- Tham gia
- 21/4/12
- Bài viết
- 337
- Điểm tương tác
- 168
- Điểm
- 43
* Thảo Lư Am :
Có bài kệ:
Chốn thảo lư an cư dưỡng tánh,
Dốc một lòng nhập Thánh siêu phàm
Sắc, tài, danh, lợi chẳng ham,
Thị phi phủi sạch, luận đàm mặc ai.
Tuyết ban mai lâu dài chi đó ?
Thân người đời nào có bao lâu
Nhộn nhàng trong cuộc bể dâu
Xuân xanh mới đó bạc đầu rồi đây
Ba vạn sáu ngàn ngày công khó
Chia phần riêng cho đó một hòm
Của tiền để lại nhi tôn,
Bao nhiêu tội lỗi phần hồn lãnh riêng
Chốn cửu tuyền khác miền dương thế
Quỷ ngưu đầu không nể, chẳng kiêng
Tội hành, nghiệp khảo liền liền
Bao lần thảm độc, bao phen đoạn trường
Rất thảm thương là đường sanh tử
Dám khuyên người ngó thử lại coi
Thân như pháo đã châm ngòi,
Nổ vang một tiếng rồi coi thể nào
Tiếc công lao biết bao xiết kể
Sự đáo đầu cũng thế mà thôi
Trăm năm sự nghiệp phủi rồi
Mênh mông biển khổ luân hồi cực thân
Lửa hồng trần rần rần cháy dậy
Người say mê nếu thấy phải kêu
Tỉnh tâm xét lại mấy điều,
Trước tu đạo đức, sau siêu linh hồn.
Sự dại khôn, chẳng cần khôn dại,
Trước lỗi lầm sau phải ăn năn,
Biển sâu nước khỏa còn bằng,
Mây tan gió tạnh bóng trăng sáng lòa.
Cõi Ta Bà có tòa Cực Lạc,
Dòng sông mê biển giác chẳng xa,
Y theo giáo pháp Thích Ca
Tự nhiên bổn tánh Di Ðà phóng quang.
Ðã gặp đàng chưa toan dời bước
Còn tiếc chi chân bước lờ đờ
Khuyên đừng đem dạ tưởng mơ,
Trăm năm cuộc thế như cờ bị vây
Rút gươm huệ dứt dây tham ái
Dụng hoa lòng lấp ải sông mê
Nương theo cội giác Bồ Ðề
Trước sau rồi cũng đồng về Tây Phang
Khuyên tất cả các hàng Nam Nữ
Kíp tầm thầy thọ phái QUY Y
Kiên trì Ngũ giới Tam Quy
Giữ lòng từ mẫn, sân si phải chừa.
Diệt ác quấy, ngăn ngừa tội lỗi,
Dưỡng tinh thần tâm nội phát minh
Ðạo mầu bí nhiệm huyền linh,
Là phương giải cứu chúng sinh phản hồi.
Nghĩa chữ Tăng là ngôi Tam Bảo,
Phật, Pháp, Tăng chỉ tại lòng ta,
PHẬT là Giác Tánh soi xa,
Mở đường sáng suốt vượt qua cõi trần.
Nghĩa chữ PHÁP giải phần chánh kiến
Dứt kiêu căng bỏ chuyện thị phi
TĂNG là thủ tịnh tinh vi,
Sáu căn trong sạch, dung nghi thuận hòa
Vận Tam Bửu ấy ra đối trị
Dứt sáu trần tức thị chơn tu
Đừng mê bỉnh tức công phu
Luyện tinh, hoá khí, rèn tu ngươn thần.
Nghĩa Tam Bảo phân trần chỉ rõ
Người tu hành lấy đó thềm thang.
Còn câu Tam Bảo thế gian,
Chia ra thể, dụng đôi đàng phân minh.
PHẬT BẢO là tượng hình ra đó,
Ðể phụng thờ hòng có đức tin.
PHÁP BẢO gồm, Luật Luận, Kinh,
Bản đồ vẽ sẵn phân minh chỉ rành.
TĂNG BẢO là lòng thành thoát tục,
Chán sự đời cạo tóc đi tu,
Cửa thiền tinh tấn công phu,
Chí tâm được đến Vô dư Niết Bàn
Nghĩa Tam Bảo thế gian là đó,
Nhờ có thầy đường ngõ mới thông.
Thầy như lạch nước, lòng sông.
Nếu không lòng lạch nước trong bao giờ?
Mắt lờ mờ, tay rờ, chân bước,
Thế vậy mà xông lướt sao xong!
Quy y trước sửa tấm lòng,
Có thầy chỉ giáo ra vòng tử sanh.
Có thể, dụng mới rành đạo lý,
Thấy trăng nhờ người chỉ cho ta.
Chữ QUY phân bạch đó là
Bỏ nơi hắc ám về nhà quang minh.
Nghĩa chữ Y như hình mặc áo,
Trang tu hành Thánh Giáo phải tuân
Trau dồi đạo đức sáng trưng,
Nước không xao động lố vừng trăng thanh
Trong ngũ giới, SÁT SANH thứ nhứt
Người tu hành thể đức háo sanh
Vật người một khí hóa thành,
Chớ nên sát hại mất danh thiện từ.
Giới thứ hai: diệt trừ TRỘM CẮP,
Vật của người chẳng đặng tham lam.
Công tư của cải bạc vàng,
Chớ nên mống ý lấy làm của ta.
Giới thứ ba: cấm tà SẮC DỤC
Chớ tư tình lén lút ngoại duyên
Trăng hoa lòng chớ đảo điên,
Tam Cang cũng phải răn khuyên từ từ
Giới thứ tư: dứt trừ VỌNG NGỮ
Chớ buông lời hung dữ điêu ngoa,
Ngược xuôi láo xược lời ma,
Nói qua, nói lại cùng là hung hăng.
Giới thứ năm: cấm ngăn UỐNG RƯỢU
Việc lỗi lầm bởi tửu mà ra.
Say sưa mê muội lòng tà,
Dữ hơn thuốc độc phá nhà hư linh
Lấy năm giới sửa mình là Đạo,
Dụng Tam Quy kiến tạo Pháp Thân
Từ Bi Hỷ Xả là Nhân,
Tinh tấn là Quả, giải phân rõ ràng.
Nghĩa chữ Ðạo như đàng đi đó,
Song đàng đi chẳng có bao lâu.
Dẫu mà ngàn dặm cao sâu,
Mối dường ắt đặng ngõ hầu chẳng xa.
Chớ bôn ba nhận Ma làm Phật,
Uổng công trình chôn lấp tánh linh
Than ôi, biển khổ minh minh,
Người mù cầm lái đưa mình sao xuôi!
Ðứa mù dắt lũ đui theo dõi
Sa lửa hầm còn hỏi chi chi...
Phải tìm đến bậc trí tri
Ðạo mầu mới tỏ, đường đi mới tường.
Bát Chánh Ðạo mối dường đã tỏ,
Tứ Diệu Ðề là chỗ nghỉ ngơi.
Ðèn lòng soi sáng khắp nơi,
Thinh thinh trí huệ một trời quang minh.
Ðọc Tâm Kinh cho tinh cho suốt,
Dẫu mà đường chưa thuộc cũng thông.
Vậy hay sắc tức thị không,
Chẳng nên chấp sắc mà không cũng đừng.
Ðạo vô cùng, chấp trung là đạo,
Lý nhiệm mầu uẩn áo thâm sâu.
Ðạo mầu khắp hết đâu đâu,
Cứ trong sắc tướng tìm cầu mới ra.
Tuy sắc tướng nhưng mà vô tướng
Vô tướng từ hữu tướng mà ra...
Hữu, vô chung ở một nhà
Chẳng nên chấp hữu cùng là chấp vô.
Trong hữu tướng, lý vô ẩn đó,
Vô tướng mà tướng có ẩn trong.
Hữu, vô bước khỏi hai vòng,
Mới biết đạo lý không trong không ngoài.
Thỏ vảnh tai gọi hai sừng đó,
Chấp trước mà nói có nói không.
Thử coi ba thú qua sông,
Ba xe ngoài cửa đều không khác nào.
Ngoài vườn lửa ào ào cháy dậy,
Bầy trẻ thơ chơi nhảy trong nhà.
Khuyên răn chúng chẳng chịu ra
Mở lời phương tiện thiệt ba xe ngoài.
Ðại biện tài trừ hai còn một,
Tột bực rồi thì một cũng không
Xưa nay sự, lý viên dung,
Cứ trong thể dụng Thích Trung thì nhằm.
Y Tam Giáo khỏi lầm lạc lối
Tu trở về nguồn cội bổn nguyên.
Ðạo vàng thâm lý diệu huyền,
Ðịnh lòng, định tánh tỏ liền tâm đăng.
Nước gợn lằn bóng trăng nhấp nhoáng,
Trăng lu mờ vì áng đám mây.
Làm cho nước đứng, mây tan,
Tự nhiên sáng suốt thiền quang nhiệm mầu.
Ðạo không cầu do đâu mà được,
Coi giấy xưa chấp trước hữu vô.
Lằng nhằng dưới gốc cây khô,
Mà trong có trái gẫm âu nực cười !!!
Trong mắt người có ngươi mới tỏ
Sách không thầy nới ngỏ làm sao
Xưa nay giáo pháp truyền trao
Không thầy há dễ mặt nào nên thân !
Xưa Thánh Nhân ân cần Lão Tử,
Huỳnh Ðế còn Sư Phụ Quảng Thành.
Thiện Tài ngũ thập tam tham,
Thiếu Lâm đoạn tý Thần Quang lưu truyền.
Xem lịch sử Tiên Hiền Cổ Thánh,
Biết bao phen khổ hạnh công dày,
Vẹt đường mở lối chông gai,
Hố hầm bồi đắp đến nay cũng nhiều.
Sửa lộ cả, bắc kiều rước khách,
Chèo thuyền từ cấp bách đưa sang,
Ðáo hườn bổn quốc Tây Phang
Hưởng thọ vĩnh kiếp thanh nhàn muôn thu.
Người chí quyết tìm tu, học đạo,
Cầu hỏi thầy vật báu ở đâu ?
Ðạo tuy rộng lớn cao sâu
Nhỏ hơn mảy bụi dễ hầu biết sao?
Muốn cho khỏi ra vào Tam Giới,
Phải nhớ câu "Tự tại bất thành".
Nhơn tay mới thấy trăng thanh,
Chớ chấp văn tự tu hành uổng công.
Nên cổ đức có ông Tông Bổn,
Vịnh Sơn Cư có bốn câu rằng:
"Sơn Cư phong cảnh tự thiên nhiên
Ðại đạo chiếu chiêu tại mục tiền
Bất thức tổ tông thâm mật chỉ,
Ðồ lao niệm Phật dữ tham thiền"
Ấy là cặn kẽ bảo khuyên,
Phải cầu giáo ngoại biệt truyền diệu tâm.
Chớ chấp trước thinh âm sắc tướng,
Cảnh ngoại cầu vọng tưởng đảo điên.
Kính lời khuyên khách hữu duyên
Biết nghe lời Đạo chớ phiền lời ngay...
Có bài kệ:
Chốn thảo lư an cư dưỡng tánh,
Dốc một lòng nhập Thánh siêu phàm
Sắc, tài, danh, lợi chẳng ham,
Thị phi phủi sạch, luận đàm mặc ai.
Tuyết ban mai lâu dài chi đó ?
Thân người đời nào có bao lâu
Nhộn nhàng trong cuộc bể dâu
Xuân xanh mới đó bạc đầu rồi đây
Ba vạn sáu ngàn ngày công khó
Chia phần riêng cho đó một hòm
Của tiền để lại nhi tôn,
Bao nhiêu tội lỗi phần hồn lãnh riêng
Chốn cửu tuyền khác miền dương thế
Quỷ ngưu đầu không nể, chẳng kiêng
Tội hành, nghiệp khảo liền liền
Bao lần thảm độc, bao phen đoạn trường
Rất thảm thương là đường sanh tử
Dám khuyên người ngó thử lại coi
Thân như pháo đã châm ngòi,
Nổ vang một tiếng rồi coi thể nào
Tiếc công lao biết bao xiết kể
Sự đáo đầu cũng thế mà thôi
Trăm năm sự nghiệp phủi rồi
Mênh mông biển khổ luân hồi cực thân
Lửa hồng trần rần rần cháy dậy
Người say mê nếu thấy phải kêu
Tỉnh tâm xét lại mấy điều,
Trước tu đạo đức, sau siêu linh hồn.
Sự dại khôn, chẳng cần khôn dại,
Trước lỗi lầm sau phải ăn năn,
Biển sâu nước khỏa còn bằng,
Mây tan gió tạnh bóng trăng sáng lòa.
Cõi Ta Bà có tòa Cực Lạc,
Dòng sông mê biển giác chẳng xa,
Y theo giáo pháp Thích Ca
Tự nhiên bổn tánh Di Ðà phóng quang.
Ðã gặp đàng chưa toan dời bước
Còn tiếc chi chân bước lờ đờ
Khuyên đừng đem dạ tưởng mơ,
Trăm năm cuộc thế như cờ bị vây
Rút gươm huệ dứt dây tham ái
Dụng hoa lòng lấp ải sông mê
Nương theo cội giác Bồ Ðề
Trước sau rồi cũng đồng về Tây Phang
Khuyên tất cả các hàng Nam Nữ
Kíp tầm thầy thọ phái QUY Y
Kiên trì Ngũ giới Tam Quy
Giữ lòng từ mẫn, sân si phải chừa.
Diệt ác quấy, ngăn ngừa tội lỗi,
Dưỡng tinh thần tâm nội phát minh
Ðạo mầu bí nhiệm huyền linh,
Là phương giải cứu chúng sinh phản hồi.
Nghĩa chữ Tăng là ngôi Tam Bảo,
Phật, Pháp, Tăng chỉ tại lòng ta,
PHẬT là Giác Tánh soi xa,
Mở đường sáng suốt vượt qua cõi trần.
Nghĩa chữ PHÁP giải phần chánh kiến
Dứt kiêu căng bỏ chuyện thị phi
TĂNG là thủ tịnh tinh vi,
Sáu căn trong sạch, dung nghi thuận hòa
Vận Tam Bửu ấy ra đối trị
Dứt sáu trần tức thị chơn tu
Đừng mê bỉnh tức công phu
Luyện tinh, hoá khí, rèn tu ngươn thần.
Nghĩa Tam Bảo phân trần chỉ rõ
Người tu hành lấy đó thềm thang.
Còn câu Tam Bảo thế gian,
Chia ra thể, dụng đôi đàng phân minh.
PHẬT BẢO là tượng hình ra đó,
Ðể phụng thờ hòng có đức tin.
PHÁP BẢO gồm, Luật Luận, Kinh,
Bản đồ vẽ sẵn phân minh chỉ rành.
TĂNG BẢO là lòng thành thoát tục,
Chán sự đời cạo tóc đi tu,
Cửa thiền tinh tấn công phu,
Chí tâm được đến Vô dư Niết Bàn
Nghĩa Tam Bảo thế gian là đó,
Nhờ có thầy đường ngõ mới thông.
Thầy như lạch nước, lòng sông.
Nếu không lòng lạch nước trong bao giờ?
Mắt lờ mờ, tay rờ, chân bước,
Thế vậy mà xông lướt sao xong!
Quy y trước sửa tấm lòng,
Có thầy chỉ giáo ra vòng tử sanh.
Có thể, dụng mới rành đạo lý,
Thấy trăng nhờ người chỉ cho ta.
Chữ QUY phân bạch đó là
Bỏ nơi hắc ám về nhà quang minh.
Nghĩa chữ Y như hình mặc áo,
Trang tu hành Thánh Giáo phải tuân
Trau dồi đạo đức sáng trưng,
Nước không xao động lố vừng trăng thanh
Trong ngũ giới, SÁT SANH thứ nhứt
Người tu hành thể đức háo sanh
Vật người một khí hóa thành,
Chớ nên sát hại mất danh thiện từ.
Giới thứ hai: diệt trừ TRỘM CẮP,
Vật của người chẳng đặng tham lam.
Công tư của cải bạc vàng,
Chớ nên mống ý lấy làm của ta.
Giới thứ ba: cấm tà SẮC DỤC
Chớ tư tình lén lút ngoại duyên
Trăng hoa lòng chớ đảo điên,
Tam Cang cũng phải răn khuyên từ từ
Giới thứ tư: dứt trừ VỌNG NGỮ
Chớ buông lời hung dữ điêu ngoa,
Ngược xuôi láo xược lời ma,
Nói qua, nói lại cùng là hung hăng.
Giới thứ năm: cấm ngăn UỐNG RƯỢU
Việc lỗi lầm bởi tửu mà ra.
Say sưa mê muội lòng tà,
Dữ hơn thuốc độc phá nhà hư linh
Lấy năm giới sửa mình là Đạo,
Dụng Tam Quy kiến tạo Pháp Thân
Từ Bi Hỷ Xả là Nhân,
Tinh tấn là Quả, giải phân rõ ràng.
Nghĩa chữ Ðạo như đàng đi đó,
Song đàng đi chẳng có bao lâu.
Dẫu mà ngàn dặm cao sâu,
Mối dường ắt đặng ngõ hầu chẳng xa.
Chớ bôn ba nhận Ma làm Phật,
Uổng công trình chôn lấp tánh linh
Than ôi, biển khổ minh minh,
Người mù cầm lái đưa mình sao xuôi!
Ðứa mù dắt lũ đui theo dõi
Sa lửa hầm còn hỏi chi chi...
Phải tìm đến bậc trí tri
Ðạo mầu mới tỏ, đường đi mới tường.
Bát Chánh Ðạo mối dường đã tỏ,
Tứ Diệu Ðề là chỗ nghỉ ngơi.
Ðèn lòng soi sáng khắp nơi,
Thinh thinh trí huệ một trời quang minh.
Ðọc Tâm Kinh cho tinh cho suốt,
Dẫu mà đường chưa thuộc cũng thông.
Vậy hay sắc tức thị không,
Chẳng nên chấp sắc mà không cũng đừng.
Ðạo vô cùng, chấp trung là đạo,
Lý nhiệm mầu uẩn áo thâm sâu.
Ðạo mầu khắp hết đâu đâu,
Cứ trong sắc tướng tìm cầu mới ra.
Tuy sắc tướng nhưng mà vô tướng
Vô tướng từ hữu tướng mà ra...
Hữu, vô chung ở một nhà
Chẳng nên chấp hữu cùng là chấp vô.
Trong hữu tướng, lý vô ẩn đó,
Vô tướng mà tướng có ẩn trong.
Hữu, vô bước khỏi hai vòng,
Mới biết đạo lý không trong không ngoài.
Thỏ vảnh tai gọi hai sừng đó,
Chấp trước mà nói có nói không.
Thử coi ba thú qua sông,
Ba xe ngoài cửa đều không khác nào.
Ngoài vườn lửa ào ào cháy dậy,
Bầy trẻ thơ chơi nhảy trong nhà.
Khuyên răn chúng chẳng chịu ra
Mở lời phương tiện thiệt ba xe ngoài.
Ðại biện tài trừ hai còn một,
Tột bực rồi thì một cũng không
Xưa nay sự, lý viên dung,
Cứ trong thể dụng Thích Trung thì nhằm.
Y Tam Giáo khỏi lầm lạc lối
Tu trở về nguồn cội bổn nguyên.
Ðạo vàng thâm lý diệu huyền,
Ðịnh lòng, định tánh tỏ liền tâm đăng.
Nước gợn lằn bóng trăng nhấp nhoáng,
Trăng lu mờ vì áng đám mây.
Làm cho nước đứng, mây tan,
Tự nhiên sáng suốt thiền quang nhiệm mầu.
Ðạo không cầu do đâu mà được,
Coi giấy xưa chấp trước hữu vô.
Lằng nhằng dưới gốc cây khô,
Mà trong có trái gẫm âu nực cười !!!
Trong mắt người có ngươi mới tỏ
Sách không thầy nới ngỏ làm sao
Xưa nay giáo pháp truyền trao
Không thầy há dễ mặt nào nên thân !
Xưa Thánh Nhân ân cần Lão Tử,
Huỳnh Ðế còn Sư Phụ Quảng Thành.
Thiện Tài ngũ thập tam tham,
Thiếu Lâm đoạn tý Thần Quang lưu truyền.
Xem lịch sử Tiên Hiền Cổ Thánh,
Biết bao phen khổ hạnh công dày,
Vẹt đường mở lối chông gai,
Hố hầm bồi đắp đến nay cũng nhiều.
Sửa lộ cả, bắc kiều rước khách,
Chèo thuyền từ cấp bách đưa sang,
Ðáo hườn bổn quốc Tây Phang
Hưởng thọ vĩnh kiếp thanh nhàn muôn thu.
Người chí quyết tìm tu, học đạo,
Cầu hỏi thầy vật báu ở đâu ?
Ðạo tuy rộng lớn cao sâu
Nhỏ hơn mảy bụi dễ hầu biết sao?
Muốn cho khỏi ra vào Tam Giới,
Phải nhớ câu "Tự tại bất thành".
Nhơn tay mới thấy trăng thanh,
Chớ chấp văn tự tu hành uổng công.
Nên cổ đức có ông Tông Bổn,
Vịnh Sơn Cư có bốn câu rằng:
"Sơn Cư phong cảnh tự thiên nhiên
Ðại đạo chiếu chiêu tại mục tiền
Bất thức tổ tông thâm mật chỉ,
Ðồ lao niệm Phật dữ tham thiền"
Ấy là cặn kẽ bảo khuyên,
Phải cầu giáo ngoại biệt truyền diệu tâm.
Chớ chấp trước thinh âm sắc tướng,
Cảnh ngoại cầu vọng tưởng đảo điên.
Kính lời khuyên khách hữu duyên
Biết nghe lời Đạo chớ phiền lời ngay...
Last edited by a moderator: