vienquang2

Giới thiệu Luận Quy Sơn Cảnh Sách.

Tự Độ

Registered
Phật tử
Tham gia
23/8/24
Bài viết
48
Điểm tương tác
26
Điểm
18
Nghiệp: là dịch nghĩa chữ Karma tiếng Phạn, chỉ hành động tạo tác được lập đi lập lại nhiều lần lâu ngày trở thành thói quen của mỗi người.
Tâm thức làm chủ các hành động tạo tác nơi con nguời được lập đi lập lại nhiều lần. Đó là sự vận hành Sanh Diệt dược lập đi lập lại theo Lý Duyên Khởi Thập Nhị Nhân Duyên.
Tâm thức không phải Ta, của Ta.

Trong Mi Tien vấn đáp nói: Không biết mà tạo Nghiệp thì không có tội.
Xa rời chủ thể biết, đối tượng biết
Dù hữu, dù vô hữu
Đều xa rời hai thứ ấy
Bất Kiến Nhất Pháp tức Như Lai.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,032
Điểm tương tác
986
Điểm
113
Bài 9.- Cảnh sách thất tâm tu.

Chánh văn. Đoạn 4:

Hán-Việt:

Hà nãi tài đăng giới phẩm, tiện ngôn ngã thị Tỷ Kheo. Đàn việt sở tu, khiết dụng thường trú, bất giải thỗn tư lai xứ, vị ngôn pháp nhĩ hiệp cúng. Khiết liễu tụ đầu huyên huyên, đãn thuyết nhân gian tạp thoại. Nhiên tắc nhất kỳ sấn lạc, bất tri lạc thị khổ nhân. Nẵng kiếp tuẫn trần, vị thường phản tỉnh. Thời quang yểm một, tuế nguyệt sa đà, thọ dụng ân phồn, thí lợi nùng hậu, động kinh niên tải, bất nghĩ khí ly. Tích tụ tư đa, bảo trì huyễn chất. Đạo sư hữu sắc, giới húc Tỷ Kheo, tiến đạo nghiêm thân, tam thường bất túc. Nhân đa ư thử đam vị bất hưu, nhật vãng nguyệt lai, táp nhiên bạch thủ. Hậu học vị văn chỉ thú, ưng tu bác vấn tiên tri, tương vị xuất gia quí cầu y thực.

Việt:

Tại sao vừa được giới phẩm lại tùy tiện cho mình là bậc Tỳ Kheo? Dùng của thí chủ, ăn của thường trú, không biết xét nghĩ cho kỹ những thứ ấy từ đâu mà có, lại nói bừa rằng hiến cúng như vậy là lẽ tất nhiên đúng pháp. Ăn rồi, xúm đầu huyên náo, chỉ nói toàn những chuyện tạp của thế gian. Nhưng đó là cái vui nhất thời mà không biết chính cái vui đó lại là nguyên nhân của đau khổ. Bao kiếp xưa kia, chạy theo trần cảnh, chưa từng phản tỉnh. Thời giờ mãi trôi, năm tháng lần lữa, hưởng dụng càng nhiều, lợi dưỡng càng lắm, trãi qua nhiều năm mà chẳng nghĩ tính đến việc rời bỏ. Tích chứa cho nhiều, cũng chỉ vì nuôi giữ lấy cái thân xác hư huyễn này mà thôi. Đấng Đạo Sư có khuyên răng và khuyến khích Tỳ Kheo phải giữ thân mà tiến trên đường Đạo, còn ba việc ăn, mặt, và ngủ thường ngày đừng nên cho đầy đủ quá. Con người đa số đều đam mê những mùi vị ấy không ngừng, ngày qua tháng lại, thoáng chốc đã bạc đầu. Cho nên kẻ hậu học chưa nghe được ý chỉ huyền diệu của Phật Pháp phải học hỏi sâu rộng với các bậc giác ngộ đi trước, sao lại có thể nói rằng việc xuất gia quý ở nơi cầu cơm no áo ấm?

+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:

Một số không ít. Những người học Phật nói chung và người xuất gia nói riêng. Khi mới phát tâm thì ý chí giải thoát rất cao. Nhưng vào chùa một thời gian, chúng ta lại đi kết tình chị em với người này, kết tình cha mẹ với người kia. Buông cái này bắt cái kia, bỏ cha mẹ ruột để kết tình cha mẹ nuôi với thí chủ. Như vậy xuất gia để cầu cái gì? Có phải cầu luân hồi hay không? Có người lại đi xin một đứa nhỏ về nuôi làm con. Thật vô lý làm sao! Cha mẹ đã không nuôi, con không sanh lại đi nuôi con của người rồi xưng là con mình. Tình chân chính đối với cha mẹ đã cắt đứt, lại đi kết ái từ đâu đâu… Thành ra vào chùa một thời gian lại trở thành thế tục. Như vậy, thật là phản bội với ý nguyện xuất gia của mình, phản bội với lý tưởng cao siêu giải thoát. Mà cái sai lầm này hầu như đầy khắp cửa chùa. Đó là cái vô minh từ vô thỉ đến giờ nó đang che mờ chúng ta. Đã biết cuộc đời là vô thường, ái là gốc luân hồi sanh tử.
Tại sao vô chùa lại cột thêm dây ái khác, để rồi cũng buồn, giận, khóc, than? Như huynh đệ lâu lâu giận nhau cũng khóc… Cứ như vậy ngày qua tháng lại thì tu được cái gì? Giải thoát chỗ nào mà dám xưng ta đây là Thích tử, là người xuất gia, dạy đạo giải thoát, trong khi mình đang bị cột hằng trăm mối phiền não? Chúng ta phải nhận thức kỹ điều này. Đừng phản bội lại lý tưởng siêu thoát của mình. Cạo tóc theo thầy học đạo, thì phải làm sao cho xứng đáng!

+ Cũng có một số người muốn học Phật. Thuở ban đầu thì bản ngã nhỏ bé, tâm cung kính nâng cao. Được một thời gian thì lại nuôi lớn bản ngã, tâm khiêm nhường biến mất, họ nhìn thế gian không còn ai đáng kính, chỉ có ta là cao tột. Mục thị vô nhân. Cho rằng cái hiểu biết về Đạo của ta mới đúng, còn thiên hạ là đồ bỏ. Họ quên mất rằng:

TU PHẬT LÀ DIỆT NGÃ PHÁ CHẤP.

Những kẻ này giống như hình ảnh người lái đò đưa khách qua lại sông mê. Nhưng đưa mãi, thì chính mình lại bị "Mê". Như bài thơ Đò ngang, sau:

Cùng chung một chuyến đò ngang,
Kẻ thì sang bến, người đang trở về.
Lái đò lái mãi thành mê,
Sang, về không biết mình về hay sang?!
( Nguyễn Bảo Sinh)

Giới thiệu Luận Quy Sơn Cảnh Sách Nguoi-10

Để cảnh tỉnh các trường hợp này. Chư Tổ có bài sám Ngã Niệm:

Ngã niệm tự tùng vô thỉ kiếp
Thất viên minh tánh tác trần lao
Xuất sinh nhập tử thọ luân hồi
Dị trạng thù hình tao khổ sở
Túc tư thiểu thiện sinh nhân đạo
Hoạch ngộ vi phong đắc xuất gia
Phi truy tước phát loại sa môn
Hủy giới phá trai đa quá hoạn
Hoại sinh hại vật vô từ niệm
Đạm nhục xan huân dưỡng uế xu
Chúng nhân tài thực tứ xâm man
Tam Bảo tư duyên đa hỗ dụng
Tà mạng ác cầu vô yếm túc
Đam dâm thị tửu dũ hoang mê
Mạn Phật khinh Tăng báng đại thừa
Bội nghĩa cô thân hủy sư trưởng
Văn quá sức phi dương kỉ đức
Hạnh tai lạc họa yểm tha năng
Hư cuống khi vưu cạnh lợi danh
Đấu cấu thị phi tranh nhân ngã
Ác niệm tà tư vô tạm tức
Khinh phù trạo tán vị thường đình
Truy phan nhân sự dũ tinh chuyên
Trì tụng Phật kinh duy khốn khổ
Ngoại hiện oai nghi tăng siểm trá
Nội hoài ngã mạn cánh sơ cuồng
Lại đọa huân tu tứ thụy miên
Xan tật tham lam vô quí sỉ
Dã điền uế bản tương hà dụng
Đại hải phù thi bất cửu đình
Kí vô nhất niệm khả tư thân
Tất đọa tam đồ oanh chúng khổ
Ngưỡng nguyện Bổn Sư Vô Lượng Thọ
Quán Âm Thế Chí Thánh Hiền Tăng
Đồng triển oai quang phủ chiếu lâm
Cộng tứ minh gia hàm cứu bạt
Vô thỉ kim sinh chư tội chướng
Lục căn tam nghiệp chúng khiên vưu
Nhất niệm viên quang tội tánh không
Đẳng đồng pháp giới hàm thanh tịnh.

DỊCH

Kính lạy Phật! Con từ vô thỉ kiếp,
Mây vô minh che lấp tánh viên minh,
Tạo bao việc ác, bỏ hết việc lành,
Quanh quẩn luân hồi, vào ra sinh tử,
Đổi xác thay hình, biết bao khổ sở!
Nhờ chút duyên lành đời trước, nay được làm người;
May gặp ngọn gió thanh lương, lìa bỏ thói đời,
Cạo râu tóc, mặc ca sa, vào dòng Thích tử.
Nhưng lại buông lung theo đường ác cũ,
Tạo nhiều tội lỗi: phá giới phạm trai,
Sát sinh hại vật không chút bi hoài,
Thịt cá tanh hôi nuôi thân bẩn thỉu,
Lạm dụng của Tam Bảo,
Tham lam lấy của người,
Nghiện rượu, đắm sắc, mê mải chơi bời,
Sống mãi đường tà, lòng không nhàm chán;
Bội nghĩa, vong ân, coi thường sư trưởng,
Hủy báng Kinh Pháp, khinh Phật, mạ Tăng;
Hay đố kị, chèn ép kẻ tài năng,
Dùng lời ngoa, khoe khoang mình cao đức;
Giành giật lợi danh, dối người chân thật,
Hơn thua nhân ngã, tranh cãi thị phi;
Bề ngoài giả dối hiện tướng oai nghi,
Thật tế bên trong ngông cuồng ngạo mạn;
Suy nghĩ lăng nhăng tâm luôn tán loạn,
Ý tà niệm ác cứ mãi loay hoay,
Chuyện người bàn tán phấn khởi hăng say,
Niệm Phật tụng kinh dùng dằng uể oải,
Biếng nhác tu hành, chỉ ham ngủ nghỉ,
Tham lam bỏn sẻn không biết thẹn thùng;
Ruộng hoang mầm mục chẳng có chỗ dùng,
Thây nổi đại dương, trôi không dừng nghỉ.
Bản thân không mảy may phước trí,
Chắc chắn phải chịu khổ ba đường.
Con cúi xin nơi Cực-lạc Tây-phương,
Phật Di Đà cùng Quán Âm, Thế Chí,
Phóng quang uy nghi chiếu soi trần thế,
Cứu con từ vô thỉ kiếp đến nay,
Sáu căn nghiệp chướng sâu dầy,
Sát na diệt hết tội này sạch không;
Nguyện cùng pháp giới đại đồng,
Viên quang thanh tịnh dứt vòng tử sinh.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,032
Điểm tương tác
986
Điểm
113
Bài 10.- Trước học Giới Luật- oai nghi. Kế phải học Kinh Điển.

Chánh văn. Đoạn 5:
Hán-Việt:

Phật tiên chế luật, khải sáng phát mông. Quỹ tắc uy nghi tịnh như băng tuyết. Chỉ trì tác phạm thúc liễm sơ tâm, vi tế điều chương cách chư ổi tệ. Tỳ ni pháp tịch tằng vị thao bồi, liễu nghĩa thượng thừa khởi năng chân biệt. Khả tích nhất sanh không quá, hậu hối nan truy. Giáo lý vị thường thác hoài, huyền đạo vô nhân khế ngộ.

Việt:

Phật trước chế luật để mở sáng chỗ tối tăm. Phép tắc oai nghi sạch như băng tuyết. Theo nguyên tắc ngưng là giữ, làm là phạm (chỉ trì tác phạm) để kiềm chế kẻ sơ tâm, dùng nhiều điều luật vi tế để trừ bỏ các điều xấu tệ. Nơi truyền dạy giới luật chưa hề thân cận tu tập thì đối với pháp Liễu Nghĩa Tối Thượng Thừa làm sao có thể lãnh hội được? Đáng tiếc một đời bỏ qua vô ích, về sau hối hận cũng không kịp. Giáo lý chưa từng để lòng thì Đạo sâu xa không nhân đâu mà khế ngộ được!

+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:

  • Trên phương diện "Tu" thì: Tiên học lễ, hậu học văn.
  • Trên phương diện "Học" thì: học Giáo Lý căn bản, như nhân quả, nhân duyên, luân hồi, Vô Ngã v.v...
  • Lễ ở đây là trước học các Giới Luật, oai nghi , Tỳ Ni nhật dụng (3 cuống luật thiền môn)
  • Rốt lại nhờ có căn bản nên các pháp Liễu Nghĩa Tối Thượng Thừa (như Phật Tánh, niết Bàn v.v...) mới có thể lãnh hội được.
+ Giới hạnh tuy nhiều, nhưng trước phải biết Tam Tụ Tịnh Giới, phải biết chỉ trì tác phạm. là:

Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý,
Thị Chân Phật giáo.

Trong đó.- chỉ trì tác phạm có nghĩa là:

(止持作犯) Đứng về phương diện các điều ác, như giết hại, trộm cướp mà nói, thì Chỉ (thôi, dừng lại) là giữ giới, mà Tác (làm) là phạm giới. Trái lại, đối với các pháp lành, như từ bi, mà nói, thì Chỉ là phạm giới, mà Tác là giữ giới.

* Thế nhưng, có những kẻ mang danh học Đạo, lại dể duôi, biếng nhác. Mà không nhớ rằng: Phật trước chế luật để mở sáng chỗ tối tăm. Phép tắc oai nghi sạch như băng tuyết. để kiềm chế kẻ sơ tâm, dùng nhiều điều luật vi tế để trừ bỏ các điều xấu tệ.

* Nơi truyền dạy giới luật chưa hề thân cận tu tập thì đối với pháp Liễu Nghĩa Tối Thượng Thừa làm sao có thể lãnh hội được?

Đáng tiếc một đời bỏ qua vô ích, về sau hối hận cũng không kịp. Giáo lý chưa từng để lòng thì Đạo sâu xa không nhân đâu mà khế ngộ được !

Thật đúng lời chư Tổ cảnh giác:

Mây vô minh che lấp tánh viên minh,
Tạo bao việc ác, bỏ hết việc lành,
Quanh quẩn luân hồi, vào ra sinh tử,
Đổi xác thay hình, biết bao khổ sở!
Nhờ chút duyên lành đời trước, nay được làm người;
May gặp ngọn gió thanh lương, lìa bỏ thói đời,
Cạo râu tóc, mặc ca sa, vào dòng Thích tử.

Nhưng lại buông lung theo đường ác cũ,
Tạo nhiều tội lỗi: phá giới phạm trai,
Sát sinh hại vật không chút bi hoài,
Thịt cá tanh hôi nuôi thân bẩn thỉu,
Lạm dụng của Tam Bảo,
Tham lam lấy của người,
Nghiện rượu, đắm sắc, mê mải chơi bời,
Sống mãi đường tà, lòng không nhàm chán;

Bội nghĩa, vong ân, coi thường sư trưởng,
Hủy báng Kinh Pháp, khinh Phật, mạ Tăng;

Hay đố kị, chèn ép kẻ tài năng,
Dùng lời ngoa, khoe khoang mình cao đức;
Giành giật lợi danh, dối người chân thật,
Hơn thua nhân ngã, tranh cãi thị phi;

Bề ngoài giả dối hiện tướng oai nghi,
Thật tế bên trong ngông cuồng ngạo mạn;
Suy nghĩ lăng nhăng tâm luôn tán loạn,
Ý tà niệm ác cứ mãi loay hoay,

Chuyện người bàn tán phấn khởi hăng say,
Niệm Phật tụng kinh dùng dằng uể oải,
Biếng nhác tu hành, chỉ ham ngủ nghỉ,
Tham lam bỏn sẻn không biết thẹn thùng;

Ruộng hoang mầm mục chẳng có chỗ dùng,
Thây nổi đại dương, trôi không dừng nghỉ.
Bản thân không mảy may phước trí,
Chắc chắn phải chịu khổ ba đường.
(sám ngã niệm)
giới.jpeg
 
Last edited:

Tự Độ

Registered
Phật tử
Tham gia
23/8/24
Bài viết
48
Điểm tương tác
26
Điểm
18
Đức Phật thấy "Tâm, Phật, chúng sanh không sai khác."
Nghĩa là thực tại chúng sanh không biết đang là Phật, đang sinh hoạt Phật sự. Người ác, giết người, trộm cắp, tham ái, cướp đoạt tài sản, lợi dụng tu hành để âm mưu chiếm chùa lấy của bố thí. Những người làm ngược lại với những người kể trên cũng chẳng sai khác.
Vì không có người nào sanh ra một kiếp là như Đức Phật nghĩa là phải trải qua vô thỉ, vô minh dính mắc kiếp nạn mới thấy được cái Tâm Phật này.
Cũng có thể nói một trong tất cả chúng sanh kể trên sẽ là Phật Di Lặc.
Tâm tất cả chúng sanh không sai khác còn có nghĩa là Nhất Tâm. Tất cả chúng sanh có cùng Một Tâm.
Tâm dính mắc là chúng sanh. Tám không dính mắc là Phật.
 

Tự Độ

Registered
Phật tử
Tham gia
23/8/24
Bài viết
48
Điểm tương tác
26
Điểm
18
Đức Phật thấy "Tâm, Phật, chúng sanh không sai khác."
Nghĩa là thực tại chúng sanh không biết đang là Phật, đang sinh hoạt Phật sự. Người ác, giết người, trộm cắp, tham ái, cướp đoạt tài sản, lợi dụng tu hành để âm mưu chiếm chùa lấy của bố thí. Những người làm ngược lại với những người kể trên cũng chẳng sai khác.
Vì không có người nào sanh ra một kiếp là như Đức Phật nghĩa là phải trải qua vô thỉ, vô minh dính mắc kiếp nạn mới thấy được cái Tâm Phật này.
Cũng có thể nói một trong tất cả chúng sanh kể trên sẽ là Phật Di Lặc.
Tâm tất cả chúng sanh không sai khác còn có nghĩa là Nhất Tâm. Tất cả chúng sanh có cùng Một Tâm.
Tâm dính mắc là chúng sanh. Tám không dính mắc là Phật.
Dính mắc cái gì?
Bất Kiến Nhất Pháp tức Như Lai
 

Tự Độ

Registered
Phật tử
Tham gia
23/8/24
Bài viết
48
Điểm tương tác
26
Điểm
18
Một như huyễn
Như huyễn có từ tâm và là hoạt động của tâm

Tâm như nhà họa sĩ
Vẽ nên các thế gian
Năm uẩn từ tâm sanh
Không pháp gì chẳng tạo.
Như tâm, Phật cũng vậy
Như Phật, chúng sanh đồng
Tâm, Phật và chúng sanh
Cả ba không sai khác…
Nếu người muốn rõ biết
Tất cả Phật ba đời
Phải quán pháp giới tánh
Tất cả duy tâm tạo.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,032
Điểm tương tác
986
Điểm
113
Bài 11.- Giữ Oai nghi.

Đoạn 6

Hán-Việt:

Cập chí niên cao lạp trưởng, không phúc cao tâm, bất khẳng thân phụ lương bằng, duy tri cứ ngạo, vị am pháp luật, tập liễm toàn vô. Hoặc đại ngữ cao thanh, xuất ngôn vô độ. Bất kính thượng trung hạ tọa, Bà la môn tụ hội vô thù. Oản bát tác thanh, thực tất tiên khởi. Khứ tựu quai giác, tăng thể toàn vô, khởi tọa chung chư, động tha tâm niệm. Bất tồn ta ta quỹ tắc, tiểu tiểu uy nghi, tương hà thúc liễm hậu côn, tân học vô nhân phỏng hiệu.

Việt:

Cho đến tuổi đời, tuổi Hạ đều cao, mà bụng rỗng tâm cao, chẳng chịu thân cận bạn lành, chỉ biết nghênh ngang kêu ngạo, chưa thông giáo pháp và giới luật, nên sự thúc liễm toàn không. Hoặc lời cao tiếng lớn, nói năng vô phép. Chẳng kính các bậc Thượng, Trung, Hạ tọa, chẳng khác gì sự tụ hội của các Bà La Môn. Khua bát ra tiếng, ăn rồi dậy trước, đến đi trái phép, tăng thể toàn không, đứng ngồi lăng xăng, làm động niệm tâm người. Chẳng còn một chút phép tắc, một tí oai nghi nào, thì lấy gì để thúc liễm hậu bối? Còn kẻ mới học cũng không nhân đâu mà noi theo được!

+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:

Có người. Sau khi xuất gia thì lại quên mất ý chí ban đầu là cầu giải thoát. Họ chạy theo thói thường mà chỉ mãi miết lo Ăn. mặc, ở, ngũ nghĩ v.v...Rồi dần dà ngày tháng chóng qua. Khi nhìn lại thì tuổi cao mà trí thấp. Lại cậy mình già mà làm phách.- chỉ biết nghênh ngang kêu ngạo, chưa thông giáo pháp và giới luật, nên sự thúc liễm toàn không. Hoặc lời cao tiếng lớn, nói năng vô phép. Chẳng kính các bậc Thượng, Trung, Hạ tọa, chẳng khác gì sự tụ hội của các Bà La Môn. Khua bát ra tiếng, ăn rồi dậy trước, đến đi trái phép, tăng thể toàn không, đứng ngồi lăng xăng, làm động niệm tâm người. Chẳng còn một chút phép tắc, một tí oai nghi nào, thì lấy gì để thúc liễm hậu bối? Còn kẻ mới học cũng không nhân đâu mà noi theo được!

Nói đến chỗ : "đến đi trái phép, tăng thể toàn không, đứng ngồi lăng xăng, làm động niệm tâm người. Chẳng còn một chút phép tắc, một tí oai nghi nào,"

Làm mình nhớ đến có vị hành giả. Đi khất thực mà chạy như ma đuổi, trái giới, sai luật. Thế mà vì chưa học oai nghi, cảnh sách nên chỉ làm trò cười cho bậc Thức giả. Đáng thương xót !
Screenshot (81).png
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,032
Điểm tương tác
986
Điểm
113
Bài 12.- Bỏ thói ương nghạnh vô trí, biếng học.

Đoạn 7

Hán-Việt:

Tài tương giác sát, tiện ngôn ngã thị sơn tăng. Vị văn Phật giáo hành trì, nhất hướng tình tồn thô tháo. Như tư tri kiến, cái vị sơ tâm dung đọa, thao thiết nhân tuần, nhẫm nhiễm nhân gian toại thành sơ dã. Bất giác lủng chủng lão hủ, xúc sự diện tường. Hậu học tư tuân, vô ngôn tiếp dẫn. Túng hữu đàm thuyết, bất thiệp điển chương. Hoặc bị khinh ngôn, tiện trách hậu sinh vô lễ, sân tâm phẫn khởi, ngôn ngữ cai nhân.

Việt:

Vừa được người cảnh giác cho thì liền bảo “Ta là Sơn Tăng.” Chưa nghe lời Phật dạy để hành trì, một bề giữ tính vụng về lỗ mãng. Thấy biết như thế là bởi vì cái tâm lúc đầu lười biếng, theo thói tham ăn, thấm thoát chạy theo người đời, trở thành kẻ hoang dại thô tục. Chẳng hay lụm cụm già yếu, gặp việc thì xoay mặt vào vách. Hậu học thưa hỏi cũng không có lời gì để dẫn dắt. Dù giảng nói cũng không có liên quan tới kinh điển. Hoặc bị khinh chê thì liền trách hậu sinh vô lễ, tâm sân nổi dậy, lớn tiếng nạt người.

+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:

Có một số người, không chịu học hỏi kinh- luật- luận mà lấy sự suy nghĩ bậy bạ theo vọng tưởng của mình mà làm cứu cánh "đạo đức" !

Nếu có dịp bàn luận thì họ "nói cương" không theo kinh điển, pháp học gì cả, để rồi trở thành kẻ hoang dại thô tục. -

Nếu Hậu học thưa hỏi cũng không có lời gì để dẫn dắt. Mà dù giảng nói cũng không có liên quan tới kinh điển.

Hoặc lầm lấy kinh điển của ngoại Đạo mà tự lừa mình, gạt người. Nếu bị khinh chê thì liền trách người khác vô lễ, tâm sân nổi dậy, lớn tiếng mắng người.- Ôi đúng là người mù mà muốn dẫn dắt kẻ đui cho cùng sa hầm lọt hố...!!!
mù1.jpg
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,032
Điểm tương tác
986
Điểm
113
Bài 13.- Sanh tử sự đại. Vô thường tấn tốc.

Đoạn 8:

Hán-Việt:

Nhất triêu ngọa tật tại sàng, chúng khổ oanh triền bức bách, hiểu tịch tư thỗn, tâm lý hồi hoàng. Tiền lộ mang mang, vị tri hà vãng. Tùng tư thỉ tri hối quá, lâm khát quật tỉnh hề vi. Tự hận tảo bất dự tu, niên vãn đa chư quá cựu, lâm hành huy hoắc, phạ bố chương hoàng. Hộc xuyên tước phi, thức tâm tùy nghiệp. Như nhân phụ trái, cường giả tiên khiên, tâm tự đa đoan, trọng xứ thiên trụy. Vô thường sát quỷ niệm niệm bất đình, mạng bất khả diên, thời bất khả đãi. Nhân thiên tam hữu ưng vị miễn chi, như thị thọ thân phi luận kiếp số.

Việt:

Một mai bệnh nằm trên dường, các khổ quay quanh bức bách, sớm tối lo nghĩ, trong lòng lo sợ bồi hồi. Đường ở phía trước mịt mờ, chẳng biết về đâu. Đến đây mới biết hối lỗi, đợi khát mới đào giếng để làm gì? Tự hận sớm chẳng lo tu, đến tuổi xế chiều nhiều điều tội lỗi, khi sắp ra đi thì sự sống tan rã nhanh chóng, nên sợ hãi kinh hoàng. Giống như lụa lủng thì chim sẻ bay ra, thân chết rồi thì tâm thức đi theo nghiệp. Như kẻ thiếu nợ, ai mạnh theo trước, tâm tạo nhiều nghiệp, nặng đâu rơi đó. Con quỷ vô thường giết người không ngừng trong mỗi niệm, mạng sống chẳng thể kéo dày, thời gian không thể đợi chờ. Ba cõi, trời người chưa thoát khỏi được thì cứ như vậy mà thọ thân mãi số kiếp chẳng thể tính bàn.

Đoạn 9

Hán-Việt:

Cảm thương thán nhạ, ai tai thiết tâm, khởi khả giam ngôn, đệ tương cảnh sách. Sở hận đồng sanh tượng quý, khứ Thánh thời diêu, Phật pháp sanh sơ, nhân đa giải đãi, lược thân quản kiến dĩ hiểu hậu lai. Nhược bất quyên căng, thành nan luân hoán.

Việt:

Lạ lùng thương cảm, đau xót lòng thay! Đâu thể làm thinh, cho nên cảnh sách lẫn nhau. Tủi vì chúng ta đồng sanh vào thời Tượng Pháp, cách Thánh (Phật) đã xa, Phật pháp trở nên lờ mờ, nhiều người giải đãi, do vậy lược bày cái thấy nhỏ hẹp của mình để khuyên bảo những người hậu học. Nếu chẳng bỏ tính kêu căng, thì thật khó mà thay đổi được.

+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:Sanh tử sự đại. Vô thường tấn tốc.

Phàm, lúc khởi tu. Người có ý chí xuất trần, thì muốn giải quyết ván đề Sanh Tử.

Phàm Khi đi tu thì trước cốt giải quyết vấn đề sanh tử. Bao nhiêu người từ trước đến giờ đành bó tay đối với vấn đề sanh tử. Vì thế đức Phật quyết định giải quyết vấn đề sanh tử, chớ không chấp nhận cách bó tay đó. Ngài không thể đầu hàng sanh tử mà phải vượt ra khỏi sanh tử, cho nên Ngài mới xuất gia cầu đạo. Khi đạt đạo rồi, đó là Ngài thoát ly sanh tử.

Thế nên tất cả người tu sau này khi phát tâm xuất gia hay là quyết chí tu hành theo đạo Phật để giải thoát thì không ai coi thường vấn đề sanh tử. Khi chúng ta đi tu là đã quyết định chiến thắng cho được vấn đề sanh tử, phải thoát ly sanh tử. Đó là cái chủ yếu. Như vậy chủ yếu chúng ta đi tu là để thoát ly sanh tử. Cho nên chữ giải thoát nghĩa là không còn bị sanh tử lôi kéo nữa. Mọi người ai đi tu cũng phải quan trọng bốn chữ “Sanh tử sự đại” chớ không thể coi thường. Đó là bước đầu trên con đường tu của chúng ta.

Có lắm người quan niệm rằng, phải tu gấp rồi nguyện sanh về một nơi nào đó (cõi Cực Lạc) yên ổn hơn để tu nữa, còn trở lại Ta Bà khổ quá tu không được. Lý luận này rất hay đối với người không nghĩ rằng mình là kẻ nợ của chúng sanh, hoặc tự thấy mình bất lực với hiện tại. Nhưng đối với người có tâm niệm dũng mãnh, nhất tâm giải quyết sanh tử ngay trong đời này và thệ nguyện cứu vớt chúng sanh, thì thấy việc cầu xin về Cực Lạc là chưa cần thiết. Vì không hợp với tâm nguyện cao đẹp của Bồ Tát, như Ngài Địa Tạng nguyện xuống địa ngục, nếu địa ngục chưa hết người. Ngài thề không thành Phật (địa ngục vị không thệ bất thành Phật).

Và có ai gan dạ bằng Ngài A-Nan, Ngài nguyện: Nếu còn một chúng sanh chưa thành Phật, Ngài sẽ không nhập Niết Bàn. Chúng ta là Phật tử, học giáo lý Đại thừa, thì ít ra cũng phải nguyện ở nơi Ta Bà, nếu chưa độ hết chúng sanh thì không về Cực Lạc (hay nhập Niết Bàn). Còn như chạy gấp về bên ấy, còn ai ở bên này chịu khổ cũng mặc kệ, thì mình yếu đuối quá. Chúng ta đừng thấy trong sử ghi là có những vị Thiền sư đời sau trở lại làm tướng, làm quan, làm vua hay làm người nữ… Như trường hợp ông Tô Đông Pha trước là Thiền sư sau trở lại làm Tể quan, rồi cho đó là lui sụt. Đâu không nhớ trong kinh Phổ Môn nói’ “Ưng dĩ Tể quan thân đắc độ giả tức hiện Tể quan thân nhi vị thuyết pháp.Ưng dĩ Phạm Vương v.v…”Bồ Tát luôn luôn tùy tha nguyện cầu độ mà các Ngài tùy hình tướng hiện ra để độ, đó là tùy nguyện độ tha, chứ chẳng phải các Ngài lui sụt. Có một số người lầm lẫn sợ sệt, kiếp này không độ được thí chủ thì làm sao đây? Chẳng ngờ rằng mình đã nguyện tự giác và độ hết chúng sanh mới thành Phật đạo, thì có gì phải sợ, chỉ sợ chúng ta không dõng mãnh tiến tu, chớ một khi bước vào dòng đạo rồi thì dù cho có thọ của thí chủ bao nhiêu cũng không đến nỗi đọa. Vì thế các Thiền sư thường nói: “Dù thọ mỗi ngày một lượng vàng ròng cũng chẳng sao”. Song, chúng ta cũng có thể đọa dù thọ nhận rất ít, nếu chúng ta buông lung tâm ý chẳng tự giác ngộ. (lượt trích HT. Th Thanh Từ)

* Để cảnh tỉnh, người tu học Phật, mà quên sự đại Sanh tử, cú mãi mê mê theo 5 món dục. Tổ khuyên nhắc;

"Một mai bệnh nằm trên dường, các khổ quay quanh bức bách, sớm tối lo nghĩ, trong lòng lo sợ bồi hồi. Đường ở phía trước mịt mờ, chẳng biết về đâu. Đến đây mới biết hối lỗi, đợi khát mới đào giếng để làm gì? Tự hận sớm chẳng lo tu, đến tuổi xế chiều nhiều điều tội lỗi, khi sắp ra đi thì sự sống tan rã nhanh chóng, nên sợ hãi kinh hoàng. Giống như lụa lủng thì chim sẻ bay ra, thân chết rồi thì tâm thức đi theo nghiệp. Như kẻ thiếu nợ, ai mạnh theo trước, tâm tạo nhiều nghiệp, nặng đâu rơi đó. Con quỷ vô thường giết người không ngừng trong mỗi niệm, mạng sống chẳng thể kéo dày, thời gian không thể đợi chờ. Ba cõi, trời người chưa thoát khỏi được thì cứ như vậy mà thọ thân mãi số kiếp chẳng thể tính bàn."
sanh tử sự đại.jpg
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,032
Điểm tương tác
986
Điểm
113
Bài 14.- Nhiếp phục ma quân.

Đoạn 10

Hán-Việt:

Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Nhược bất như thử, lạm xí tăng luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư triêm tín thí, tích niên hành xứ thốn bộ bất di, hoảng hốt nhất sanh, tương hà bằng thị. Huống nãi đường đường tăng tướng, dung mạo khả quan, giai thị túc thực thiện căn cảm tư dị báo, tiện nghĩ đoan nhiên củng thủ, bất quí thốn âm. Sự nghiệp bất cần, công quả vô nhân khắc tựu, khởi khả nhất sanh không quá, ức diệc lại nghiệp vô tì.

Việt:

Phàm là người xuất gia, thì phải cất bước vượt tới chỗ sâu xa (chân lý Đại Thừa), tâm hình khác tục, kế thừa và hưng thịnh dòng Thánh (Phật), nhiếp phục ma quân, nhằm báo đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi. Nếu không như thế, thì chỉ là kẻ lạm dụng xen lẫn trong hàng tăng chúng, ngôn hạnh chẳng đầy đủ, uổng nhận sự cúng dường của tín thí. Chỗ đi năm trước, một bước chẳng dời, mờ mịt một đời, lấy gì nương tựa? Huống chi, đường đường mang tướng một vị tăng, dung mạo tốt đẹp, đều là do đời trước gieo trồng căn lành nên đời nay mới cảm được quả báo đặc biệt như thế. Vậy mà chỉ nghĩ đến việc khoanh tay ngồi yên, chẳng biết quý tiếc thời gian ngắn ngủi. Đạo nghiệp không chịu nỗ lực thực hành thì Đạo quả không nhân đâu mà thành tựu. Chẳng những một đời này luống qua, mà những việc của đời sau cũng thành vô ích.

+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:

cất bước vượt tới chỗ sâu xa (chân lý Đại Thừa),
tâm hình khác tục,
kế thừa và hưng thịnh dòng Thánh ,

Thế nào là: nhiếp phục ma quân, nhằm báo đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi ?
Luận ĐT ĐL có nói về Ác Ma lưu nạn, với đệ tử Phật.

Luận rằng: Ác ma lưu nạn dưới nhiều hình thức khác nhau, như:

- Khiến người tu hành phải chịu cảnh đói khát, thiếu thốn, gây cản trở cho việc biên chép, thọ trì, tu tập Bát nhã Ba- la- mật.

- Nhập vào người tu hành để làm não loạn thân tâm, như bị bịnh tật, gặp cảnh ưu sầu, khổ đau v.v... gây cản trở cho việc biên chép, thọ trì, tu tập Bát nhã Ba- la- mật.

- Gây sự bất hòa giữa thầy và trò, tạo cảnh người nghe pháp vạch tội lỗi của Pháp sư ngay giữa đại chúng, cản trở việc thuyết pháp và thính pháp.

Các ác ma còn hiện thân thiện tri thức, thân Sa môn... khuyên người tu hành chớ nên biên chép, thọ trì, chánh ức niệm tu tập Bát nhã Ba- la- mật, như nói:

- Dù có trì giới, có tinh tấn, mà độn căn, thì cũng chẳng sao có thể hiểu được thâm Bát nhã Ba- la- mật. Như vậy có nghe Bát nhã Ba- la- mật cũng chẳng có lợi ích gì cả. ..v.v...

....... Các sự việc như vậy đều do ác ma gây ra để phá hoại tâm của người cầu Phật đạo. (hết trích)

Kính các Bạn. Ngày nay nhằm lúc "Pháp nạn" của PG. Ma quân lộng hành.

+ Chúng "- Gây sự bất hòa giữa thầy và trò, tạo cảnh người nghe pháp vạch tội lỗi của Pháp sư ngay giữa đại chúng, cản trở việc thuyết pháp và thính pháp."

+ Chúng gây chia rẻ giữa Tăng Ni và Tăng Ni bằng những lập luận sai Phi Pháp mà cho là chân pháp để làm sai lầm người thiểu trí.

+ Chúng gây chia rẻ giữa Phật tử và Phật tử bằng những lập luận sai Pháp về cúng dường hộ trì Tam Bảo mà cho là chân pháp để làm cho Phật tử xa lìa Tam Bảo.

* Nhưng trong thời buổi ma cường Pháp nhược này. Cũng có nhiều vị Tăng Sĩ Bô Tát, và nhiều Cư Sĩ Bồ tát có Chánh Tín, có Trí Huệ phân biệt được Chánh- Tà. Các vị ấy đã hy sinh chịu sự chửi mắng, vùi dập của quần ma mà thị hiện Giáo Hóa Thần Thông.- kế thừa và hưng thịnh dòng Thánh , nhiếp phục ma quân, nhằm báo đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi .- Dần đưa chúng sanh ra khỏi lưới Ma trở về Chánh Pháp Phật.

Screenshot (121).png
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,032
Điểm tương tác
986
Điểm
113
Bài 15.- Luận bàn phải đúng theo kinh điển Phật, noi dấu Thánh Hiền.

Đoạn 11

Hán-Việt:

Từ thân quyết chí phi tri, ý dục đẳng siêu hà sở, hiểu tịch tư thỗn, khởi khả thiên diên quá thời. Tâm kỳ Phật pháp đống lương, dụng tác hậu lai qui cảnh, thường dĩ như thử, vị năng thiểu phần tương ưng.

Việt:

Từ giả thân quyến quyết chí khoác áo người tu, là ý muốn vượt trên chỗ nào? Sớm tối nghĩ suy việc ấy (giác ngộ giải thoát) thì đâu thể dây dưa cho mất thời giờ. Trong lòng tự hứa sẽ làm trụ cột cho Phật Pháp, gương mẫu cho đời sau, thường nghĩ như thế đó mà còn chưa được chút phần tương ưng với việc xuất gia (huống là chưa nghĩ tới hay sao?).


Đoạn 12

Hán-Việt:

Xuất ngôn tu thiệp ư điển chương, đàm thuyết nãi bàng ư kê cổ. Hình nghi đĩnh đặc, ý khí cao nhàn.

Việt:

Nói ra phải phù hợp với kinh điển, luận bàn phải dựa theo khuôn mẫu của người xưa. Hình dáng phải trang nghiêm tề chỉnh, tâm chí phải thong dong siêu thoát.

+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:

Cảnh sách: "Nói ra phải phù hợp với kinh điển, luận bàn phải dựa theo khuôn mẫu của người xưa."

Nếu thực tình chúng ta muốn làm rường cột cho Phật pháp, làm mẫu mực cho người sau, thì nói ra lời gì cũng phải phù hợp với kinh điển, với lời Phật ý Tổ. Phải nói đúng đắn chân thật, chẳng nên nói bướng, nói đùa hay đặt điều nói bậy.

Đây là việc cần lưu tâm và dùng Chánh trí soi sáng. Vì:

Kinh Viên Giác, Đức Phật dạy rằng, giáo pháp của Ngài như ngón tay chỉ mặt trăng, là phương tiện để đạt đến chân lý, cho nên đừng lầm ngón tay là mặt trăng, chân lý không nằm trong kinh điển. Nếu y theo kinh điển để giải nghĩa, để tìm chân lý trong những giòng chữ, thì đó chính là chỉ biết nhìn ngón tay mà chưa biết nhìn mặt trăng. Nhưng rời bỏ hẳn kinh điển đi thì lại có thể rơi vào những điên đảo vọng tưởng.

Kinh là phá chấp, nếu lìa kinh tức còn chấp, còn chấp là ma, không thể giải thoát được.

Cổ nhân nói: "Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết ".

ma1.jpg
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,032
Điểm tương tác
986
Điểm
113
Bài 16.- Tăng ly chúng Tăng tàn.

Đoạn 13

Hán-Việt:

Viễn hành yếu giả lương bằng, sác sác thanh ư nhĩ mục, trú chỉ tất tu trạch bạn, thời thời văn ư vị văn. Cố vân, sanh ngã giả phụ mẫu, thành ngã giả bằng hữu. Thân phụ thiện giả, như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận; hiệp tập ác giả, trưởng ác tri kiến, hiểu tịch tạo ác, tức mục giao báo, một hậu trầm luân, nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục.

Việt:

Đi xa cần nương bạn tốt, để thường lọc sạch tai mắt, trú ở cần phải chọn bạn để thường nghe những điều chưa nghe. Nên nói: “Sanh ta ra là do cha mẹ, làm nên ta là do bằng hữu.” Gần gũi người lành như đi trong sương móc, tuy không ướt áo nhưng lúc nào cũng được thấm nhuần. Quen gần kẻ ác thì thêm lớn những tri kiến ác, sớm tối làm ác thì phải chịu quả báo trước mắt, sau khi chết đi thì phải chịu trầm luân, một khi mất thân người thì vạn kiếp khó mà khôi phục lại được.

+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:

Chúng ta ra đi tìm Thầy học đạo cốt phải nhờ bạn lành, Thầy tốt khiến tai mắt chúng ta được trong sạch, được nghe lời hay, thấy được cái đẹp. Khi dừng ở cần phải chọn bạn chọn Thầy, gần được Thầy hay bạn tốt, chúng ta mới nghe được điều lợi ích chưa từng nghe, Bằng gần ông Thầy không hơn mình, bạn lại chẳng tốt thì dầu ở chung ngàn năm cũng chẳng lợi gì, đôi khi lại còn lui sụt. Nên người tu cần phải chọn thầy, chọn bạn là như thế. “Sanh ta là cha mẹ, làm nên ta là Thầy bạn”. Đây là sự thật không nghi ngờ gì hết. Vì chúng ta có được hình vóc vẹn toàn này là từ cha mẹ mà có, nhưng chúng ta có được trí tuệ, hiểu biết những điều siêu xuất thế gian lại chính nhờ Thầy bạn nuôi dưỡng bồi đắp mà nên. Nhờ Thầy bạn chúng ta mới thành người hữu ích cho chính mình và cho chúng sanh. Riêng tôi, nay được biết đạo lý giảng dạy thế này hoàn toàn là nhờ thầy bạn, chứ cha mẹ thì không thể làm được. Có nhiều người không may khi phát tâm xuất gia mà không gặp Thầy hay, bạn tốt, nên ở chùa năm, mười năm hay hai, ba mươi năm rồi, vẫn lẩn quẩn cũng chỉ trong hai thời khóa tụng, thật là tội nghiệp! Điều này cũng do phước duyên của mỗi người, chứ thật ra lúc phát tâm đi tu, vào chùa gặp đâu ở đó, có biết đâu mà chọn. Vì thế, chúng ta có phước duyên được gặp Thầy chỉ dạy nên người hữu dụng thì công ơn ấy thật vô cùng to lớn.

Câu chuyện về một vị thầy tu trong một ngôi chùa ở miền quê, vì hạnh nguyện muốn đem ánh sáng phật pháp vào đời sống nên thầy đã tổ chức những buổi giảng phật pháp cho những cư dân nơi đó.

Trong hội chúng có một người học trò căn tính lanh lợi, thông minh lại có tinh thần cầu học, ngoài những buổi nghe pháp ra, ở nhà còn thường xuyên tìm hiểu giáo lý đạo Phật qua kinh điển, sách vở nên người đó đã có kiến thức giáo lý rất tốt và có vẻ vượt trội hơn những người còn lại.

Nhưng cũng vì căn trí quá lanh lợi, thông minh và luôn là người giỏi nhất trong hội chúng nên sau một thời gian anh ta nhận thấy những người bạn đồng tu với mình sao mà chậm hiểu và yếu kém quá, anh ta thấy họ tiếp thu phật pháp kém quá, anh ta thông minh và chịu khó học hỏi nên đôi lúc có những bài giảng của thầy anh ta cũng đã hiểu biết hết rồi.

Từ đó trong tâm thức của anh học trò nãy sinh một tư tưởng tự mãn, cao ngạo, coi thường hội chúng, xem nhẹ những bài giảng của thầy.

Thế là không biết từ lúc nào anh ta thấy những buổi học không còn hấp dẫn như trước đây nữa, cũng từ đó anh ta lơ là, không hứng thú trong việc đi thính pháp nữa.

Trước đây anh ta luôn coi trọng những buổi buổi đến chùa nghe thầy giảng và luôn đặt ưu tiên lên hàng đầu, nếu có nhiều việc trùng nhau trong cùng thời điểm thì anh luôn lựa chọn việc tham gia buổi học, nhưng từ nay nếu có nhiều việc trùng nhau thì anh ta đặt việc học vào hàng thứ yếu mà ưu tiên cho các việc khác trước.

Cho đến một lúc anh ta đã bỏ ba kỳ học liên tiếp mà không có một lý do chính đáng nào. Vị thầy quán sát căn tánh biết được bản ngã của người học trò được nuôi lớn và tính cống cao ngã mạn đã khởi lên trong tâm thức cho nên anh ta thấy việc tham gia những buổi học là không cần thiết nữa.

Tuy nhiên thầy cũng thận trọng suy nghĩ lại, biết đâu anh ta bị tai nạn hay sự cố gì đó mà không đi thính pháp cũng nên, vì thế thầy quyết định sẽ đến nhà để thăm người học trò giỏi giang của mình.

Một buổi chiều mùa đông gió rét căm căm, thầy mang áo mưa trùm kín đầu lội bộ đến nhà thăm người học trò. Hé mở cánh cửa bước vào nhà thầy thấy anh học trò đang ngồi sưởi ấm bên bếp than hồng và đang đọc một quyển sách gì đó.

Anh học trò quá bất ngờ trước cuộc thăm viếng đột ngột này nhưng cũng nhanh chóng lấy lại bình tỉnh chào hỏi, mời thầy cùng ngồi bên bếp than cho ấm và pha một ấm trà ngon tiếp thầy.

Trong khi ngoài trời mưa gió não nề, gió rét căm căm mà được ngồi trong căn nhà ấm cúng, sưởi ấm bên bếp than hồng và thưởng thức chén trà thơm quả thật là hạnh phúc, thật là thú vị làm sao!

Sau những câu chào hỏi và rót trà mời thầy, anh học trò ngồi cung kính chờ đợi thầy nói về lý do của cuộc thăm viếng bất ngờ này.

Nhưng đã qua hai tuần trà mà thầy chỉ im lặng thưởng thức tách trà nóng mà không nói câu nào.

Hình như không nhận thấy sự sốt ruột của anh học trò nên thầy vẫn nhìn chăm chú vào bếp than hồng, những cục than cùng nhau cháy đỏ và tỏa hơi ấm khắp nhà, vẫn im lặng thầy lấy cây que gắp ra một cục than đang cháy đỏ hồng ra khỏi bếp để riêng một nơi.

Trong phút chốc cục than hồng tắt dần và cuối cùng thì lụi tàn chỉ còn một cục than đen thui lạnh lẽo nằm chơ vơ một mình trên nền nhà. Đến đây thì thầy đứng dậy kiếu từ ra về.

Quan sát hành động của thầy, anh học trò chợt tỉnh ngộ, cái bản ngã vĩ đại tự nhiên bị thu nhỏ lại, bao nhiêu tự mãn, cống cao ngã mạn trong tâm thức như tan biến, anh chợt thấy những tư kiến hình thành trong tâm của mình trong thời gian gần đây thật là sai lầm.(hết trích)

Kính các Bạn.

* Tăng.- Là một đòan thể thanh tịnh, cùng tu, cùng nhắc nhở nhau để thành Đạo Quả. Do vậy Chúng Tăng cùng sống chung gần gủi nhau như đám mía, nương tựa nhau mà tránh được mưa bảo phá hư. Cổ nhân nói : Hổ ly sơn hổ bại, Tăng ly chúng Tăng tàn.

Giới thiệu Luận Quy Sơn Cảnh Sách Mzya_j10
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,032
Điểm tương tác
986
Điểm
113
Bài 17.- Ẩn tu.

Đoạn 14

Hán-Việt:

Trung ngôn nghịch nhĩ, khởi bất minh tâm giả tai? Tiện năng tháo tâm dục đức, hối tích thao danh, uẩn tố tinh thần, huyên hiêu chỉ tuyệt.

Việt:

Lời ngay trái tai, sao chẳng ghi lòng tạc dạ? Như thế thì mới có thể rửa tâm nuôi đức, ẩn tích mai danh, giữ cho tinh thần sạch trong, dứt hết sự ồn náo .

+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:

Trong kho tàng tri thức nhân loại. có từ "hối tích thao danh" hoặc "thao quang dưởng hối".- Nó mang ý nghĩa thâu lại những gì sáng tỏa, để nuôi dưỡng ý định. Đối với người tu thì mang ý nghĩa Ẩn tu. Nghĩa là ở ẩn nơi vắng vẻ ít người lai vãng để hành hạnh độc cư mà tu hành.

Bài học: HỌC CÁCH ĐI ĐỨNG Một vị ẩn sĩ cùng các đệ tử của mình họp mặt ở nhà khách. Ông quyết định rằng những người nào qua được kỳ sát hạch cuối cùng thì sẽ cho "tốt nghiệp " và xuống núi. Vị ẩn sĩ trầm ngâm một chút rồi nói: "Hôm nay các con cùng với Thầy đi dạo vườn hoa. Hễ ai biết phải đi đứng ra sao cùng người trên thì đã nắm vững được lẽ sống ở đời rồi ". Khi ông bước ra vườn, các đệ tử nhìn nhau rồi nhất loạt đi thụt lùi phía sau. Đi được một đoạn thì người thầy dừng lại. Ông quay lại nhìn học trò và nói: Đi như thế này thì Thầy là người mở đường cho các con sao? Nghe vậy, các đệ tử hoảng hồn, họ vội vàng chạy lên phía trước. Đi được một đoạn, vị ẩn sĩ dừng lại và nói: Ái chà! Đi đứng như vậy thì ta là người tùy tùng mất thôi. Các đệ tử dừng lại, nhìn nhau và suy nghĩ một lúc. Họ quyết định đi ngang với Thầy của mình. Đi được một lúc thì vị ẩn sĩ dừng lại và nói: "Thầy và trò sao lại đi ngang hàng với nhau, làm như vậy coi không được. Nghe đến đây, các đệ tử không dám đi nữa, họ đứng nép một bên và xin Thầy chỉ bảo phải đi đứng ra sao. Lúc này vị ẩn sĩ nói: Đi đứng ra sao không quan trọng. Chỉ cần lòng mình thanh thản là được. Các con phải biết đi trước, khi cần gánh lấy khó khăn trách nhiệm. Hãy đi sau mọi người, khi được hưởng quyền lợi hay danh vọng. Nên đi ngang hàng với những người nghèo khổ, họ đang cần các con giúp đỡ. Đừng nên nhìn xung quanh để quyết định mình đi đứng ra sao. Bây giờ, các con hãy ra đi với tấm lòng rộng mở và quảng đại, thế là đủ .

Giới thiệu Luận Quy Sơn Cảnh Sách Tu_so_10
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,032
Điểm tương tác
986
Điểm
113
Bài 18.- Cửa Phương tiện.

Đoạn 15:

Chánh Văn:
“Nhược dục tham thiền học đạo, đốn siêu phương tiện chi môn, tâm khế huyền tân, nghiên cơ tinh yếu, quyết trạch thâm áo, khởi ngộ chân nguyên”.

Dịch:

Nếu muốn tham thiền học đạo, là môn vượt ngoài phương tiện, thì trong phải hợp với mé huyền và nghiên cứu tường tận cái tinh yếu của đạo. Chọn lựa được chỗ thâm sâu rồi mới có thể khai ngộ được nguồn chơn (tức bản tánh).

+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:

Kính các Bạn.
Như trước đây chúng ta đã thấy. Thế Gian Đạo (Tôn Giáo), lấy Ý Thức, lấy 18 Giới, nên hoặc là kinh nghiệm thấy, nghe, hay, biết, hoặc trong giấc mộng, hoặc Thần khải mà tạo nên Tôn Giáo.

Phật Giáo thì hoàn toàn khác

PHẬT GIÁO VÀ TRIẾT HỌC TÁNH KHÔNG CỦA PG .- Dùng Nhị Đế.- Loại trừ Ý Thức suy lường.

* PHẬT GIÁO VÀ TRIẾT HỌC CỦA PG LÀ CHÂN LÝ VŨ TRỤ, MÀ ĐỨC PHẬT VÌ LÒNG TỪ BI, ĐÃ BIẾN HIỆN THÀNH TÔN GIÁO VÀ TRIẾT HỌC .
  • ĐỂ TRONG CÕI MỘNG TƯỞNG CỦA CHÚNG SANH CÓ ĐƯỢC ÁNH SÁNG GIÁC NGỘ.
  • ĐỂ LÀM CHO CHÚNG SANH TỈNH THỨC, XÃ BỎ MỌI ĐẤU TRANH, MỌI VÔ MINH LẦM CHẤP .
  • ĐỂ GIÚP CHÚNG SANH TRỞ VỀ TÁNH GIÁC, NHƯ NHƯ BẤT ĐỘNG, TỊCH DIỆT CHƠN THƯỜNG CỦA CHÍNH MÌNH.

* Nghĩa là Phật Giáo hình thành bằng TRÍ TUỆ mà không dùng THỨC TÌNH .

* PHẬT GIÁO LÀ CHÂN ĐẠO, LÀ CHÂN GIÁO., LÀ CHÂN NHƯ.

Nhưng Chân Như là không thể nói, không thể biết.- Do vậy Đức Phật phải dùng phương tiện.- Để đưa chúng sanh vào Chân Như Niết Bàn Tánh Tịnh.

Bản chất:

+ Cứu Cánh là bất biến.

+ Phương tiện là Tùy Duyên.

Đây là khía cạnh : Tôn Giáo có thể vận dụng "phương tiện" để đạt mục đích . (trong Đạo Phật)

Giới thiệu Luận Quy Sơn Cảnh Sách D_bzo11

Vậy. - Cụ thể, đại khái những gì có thể là phương tiện của Phật thị hiện ?
(xem thêm

Bài 8, 9, 10, 11, 12)
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,032
Điểm tương tác
986
Điểm
113
Bài 19.- Nguồn Chơn- Bản Tánh.

Chánh Văn:
“Nhược dục tham thiền học đạo, đốn siêu phương tiện chi môn, tâm khế huyền tân, nghiên cơ tinh yếu, quyết trạch thâm áo, khởi ngộ chân nguyên”.

Dịch:

Nếu muốn tham thiền học đạo, là môn vượt ngoài phương tiện, thì trong phải hợp với mé huyền và nghiên cứu tường tận cái tinh yếu của đạo. Chọn lựa được chỗ thâm sâu rồi mới có thể khai ngộ được nguồn chơn (tức bản tánh).
+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:

khai ngộ được nguồn chơn (tức bản tánh).

Nguồn Chơn, tức Chơn Như: Tất cả pháp từ Tâm mà có. Cái "Tâm" mà từ đó có các pháp là TÂM CHƠN NHƯ. (xem: Quán Tâm .- Thế nào là Tâm- theo Đạo Phật?)

Bài 10- Tâm Chân Như.

Tâm Chân Như chính là Chân Tâm- Bổn Tánh, là thực tại, cội nguồn của Phật- Chúng sanh- Tâm


Định nghĩa tổng quát:

* Chân Như là thực tại “bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm”, nghĩa là thực tại nguyên sơ và tối hậu từ đó tất cả mọi thế giới hiện tượng sinh ra.

* Chân Như là cái dung chứa mọi mâu thuẫn, đối nghịch: có và không, động và tĩnh, một và nhiều, như thật và như huyễn, tướng và vô tướng… đồng thời vẫn thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi chúng.

* Chân Như là cội nguồn của vạn pháp, vạn vật.

Chân Như (zh. 真如, sa., pi. tathatā, bhūtatathatā) là một khái niệm quan trọng của Đại thừa Phật giáo, chỉ thể tính tuyệt đối cuối cùng của vạn sự. Chân như chỉ thể tính ổn định, thường hằng, nằm ngoài mọi lý luận nhận thức. Chân như nhằm chỉ cái ngược lại của thế giới hiện tượng thuộc thân thuộc tâm. Tri kiến được Chân như tức là Giác ngộ, vượt khỏi thế giới nhị nguyên, chứng được cái nhất thể của khách thể và chủ thể. Chân như đồng nghĩa với Như Lai tạng, Phật tính, Pháp thân.

Tổ Mã Minh ở Đại Thừa khởi tín luận, nói về Chân Như, như sau:

“Cái Chân Như của tâm tức là cái thể của pháp môn “Nhất pháp giới đại tổng tướng”. Đó là cái bất sanh bất diệt của tâm tánh, Tất cả các pháp chỉ nương nơi vọng niệm mà có sai khác. Nếu lìa vọng niệm thời không có tướng của bất cứ cảnh giới nào. Cho nên tất cả các pháp, ngay trong bản chất, lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên. Rốt ráo bình đẳng. Không có đổi khác. Không thể phá hoại. Chỉ là cái nhất tâm, cho nên gọi là Chân Như.”

Những từ khác về “Chân Như”—Other terms for “Bhutatathata”

Chân Thực Như Thường: The eternal reality.
Bất Biến Bất Cải: Unchanging or immutable.
Tự Tánh Thanh Tịnh Tâm: Self-existent pure Mind.
Phật Tánh: Buddha-nature.
Pháp Thân: Dharmakaya.
Như Lai Tạng: Tathagata-garbha, or Buddha-treasury.
Thực Tướng: Reality.
Pháp Giới: Dharma-realm.
Pháp Tính: Dharma nature.
Viên Thành Thực Tánh: The complete and perfect real nature.

* Những từ ngử khác liên hệ đến Chân Như như:

Chân Như Bổn Tánh: Bổn tánh chơn thật như thường . Đó là bản tánh tự nhiên của chúng sanh, nó chơn thật, không hư vọng. Tánh ấy trống không mà linh thiêng, vắng lặng mà mầu nhiệm, dù trãi qua bao nhiêu kiếp vẫn tồn tại như thế; còn gọi là bổn lai diện mục.

Thiền Tông gọi là Chánh Pháp Nhãn Tạng. Tịnh Độ Tông gọi là Bổn Tánh Di Đà. Khổng Tử gọi là Thiên-Lý. Lão Tử gọi là Cốc-Thần (Cốc là Hang trống; Thần là Hồn Thiêng).

Chơn Như Hải: Biển Chơn Như. Chơn Như, Pháp Tánh hay Phật Tánh có vô lượng công đức bởi vậy nên gọi là Chơn Như hải.

Chơn Như Nội Huân: Chân Như huân tập bên trong, lần lần phát khởi lòng Bồ Đề, chán cõi trần tục, cầu thành Phật Đạo. Đó là do sức Nội Huân từ bên trong tâm mà thành. Cũng có thể hiểu là từ Pháp Thân, Phật Tánh mà phát khởi tính giác, trừ vọng hoặc đến giác ngộ giải thoát; đó gọi là Chân Như Nội Huân.

Chơn Như Tam Muội: đó là Đại Định Chân Như, tu theo phương pháp quán tưởng lý vô tướng của các pháp trừ được những mối vọng hoặc.

Tuy rằng Tâm Chân Như, theo chư Tổ gợi ý khó dùng ngôn ngữ, suy lường mà biết được. Nhưng Đức Phật vẫn có nhiều phương tiện để hiển bày.

về nguồn.jpg
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,032
Điểm tương tác
986
Điểm
113
Bài 20.- Học hỏi Thiện Tri Thức.

Đoạn 15 (tt)

nghiên cơ tinh yếu, quyết trạch thâm áo, khải ngộ chân nguyên, bác vấn tiên tri, thân cận thiện hữu, thử tông nan đắc kỳ diệu, thiết tu tử tế dụng tâm, khả trung đốn ngộ chánh nhân, tiện thị xuất trần giai tiệm.

Dịch:

Tham cứu cho rốt ráo chỗ tinh yếu của Đạo, quyết chọn chỗ sâu xa, để mở sáng nguồn chân, tham vấn rộng khắp với những vị giác ngộ đi trước, thân cận với người lành. Tông nầy khó đạt được chỗ kỳ diệu của nó nên cần phải khẩn thiết dụng tâm cho tinh tế (miên mật), mới có thể ngay trong đó mà đốn ngộ chánh nhân, đó chính là thềm bực ra khỏi trần lao.

+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:

Người học Đạo. Trước Quy y Thế độ theo Thầy xuất gia. Nhưng bước kế tiếp phải tìm học Thiện Tri Thức mới thấu được chỗ sâu xa của Đạo. Giai đoạn này gọi là "Hành Cước cầu Sư" .- Dụng ngữ Thiền Hành cước (行腳/angya) có nghĩa là đi chu du đây đó nhằm mục đích học hỏi. Cách gọi khác là Du phương (遊方), Du hành (遊行), Vân thủy (雲水) có hai nghĩa là thứ nhất, tăng lữ không có chỗ ở nhất định vì tìm kiếm danh sư hoặc vì tự mình tu trì. Thứ hai, các cuộc tham vấn, đọ sức, trau dồi kinh nghiệm sau khi ngộ đạo, sau đó mới trụ trì giáo hoá kẻ khác.

Ở Kinh Hoa Nghiêm. Có tấm gương Thiện Tài Đồng Tử. Và nói về sự thâm vấn học Đạo. Như bài kệ Hồi Tâm của Cổ Đức:

Giới thiệu Luận Quy Sơn Cảnh Sách Sng_ty11

Khổng Thánh nhân ân cần Lão Tử,
Huỳnh Ðế còn sư Sự Quảng Thành.
Thiện Tài ngũ thập tam tham.
Thiếu Lâm đoạn tý Thần Quang lưu truyền.
Xem lịch sử Tiên hiền, cổ Thánh,
Biết bao nhiêu khổ hạnh tham cầu.
Ðạo tuy rộng lớn cao sâu,
Nhỏ hơn mảy bụi dễ hầu biết sao?
(sám hồi tâm)

Nói chung trong 53 vị Thiện Tri Thức, ai cũng có vai trò quan trọng riêng nhưng ba nhân vật này tiêu biểu cho vai trò nòng cốt trong lĩnh vực:

1. Khai thị,
2. Ngộ Nhập và
3. Ấn chứng.

Ngày nay. Sự Hành Cước được đơn giản hơn.- Vì chư Thiện Tri Thức có thể tìm thấy trên mạng xã hội.- Chỉ cần biết cách biết vị Thiện Tri Thức nào thấu triệt Chánh Đạo là đủ.- Nhưng làm sao để biết ?

“Sương dày trời khó hiện
Mây phủ giăng phủ mờ
Có tâm tìm cầu Phật
Ngày đêm gắng dụng công”.
 
Last edited:

Tự Độ

Registered
Phật tử
Tham gia
23/8/24
Bài viết
48
Điểm tương tác
26
Điểm
18
Khai thị không phải là có cái gì khai thị cho cái gì.
Khai thị nghĩa là Tâm Thị Đạo.
Đạo nghĩa là Pháp là Phật Pháp ở ngay nơi Tâm
Đức Phật thấy Pháp Sanh Lão Bệnh Tử mà khởi Tâm thiền quán nghĩa là Pháp Sanh Lão Bệnh Tử đã khai thị Đức Phật.
Đức Phật nói: Pháp là thầy của chư Phật.
Tất cả Pháp đều là Phật Pháp nghĩa là bất cứ cái gì trong thế giới, vũ trụ này cũng là Phật Pháp, cũng nghĩa là bất cứ cái gì trong thế giới, vũ trụ này cũng là Pháp Khai Thị cho mọi người thấy được Phật Pháp.
Có điều quan trọng là tùy nhân duyên ở mỗi người mới thấy được Phật Pháp.
Phải rõ một điều Phật Pháp ở ngay nơi mình. Thấy Phật Pháp chỗ nào khác thì không phải.
Như Đức Phật thấy Pháp Sanh Lão Bệnh Tử là thấy chính mình bị Pháp Sanh Lão Bệnh Tử nên mới khỏi Tâm đi tu.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,032
Điểm tương tác
986
Điểm
113
Bài 21.- (3) Giới & (25) Cõi
Đoạn 15 (tt)

Chánh Văn:
“Thử tắc phá tam giới, nhị thập ngũ hữu”.

Dịch:
Đây là phá 3 cõi 25 loài.

+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:

Tam Giới: Dục, Sắc, Vô Sắc là cõi giới chúng sanh ở.
25 Hữu: Là 25 loài chúng sanh.

Vậy ! Chẳng lẻ là phá chúng sanh và phá chỗ chúng sanh ở ?

Ô. Không phải đâu ! Mà là phá sự câu thúc của 3 giới. Phá sự chấp mắc thành Sanh tử của 25 Tâm niệm mê lầm.

Tam Giới:

* Thế nào là Tam giới ?

* Tam giới là ra vào Sanh- Tử.
+ Tam giới là 3 cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới.
  • Dục giới là cõi mà con người nặng về đời sống vật chất.
  • Sắc giới là cõi mà con người nặng về đời sống tình cảm.
  • Vô Sắc giới là cõi mà con người nặng về đời sống tư tưởng.

Luận Ngộ Tánh. Tổ Đạt Ma dạy rằng:

II. Tánh Thể Bất Giảm Bất Tăng.

Luận dạy:

- Tam giới là tham sân si.

- Trái với tham sân si là giới định huệ.

- Có giới định huệ gọi là vượt khỏi tam giới.

- Thật ra tham sân si cũng không có thể tánh chơn thiệt. Chỉ y cứ nơi chúng sanh mà nói đó thôi.

- Nếu có thể phản chiếu thì thấy rõ tánh của tham sân si là Phật tánh. Ngoài tham sân si không có Phật tánh riêng.

- Kinh dạy rằng: Chư Phật từ nào vẫn ở tại tam độc mà nuôi lớn các pháp lành, mà thành đấng Thế Tôn.
(hết trích)

* Từ đó ta có thể thấy ra:

+ Nếu người còn "chấp giới thủ và chưa hiểu được thật tánh của vạn vật " ,tức là chưa vào được Phật pháp (người được vào dòng.- Tức là quả Nhập lưu phải có 3 điều kiện: dứt nghi, hết thân kiến và trừ giới cấm thủ). Người chưa vào được quả Nhập lưu, thì phải bị "Nghiệp dẫn luân hồi trong Tam giới. - Là như đọa Địa ngục.

+ Nếu hành giả đã vào Đăng địa Bồ tát, như các trường hợp "lưu hoặc" nói trên, thì không còn bị nghiệp dẫn vào sanh tử trong Tam giới nữa, mà là Tùy nguyện thọ sanh trong Tam giới.- Đó là cũng vào Địa ngục, nhưng ví như ngài Mục Kiền liên vào để cứu mẹ, vì tự nguyện mà vào để cứu chúng sanh.

Như vậy: Tất cả đều thọ sanh tử, chỉ khác nhau là do NGHIỆP hay do NGUYỆN mà thôi.

Vì sao ? Vì: Chư Phật lấy Pháp giới làm thân, thân đó là Kim Cang Thân là bất sanh bất diệt. Nên Bồ tát cũng từ Tam giới mà nuôi lớn Pháp thân.

Pháp Thân Phật đấy là Tam giới,
Báo thể người đây suốt Vạn hòa.
Bình đẳng ba thân đầy tự tại,
Thuyền NHƯ đậu bến Mật ba la.
(???)

++++++++
25 Cõi.

+ Nhị thập ngũ Hữu là 25 cõi.

+ Hữu ở đây là nói "Hữu" (có) sanh tử, Hữu luân hồi, hữu lậu hoặc (vô minh).

+ Nhị thập ngũ Hữu là 25 cõi mà ở đó chúng sanh "Hữu" (có) sanh tử, Hữu luân hồi, hữu lậu hoặc (vô minh).- Đây là cảnh giới của chúng sanh chưa "Nhập Chơn Như" (chứng Thánh quả, thành Phật).

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có nói đến 25 cõi này. Sau đây là 25 cõi mà Đức Phật nói đện:

*Nhị thập ngũ hữu (25 cõi): 25 cõi này còn trong tam giới.

Tứ vức, tứ ác thú,

Lục dục, tin phạm thiên,

Tứ thiền, tứ vô sắc,

Vô tưởng, cập bất quờn.


Nghĩa là:

– Tứ vức cõi có:

1. Đông thắng thần châu,

2. Tây ngưu hóa châu,

3. Nam thiện bộ châu,

4. Bắc câu lâu châu.

– Tứ ác thú cõi có:

5. Địa ngục,

6. Ngạ quĩ,

7.Súc sanh,

8 A tu la.

– Lục dục cõi có:

9. Tứ thiên vương thiên,

10.Đa lợi thiên,

11. Da ma thiên,

12.Đâu xuất đà thiên,

13. Hóa lạc thiên,

14 Tha hóa tự tại thiên.

– Trời Phạm thiên cõi.
– Tứ thiền cõi có:

15. Sơ thiền,

16. Nhị thiền,

17. Tam thiền,

18. Tứ thiền.

– Tứ vô sắc cõi có:

19. Không vô biên xứ,

20. Thức vô biên xứ,

21. Vô sở hữu xứ,

22. Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

– 23. Vô tưởng cõi (trời vô tưởng): là tu thiền định thấy mình không còn gì nữa, không còn tư tưởng, tất cả rõng không (diệt tận định).

– 24, 25, 26, 27, 28. Cập bất quờn cõi: 5 lối tu thiền định để không còn vô minh (nếu tu đúng thì từ đây được quả nhập lưu).

23 cõi này thật ra không phải ở trên trời cao xa gì cả. Mà là cảnh giới "Định lực" của hành giả và "nghiệp lực" chúng sanh.

+++++++++++++++
* Có thuyết cho rằng: Cõi Tứ Vực, trong đó có Nam Thiệm Bộ Châu thì cõi người trụ ở đó.

* Theo Hòa Thượng Thích Từ Thông Pháp sư thì : Thì 25 cõi không nên nghĩa là các cõi trời khác nhau, mà nên quán sát là tất cả đều là con người.

- Nếu con người tham, sân, si thì là ở cõi tứ ác thú.

- Nếu con người có tâm hạnh thiện thì là ở các cõi trời lục dục.

- Nếu con người tu từ sơ thiền đến tứ thiền, thì ở cõi trời Sắc giới.

- Nếu con người tu tứ Định từ Không vô biên xứ định đến phi tưởng phi phi tưởng xứ định, thì ở cõi trời Vô Sắc giới.

- v.v... và v.v....

25 cõi là phân chia theo trạng thái "Tâm thức" có thô có tế. (có quán chiếu như thế, mới tránh được sự mê lầm vọng tưởng).
++++++++++++++

Kinh Bát Nhã dạy.

* 25 Tam muội.dùng để phá 25 cõi.

Kinh văn: Này Thiện nam tử ! Đại Bồ tát trụ bậc VÔ SỞ ÚY chứng được hai mươi lăm muôn tam muội, phá vỡ tan hai mươi lăm cõi:

Được Vô cấu tam muội, phá vỡ cõi địa ngục.
Được Bất thối tam muội, phá vỡ cõi súc sanh.
Được Tâm lạc tam muội, phá vỡ cõi ngạ quỷ.
Được Hoan hỉ tam muội, phá vỡ cõi A tu la.
Được Nhật quang tam muội, phá vỡ cõi Đông thắng thần châu.
Được Nguyệt quang tam muội, phá vỡ cõi Tây ngưu hóa.
Được Nhiệt diệm tam muội, phá vỡ cõi Bắc câu lô.
Được Như huyển tam muội, phá vỡ cõi Nam diêm phù đề.
Được Nhất thiết pháp bất động tam muội, phá vỡ cõi Tứ thiên vương thiên.
Được Tồi phục tam muội, phá vỡ cõi Đao lợi thiên.
Được Duyệt ý tam muội, phá vỡ cõi Diệm ma thiên.
Được Thanh sắc tam muội, phá vỡ cõi Đâu xuất thiên.
Được Huỳnh sắc tam muội, phá vỡ cõi Hóa lạc thiên.
Được Xích sắc tam muội, phá vỡ cõi Tha hóa tự tại thiên.
Được Bạch sắc tam muội, phá vỡ cõi Sơ thiền thiên.
Được Chủng chủng tam muội, phá vỡ cõi Đại phạm thiên vương.
Được Phong tam muội, phá vỡ cõi Nhị thiền.
Được Lôi tam muội, phá vỡ cõi Tam thiền thiên.
Được Chú võ tam muội, phá vỡ cõi Tứ thiền thiên.
Được Như hư không tam muội, phá vỡ cõi Vô tưởng thiên.
Được Chiếu kính tam muội, phá vỡ cõi Tịnh cư ngũ bất hoàn thiên.
Được Vô ngại tam muội, phá vỡ cõi Không vô biên xứ thiên.
Được Thường tam muội, phá vỡ cõi Thức vô biên xứ thiên.
Được Lạc tam muội, phá vỡ cõi Vô sở hữu thiên.
Được Ngã tam muội, phá vỡ cõi Phi tưởng, phi phi tưởng xứ thiên.

Đấy gọi là Bồ tát chứng được hai mươi lăm thứ tam muội, phá vỡ tan hai mươi lăm cõi.

Này Thiện nam tử ! Hai mươi lăm môn tam muội này là vua của các môn tam muội. Đại Bồ tát nhập những môn tam muội vương này, nếu muốn thổi cho tan hoại núi Tu di liền có thể tùy ý. Nếu muốn biết tam muội của mọi chúng sanh đều có thể biết. Muốn đem mọi loài chúng sanh trong cõi đại thiên để vào lỗ chân lông nơi thân của mình đều có thể tùy ý và khiến cho chúng sanh đó không có quan niệm bị chật hẹp. Nếu muốn hóa làm vô lượng chúng sanh đầy khắp cõi đại thiên cũng liền tùy ý. Nếu muốn một thân hóa làm nhiều thân, lại nhập nhiều thân làm một thân, dù làm những việc như vậy nhưng tâm không trụ chấp vướng bận như hư không.

Chú thích:

+ Tam Muội: dịch là Chánh Thọ. Chánh thọ là chẳng Thọ tất cả các Thọ.- chăng thọ sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, chẳng thọ lạc, chẳng thọ khổ, chẳng thọ bất lạc bất khổ. Đây là trạng thái xả niệm, tâm chuyên chú nhất tâm vào một đề mục thiền quán.

Phật dạy, dùng 25 món Tam muội trên đây để phá tan 25 cõi.

Giới thiệu Luận Quy Sơn Cảnh Sách Thian111
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,032
Điểm tương tác
986
Điểm
113
Bài 22.- Biết vọng đừng theo.

Đoạn 15 (tt)
Chánh văn:
nội ngoại chư pháp tận tri bất thật, tùng tâm biến khởi, tất thị giả danh; bất dụng tương tâm tấu bạc, đãn tình bất phụ vật, vật khởi ngại nhân; nhậm tha pháp tánh châu lưu, mạc đoạn mạc tục, văn thanh kiến sắc cái thị tầm thường, giá biên na biên ứng dụng bất khuyết.

nghĩa:
Tất cả các pháp trong ngoài trọn biết là không thật, từ tâm biến hiện tức là giả danh. Chẳng cần đem tâm nương gá nơi đâu, chỉ cần không bám theo vật, thì vật cũng chẳng chướng ngại được người. Mặc tình cho Pháp Tánh trùm khắp, đừng đoạn dứt cũng đừng tiếp nối, nghe tiếng thấy sắc đại để đều là việc tầm thường, dù bên này hay bên kia chỗ ứng dụng chẳng thiếu.

+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:

+ "Tất cả các pháp trong ngoài trọn biết là không thật, từ tâm biến hiện tức là giả danh".

- Thế nào là "Tất cả các pháp trong ngoài" ?

Duy thức Luận phân chia Tất cả các pháp, gồm 100 món. Nói chung phân ra làm :

1. Trong: là thuộc Tâm vương Pháp.
2. Ngoài: là thuộc Tâm sở Pháp.

* Mang ý Nghĩa Trong Tâm và Ngoài Thân.- Tất cả đều do Nhân Duyên giả hợp không có Thật Ngã. Chỉ là giả danh gọi vậy thôi- Nên nói "trọn biết là không thật, từ tâm biến hiện tức là giả danh".

* Bởi vì là giả danh không thật. Nên người tu chỉ cần "Biết vọng đừng theo". Được vậy thì : Mặc tình cho Pháp Tánh trùm khắp, đừng đoạn dứt cũng đừng tiếp nối, nghe tiếng thấy sắc đại để đều là việc tầm thường, dù bên này hay bên kia chỗ ứng dụng chẳng thiếu.

* “Nhậm tha pháp tánh châu lưu, mạc đoạn mạc tục”. Khi tâm cảnh không dính nhau, chúng ta không còn lệ thuộc vào vọng tình, cái mà hằng lâu chúng ta chấp cho nó là mình. Lúc đó cái gì là mình? Chỉ vì lâu nay chúng ta thấy hòn bọt cho đó là biển cả, đâu ngờ nay đập tan hòn bọt mới thấy biển cả mênh mông. Khi vọng tưởng hết, chừng ấy chúng ta mới thể nhập pháp tánh vô biên. Chổ này Tổ Tăng Xán gọi là “Viên đồng thái hư, vô khiếm vô dư”. Khi tâm dừng, không chạy theo vọng tưởng nữa đừng tưởng là hết, mà lúc ấy là lúc đập tan hòn bọt để hòa cùng biển cả. Nơi nơi chốn chốn đều có mình. Mình không còn hạn cuộc trong cái thân nhỏ bé này nữa mà trùm khắp hư không.

Giới thiệu Luận Quy Sơn Cảnh Sách Phzep_14


Đó là chỗ Diệu dụng của Hành quả mà tựu thành Pháp Thân.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,032
Điểm tương tác
986
Điểm
113
Bài 23.- Vãng lai tam giới .

Đoạn 16

Hán-Việt:

Như tư hành chỉ, thật bất uổng phi pháp phục, diệc nãi thù báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Sanh sanh nhược năng bất thoái, Phật giai quyết định khả kỳ. Vãng lai tam giới chi tân, xuất một vị tha tác tắc.

Việt:

Nếu chỗ nầy mà làm được thì thật không uổng khoác áo pháp, cũng là báo đền bốn ân, cứu vớt ba cõi. Đời đời nếu có thể không thoái lui, thì quả Phật quyết định có thể kỳ vọng. Đến đi làm khách của ba cõi, ra vào đều làm khuôn phép cho người.

+++++++++

Phần giải thích và Thảo luận:

* Vãng lai tam giới chi tân, xuất một vị tha tác tắc.
nghĩa là:

Đến đi làm khách của ba cõi, ra vào đều làm khuôn phép cho người.

+ 3 Cõi: 1. Cõi Dục, 2. Cõi Sắc, 3. Cõi Vô Sắc.

1. Cõi Dục là cảnh giới những người sống nặng về 5 món dục.- Tài, sắc, danh, thực, thùy. nặng trong 6 căn (6 tầng trời Dục).- Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, bộ Não.- Tóm gọn là người chìm đắm trong Tài dục, Dâm dục, Thực dục.

2. Cõi Sắc là người sống nặng về Tình Ái.- Như các tình cảm: cha mẹ, con cái, anh em, bạn bè, người yêu v.v...

3. Cõi Vô Sắc. là người sống nặng về siêu hình, tư tưởng. Như ông lên bà xuống, bói toán phong thủy v.v...

Người tu vẫn có thể dạo chơi trong 3 cõi đó. Nhưng không trú chấp, không vướng mắc. Thích đến thì cứ đến có thể mang Đạo và Tâm đến cho chúng sanh, rồi đi, như người khách. Không nên mang đi theo bất cứ thứ gì thuộc 3 cõi uế trược nơi đó.

Giới thiệu Luận Quy Sơn Cảnh Sách - Page 2 Tu_so110
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

TOP 5 Tài Thí

Bên trên