DUY THỨC TÔNG VÀ THIỀN TÔNG

PHUOCTUONG

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 4 2007
Bài viết
133
Điểm tương tác
0
Điểm
16
DUY THỨC HỌC TẬP II
DUY THỨC PHƯƠNG TIỆN ĐÀM
QUYỂN HẠ

Tác giả: ĐƯỜNG ĐẠI VIÊN
Dịch giả: THÍCH THIỆN HOA

LỜI TỰA VÀ BÀI KỆ

Cho cứu cánh của Phật pháp, cao xa không thể vói đến; chúng sanh đời mạt pháp chẳng biết cửa nào đi vào. Vì thế, các vị đại Bồ tát phát tâm đại bi lập chí lợi tha, tùy thuận theo căn cơ của chúng sanh đời mạt pháp, ẩn dấu oai quang (chỗ huyền diệu cao siêu) không vội nói Phật pháp, mà lại nói pháp chúng sanh.

Về môn Duy thức học này, không nói đến Chơn tâm vô phân biệt, mà chỉ bàn về Vọng thức hữu phân biệt; không nói đến Chơn như mà chỉ luận về Thức A Lại da. Đây tức là Bồ Tát từ chỗ cứu cánh trong Phật pháp mà phương tiện lựa ra nói pháp chúng sanh.

Song, khi đã lập phương tiện thì phải dùng văn tự. Khi có văn tự, lại bị danh từ câu văn làm chướng ngại lý đạo. Những bậc Cổ đức thông minh ngày xưa, dùng văn tự để biên chép đạo lý, đến khi văn tự thành rồi lại làm chướng ngại lý đạo. Người đờixưa cũng tiếp tục như thế, mong cho mọi người xem nơi văn tự để hiểu nghĩa lý. Nhưng sai một hào thì lầm ngàn dặm. Thế nên, đời sau những người có chí nghiên cứu về Duy thức rất lo ngại; đọc các bản chú giải xưa, thì rất khó hiểu rồi thối chí; còn đọc các bản chú giải cận đại, lại lo ngại là ngụy truyền. Vì thế nên Duy thức học rất suy vi, Phật pháp cũng do nơi đây mà thỏn mỏn!

Đời nay, nhân loạn quá, nên người ta mới nghĩ đến việc thạnh trị. Vì thế, mà các nhà học giả phần nhiều đề xướng văn hóa ở Đông phương, đem Duy thức học gò uốn thành môn Triết học Đông Tây, để thực hành việc lợi đời cứu nước. Nhưng nếu không có phương tiện, viết ra những loại sách hợp theo trình độ của người, thì môn học này cũng không làm sao truyền bá được.

Đại viên này là kẻ vô học, nhưng xem ra thấy rộng, bất đắc dĩ mới đem những chỗ kinh nghiệm ngày thường của mình đã giãng, viết ra quyển sách này, lời nói không trau chuốt, chỉ mong được lợi ích cho đời mà thôi. Song, đã có văn tự ngữ ngôn, thì xin chớ chấp văn tự, mà không đạt được nghĩa lý, phải khéo thể hội điều ấy.

Quyển trước có những chỗ chưa rõ, thì quyển sách này sẽ giải thích thêm cho rõ. Nay tôi y như bản nguyện, trước kính cẩn nói một bài tụng:

Kính lạy đấng Pháp giới Điều Ngự Sư (Phật)

Con vì lợi tha, nên khai phương tiện:

Giảng nói nghĩa vô lượng của Duy thức.

Khiến cho các chúng sanh đều khai ngộ.

DUY THỨC VÀ THIỀN TÔN


--------------------------------------------------------------------------------

DUY THỨC VÀ THIỀN TÔN
(CÓ BA ĐOẠN)

I. TÂM LÀ THỂ, THỨC LÀ DỤNG

“Thức” nghĩa là hiểu biết, phân biệt, tức là biệt hiệu của Tâm. Đứng về phương diện bản thể mà luận, thì vô hình tướng, vô phân biệt, gọi là “Tâm”. Còn đứng về phương diện tác dụng (hiện tượng) mà nói, thì từ nơi chỗ vô tướng mà hiện ra có tướng, từ nơi chỗ vô phân biệt mà khởi ra hữu phân biệt, nên gọi là “Thức”.

Tâm

1- Bản thể (Tâm): vô tướng, vô phân biệt

2- Hiện tượng (Thức): hữu tướng, hữu phân biệt.

Vì Tâm thể vô tướng, vô phân biệt nên trong Kinh chép: “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”. (luận bàn không trúng, tâm suy nghĩ chẳng nhằm) Đây là chỗ chú trọng của Thiền Tôn gọi là: “Dùng tâm truyền tâm”. Cho nên bên Thiền Tôn nói “Mích Tâm liễu bất khả đắc” (tìm Tâm trọn không thể được).

Về Thức dụng thì có hình tướng và có phân biệt; cho nên từ chỗ không nói năng được (Tâm) mà phương tiện có nói năng (Thức); từ chỗ suy nghĩ không được (Tâm) mà phương tiện có tâm suy nghĩ (Thức).

Tâm

1- Thiền Tôn – truyền tâm (không nói năng, không suy nghĩ)

2- Duy thức Tôn – truyền thức (có nói năng, có suy nghĩ).


DUY THỨC PHƯƠNG TIỆN ĐÀM
http://thuvienhoasen.org/duythuchoc-thienhoa-02.htm
_________________
 

PHUOCTUONG

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 4 2007
Bài viết
133
Điểm tương tác
0
Điểm
16
II. CÁCH TRUYỀN PHÁP CỦA HAI TÔN KHÁC NHAU

Xin lập một tỷ dụ để chĩ rõ chỗ sai khác của hai Tôn. Như anh A, dạy anh B tìm cách “hình tích” con chim bay trong hư không. Con chim kia tuy có bay qua trong hư không, nhưng không có hình tích gì để chỉ ra được. Tuy không có hình tích gì để chỉ ra được, nhưng thật có bay qua trong hư không. Đây là dụ cái Diệu chỉ truyền tâm của Thiền Tôn vậy (vô tướng, vô văn tự).

Về Duy Thức Tôn, dụ như anh C, biết rằng trong hư không tuy không thể chỉ cái hình tích con chim bay được; nhưng anh phương tiện lấy một tờ giấy, vẽ hình con chim bay trong hư không, rồi bảo anh D xem trên tờ giấy này, có thể hiểu được hình tích con chim bay trong hư không. Tuy tờ giấy trắng chẳng phải là hư không, hình tích con chim trên giấy không phải hình tích con chim trong hư không, nhưng xem tờ giấy có thể tạm biết được tướng hư không, xem hình chim trên giấy, cũng có thể so sánh biết được hình chim trong hư không. Đây là cái Diệu dụng truyền thức của Duy thức tôn (cũng gọi là Tướng Tôn).

Cách truyền pháp của hai tôn:

1- Thiền tôn – truyền tâm – như chỉ hình chim bay trong hư không.

2- Duy thức tôn – truyền thức – như chỉ hình chim trên tờ giấy.

Bên Thiền tôn thì “dùng tâm truyền tâm” truyền một cách trực tiếp, không có vật gì cách biệt. Nghĩa là chỉ thẳng cho người trực ngộ được bản tâm củamình, nên bên Thiền tôn dạy người chỉ tham cứu một câu nói (thoại đầu). Cấm không cho xem kinh điển vì sợ loạn tâm, nên Tam tạng kinh điển đều không dùng. Trái lại, bên Duy thức tôn thì dùng Thức để truyền tâm, nghĩa là phương tiện dùng Thức làm vật giới thiệu, để cho người tứ “Thức” mà ngộ được “Tâm”. Đây gọi là gián tiếp truyền, nên phải học tập kinh điển, không rời Tam tạng.
Truyền pháp

1- Thiền tôn – Dùng tâm truyền tâm – rời văn tự, không dùng Tam tạng

2- Duy thức tôn – Dùng thức truyền tâm – dùng văn tự, phải đủ Tam tạng.
 

PHUOCTUONG

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 4 2007
Bài viết
133
Điểm tương tác
0
Điểm
16
III. NGƯỜI TU TRONG HAI TÔN, VÌ CHẤP NÊN ĐỀU THÀNH TỆ

III. NGƯỜI TU TRONG HAI TÔN, VÌ CHẤP NÊN ĐỀU THÀNH TỆ

HỎI: Nếu như anh D chấp cái hìh con chim vẽ trên giấy là thật, thì không làm sao hiểu được cái hình con chim bay trong hư không. Nghĩa là bên Duy thức tôn phương tiện dùng văn tự nói Thức để dẫn người ngộ Tâm. Nếu người chấp nơi văn tự, chấp nơi Thức thì không thể ngộ được Tâm. Như thế, có phải vì văn tự làm cho người sanh ra chấp ngã chấp pháp, thì làm sao giải thoát được?

ĐÁP: Cái Diệu dụng của Duy thức toàn là nơi phá chấp, cho nên vừa lập pháp tướng rồi liền phá, không cho người khởi chấp. –Nếu nói về người chấp, thì bên nào cũng có. Bên Duy thức tôn vì có văn tự, nên chấp văn tự, chấp Thức; cũng như người chấp dấu chim trên giấy là thật, như thế là chấp pháp. Còn bên Thiền tôn thì lại chấp câu thoại đầu (thiền ngữ) hoặc chấp việc đánh, hét là thật pháp, cho nên mới có: “Khẩu đầu thiền, Dã hồ thiềnv.v…” Thế cũng là chấp pháp như người chấp dấu chim trong hư không là thật có. Cái tệ này hai bên đều có, đâu phải chỉ bên nhà Duy thức.
Chấp pháp

1- Duy thức vì văn tự sanh ra chấp ngã, chấp pháp.

2- Thiền tôn thì chấp việc đánh, hét và câu thoại đầu (thiền ngữ).

PHỤ CHÚ:

Khẩu đầu thiền là thiền chỉ nói suông ngoài môi chót lưỡi mà thôi, không có hạ thủ công phu.

Dã hồ thiền là thiền của con Dã hồ (chồn ở đồng nội). Vì tu theo thiền định tà đạo, khởi tâm chấp trước nên thành con Dã hồ.

Đánh, hét. – Xưa có người đến hỏi đạo với một vị Tổ sư về Thiền tôn… Tổ sư không dạy, chỉ dùng gậy đánh hoặc la hét mà người được tỏ ngộ. Về sau có người chấp như thế… bắt chước đánh đập làm đau người mà không kết quả.
 
Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên