? "
Ngài rằng: "Ta luống bồn chồn,
Vui vầy há dễ hưởng luôn được nào ?
Đến chừng kỷ trưởng niên cao,
Hai ta rồi sẽ hư hao, yếu, còm.
Vai kề, má dựa, tay ôm,
Thời gian phá hoại, mùi thơm lụn tàn.
Đó như cơn tối chập chờn,
Xóa bôi ánh sáng trên ngàn cheo veo;
Màn đen buông xuống lưng đèo,
Lần lần bao phủ, nhìn theo thấy gì?
Phát minh việc ấy hôm nay,
Lòng ta lo sợ, tính ngay phương nào?
Tình yêu bảo vệ làm sao,
Cho thời gian khỏi đưa vào lão nguy ? "
Trọn đêm Ngài mảng nghĩ suy,
Chẳng an giấc điệp, chẳng khuây nỗi sầu.

***
Đêm nay vua tại điện lầu,
Nằm mơ thấy những điềm đâu bàng hoàng:
Một cây cờ lớn đặt ngang,
Mặt trời ở giữa, thế hàng Đế Thiên [8];
Bỗng đâu gió mạnh thổi lên,
Xé tan cờ quý, xô miền bụi dơ.
Một đoàn Tiên Thánh hờ cơ,
Bay ngang đáp xuống, lượm cờ lắm lem;
Thuận tay, cờ ấy được đem,
Cửa Đông thành quách dựng kèm để yên.
Điềm hai, vua lại thấy liền:
Mười con voi lớn, mép bên có ngà;
Nặng nề chơn bước, dội xa,
Từ phương Nam đến, trải qua dặm dài.
Ngồi trên voi trước, thảnh thơi,
Đạt-Đa Thái Tử, lắm người theo sau.
Điềm ba, một chiếc xe mầu,
Ánh quang chói lói, chạy mau trên đường.
Bốn con tuấn mã trước cương,
Phun ra khói trắng, bọt đường lửa than.
Trên xe Thái tử ngồi an;
Kế là điềm bốn, long nhan thấy vầy:
Một bánh xe, tự nó quây,
Tum bằng vàng thiệt, căm đầy bửu châu;
Trên vành, chữ lạ thành câu,
Bánh xe quay mãi, lửa mầu phóng ra;
Lại thêm có tiếng nhạc ca,
Từ trong Luân bảo ngâm nga tiêu thiều.
Điềm năm trống lớn là điều,
Nửa đường thành phố, nửa chiều núi non;
Tay cầm dùi sắt nện luôn.
Hoàng nam đánh trống, bon bon tiếp liền,
Dường như sấm sét chuyển rền,
Không gian tràn ngập, thấu lên tận trời.
Sáu là điềm Tháp cao vời,
Vượt trên đô thị, nóc thời mây bao;
Đạt-Đa đứng đảnh Tháp cao,
Rải ra bốn hướng trân hào bửu châu;
Ngọc như mưa giội trên đầu,
Mọi người chạy đến, giành nhau báu nầy.
Cái điềm thứ bảy là đây:
Lòng vua lo sợ, nghe đầy tiếng than;
Sáu người khóc kể kêu van,
Nghiến răng, bụm mặt, chứa chan mạch sầu.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
***
Bảy điềm vua thấy trước sau,
Những thầy bói giỏi giải mầu chẳng xong.
Vua bèn tỏ nỗi hận lòng:
"Nhà ta có nạn, chẳng ông nào rành!
Thánh Tiên cho thấy mộng linh,
Nhưng không ai biết biện trình tương lai."
Kinh thành ưu lự cảm hoài,
Vì vua thấy mộng chẳng ai biết bàn.
Một ông tu sĩ ẩn nhàn,
Áo choàng da thú, miệng loan trước đền:
"Đưa ta vào tới Bệ tiền,
Mộng vua, ta biết giải liền kiết hung."
Bảy điềm lạ vừa nghe xong,
Đạo nhơn ứng tiếng, khiêm cung, kính nhường:
"Chào mừng gia quyến Đại-vương,
Phước lành sáng rỡ, nhựt quang chẳng bì!
Bảy điềm vua sợ trước đây,
Tức là triệu chứng việc hay sắp vời.
Điềm đầu cờ hiệu vua Trời,
Giương ra rồi bị tơi bời vất tung;
Đó là đạo cũ cáo chung,
Một nền Đạo mới vẫy vùng hiện ra;
Thánh Tiên gẫm cũng như ta,
Thay ngôi đổi vị hẳn là luật xưa;
Kiếp kỳ sánh tợ ngày giờ,
Lâu rồi cũng hết, tiếp hờ kiếp sau.
Mười con voi lớn theo nhau,
Bước đi rúng động địa cầu: điềm hai,
Nghĩa là Mười món Trí tài,
Của Ngài Thái tử bỏ đời vương gia ;
Trí Ngài chấn động sơn hà,
Ngài đem Chơn lý bủa ra khắp cùng.
Bốn con tuấn mã hơi nồng,
Kéo xe sáng chói thẳng xông lên đường ;
Đó là bốn lý oai cường,
Đưa Ngài Thái tử tới phương ánh ngời.
Bánh xe quay chuyển chẳng ngơi,
Tum vàng ở giữa, vành ngoài chữ linh ;
Đó là Luân bảo Pháp lành,
Hoàng nam sẽ chuyển, chúng sanh thỏa nhìn.
Trống to, dùi sắt nện lên,
Đạt-Đa đứng đánh, tiếng rền khắp nơi;
Điềm này là biểu hiệu Lời
Ngài đem truyền bá cho đời hiểu thông.
Một ngôi Tháp vượt chín từng,
Nghĩa là kinh Phật lướt xông tít mù;
Từ trên Tháp, rải bửu châu,
Đó là Pháp thí phàm phu, thiên, thần.
Sáu người thê thảm khóc rân,
Tay thì bụm mặt, than thân phận mình;
Đó là điềm bảy chứng minh,
Sáu thầy ngoại đạo hẳn đành chịu thua;
Lý minh, lẽ vững giúp vua,
Hoàng nam bác bẻ thuyết thô Sáu Thầy.
Tâu Thánh Chúa! Hãy mầng đi!
Vua giàu đệ nhất chẳng bì Đông cung.
Mặc dầu người đắp nâu sòng,
Còn hơn áo mịn vàng ròng phô trương.
Ấy là mộng điệp Đại vương!
Bảy ngày đêm nữa, việc đương hiện bày."
Dứt lời, đạo sĩ kiếu đi,
Tám lần cúi xá, lại quỳ ba phen.
Vua sai sứ giả đi liền,
Kiếm tìm ông Đạo, của tiền thưởng công.
Trở về tâu trước đền rồng:
"Chúng tôi theo lão vào trong Nguyệt từ [9],
Chim mèo xám đậu bàn thờ,
Chúng tôi vào đó từ từ nó bay."
Thiên thần âu cũng có khi,
Hiện thân chim chóc như vầy biết đâu!
Vua cho rằng lạ, ưu sầu,
Ngài bèn xuống lệnh: siêng hầu Đông-cung;
Bày thêm nhiều cuộc vui nồng,
Buộc tâm Hoàng tử ở vùng điện xinh.
Lại tăng binh giữ cửa thành,
Nhưng ai ngăn nổi sức linh số phần?
Bấy giờ Hoàng tử muốn cần,
Nhìn xem cuộc sống nhơn dân, thế tình;
Cảnh nầy rất đẹp, rất xinh,
Nếu không chạm phải tình hình Thời gian.
Trình vua Tinh Phạn lời van:
"Xin Cha cho Trẻ viếng an kinh thành;
Kỳ rồi Cha khiến dân lành,
Dẹp người khổ não, chỉ dành cảnh vui.
Nhưng con đã hiểu rõ rồi,
Đó là chẳng phải khúc nôi cuộc đời.
Nay con muốn biết mọi nơi,
Chúng dân, đường xá, sanh nhai, nghiệp nghề.
Phụ vương cho Trẻ trọn bề,
Cải trang ra khỏi vườn huê du nhàn.
Cho con thong thả hoàn toàn,
Mai nầy thầy tớ liệu toan lên đường."
Giữa triều vua phán rõ ràng:
"Kỳ nhì du ngoạn ắt chàng sửa sai?
Tự do Hoàng tử dạo chơi,
Để chàng thăm viếng mọi nơi thỏa tình.
Các quan rồi sẽ phúc trình,
Lòng Chàng biến chuyển, trở thành ra sao."

***
Bữa sau, giờ ngọ khai mào,
Hoàng nam, Xa-Nặc tiêu dao ra đền,
Ấn vua nhìn thấy ở trên,
Quân canh vội mở chốt then cửa ngoài.
Khách thương một vị thảnh thơi,
Một thầy thơ ký gót hài theo sau:
Đạt-Đa, Xa-Nặc, kẻ hầu,
Hai người cải dạng, ai đâu mà dè?
Trên đường thẳng tới đề huề,
Xen cùng bá tánh chợ quê đủ mùi.
Thị thành cảnh vật buồn vui,
Thầy trò thấy đủ lần hồi như đây:
Đường đi xinh lịch giải bày,
Kẻ qua, người lại, rù rì, xôn xao.
Những người buôn bán ngồi vào,
Đậu, mè, gia vị sắp bao quanh mình,
Khách mua khi đã thuận tình,
Lần trong dãy thắt xuất trình đồng ngân.
Nữa là tính thiệt đo hơn,
Bên thì nói thách, bên lần giảm đi.
Tiếng la eo óc chốn ni,
Khiến người nép tránh cho đây qua lề.
Bánh xe bằng đá nặng nề,
Bò to chậm bước, đồ kê gập ghềnh.
Những người khiêng kiệu co quanh,
Vừa đi vừa hát ân tình, ca dao.
Những phu đội vác bôn đào,
Cổ to, lưng rộng, dạt dào mồ hôi.
Mấy trang nội trợ lui cui,
Ôm ghè từ giếng mà lui về nhà.
Nhiều cô thiếu phụ nữa là,
Bồng con dưới nách hết ra lại vào.
Hàng bánh mứt, ruồi xôn xao,
Kìa người thợ dệt rạt rào đưa thoi.
Cối xay nghiến bạt, bột lòi,
Chó đi thơ thẩn kiếm moi đồ thừa.
Thợ làm binh khí sớm trưa,
Tạo nên áo giáp phòng ngừa chiến tranh.
Thợ rèn đốt lửa ngọn xanh,
Nướng cây cuốc sắt, trui thanh giáo dài.
Trong trường, giáo thọ giảng bài,
Trẻ con họ Thích hợp lời ca ngâm,
Ngồi vòng bán nguyệt, nghiêm thâm,
Học qua lịch sử cả trăm Thánh Thần.
Mấy người thợ nhuộm áo quần,
Đem phơi ngoài nắng đủ ngần trắng xanh.
Quân nhân đương lúc bộ hành,
Thuẫn, gươm khua động cạch canh đó mà.
Những người chăn giữ lạc đà,
Ngồi trên cổ bướu, lại qua vóc mình.
Bà-la-môn nết hạnh lành,
Sát-lỵ, Phệ-xá với ngành Thủ-la;
Bốn hàng ấy ở nước nhà,
Tu hành, trị quốc, thương gia, ruộng vườn.
Ở đây, quần chúng chen bươn,
Nhìn nhà dụ dẫn phô trương độc xà;
Người nầy nói chuyện vui pha,
Cườm tay để rắn quấn ba bảy vòng;
Kèn bầu, người thổi dài dòng,
Khiến con rắn dữ vẫy vùng múa men.
Đàng kia, một đám trống kèn,
Tàn tơ, ngựa đẹp, dân hiền vu qui,
Trước thần, hoa quả sẵn bày,
Nàng nầy cầu tự hoặc vì viễn phu.
Xa xa, dãy tiệm đồng thau,
Thợ đem đập nắn đèn dầu, nồi niêu,
Thầy trò Hoàng tử dắt dìu,
Dưới tường chùa miễu dài theo cửa đền;
Cuối thành quách, có rạch bên,
Hai người qua đó, bước lên nhịp cầu.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
***
Bên đường bỗng có tiếng sầu :
"Quí ngài tế độ, đỡ đầu tôi lên ;
Ôi thôi! cứu vớt một phen,
Không thì tôi chết ở trên vệ đường!"
Ấy người Bệnh dịch thảm thương,
Rẩy run, lăn lộn, bụi vương áo quần ;
Trên mình nổi mụt đỏ rần,
Mồ hôi khắp trán, miệng lần rút co;
Đương cơn nguy kịch đáng lo,
Mắt thì lơ láo, hẹn hò giờ đi!
Cỏ bên lộ, cố bám ghì,
Gượng mà chỗi dậy, rồi thì té ngay;
Tứ chi run rẩy ghê thay,
Miệng đành kêu thốt: "Ai hay cứu dùm!".
Đạt-Đa chạy tới, lum khum,
Đỡ người bạc phận, mắt trùm tình yêu.
Đầu người ấp gối nâng niu [10],
Bóp xoa êm dịu, thấy chiều tỉnh tươi.
Hỏi thăm: "Có bớt chăng người?
Bệnh chi mang lấy mà ngươi té nhào?
"Nầy Xa-Nặc! bởi lẽ nào,
Người kia hồi hộp, kêu gào, rên la?
Tại sao va muốn nói ra,
Lưỡi đơ miệng cứng, thật là thảm thương? "
Viên ngự giả đáp tỏ tường :
"Tâu Ngài! kẻ ấy đã vương Bệnh rồi.
Bất hòa, tứ đại rối nùi,
Máu me như thể nước sôi, lửa nồng.
Trái tim xưa nhảy đều đồng,
Bây giờ lúc chậm, lúc vùng đập lia,
Gân như dây ná đứt lìa,
Nhượng chân, thận, cổ hết bề cử đương.
Sắc duyên, vui vẻ, tráng cường,
Bây giờ tản mác xa đường còn chi!
Lúc nầy cơn bệnh phát nguy,
Kìa người mó máy như truy bệnh tình.
Đỏ lòm, cặp mắt liếc quanh,
Nghiến răng, nghẹt thở như mình ngộp hơi.
Người kia muốn chết rồi đời,
Đương khi hành bệnh, thác thời sao xong!
Bệnh còn sát hại gân trong,
Tứ chi hết cảm, bệnh hòng thoát ly,
Rồi tầm chốn khác hành vi;
Nhưng Ngài đừng có ôm chi người nầy,
Bệnh tình có thể nhiễm lây,
E Ngài chẳng khỏi vướng dây lan truyền."
Đông cung tiếp tục vỗ khuyên,
Nhưng Ngài cũng hỏi cơ duyên cho tường:
"Há còn nhiều bệnh đáng thương?
Ta đây có thể cũng vương chớ gì?"
Chàng Xa-Nặc đáp tức thì:
"Mọi người đều phải chứng nầy hoặc kia:
Tên ghim, dao búa chém lìa,
Yếu đau, ghẻ lác, đằm đìa phong đơn;
Có người nóng lạnh từng cơn.
Hoặc đau kiết lỵ, vân vân mọi đường."
Đông cung mới hỏi rõ ràng:
"Đương khi bệnh đến, mình thường thấy chăng? "
Chàng Xa-Nặc ứng đáp rằng:
"Bệnh như rắn ẩn, buông phăng cắn mình;
Lại như cọp dữ đang rình,
Từ trong bụi rậm thình lình phóng ra;
Bệnh như lằn chớp trên xa,
Đánh người bên nọ, dung tha bên nầy."
"- Người đời há sợ hằng ngày?"
"- Tâu lên Điện-hạ! như vầy chớ sao?"
"- Thế thì không kẻ tự hào:
Đêm nay ngon giấc, thức vào ngày mai?"
"- Bạch Ngài! thật vậy chẳng sai,
Không ai dám chắc tương lai của mình."
"- Biết bao đau đớn chực rình,
Thân hư, tâm khổ, rồi sinh cái Già!"
"- Nếu mình sống được lâu xa."
"- Ví bằng thiếu sức lướt qua bệnh trầm,
Hoặc người chẳng muốn cự cầm,
Kẻ mong kết thúc cái mầm khổ đau;
Hay người chỉ biết rên sầu,
Cũng như kẻ bệnh kê đầu tay ta ;
Hay người tuổi đã quá già,
Đương tình cảnh ấy, dứt ra thế nào ?"
"Bạch Ngài! đành chết chớ sao!"
"- Thế là cái Chết bước vào phải không?"
"- Bạch Ngài! chết đến đau cùng,
Bất kỳ giờ khắc, xứ vùng đâu đâu.
Kẻ nầy còn tới bạc đầu,
Phần đông thống khổ, yếu đau, gầy mòn;
Nhưng rồi ai cũng chẳng còn,
Kìa xem cái Chết đương lòn bước qua!"
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
***
Đạt-Đa Hoàng tử trông ra:
Đoàn người chậm bước, lệ sa đằm đìa;
Hướng theo phía rạch xa kia,
Một người dẫn lộ lắc lia lọ sành,
Than hồng chứa đựng đầy bình;
Phía sau nhiều kẻ gia đình lần theo,
Mọi đồ tang phục mang đeo,
Áo quần xào xể, hò reo nằn nì:
"Ra-Ma! Ngài hãy chứng tri,
Cầu Ra-Ma đủ từ bi độ đời."
Sau cùng, đến cái quan tài;
Tre đan ở giữa, cán ngoài bốn cây;
Nằm trên là một cái thây,
Chân đưa phía trước, ốm gầy, cứng đơ:
Miệng hủng xuống, mắt chẳng đưa,
Hông sâu, nhăn nhó, bụi dơ đỏ vàng.
Vừa khi tới ngã tư đàng,
Phu khiêng quay cáng, đầu sang phía tiền;
"Ra-Ma", hô lớn liền liền,
Chúng đưa thi thể đến miền bờ sông.
Giàn thiêu cất sẵn chờ trông,
Tử thi đặt đó, chất chồng củi lên.
Xót người nằm đó ngủ quên,
Dầu cơn lạnh lẽo, cũng yên giấc hoè!
Nơi trống trải, gió bốn bề,
Thân hình để lộ chẳng che áo quần.
Bốn bên, lửa bắt lần lần,
Ngọn bò lên liếm bốn phần giàn thiêu.
Bỗng nhiên lửa túa mạnh chiều,
Chụp thây mà cắn, ngọn phèo phèo phun.
Thịt da nứt lắt lẻo tung;
Khói xông dầy đặc, sau cùng mỏng manh.
Tro tàn tạ, đỏ rồi xanh,
Xương thừa vài mảnh rắc quanh bên đàn.
Đông cung tỏ vẻ phàn nàn:
"Đây là kết cuộc nhơn gian chớ gì?"
Chàng Xa-Nặc đáp lời ni:
"Ấy là cảnh tượng chung qui người đời.
Trên giàn một kẻ nằm dài,
Qua cơn hỏa táng, sót vài miếng xương;
Mấy con quạ đói kêu vang,
Chẳng thèm mổ gặm, tầm đường bay đi.
Nhưng mà người ấy trước đây,
Uống, ăn, cười, giỡn, vui say ái tình,
Ở đời, yêu cuộc sống sinh,
Rồi thì ai biết tình hình xảy ra?
Một cơn giông tố rừng già,
Trên đường trật bước, ao sa thấm bùn;
Hoặc rắn cắn, hoặc dao vung,
Cảm hàn, xương cá, ngói tung nhằm đầu.
Cuộc đời nhơn đó giảm thâu,
Người ta phải chết, còn đâu tiếc hồi!
Uống, ăn, vui, khổ, dứt rồi,
Môi hôn chẳng cảm, lửa bồi chẳng đau.
Mũi không ngửi biết nữa đâu,
Mặc dầu thịt khét, mặc dầu hương hoa,
Miệng không biết vị nữa là,
Tai không nghe tiếng, mắt lòa hết trông.
Thân bằng cố hữu khóc ròng,
Mau thiêu xác ấy, kẻo mòng giòi bu!
Số phần nhục thể vậy ru!
Xấu hèn cũng chết, sang giàu cũng queo!
Cứ như Kinh điển mà theo,
Tử sanh luân chuyển, biết gieo chốn nào?
Rồi còn trở lại làm sao ?
Còn cơn tử khổ, còn vào hỏa thiêu!
Nhơn gian luẩn quẩn bấy nhiêu,
Cái vòng như vậy là điều tử sanh."

***
Đạt Đa ngước mặt trời xanh,
Mắt Ngài chiếu giọt lệ lành Thần Tiên.
Kế Ngài nhìn xuống đất liền,
Đượm nồng đức tánh Từ Hiền Xót Bi.
Nhìn trời nhìn đất liền khi,
Dường như Ngài muốn nối vầy dưới trên.
Uy nghi Ngài mới đứng lên,
Dáng người bác ái, sức bền tự tin.
Hô rằng: "Trần lụy ta nhìn,
Lưới sanh tử khổ bủa ghì chẳng tha.
Hoàn cầu mang bệnh trầm kha,
Lạc là giả dối, phước là trêu ngươi.
Lao đao cực nhọc kiếp người,
Vui chưa tròn hưởng, Khổ vùi tấm thân.
Trẻ thấy đó, lão lại gần,
Người yêu vật mến vội phân tách mình.
Sống rồi thì chết rã hình,
Kế là tiếp tục sanh thành đôi nơi,
Bánh xe luân chuyển chẳng ngơi,
Trong vòng Sanh Tử người đời mãi lâm:
Ham chi vui sướng lạc lầm,
Để rồi thọ khổ thân tâm đủ đường .
Ta đây cũng đã bị lường,
Nhìn đời tốt đẹp cũng dường lạch sông;
Dưới ánh nắng, nước xuôi dòng,
Lờ đờ mãi mãi như không vội vàng.
Sông đời nước chảy ngang tàng,
Vội tuôn vườn ruộng, nhập hàng biển dơ!
Bức màn án mắt thuở giờ,
Nay đà bị xé, rách trơ rã rời.
Ta từng theo hạnh người đời,
Nguyện cầu Tiên Thánh các Ngài chẳng nghe!
Hẳn là có sự chở che,
Ai ai cũng muốn nhờ về Sức Linh!
Biết đâu các đấng như mình,
Cũng đều cầu nguyện, nhờ bênh vực giùm!
Thánh Thần sức yếu chẳng trùm,
Không phương cứu kẻ lum khum khẩn cầu!
Ta không nỡ để khóc sầu,
Nếu ta đủ sức đỡ đầu đắc chơn!
Phạm Thiên tạo hóa thế gian,
Tại sao bỏ chúng lâm nàn thế ni?
Vì Ngài có đủ quyền uy,
Bỏ đời chẳng cứu, tốt gì mà khoe?
Nếu Ngài thế lực kém bề,
Xưng danh Thiên Chủ khó nghe lắm mà!
Nầy Xa Nặc! trở về nhà,
Mắt ta xem đủ, nữa là thế thôi!"

***
Vua nghe thuật rõ khúc nôi,
Truyền ba tốp lính canh ngoài cửa cung;
Không ai ra khỏi, vào trong,
Ngày đêm đều vậy, cho xong hạn kỳ;
Vì vua nằm mộng trước đây,
Giữ cho qua khỏi số ngày thì êm.

________________________________________
[1] Tchitra, tên cô cung nữ vừa hát.
[2] thứu : chim ó (vautour).
[3] Tần-bà-sa-la (Bimbasâra): Vị vua lớn nhứt ở Ấn-Độ hồi đời Phật.
[4] Toulsi: giống cây thơm có tánh cách thiêng liêng. Mỗi gia đình Ấn-Độ quí trọng cây ấy một cách đặc biệt; Khi người Ấn Độ phát thệ trước tòa họ phải ăn một lá toulsi do một thầy Bà-la-môn trao ra .
[5] Nhựt thần (Souryadéva): Thần mặt trời.
[6] Su-đà-na (Souddhôdana) dịch nghĩa: Tịnh-Phạn, cha của Thái tử Tất-đạt-đa.
[7] La-vệ tức Ca-tỳ-la vệ (Kapilavastou), kinh đô vua Tịnh-Phạn.
[8] Mặt trời là tượng trưng đức Đế Thiên Đế Thích (Indra) .
[9] Nguyệt từ : Đền thờ Thần Mặt trăng (Tchandra, La lune).
[10] Thái-tử ôm đầu người bệnh kê lên đầu gối của Ngài.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
Phần thứ tư

TỪ BỎ

Book the Fourth - Renunciation

_______​

Nhưng khi trải đủ ngày đêm,
Thế Tôn thực hiện cái điềm ra đi.
Đền vàng kêu khóc ai bì,
Vua cha rầu rĩ, dân thì đau thương.
Nhưng rồi có sự lạ thường:
Chúng-sanh giải-thoát, Đạo đương phổ truyền.
Những ai nghe Lý diệu huyền,
Trở nên tự tại, được quyền tự do.
***
Màn đêm trải khắp đồng to,
Trời xuân, trăng tỏ, người lo cúng thần (1).
Trên cây xoài đỏ lần lần,
Vô-ưu (2) nương gió, hương phản phức cùng.
Thị thành, làng xóm, ruộng đồng,
Đâu đâu cũng hưởng phước hồng duyên may.
Từ từ, đêm xuống cung nầy,
Bầu trời hương tỏa, sao đầy không gian;
Gió xuân trên đỉnh Tuyết san,
Hiu hiu thổi xuống nghe man mác người.
Hướng đông sau đỉnh núi khơi,
Kìa vầng nguyệt rạng lần hồi vượt lên;
Ánh trăng chiếu khắp bốn bên
Sông Rô-hi-ni và trên núi rừng.
Đồng bằng, sủng vực sáng trưng,
Chiếu trên cung điện đương chừng ngủ say.
Cửa ngoài, lính gác nghiêm bày,
Trống canh đổi hiệp, hô ngay khẩu truyền.
Đêm khuya ai nấy ngủ yên,
Chỉ nghe chó sói hú rền xa xa;
Lại trong mấy cụm vườn hoa,
Nỉ non tiếng dế tấu hòa chẳng ngơi.

***
Trăng lòn đá chạm thông hơi,
Rọi ngay vách phấn, chiếu nơi rền nhà;
Trăng soi thấy nhóm gái ta,
Cảnh như phòng ốc Tiên nga Thiên đàng (3),
Đó là mỹ nữ dịu dàng,
Lọc lừa kỹ lưỡng mới mang vào đền.
Mỗi cô đương lúc nghỉ yên,
Dường như ngọc tốt ở bên đá thường.
Lần hồi nhìn khắp cung đường,
Cô nầy thấy đẹp hơn nàng bên kia.
Càng nhìn càng thấy thích mê,
Cũng như xem ngọc nằm kề với nhau;
Hạt nào cũng chiếu đủ màu,
Khó mà phân biệt hơn nhau những gì!
Các cô cung nữ nằm đây,
Tay chơn nửa kín, nửa bày lộ ra;
Tóc huyền gài thắt dây hoa,
Hoặc buông phủ ót như là sóng xao.
Qua cơn mệt mỏi giỡn nhào,
Bây giờ ngon giấc mộng đào đêm xuân.
Tỷ như chim chóc tập quần,
Trọn ngày ca hát, lần vần yêu nhau;
Mệt rồi lấy cánh phủ đầu,
Sáng ra thì lại mặc dầu ca yêu.
Trên trần, có những đèn treo,
Bình, dây bạc chạm, chế nhiều dầu thơm,
Đèn soi hiệp với trăng dòm,
Các nàng đề đạm nằm gom thấy tường:
Phập phồng mấy bộ ngực dương,
Tay son nắm chặt hoặc trương ra ngoài;
Mặt hồng với cặp mày ngài,
Đôi môi hơ hở, răng ngời như châu;
Mắt thời hai mí nhuyễn nhu,
Lông nheo dài chấm đôi bầu má non.
Cổ tay tròn trịa thon thon,
Chơn đeo lục lạc với lòn thủy tinh;
Cô kia trở giấc cựa mình,
Tức thì reo tiếng lanh tanh ngọt ngào.
Kia kìa nằm đó cô nào,
Cây đờn để sát má đào mỹ nhơn;
Tay măng còn vịn dây đờn,
Như đương gẫy khúc, chập chờn ngủ quên.
Một cô khác nữa nằm bên,
Tay ôm con lộc đã quen hơi nàng;
Thú nầy hiền hậu dễ thương,
Mảng mê ăn những hoa hường nàng trao;
Tớ thầy vào giấc mộng đào,
Hoa còn nửa đóa ở vào tay cô;
Đương khi con lộc kê đầu,
Hoa hường một cánh dính vào mép môi.
Đàng kia hai ả thành đôi,
Kết hoa rồi lại ngủ ngồi bên hoa.
Lại thêm cô khác nữa là,
Xỏ nhiều thứ ngọc cho ra chuỗi chuyền;
Dây hồng một sợi nối liền,
Quanh cườm tay đẹp, ngọc hiền chiếu ra;
Cuối cùng, ngọc bích đó là,
Khắc hình Thần Thánh, mạ qua vàng ròng.
Khi nàng xỏ chuỗi vừa xong,
Buông mình xuống đó, vào trong giấc hoè.
Trong vườn con rạch ro re,
Ru như mỹ nữ đê mê giấc nồng;
Tỷ như hường mới đơm bông,
Chờ khi rựng sáng nở tung ánh trời.
Đó là cung cấm phòng Ngài,
Phía trong là trướng những người đẹp hơn;
Gôn-Ga, Gô-Tá-mi (4) nương,
Hai cô hầu cận cung loan ái tình.
Trướng buông, màu thắm lẫn xanh,
Thêu toàn kim tuyến chận ranh cửa đền.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Bên trên