P

Đi Tìm Vô Ngã

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Các Đạo Hữu thân mến,

Vô Ngã đã được nhiều người nói đến, trong Kinh Điển, Đức Thế Tôn cũng đã dậy chúng ta .
Tuy nhiên trong thực tế đối với người Cư Sĩ, vô ngã có hai mặt, Đạo và Đời . Đạo và Đời không thể tách biệt, trừ khi để tu học hoặc chưa đủ trình độ hành Đạo .

Đi tìm Vô Ngã quả thật như đi vào một cõi mộng, một cõi mà các nhà Triết học Hy Lạp gọi là Utopia (mộng tưởng), cái khác ở đây là chúng ta không đi vào Utopia mà có thật trong đời sống hàng ngày .

Để ra khỏi cái Utopia, chúng ta có thể tự hỏi Vô Ngã có làm mất cái Ngã chăng ?

Mọi ý kiến xây dựng đều được hoan hỉ tiếp nhận .

Mến,
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Về từ ngữ Utopia, có một từ khác là Eutopia .

Cái khác nhau giữa Utopia và Eutopia là nếu Utopia chỉ là lý thuyết mộng tưởng (non existence) thì Eutopia là một dạng khả thi của Utopia, theo các nhà triết học Tây phương, Eutopia được coi như có nghĩa là Perfect (hoàn toàn, thập toàn hoặc có thể gọi là viên mãn ) và không phải là sự giả tưởng (non fictional) .

Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Đối nghịch với Eutopia, các nhà Triết học còn đặt ra Outopia .
(Outopia derived from the Greek 'ou' for "no" and '-topos' for "place," a fictional, this means unrealistic or directly translated "Nothing, no matter what")

Outopia có nghĩa là cõi không tuyệt đối, không có một cái gì cả .

Các Đạo hữu đừng lầm lẫn "OUTOPIA với cái "KHÔNG " của nhà Phật chúng ta .

Mến,
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
Kính bác Phi Vân !
V/h xin phép "lải nhải" :

_ Một tiểu hành tinh bay lơ ngơ trong vũ trụ, nó đi tìm cái gì ?

* một định tinh nào đó chăng ?
* Bản thể , Thật tướng chăng ?
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Đ.H. V/H thân mến,

Tiểu Hành Tinh là một danh từ khoa học vậy ta hãy nhìn nó dưới khía cạnh khoa học :

Trong Hệ Mặt Trời, các tiểu hành tinh là các thiên thể nhỏ hơn hành tinh, thường không đủ khối lượng để giữ hình dạng hình cầu, có quỹ đạo nằm chủ yếu giữa Sao Hoả và Sao Mộc (giữa 2,3 và 3,3 AU từ Mặt Trời), và cấu tạo chủ yếu từ các khoáng chất không bay hơi.

Tập hợp các tiểu hành tinh tạo thành vành đai các tiểu hành tinh. Vành đai chính có hàng nghìn các tiểu hành tinh lớn hơn 1 km, và hàng triệu các vật thể bé như bụi. Dù có số lượng lớn như vậy, tổng khối lượng của cả vành đai chính nhỏ hơn khối lượng Trái Đất 1000 lần. Các tiểu hành tinh với đường kính nhỏ hơn 500 m được gọi là thiên thạch. Các thiên thạch và bụi có thể va quệt vào khí quyển Trái Đất và tạo ra các "cơn mưa" sao băng.

Các tiểu hành tinh có thể tập hợp thành những nhóm tiểu hành tinh và các gia đình tiểu hành tinh, dựa trên các tính chất quỹ đạo riêng biệt của chúng. Các mặt trăng của tiểu hành tinh là các tiểu hành tinh quay theo quỹ đạo lớn hơn các tiểu hành tinh. Chúng không được phân biệt rõ ràng như các mặt trăng của hành tinh, thỉnh hoảng chúng hầu như lớn bằng hành tinh bên cạnh.

Có nhiều tiểu hành tinh chịu nhiễu lực hấp dẫn, đặc biệt từ Sao Mộc, đã bay với quỹ đạo đặc biệt nhiễu loạn. Bên trong Hệ Mặt Trời có đầy rẫy các tiểu hành tinh bay lung tung, nhiều cái trong số chúng cắt ngang quỹ đạo của các hành tinh bên trong. Đặc biệt, nhiều tiểu hành tinh bị Sao Mộc giữ lại trên quỹ đạo của nó, nằm trong cả điểm L4 hay L5 của Sao Mộc, gọi là các tiểu hành tinh Trojan, dù thuật ngữ Trojan thỉnh thoảng cũng được sử dụng cho các tiểu hành tinh ở những điểm Lagrange của các hành tinh khác.


Như vậy V/H đã tìm thấy câu trả lời rồi phải không ?

Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Nhân dịp Đ. H. V/H hỏi về Tiểu Hành Tinh, tôi phổ biến thêm tài liệu để các Đ. H. khác tham khảo :

Tiểu hành tinh, hành tinh nhỏ là những từ đồng nghĩa để chỉ một nhóm các thiên thể nhỏ trôi nổi trong hệ mặt trời trên quỹ đạo quanh Mặt trời. Asteroid (từ tiếng Hy Lạp có nghĩa "giống sao") là từ được sử dụng nhiều nhất trong tiếng Anh để chỉ các tiểu hành tinh, và đã trở thành thuật ngữ ưu tiên của Liên đoàn Thiên văn học Quốc tế; một số ngôn ngữ khác thường sử dụng planetoid (tiếng Hy lạp: "giống hành tinh"), vì từ này miêu tả chính xác hơn thực tế hiện trạng của chúng. Cuối tháng 8, 2006, IAU đã đưa ra thuật ngữ "các vật thể nhỏ hệ mặt trời" (SSSBs), bao gồm đa phần các vật thể không được xếp hạng là hành tinh nhỏ, cũng như là sao chổi; chúng đồng thời được xếp loại "hành tinh lùn" đối với những vật thể lớn nhất. Bài viết này đặc biệt chú trọng tới các hành tinh nhỏ ở phía bên trong hệ mặt trời (gần quỹ đạo Sao Mộc) và có lẽ có thành phần chính là "đá". Đối với các loại vật thể khác, như sao chổi, các vật thể Trans-Neptunian, và các tiểu hành tinh Centaur.

Trong Hệ Mặt trời, tiểu hành tinh đầu tiên và lớn nhất được phát hiện là Ceres, hiện tại nó được xếp loại là một hành tinh lùn, trong khi số còn lại hiện được xếp loại như những vật thể nhỏ Hệ Mặt trời. Số lượng to lớn các tiểu hành tinh được khám phá bên trong vành đai tiểu hành tinh chính, với các quỹ đạo elíp giữa quỹ đạo Sao Hoả và Sao Mộc. Mọi người cho rằng các tiểu hành tinh là tàn tích của một đĩa tiền hành tinh, và trong vùng này sự hợp nhất của các tàn tích tiền hành tinh thành các hành tinh không thể diễn ra vì những ảnh hưởng hấp dẫn to lớn từ Sao Mộc trong giai đoạn thành tạo của Hệ Mặt trời. Một số tiểu hành tinh có các mặt trăng hay đi thành cặp trở thành các hệ đôi.


--------------------
còn tiếp
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Các tiểu hành tinh trong Hệ Mặt trời

Hàng trăm nghìn tiểu hành tinh đã được khám phá bên trong hệ mặt trời và tỷ lệ khám phá hiện nay là khoảng 5000 tiểu hành tinh/tháng. Tới ngày 17 tháng 9, 2006, trong tổng số 342.358 tiểu hành tinh được biết, 136.563 có quỹ đạo được xác định đủ để được đánh ký hiệu chính thức. Trong số đó, 13.422 có tên chính thức. Hành tinh nhỏ được đánh số nhỏ nhất nhưng chưa được đặt tên là (3360) 1981 VA; hành tinh nhỏ có số lớn nhất và chưa có tên (ngoài các hành tinh lùn 136199 Eris và 134340 Pluto) là 129342 Ependes.

Ước tính hiện nay tổng số tiểu hành tinh có đường kính hơn 1 km trong hệ mặt trời là khoảng từ 1.1 đến 1.9 triệu. tiểu hành tinh lớn nhất phía bên trong hệ mặt trời là 1 Ceres, với đường kính 900-1000 km. Hai vật thể lớn khác ở vành đai tiểu hành tinh của hệ mặt trời là 2 Pallas và 4 Vesta; cả hai đều có đường kính ~500 km. Vesta là tiểu hành tinh duy nhất trong vành đai tiểu hành tinh chính thỉnh thoảng có thể được quan sát thấy bằng mắt thường (trong một số dịp rất hiếm hoi, một tiểu hành tinh gần trái đất có thể được quan sát thấy bằng mắt thường; xem 99942 Apophis).

Khối lượng của toàn bộ các tiểu hành tinh trong Vành đai chính được ước tính khoảng 3.0-3.6×1021 kg, hay khoảng 4% khối lượng Mặt trăng của chúng ta. Trong số đó, 1 Ceres chiếm 0.95×1021 kg, khoảng 32% tổng khối lượng. Ba tiểu hành tinh có khối lượng lớn tiếp theo là 4 Vesta (9%), 2 Pallas (7%), và 10 Hygiea (3%), tổng khối lượng của chúng chiếm tới 51%; trong khi ba tiểu hành tinh sau đó là 511 Davida (1.2%), 704 Interamnia (1.0%), và 3 Juno (0.9%), chỉ chiếm 3% tổng khối lượng. Số lượng tiểu hành tinh tăng lên nhanh chóng khi khối lượng riêng lẻ của chúng giảm đi.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Các tiểu hành tinh thường được xếp vào hai nhóm dựa trên tính chất quỹ đạo của chúng và trên các chi tiết quang phổ ánh sáng mặt trời do chúng phản chiếu.

Các nhóm quỹ đạo và các gia đình
Gia đình tiểu hành tinh và Hành tinh nhỏ
Nhiều tiểu hành tinh đã được xếp vào các nhóm và các gia đình dựa trên tính chất quỹ đạo của chúng. Thông thường việc đặt tên một gia đình tiểu hành tinh tiến hành dựa theo thành viên đầu tiên được phát hiện. Các nhóm có liên kết động học khá lỏng lẻo với nhau, trong khi các gia đình có quan hệ “chặt chẽ” hơn, và là kết quả của một vụ tan rã một tiểu hành tinh lớn hơn trong quá khứ.

Xếp hạng quang phổ

Năm 1975, một hệ thống phân loại dựa trên màu sắc, albedo, và hình dạng quang phổ đã được Clark R. Chapman, David Morrison, và Ben Zellner phát triển. Các tính chất đó được cho là tương ứng với thành phần vật chất bề mặt tiểu hành tinh. Ban đầu, họ chỉ xếp tiểu hành tinh vào ba loại:

Các tiểu hành tinh kiểu C - carbon, 75% số tiểu hành tinh đã biết
Các tiểu hành tinh kiểu S - silic, 17% số tiểu hành tinh đã biết
Các tiểu hành tinh kiểu M – kim loại, đa số còn lại
Từ đó danh sách này đã được mở rộng bao gồm một số kiểu tiểu hành tinh khác. Số lượng các kiểu tiếp tục tăng lên khi càng nhiều tiểu hành tinh được nghiên cứu. Xem Các kiểu quang phổ tiểu hành tinh để biết thêm chi tiết hay Thể loại:Các lớp quang phổ tiểu hành tinh để có danh sách.

Cần nhớ rằng tỷ lệ các tiểu hành tinh đã biết được xếp vào nhiều kiểu quang phổ khác nhau không nhất thiết phản ánh tỷ lệ tất cả các tiểu hành tinh thuộc kiểu đó; một số kiểu dễ dàng phát hiện hơn những kiểu khác, ảnh hưởng tới những con số tổng kết.

Những vấn đề khi sử dụng Xếp hạng theo quang phổ
Trước kia, việc xác định quang phổ dựa trên sự suy luận thành phần của của tiểu hành tinh:[8]

C - carbon
S - silic
M - Kim loại
Tuy nhiên, sự tương ứng giữa lớp quang phổ và thành phần không phải lúc nào cũng tốt đẹp, và có rất nhiều kiểu xếp hạng được sử dụng. Điều này dẫn tới sự lẫn lộn rất lớn. Trong khi các tiểu hành tinh thuộc các lớp quang phổ khác nhau có vẻ được cấu thành từ những vật liệu khác nhau, thì lại không có những sự đảm bảo rằng các tiểu hành tinh trong cùng một lớp phân loại được cấu thành từ những vật liệu như nhau.

Hiện tại, việc xếp hạng quang phổ dựa trên nhiều cuộc khảo sát phân tích quang phổ không chính xác trong thập kỷ 1990 vẫn được coi là tiêu chuẩn. Các nhà khoa học không thể đồng thuận cho một hệ thống xếp hạng tốt hơn, phần lớn bởi sự khó khăn để thu được các số đo chi tiết thường xuyên cho một lượng lớn các tiểu hành tinh (ví dụ phân tích các quang phổ chính xác hơn, hay các dữ liệu phi quang phổ như mật độ sẽ rất hữu ích).
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Các phương pháp khám phá lịch sử
Trong hai thế kỷ qua các phương pháp khám phá tiểu hành tinh đã có những bước tiến bộ to lớn.

Những năm cuối thế kỷ 18, Baron Franz Xaver von Zach đã tổ chức một nhóm 24 nhà thiên văn học để khảo sát bầu trời nhằm tìm kiếm "hành tinh bí ẩn" được tiên đoán nằm ở khoảng cách 2.8 AU từ Mặt trời theo Quy luật Titius-Bode, một phần có cảm hứng từ khám phá ra Sao Thiên Vương trước đó ở đúng vị trí “tiên đoán” theo quy luật này của Ngài William Herschel năm 1781. Nhiệm vụ này đỏi hỏi phải vẽ tay các biểu đồ bầu trời với toàn bộ những ngôi sao trong dải hoàng đạo với giới hạn phát sáng nhỏ nhất của ngôi sao theo thoả thuận trước. Trong những đêm tiếp sau, bầu trời sẽ được vẽ lần nữa và bất kỳ một vật thể nào chuyển động, sẽ biến thành một vạch. Chuyển động theo tiên đoán của hành tinh bí ẩn đó là khoảng 30 cung một giờ, rõ ràng có thể phân biệt đối với các nhà quan sát.

Trớ trêu thay, tiểu hành tinh đầu tiên, 1 Ceres, không phải do một thành viên trong nhóm này khám phá, mà là một phát hiện tình cờ năm 1801 của Giuseppe Piazzi, khi ấy đang là giám đốc đài quan sát Palermo, tại Sicily. Ông đã khám phá ra một vật thể tương tự sao mới trong khu vực chòm sao Taurus và theo dõi sự dịch chuyển của nó trong nhiều đêm. Đồng nghiệp của ông, Carl Friedrich Gauss, đã sử dụng những quan sát đó để xác định khoảng cách chính xác của vật thể chưa biết đó tới Trái đất. Những tính toán của Gauss cho thấy vật thể nằm giữa hai hành tinh Sao Hoả và Sao Mộc. Piazzi đặt tên nó là Ceres, vị nữ thần nông nghiệp của người La Mã.

Ba tiểu hành tinh khác (2 Pallas, 3 Juno, 4 Vesta) được khám phá trong vài năm sau đó, Vesta được tìm thấy năm 1807. Sau tám năm tìm kiếm không hiệu quả tiếp theo, đa số các nhà thiên văn kết luận rằng không còn một tiểu hành tinh nào nữa và dừng tìm kiếm.

Tuy nhiên, Karl Ludwig Hencke vẫn bền bỉ và bắt đầu tìm kiếm thêm các tiểu hành tinh khác năm 1830. Mười lăm năm sau, ông tìm ra 5 Astraea, tiểu hành tinh mới đầu tiên sau 38 năm. Ông cũng phát hiện 6 Hebe chỉ chưa tới hai năm sau. Sau đó, các nhà thiên văn học khác cùng tham gia tìm kiếm và ít nhất mỗi năm lại có một tiểu hành tinh được tìm thấy (trừ thời năm 1945 đang có chiến tranh). Những người tìm kiếm tiểu hành tinh nổi tiếng nhất thời kỳ đầu này gồm J. R. Hind, Annibale de Gasparis, Robert Luther, H. M. S. Goldschmidt, Jean Chacornac, James Ferguson, Norman Robert Pogson, E. W. Tempel, J. C. Watson, C. H. F. Peters, A. Borrelly, J. Palisa, Paul Henry và Prosper Henry và Auguste Charlois.

Năm 1891 Max Wolf đã tiên phong sử dụng kỹ thuật chụp ảnh thiên văn để tìm kiếm các tiểu hành tinh, chúng sẽ biến thành các vệt trên những tấm kính ảnh có thời gian lộ sáng dài. Kỹ thuật này đã cải thiện đáng kể tỷ lệ khám phá so với những phương pháp trước đó: chỉ mình Wolf đã phát hiện ra 248 tiểu hành tinh, đầu tiên là 323 Brucia, trong khi từ trước tới đó chỉ hơn 300 tiểu hành tinh được phát hiện. Tuy vậy, một thế kỷ sau, chỉ vài nghìn tiểu hành tinh được xác định, đánh số và đặt tên. Mọi người biết rằng còn nhiều tiểu hành tinh khác, nhưng đa số các nhà thiên văn học không chú ý tới chúng, gọi chúng là "ký sinh của bầu trời".

Các phương pháp khám phá hiện đại
Tới tận năm 1998, các tiểu hành tinh vẫn được khám phá theo quy trình bốn bước. Đầu tiên, một vùng bầu trời được chụp ảnh bằng kính thiên văn có thị trường rộng. Thông thường cứ mỗi giờ lại chụp hai bức (một cặp). Một ngày có thể chụp nhiều cặp. Thứ hai, hai film của cùng một vùng bầu trời được quan sát dưới kính nổi. Bất kỳ một vật thể nào có quỹ đạo quanh Mặt trời sẽ hơi chuyển chỗ sau mỗi cặp phim. Dưới kính nổi, hình ảnh vật thể sẽ thể hiện hơi nổi lên trên nền các ngôi sao phía sau. Thứ ba, một khi vật thể di chuyển đã được xác định, vị trí của nó sẽ được đo đạc chính xác bằng kính hiển vi số. Vị trí này sẽ được đo so với vị trí các ngôi sao đã được biết trước.

Ba bước đầu tiên đó chưa hoàn thành việc khám phá tiểu hành tinh: người quan sát chỉ mới tìm thấy một sự xuất hiện (apparition), và nó được cấp một số định danh tạm thời, gồm năm khám phá, một chữ thể hiện tuần lễ khám phá, và cuối cùng là một chữ và một số thể hiện số dãy (sequential number) của sự khám phá (ví dụ: 1998 FJ74).

Bước cuối cùng là gửi những dữ liệu vị trí và thời gian quan sát tới Brian Marsden thuộc Trung tâm tiểu hành tinh. Dr. Marsden có các chương trình máy tính tính toán xem liệu một sự xuất hiện có liên quan tới những sự xuất hiện trước đó thành một quỹ đạo duy nhất không. Nếu đúng vậy, vật thể sẽ được gắn một số. Người quan sát sự xuất hiện đầu tiên và tính ra được quỹ đạo của nó được tuyên bố là người khám phá ra tiểu hành tinh, và anh ta có được vinh dự đặt tên cho nó (phải được Liên đoàn Thiên văn học Quốc tế chấp nhận) một khi nó được đánh số.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Kỹ thuật mới nhất

Ngày càng có nhiều người quan tâm tới việc xác định các tiểu hành tinh có quỹ đạo cắt ngang quỹ đạo Trái đất, và vì thế có khả năng đâm vào Trái đất . Ba nhóm tiểu hành tinh gần Trái đất quan trọng nhất là các tiểu hành tinh Apollo, các tiểu hành tinh Amor, và các tiểu hành tinh Aten. Nhiều Chiến lược làm chệch hướng tiểu hành tinh đã được đề xuất.

Tiểu hành tinh 433 Eros gần Trái đất đã được khám phá từ năm 1898, và trong thập kỷ 1930 nhiều vật thể tương tự đã được khám phá. Theo thời điểm phát hiện, chúng gồm: 1221 Amor, 1862 Apollo, 2101 Adonis, và cuối cùng là 69230 Hermes, nó đã từng tiếp cận Trái đất ở khoảng cách 0.005 AU năm 1937. Các nhà thiên văn học đã nhận thấy một số dấu hiệu va chạm với Trái đất.

Hai sự kiện trong những thập kỷ gần đây càng làm tăng nguy cơ đó: lý thuyết của Walter Alvarez về sự tuyệt chủng của khủng long do nguyên nhân va chạm ngày càng được chấp nhận rộng rãi, và vụ Sao chổi Shoemaker-Levy 9 đâm vào Sao Mộc năm 1994. Quân đội Hoa Kỳ cũng đã giải mật một số thông tin rằng các vệ tinh quân sự của họ, được chế tạo để theo dõi các vụ nổ hạt nhân, đã phát hiện thấy hàng trăm vụ va chạm trên tầng cao khí quyển bởi những vật thể lớn từ 1 tới 10 mét.

Tất cả những nghiên cứu đó đã giúp khuyến khích áp dụng những hệ thống hoàn toàn tự động hữu hiệu gồm các Thiết bị cặp đôi (CCD) camera và computer kết nối trực tiếp với các kính thiên văn. Từ năm 1998, một lượng lớn các tiểu hành tinh đã được các hệ thống tự động đó phát hiện. Danh sách các nhóm sử dụng các hệ thống tự động đó gồm:

Lincoln Near-Earth Asteroid Research (LINEAR)
Near-Earth Asteroid Tracking (NEAT)
Spacewatch
Lowell Observatory Near-Earth-Object Search (LONEOS)
Catalina Sky Survey (CSS)
Campo Imperatore Near-Earth Objects Survey (CINEOS) team
Japanese Spaceguard Association
Asiago-DLR Asteroid Survey (ADAS)
Chỉ riêng hệ thống LINEAR cho tới ngày 13 tháng 6, 2006 đã phát hiện 67.820 tiểu hành tinh. Giữa tất cả các hệ thống tự động, 4076 tiểu hành tinh gần Trái đất đã được phát hiện[12] gồm hơn 600 tiểu hành tinh đường kính hơn 1 km.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Đặt tên tiểu hành tinh

Tổng quan: Quy ước đặt tên
Một tiểu hành tinh mới được phát hiện được đặt một tên tạm thời gồm năm phát hiện và một mã chữ (như 2002 AT4). Khi quỹ đạo của nó đã được xác định, nó được trao một số, và sau này có thể được đặt một cái tên (ví dụ 433 Eros). Quy ước đặt tên chính thức sử dụng dấu ngoặc quanh số (ví dụ (433) Eros), nhưng việc bỏ dấu ngoặc cũng khá thường xuyên. Một cách không chính thức, mọi người thường gộp tất cả số lại với nhau, hay bỏ nó sau khi đã được đề cập tới lần đầu tiên ở những tên lặp lại sau đó.

Các tiểu hành tinh đã được trao một con số nhưng không phải là tên thì vẫn giữ tên tạm thời của mình, ví dụ (29075) 1950 DA. Khi các kỹ thuật khám phá tiểu hành tinh hiện đại khiến số lượng chúng tăng vọt, dần dần chúng bị bỏ mặc vô danh như cũ. Tiểu hành tinh đầu tiên không có tên như vậy là (3360) 1981 VA. Trong những dịp hiếm hoi, một tên tạm thời của tiểu hành tinh có thể được dùng làm tên gọi của chính nó: tiểu hành tinh chưa được đặt tên (15760) 1992 QB1 gave its name to a group of asteroids which became known as cubewanos.

Đánh số tiểu hành tinh
Các tiểu hành tinh sẽ được trao một con số chính thức ngay khi quỹ đạo của chúng được xác định. Với tốc độ phát hiện tiểu hành tinh ngày càng tăng, chúng hiện được đánh theo dãy sáu số. Việc chuyển từ dãy năm số sang dãy sáu số diễn ra sau việc xuất bản Tờ tin Hành tinh Nhỏ (Minor Planet Circular - MPC) ngày 19 tháng 10, 2005, với việc số tiểu hành tinh được đánh số nhảy vọt từ 99947 lên 118161. Sự thay đổi này đã gây ra một cơn khủng hoảng kiểu "Y2k" nhỏ với nhiều trung tâm dịch vụ dữ liệu tự động, bởi chúng chỉ được quy định định dạng dãy năm số cho tiểu hành tinh. Đa số các trung tâm dã mở rộng phạm vi số tiểu hành tinh. Những trung tâm không làm tương tự xử lý vấn đề này bằng cách thay con số xa nhất bên trái (đơn vị mười ngàn) bằng chữ. A=10, B=11,…, Z=35, a=36,…, z=61. Vì thế, dãy số dài như 120437 sẽ được định dạng thành C0437 trên một số bản danh sách.

Nguồn tên
Ý nghĩa tên tiểu hành tinh
Một số ít tiểu hành tinh đầu tiên được đặt tên theo những nhân vật trong Thần thoại Hy Lạp - La Mã, nhưng khi tên những vị thần đã được sử dụng hết, những nhân vật khác —người nổi tiếng, nhân vật văn học, tên vợ những người có công khám phá, tên trẻ em, và thậm chí cả những nhân vật truyền hình cũng được dùng.

Tiểu hành tinh đầu tiên được đặt tên không theo thần thoại là 20 Massalia, theo tên thành phố Marseille. Trong một thời gian chỉ tên phụ nữ (hay nữ hoá) mới được sử dụng; Alexander von Humboldt là người đàn ông đầu tiên có tên được đặt cho một tiểu hành tinh, nhưng tên ông đã được nữ hóa thành 54 Alexandra. Quy ước truyền thống ngầm này kéo dài tới tận khi đặt tên cho 334 Chicago; thậm chí sau đó, nhiều tên nữ hóa kỳ quặc vẫn xuất hiện trong những bản danh sách trong nhiều năm sau.

Khi số lượng tiểu hành tinh bắt đầu lên tới hàng trăm, và cuối cùng là hàng nghìn, những người khám phá ra chúng dần ít chú ý tới việc đặt tên nên đã xuất hiện những cái tên kỳ cục. Những ví dụ đầu tiên là 482 Petrina và 483 Seppina, được đặt theo tên những chú chó của người tìm ra chúng. Tuy nhiên, cho tới năm 1971 vẫn có cuộc tranh cãi nhỏ về vấn đề này, khi đặt tên cho 2309 Mr. Spock (nó không được đặt theo tên nhân vật trong phim Star Trek, mà là tên con mèo của người phát hiện tiểu hành tinh, vốn có vẻ ngoài khá giống nhân vật kia). Dù Liên đoàn Thiên văn học Quốc tế (IAU) sau đó đã cấm dùng tên thú nuôi đặt cho tiểu hành tinh, nhưng những cái tên kỳ cục vẫn được đề xuất và chấp nhận như 6042 Cheshirecat, 9007 James Bond, hay 26858 Misterrogers.

Các quy định đặt tên đặc biệt
Việc đặt tên tiểu hành tinh không phải tùy thích: có một số kiểu tiểu hành tinh phải được đặt theo một nguồn tên. Ví dụ các tiểu hành tinh Centaurs (nằm giữa Sao Thổ và Sao Hải Vương) đều phải được đặt tên theo các centaur trong thần thoại, các tiểu hành tinh Trojans theo tên các vị anh hùng Chiến tranh Trojan, và các vật thể trans-Neptunian theo tên những linh hồn dưới địa ngục.

Một quy định từ lâu khác là các sao chổi phải được đặt theo tên người phát hiện ra chúng, trong khi đó các tiểu hành tinh thì không cần như vậy. Các nhà thiên văn có một cách để "lách" quy định này là dùng tên lẫn nhau để đặt cho khám phá của họ. Một trường hợp ngoại trừ đặc biệt của quy định này là 96747 Crespodasilva, nó được đặt theo tên người phát hiện là Lucy d'Escoffier Crespo da Silva, vì bà đã qua đời chỉ một thời gian ngắn sau thành công, ở tuổi 22.

Các biểu tượng tiểu hành tinh
Một số ít tiểu hành tinh phát hiện đầu tiên được gắn các biểu tượng như kiểu những biểu tượng truyền thống thường dùng cho Trái đất, Mặt trăng, Mặt trời và các hành tinh. Các biểu tượng này nhanh chóng trở nên vô duyên, khó viết và nhận dạng. Tới cuối năm 1851 đã có 15 tiểu hành tinh được phát hiện, 14 tiểu hành tinh đã có biểu tượng riêng. Bốn biến thể chính đầu tiên:

1 Ceres
2 Pallas
3 Juno
4 Vesta
Johann Franz Encke đã tiến hành một thay đổi lớn trong cuốn Berliner Astronomisches Jahrbuch (BAJ, "Berlin Astronomical Yearbook") năm 1854. Ông sử dụng các số được khoanh tròn thay cho các biểu tượng, dù ông bắt đầu đánh số từ Astraea, bốn tiểu hành tinh đầu tiên vẫn tiếp tục được biểu thị bằng các biểu tượng của chúng. Cải tiến mới này nhanh chóng được cộng đồng thiên văn học chấp nhận. Năm sau đó, (1855), dãy số của Astraea lên tới 5 số, nhưng từ Ceres tới Vesta sẽ chỉ được biểu thị bằng dãy số từ năm 1867. Một số tiểu hành tinh khác (28 Bellona, 35 Leukothea, và 37 Fides) vừa có biểu tượng vừa có dãy số định danh.

Vòng tròn sau này trở thành hai dấu ngoặc, và trong vài thập kỷ sau thì cả dấu ngoặc thỉnh thoảng cũng bị bỏ đi.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Khảo sát tiểu hành tinh

Trước thời du hành vũ trụ, các tiểu hành tinh chỉ đơn giản là những hình ảnh nhỏ như đầu đinh ghim, thậm chí khi quan sát bằng các kính viễn vọng lớn nhất và hình dạng cũng như địa hình của chúng còn là điều bí ẩn.

Những bức ảnh gần đầu tiên của những vật thể như tiểu hành tinh được chụp năm 1971 khi tàu thăm dò vũ trụ Mariner 9 chụp ảnh Phobos và Deimos, hai vệ tinh nhỏ của Sao Hoả, có lẽ là những tiểu hành tinh đã bị bắt giữ. Những hình ảnh này cho thấy hình dạng không đều, giống như củ khoai tây của hầu hết tiểu hành tinh, tương tự như những hình ảnh sau này về các mặt trăng nhỏ của các hành tinh khí khổng lồ do tàu thăm dò vũ trụ Voyager chụp.

951 Gaspra, tiểu hành tinh đầu tiên được chụp cận cảnh.Tiểu hành tinh thật sự đầu tiên được chụp gần là 951 Gaspra năm 1991, sau đó là 243 Ida và mặt trăng của nó là Dactyl năm 1993, tất cả những bức ảnh này đều do tàu thăm dò vũ trụ Galileo chụp khi đang trên đường tới Sao Mộc.

Tàu thăm dò vũ trụ đầu tiên dành riêng cho mục đích nghiên cứu tiểu hành tinh là NEAR Shoemaker, nó đã chụp ảnh 253 Mathilde năm 1997, trước khi đi vào quỹ đạo quay quanh 433 Eros, cuối cùng đổ bộ xuống bề mặt tiểu hành tinh này năm 2001.

Các tiểu hành tinh khác từng được tàu vũ trụ viếng thăm trong một khoảng thời gian khi chúng đang trên đường thi hành nhiệm vụ khác gồm 9969 Braille (bởi Deep Space 1 năm 1999), và 5535 Annefrank (bởi Stardust năm 2002).

Tháng 12 năm 2005, tàu thăm dò vũ trụ Hayabusa của Nhật Bản đã bắt đầu nghiên cứu chi tiết 25143 Itokawa và sẽ quay trở lại trái đất với những mẫu lấy từ bề mặt tiểu hành tinh này. Chương trình nghiên cứu tiếp sau sẽ là của Châu Âu với tàu thăm dò vũ trụ Rosetta (được phóng năm 2004), sẽ nghiên cứu 2867 Šteins và 21 Lutetia năm 2008 và 2010.

NASA đang có kế hoạch phóng Dawn Mission năm 2007, sẽ bay quanh quỹ đạo 1 Ceres và 4 Vesta năm 2011-2015, và nhiệm vụ của nó có thể sẽ mở rộng sang cả 2 Pallas.

Từng có ý kiến đề xuất sử dụng các tiểu hành tinh trong tương lai như một nguồn nguyên liệu thay thế cho nguồn nguyên liệu sẽ cạn kiệt trên trái đất (khai thác tiểu hành tinh).
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Tiểu hành tinh trong khoa học viễn tưởng

Tiểu hành tinh trong khoa học viễn tưởng
Thông thường các tiểu hành tinh (và có ít hơn là các Sao chổi) trong khoa học viễn tưởng được thể hiện như những mối đe dọa bởi sự va chạm giữa chúng và Trái đất có thể gây nên nguy cơ nghiêm trọng với thế giới. Điều này có cơ sở từ giả thuyết khoa học cho rằng những vụ va chạm như vậy trong quá khứ trái đất đã dẫn tới sự tuyệt chủng của loài khủng long —dù dường như chúng xảy ra các nhau hàng chục triệu năm, không hề có lý do đặc biệt nào để cho rằng sự va chạm như vậy có thể xảy ra trong vài nghìn năm tới đây.

Một cách khác để coi các tiểu hành tinh là một mối nguy hiểm là biểu hiện chúng như những vật có thể đe dọa tới những con tàu vũ trụ bay từ Trái đất ra phía ngoài Hệ Mặt trời khi bay ngang qua Vành đai Tiểu hành tinh (hay phải buộc bay vòng -tốn thời gian và nhiên liệu- để tránh nó). Các tiểu hành tinh được thể hiện như vậy thường giống như những bãi cát ngầm hay những quả núi ngầm dưới mặt biển xuất hiện trong những câu chuyện chinh phục đại dương thời cổ. Và cũng giống như những bãi cát hay đá ngầm dưới đại dương, các tiểu hành tinh cũng có thể được dùng làm nơi trú ẩn cho những kẻ ngoài vòng pháp luật phải sống trốn tránh. Vành đai Tiểu hành tinh được thể hiện trong phim ảnh thường là những phiến đá bay hỗn loạn đầy nguy hiểm phi hiện thực. Các tiểu hành tinh trong thực tế, thậm chí cả vành đai chính, nằm rất xa nhau.

Trước khi việc chinh phục các tiểu hành tinh có thể trở thành một khả năng hiện thực, sự quan tâm chính tới chúng chính là lý thuyết nguồn gốc tiểu hành tinh, cụ thể lý thuyết cho rằng các tiểu hành tinh là tàn tích của một hành tinh đã nổ tung. Điều này tự nhiên dẫn tới giả thuyết viễn tưởng rằng trên hành tinh này từng có người ở, và vì thế chính các cư dân ở đó đã gây ra sự hủy diệt của chính họ, bởi chiến tranh hay những hành động tàn phá môi trường. Mở rộng thêm lý thuyết đó, nếu các tiểu hành tinh là tàn dư của một hành tinh trong quá khứ thì tương lai hủy diệt Trái đất và các hành tinh khác thành các tiểu hành tinh mới cũng không thể bỏ qua.

Khi đề tài chinh phục liên hành tinh lần đầu trở thành một chủ đề trong khoa học viễn tưởng, Vành đai Tiểu hành tinh không phải là nơi đáng thèm muốn, kém xa rất nhiều so với các hành tinh như Sao Hoả và Sao Kim (thường được coi là một kiểu hành tinh thiên đường, cho tới khi các tàu thăm dò vũ trụ thập kỷ 1960 vén bức màn bí mật cho thấy nhiệt độ và điều kiện thực tế che dấu bên dưới những đám mây của chúng). Vì thế, trong nhiều câu chuyện và cuốn sách về Vành đai Tiểu hành tinh, nếu không thực sự là một nguy cơ, thì nó cũng chỉ là một nơi tù túng hiếm khi được đặt chân đến trong quá trình chinh phục Hệ Mặt trời.

Viễn cảnh chinh phục các hành tinh trong Hệ Mặt trời càng trở nên tăm tối khi những khám phá ngày càng nhiều về điều kiện trên bề mặt của chúng. Trái lại, giá trị tiềm năng của các tiểu hành tinh lại tăng lên nhiều, như một nguồn tài nguyên khoáng vật, dễ dàng tiếp cận trong điều kiện lực hút hấp dẫn nhỏ, và khi những nguồn tài nguyên trên Trái đất đang cạn đi. Những câu chuyện về khai thác tiểu hành tinh đã bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều kể từ cuối thập kỷ 1940, và bước tiến hợp lô-gích tiếp theo chính là các xã hội kiểu trái đất trên những tiểu hành tinh đó.

-----------------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Trở lại chủ đề Đi Tìm Vô Ngã .


Vô Ngã có làm mất "Ngã" không ?


Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Nói thêm về quan niệm triết học Hy Lạp .

Các nhà triết học Tây Phương đưa ra một "công thức" hoặc "lý thuyết" :

OUTOPIA + EUTOPIA => UTOPIA

Nothing + Perfect => Nonexistence

Cái Không tuyệt đối + Cái Toàn Thiện => Mộng Tưởng

Toàn thiện để thực hiện cái hoàn toàn Không, thật là Mộng tưởng (!)

Và họ quan niệm Niết Bàn (Nirvana) là một dạng của Utopia .

Theo quan niệm Nguyên Thuỷ, người chứng Niết Bàn là đã chứng đạt vô ngã .

Vậy vô ngã có làm mất "ngã" không ?
Mến,
 

nhukhong

Registered
Phật tử
Tham gia
24/9/07
Bài viết
281
Điểm tương tác
89
Điểm
28
Mô Phật ,

Kính lễ ngài Phi Vân ,

Theo thiễn ý Như Không :

VÔ NGÃ hoàn toàn đối lập với BẢN NGÃ .Gíông như CHẤP KHÔNG (lông rùa ,sừng thỏ )hoặc CHẤP CÓ .

Nếu ta bỏ bản ngã để đi tìm cái vô ngã như các triết gia thì đó hoàn toàn không phải là điều mà chư Phật hoặc các tổ thuyết giảng trong các kinh điển .

Theo thiễn ý của Như Không; Phật giáo không phải là một triết học !

Phật giáo mục đích đưa con người đi đến sự giải thoát !(Tự mình giải thoát cho chính mình) .Cái gì làm mình bị trói buộc ? CHẤP NGÃ !

Vậy phá NGÃ sở chấp đó ,có phải là đi tìm cái gọi là VÔ NGÃ không?. KHÔNG ! .

Bởi vậy ,Các chư Phật mới nói về cuộc đời :

"VÔ THƯỜNG ,KHỔ ,VÔ NGÃ ,BẤT TỊNH "

Rồi sau đó Phật lại nói:

"THƯỜNG ,LẠC ,NGÃ,TỊNH "

Chư Phật nói vậy để PHÁ CHẤP cho chúng sinh !.

NGÃ và VÔ NGÃ mà các chư Phật nói không như triết học !


Theo thiễn ý NK , người học Phật nào càng đi dần đến NIẾT BÀN (tạm gọi vậy ) người ấy càng ít bị trói buộc bởi những phù phiếm trong cuộc sống hôm nay và họ đang đi dần tới sự giải thoát hoàn toàn !.Khó có SỰ GIẢI THOÁT tức khắc và hoàn toàn 100% !Ngoại trừ những vị đã dứt được NGHIỆP !(kể cả thiện và ác ) và thế là họ được TỰ TẠI ! Số này rất hiếm hoi nhưng không phải không có!

Thầy NK thường nói :

"THƯỜNG ĐỘC HÀNH ,THƯỜNG ĐỘC BỘ
ĐỘC GIẢ NHÀN DU NIẾT BÀN LỘ !"

Và:

" TA KHÔNG SỢ NIỆM KHỞI mà CHỈ SỢ GIÁC CHẬM "




Ai sẽ biết được điều này đã và đang diễn ra trong con người đã và đang đi trên con đường ấy ?!Ai cùng đường thì tự hiểu !


Nếu nói về NGÃ và VÔ NGÃ dưới cái nhìn của triết học NK không dám luận bàn !

NK chưa đi vào VÔ NGÃ nên không biết có đánh mất NGÃ hay không !


NK
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Đ. H. Như Không thân mến,

Phật Giáo đứng trên quan niệm rộng rãi, gồm nhiều ý kiến các vị cao thâm, trong đó có Ngài Đạt Lai Lạt Ma XIV, ngài Tịnh Không, . . .
thường được coi như là Một Nền Giáo Dục, trong đó Đức Phật là vị Thầy đầu tiên chung cho Tam Giới .
Trong nền Giáo Dục đó có Triết học Phật Giáo, Tâm lý học Phật Giáo, . . . . .
Triết học chỉ làm một môn của Phật giáo, nên Đ. H. nói có đúng một phần . Phật giáo không phải là Triết học, nhưng Triết Học nằm trong Phật Giáo , những lời Phật dạy đã tạo nên triết học Phật giáo .

Mỗi một Bộ Kinh đều có triết lý rmục đích riêng, đấy là tinh yếu của bộ kinh, la ý của Phật muốn dạy .
Mỗi một Công Án đều mang một triết lý (mang một ý nghĩa về một chân lý .)

Nay lại bàn qua cái Vô Ngã và Ngã .

Con Cá Con hỏi Cá Mẹ : "Mẹ ơi, nước la gì vậy mẹ ?"
Cá Mẹ đáp: "Nước" là cái con sống trong đó, ở quanh con, là nơi sinh ra trong đó, lớn lên và chết đi
Cá Con :"Nhưng con chưa bao giờ thấy nước!"
..................................................................
Câu chuyện, cá con, cá mẹ bao hàm ý nghĩa triết học nha Thiền .
-----------------------------------------------------

Ngã và Vô Ngã

Mỗi con sông đều có tên của nó, nếu nó không có tên riêng (ngã) làm sao dân chúng biết chỗ nào mà đến, chỗ nào mà đi ! Tuy nhiên, khi các dòng sông đổ ra Biển, thì nước của nó không còn có tên của con sông từ đó nó chảy ra nữa . Ngay như Biển củng có tên riêng (ngã), nếu không thật thảm hại cho nhưng người đi biển, không biết đâu mà lần .

Các vị Phật đều bìnb đẳng, nhưng Phật tử vẫn phân biệt các ngài và các cõi của các ngài :
Phật A Di Đà với cõi Cực Lạc
Phật Thích Ca với cõi Ta Bà
Phật A Súc với cõi Bất Động
Phật Dược Sư với cõi Lưu Ly .
----------------------------------------

Mến,

Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Đ. H. Như Không thân mến,

ĐH sẽ thấy tương quan giữa PG va TH trong đoạn sau đâY ;
---------------------------------
Trung quán và Duy thức, hai trường phái lớn đã phát huy và xiển dương tư tưởng triết học Ðại thừa đến tột đỉnh. Hai hệ thống triết lý này, riêng ở phương Tây hiện nay đã có hàng trăm tác phẩm khảo luận nghiêm túc, đưa triết học đạo Phật làm đối tượng nghiên cứu cách khoa học và logic. Ở đây, ta trở về lại ngay chính nguồn cội của hiện tượng được gọi là triết lý của đạo Phật, tức trở về lại với Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni và bài pháp đầu tiên mà Ngài tuyên bố, khai mở một trong những hệ thống tư tưởng lớn của nhân loại.

NỘI DUNG

Bài pháp đầu tiên, được thâu tóm trong kinh Chuyển Pháp Luân (Dhamma-cakkappa-vattana-sutta), làm căn bản cho nền tư tưởng và sinh hoạt tâm linh của đạo Phật. Ðó là lời tuyên bố khẳng định của Bậc Giác ngộ về Tứ diệu đế (Bốn chân lý):
1. Ðời là khổ (dukkha);
2. Khổ có nguyên nhân nơi tham ái (dukkha-samudaya);
3. Khổ có thể tiêu diệt được (dukkha-nirodha); và
4. Do tu tập theo con đường (dukkha-nirodha-gàminpatipadà) gọi là 37 phẩm trợ đạo, trong đó có Bát chánh đạo và Ngũ lực.

Lời tuyên bố này được chia làm 2 vế: vế trước bao gồm hai chân lý đầu, là một mô tả về thực tại tương đối, và vế tiếp, gồm hai chân lý sau, là lý tưởng về thực tại cần phải được đạt tới.
1. Khổ (Khổ đế)
2. Nguyên nhân của Khổ (Tập đế) -- Thực tại tương đối (Tục đế)
3. Khổ có thể diệt (Diệt đế)
4. Con đường thoát Khổ (Ðạo đế) -- Lý tưởng đạt tới (Chân đế)

Cũng giống như một bệnh nhân tìm thầy thuốc trị bệnh, người thầy thuốc nói: ông có bệnh, đây là lý do ông bị bệnh, bệnh này có thể chữa khỏi, và đây là toa thuốc trị hết bệnh. Như thế, đây là một thái độ hết sức tích cực, đưa đến kết quả thực tiễn, không nương dựa theo một thần quyền nào, và cho con người một tự do chọn lựa tuyệt đối: uống thuốc hay không uống thuốc là tùy bệnh nhân muốn hết bệnh hay không. Nói cách khác, hai chân lý đầu là một mô tả khách quan về Tục đế, và hai chân lý sau là lý tưởng về Chân đế. Xưa nay, có nhiều quan niệm sai lầm, thiển cận, cho rằng đạo Phật yếm thế, than van đời là khổ, là tiêu cực và bi quan. Nếu Ðức Phật dừng lại ở chân lý đầu, tuyên bố "hễ có sự sống là có khổ" rồi thôi, thì đúng thật nguồn đạo mà chúng ta đang tu tập theo quả là yếm thế, và như vậy, đã không có thể tồn tại đến hôm nay. Nhưng mà, tuyên bố "đời là khổ" chính là một lời sấm sét đánh thức con người trong cơn mê, là một mô tả đúng thật về một thực tại chứng nghiệm được để đưa đến mục đích là "phải thoát ra cái khổ" đó.

Thế nào là Khổ? Sinh, già, bệnh, tử (hay thành, trụ, hoại, diệt); yêu nhau phải xa cách, ghét mà phải gần hoài, cầu mà không được; những sự kiện đỗi thay ảnh hưởng đến năm uẩn... Nói chung, tất cả những gì khiến con người không được thỏa mãn gọi là Khổ. Ðây là một chân lý phỗ quát, không tùy thuộc vào thời gian và không gian, hễ có sự sống là có sự bị tùy thuận vào điều kiện sinh diệt, đồng thời có cơ hội cho con người nỗ lực vượt thoát những điều kiện khiến con người cứ trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi. Cho nên Ðức Phật Thích Ca tuyên bố giáo pháp của Ngài, cũng như của chư Phật quá khứ, là: "Cũng như nước biển chỉ có vị mặn, Ðạo của ta chỉ có một vị, đó là vị giải thoát".

Do vậy, sở dĩ gọi là "chuyển pháp luân", chính vì Tứ diệu đế là cơ sở căn bản, là động lực chính yếu đưa đến một hiện tượng hi hữu là đạo Phật. Bởi lẽ, mỗi một chân lý đều bao gồm rất nhiều nguyên lý của đạo Phật, thí dụ như trong Khổ đế, đã có nói đến nguyên lý vô ngã, vô thường, không v.v..., từ đó các học phái về sau triển khai ra chi tiết như ngã không, pháp không, ngã vô thường, pháp vô thường, tịch không, chân không diệu hữu, v.v... làm cơ sở cho học phái của họ. Nói cách khác, hai chân lý trước là một mô tả lục đạo luân hồi, còn hai chân lý sau là con đường đưa đến giải thoát, Niết bàn. Cho nên, đạo Phật không yếm thế, không bi quan; trái lại, rất tích cực, rất thực tiễn trong mục đích giải quyết những thắc mắc tâm linh về sự hiện hữu của con người và của vũ trụ.

Có thể nói, Chuyển Pháp Luân là bài pháp độc đáo, nhất quán, siêu việt, thâm áo, bao hàm toàn thể tất cả những học thuyết, những hệ phái, dù theo pháp học hay pháp hành, của đạo Phật. Cho nên chúng ta cần thấu triệt tư tưởng Tứ diệu đế, một giáo lý tích cực, có mục tiêu hướng thượng và có con đường (phương pháp) để đạt kết quả giải thoát một cách cụ thể. Chỉ có một thấu triệt như thế ta mới có thể sáng suốt triển khai chân lý này nơi các học thuyết và học phái, nhất là các phái thuộc Ðại Thừa ............................

(Trích "Phật Học Cơ Bản", tập 4, Sài Gòn 2001)
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Tuy nhiên Triết Học trong Đời Thường chỉ là Triết học giai đoạn, chưa đi đến tuyệt đối, không thể sánh với Triết học Phật Giáo, vượt thời gian và không gian .

Ngay như lúc Phật dạy trong nước có vô số vi trùng, lúc đó tại Hy Lạp hay các nước trong vùng ảnh hưởng đó đều cho là điều không tưởng (non existence) . Bây giờ thì họ đã tin và đó là sự thật ( exsitence, real) .

Tây Phương đang tham cứu và học tập Triết học Phật giáo để giải đáp những gì họ không thể nghĩ ra và cho là đó chỉ là viễn tưởng hay mộng tưởng .

Cái Vô Ngã đã dẫn họ đên với Utopia, và họ đã tìm cách thực hiện điều không thể thực hiện được trong nhiều tác phẩm và trước tác .

Tất cả các lý thuyết của họ đều không thoát ra khỏi những điều Phật dạy .

--------------------
(còn tiếp)
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Trong cuốn The Ultimate Philosophy, Triết Lý Tuyệt Đối, Utopia Now Organization , đã tóm tắt lý thuyết của họ để có thể thực hiện được thế giới Utopia :

A simple plan to make a dream come true:
who = humans
what = best life
where = globally
why = self destiny
when = future
how = knowledge


Ta nhận thấy trong đó:

Who (Ai) = humans (nhân loại) , vậy "nhân loại" của họ chí thu hẹp trong "nhân giới", Phật dạy chúng ta lo cho tất cả chúng sinh trong Lục Đạo, Tam Giới .

What (Cái gì) = best life ( đời sống tối hảo), đây là điều họ mong muốn nhất, nhưng làm thến nào để đạt được !
Phật đã dạy "Ngũ Giới" và "Thập Thiện", nếu họ thực hành họ sẽ đạt được mục đích . Cần nhắc là
họ chỉ lo đến "SINH" không nghĩ đến "TỬ", còn ràng buộc thì không khi nào đạt đến "tối hảo" .

Where (ở đâu) = globally (toàn cầu) , Phật dạy trong cả "Tam Giới"

Why (tại sao) = self destined (tự theo ý mình), Phật dạy "Phát Bồ Đề Tâm" . Cái thế giới họ mơ mộng đó không thể nào sánh với Bồ Đề Tâm, giải thoát cho chúng sinh .

When (khi nào) = future (trong tương lai), Phật dạy "Trong giây phút hiện tại ", họ còn không chắc, nhưng Phật đã
chắc chắn .

How (Làm cách nào) = knowledge (kiến thức), Phật dạy dùng Trí Huệ Bát Nhã . Các kiến thức giới hạn của họ quả quá
nhỏ bé so với Trí Huệ khi họ được giải thoát khỏi ràng buộc sinh tử .

----------------------
(còn tiếp)
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên