LỜI GIỚI THIỆU CỦA NHÓM DỊCH THUẬT
(Padmakara)
Bản dịch bình luận của Khangsar Tenpai Wangchuk về
Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng của Longchenpa là bước đầu tiên trong sự án dịch các tác phẩm được sưu tầm của đại học giả Tây Tạng hiện đại này. Nhiệm vụ đầy tham vọng này được giao cho Nhóm Dịch Thuật Padmakara bởi Tsultrim Zangpo Rinpoche, trụ trì tu viện Khangsar Taklung, và Yingrik Drubpa Rinpoche, cả hai đều là đệ tử của Tenpai Wangchuk (1938 – 2014), cùng với những người được ủy thác di sản văn chương của ông. Bên cạnh phần tự bình luận của chính Longchenpa viết vào thế kỷ 14, đây là bản bình luận đầu tiên và duy nhất từng được viết về
Kho tàng của Bản tính Nền tảng.1
Không giống như một bản bình luận chung chung, hoặc “bình giảng ý nghĩa”, được đưa ra bởi Longchenpa để giải thích văn bản gốc của chính ông, bản bình chú của Tenpai Wangchuk là một bản “luận giải từng lời” nên có giá trị không thể đo đếm được đối với các học viên và dịch giả. Trong khi những phần bình giảng ý nghĩa chỉ tập trung vào các ý tưởng được thể hiện trong văn bản thì các bản luận giải từng lời có phong cách căn bản và mô phạm hơn. Chúng khảo sát rất chi tiết ngôn ngữ của các câu gốc, mỗi âm tiết trong đó (thường được biểu thị bằng các công cụ đánh máy) theo truyền thống được kết hợp vào chính văn bản của lời bình luận. Những thuật ngữ khó hiểu, tối nghĩa, lỗi thời, hoặc tiếng địa phương được dịch đúng nghĩa bằng những từ ngữ tương đương, phổ thông và cập nhật hơn, chỉ khi đó ý nghĩa của văn bản mới được làm sáng tỏ. Vì vậy, mục đích của bản luận giải từng lời là để đảm bảo người đọc hiểu càng rõ càng tốt ý nghĩa của các câu thơ gốc, mà ngay cả khi chúng đi kèm với một lời tự bình luận được coi là cách biểu đạt chính trong thông điệp của tác giả. Lợi thế sư phạm của cách tiếp cận này là rõ ràng, và không cần thiết phải nói thêm rằng đối với các dịch giả, những bài bình luận kiểu này là những công cụ vô giá và thường không thể thiếu.
Có lẽ là quá đáng khi nói rằng những lời tự bình luận (là những bình luận được tác giả viết trên các văn bản gốc của chính họ) luôn có ý nghĩa không thay đổi, nhưng điều này dường như chắc chắn là trường hợp của Lochenpa. Cách làm thông thường của ông là trích dẫn các đoạn thơ của chính mình và sau đó mở rộng ý nghĩa của chúng bằng các thuật ngữ chung. Nói cách khác, phần tự bình luận của ông chạy song song với các văn bản gốc, và ông hiếm khi bị vướng mắc bởi những cân nhắc đơn giản về từ vựng hoặc giải thích ẩn dụ hoặc các công cụ thơ văn khác. Điều này có lẽ là do bản thân ông nhận thấy ý nghĩa văn bản của mình là rõ ràng và có lẽ cũng vì chất thơ trong văn bản của ông chống lại phân tích thực dụng. Đôi khi Longchenpa chỉ đơn giản lặp lại bằng văn xuôi những gì ông đã nói một cách trữ tình hơn trong văn bản gốc. Vào những lúc khác, ông mở rộng ý nghĩa của nó bằng cách giải thích dài dòng hơn, hỗ trợ nó bằng nhiều trích dẫn từ kinh điển. Nhưng cũng có lúc, ông lại đi sâu vào các cuộc thảo luận chi tiết và dài dòng về các chủ đề có liên quan. Trong những trường hợp này, dường như văn bản gốc đóng vai trò là chất xúc tác cho phần tự luận, sau đó nó trở thành phương tiện chính và thường là quan trọng cho tư tưởng của ông. Do đó, trong khi những ý tưởng thú vị có thể được chọn lọc và làm sáng tỏ, việc xảy ra khá thường xuyên là những từ khó và những cách diễn đạt thơ mơ hồ trong văn bản gốc được bỏ qua trong im lặng, khiến các dịch giả, những người có nhiệm vụ đó, phải thất vọng, để đi đến chỗ có thể phân biệt ý nghĩa của văn bản gốc và dịch nó sang một ngôn ngữ khác một cách dễ hiểu.
Khi những vấn đề như thế này xuất hiện trong các tác phẩm của những tác giả khác, học viên và độc giả thường có thể hy vọng tìm đến những bản bình luận chi tiết từng chữ của các nhà bình luận thứ ba. Tuy nhiên, trong trường hợp của Longchenpa, ở đây chúng ta đối diện một vấn đề nghiêm trọng, vì không có bình luận của bên thứ ba về các tác phẩm của ông.2 Có lẽ vì sự khó khăn của họ, có lẽ vì sự tôn kính mãnh liệt mà họ đã và đang tiếp tục được mọi người coi trọng, hoặc có lẽ vì rụt rè và sợ bị chỉ trích, trong nhiều thế kỷ qua không ai dám viết ra những văn bản chú giải các tác phẩm của Longchenpa, mặc dù, tất nhiên, dòng chú giải khẩu truyền vẫn tiếp tục được duy trì không gián đoạn.
Trong thời gian gần đây, tình hình bắt đầu thay đổi, nhiều tu viện đã được khôi phục ở các tỉnh miền đông Tây Tạng, các trung tâm học tập mới được thành lập, những nỗ lực lớn lao đã được thực hiện để khôi phục và bảo vệ các truyền thống cổ xưa trong việc nghiên cứu và thực hành. Trong các tổ chức thuộc phái Nyingma, chẳng hạn, các cơ sở rộng lớn của Khenpo Jigme Phuntsok ở Serta Larung Gar hay các tu viện được xây dựng lại bởi Khenpo Taipa Wangchuk ở Khangsar Taklung và Panak ở Golok, điều này đã dẫn đến sự hồi sinh mãnh liệt của hoạt động giảng dạy và thực hành Đại Toàn Thiện và đặc biệt là việc nghiên cứu các tác phẩm của Longchenpa. Là một phần của sáng kiến tuyệt vời này, chính Tenpai Wangchuk đã biên soạn một bộ sưu tập lớn các tác phẩm. Để đáp lại sự quan tâm nhiệt tình và chắc chắn với mong muốn bảo tồn một truyền thống vốn đã mong manh qua những thăng trầm lịch sử, ông đã đưa ra nhiều văn bản về giáo lý Đại Toàn Thiện thuộc loại mà, như được nói, là chưa bao giờ xuất hiện trước đây. Đó là số phận của ông, vì thế tiểu sử của ông mách bảo chúng ta hãy làm điều mà chưa một học giả nào trước ông đã từng làm: diễn đạt bằng văn bản tác phẩm nào đó thuộc dòng truyền thừa chú giải tư tưởng của Longchenpa. Vì thế, trong số những thứ khác, Khangsar Khenpo Tenpai Wangchuk đã biên soạn những luận giải chưa từng có về hai trong số Bảy Kho Báu của Longchenpa: Kho Báu Pháp Giới và Kho Báu Bản Tính Nền Tảng. Hơn nữa, hai bản bình luận này, thật may mắn cho chúng ta, là những bản luận giải từng lời: các giải thích chi tiết về văn bản thực sự của Longchenpa. Được tán dương vì sự rõ ràng và dễ biểu đạt, chúng được biên soạn đặc biệt để cung cấp cho những học viên đầy khát vọng một phương tiện để tiếp cận những giáo lý siêu phàm của Longchenpa.
Như Tenpai Wangchuk nói trong lời mở đầu của phần bình luận thứ hai được dịch ở đây,
Kho Báu của Bản Tính Nền Tảng “xác lập một quan điểm cuối cùng về các hướng dẫn cốt lõi thuộc loại bí mật” của Đại Toàn Thiện. Khi được thực hành đúng cách, nó có sức mạnh mang lại cho những người được phú cho nghiệp tốt đạt đến thành tựu cao nhất trong một kiếp sống. Tenpai Wangchuk nói: “Thật có phúc cho ai nhìn thấy, nghe thấy, nhớ lại hoặc chạm vào văn bản này”.
BẢY KHO TÀNG
Bởi vì sự giống nhau về tên của chúng, nên loạt sách Bảy Kho Tàng của Longchenpa hay được nhắc đến, để cho tiện lợi, như thể chúng là những phần được tích hợp vào một bộ sưu tập duy nhất. Tuy nhiên, một cuộc kiểm tra kỹ hơn sẽ tiết lộ rằng cso rất ít cơ sở cho giả định này và chắc chắn không có bằng chứng nào cho thấy chính Longchenpa đã nghĩ về chúng theo cách này. Trong danh mục được soạn thảo tại Tharpa Ling ở Bhutan, Longchenpa đã đề cập đến sáu trong số Bảy Kho Tàng, tất cả ngoài trừ
Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng, một cách rời rạc tùy theo chủ đề của chúng mà không có bất cứ dấu hiệu nào về một mối quan hệ đáng kể giữa chúng.
Chỉ có bốn trong số Bảy Kho Tàng được xác định nơi chốn chúng được biên soạn ra là Gangri Thokar, ẩn thất của Longchenpa trên những ngọn núi phía trên thung lũng sông Tsangpo. Không có quyển nào trong Bảy Kho Tàng được xác định niên đại, ngoại trừ bằng chứng rải rác bên trong,3 thì không thể xác lập dứt khoát thứ tự mà chúng được soạn ra. Tuy nhiên, trong thời kỳ Longchenpa rời đến Bhutan năm 1350 ở tuổi 42 để tránh sự thù địch của bá vương Tây Tạng lúc đó là Tai Situ Changchub Gyaltsen, người ta thường cho rằng toàn bộ Bảy Kho Tàng, ngoại trừ Bản Tính Nền Tảng, đã được soạn ra khi Longchenpa vẫn còn là một chàng trai trẻ, để minh họa thực tế rằng ông là một học giả phi thường và đã là bậc thầy giác ngộ cao cấp từ thuở thiếu thời một cách thần kỳ.
Một truyền thống khẩu truyền nói rằng toàn bộ Bảy Kho Tàng đều được sáng tác ở Bhutan nhưng đã bị thất lạc trong một tại nạn thảm khốc khi Longchenpa trở về sau cuộc sống lưu vong vào đầu những năm 1360, khi thư viện và nhiều tác phẩm của ông bị cuốn trôi trên sông. Bảy Kho Tàng, theo diễn tiến của câu chuyện, do đó phải được viết lại ở Gangri Thokar. Tuy nhiên, có nhiều lý do để nghi ngờ tính lịch sử của truyền thuyết này, nhất là việc Longchenpa qua đời năm 1364, chưa đầy ban năm, ba năm tích cực hoạt động, sau khi ông trở về quê hương. Ngoại trừ sự hỗ trợ của các tác nhân siêu nhiên, khó mà tin rằng chúng được biên soạn thêm lần nữa trong khoảng thời gian còn lại. Ngay cả mười năm lưu trú của Longchenpa ở Bhutan dường như là một khoảng thời gian quá ngắn cho việc biên soạn Bảy Kho Tàng, một trong số đó rất dài và phức tạp, đặc biệt là xét về mọi việc khác mà Longchenpa được cho là đã hoàn thành trong khoảng thời gian đó.4
Mối quan tâm khẩn thiết hơn trong bối cảnh hiện tại là
Kho Tàng Bản Tính Nền Tảng không được đề cập đến trong danh mục Tharpa Ling, đã được biên soạn vào một thời điểm nào đó trong quãng bảy năm kể từ khi xẩy dựng ngôi đền ẩn mật này vào năm 1353 cho đến khi Longchenpa trở về Tây Tạng vào năm 1360. Và vì lời cuối sách cho biết nó được viết ra ở Gangri Thokar, chẳng phải vô lý khi suy luận rằng quyển cuối của Bảy Kho Tàng đã được soạn ra sau khi Longchenpa trở về từ cuộc sống lưu vong và vì vậy nằm trong số những tác phẩm cuối cùng của ông.
Trong quan điểm dường như không có mối liên hệ nào giữa Bảy Kho Tàng về bản chất (nhưng vì sự giống nhau của chúng về tên gọi) cũng như việc chúng ta không thể xác định niên đại của chúng để lập ra một thứ tự biên soạn, thật khó để tưởng tượng rằng chúng đã được nghĩ đến như một tuyển tập duy nhất do chính tác giả soạn thảo theo một kết hoạch định trước nào đó. Tuy nhiên, điều này chẳng có nghĩa là không thể thấy bất cứ thứ tự nào trong những tác phẩm đặc biệt này.
Khenpo Jigme Phuntsok, người thường giảng nghĩa Bảy Kho Tàng trong một giáo khóa mở rộng cho hàng nghìn học viên, đã nhận thấy trong chúng có một trình tự giảng dạy tự nhiên bất kể ngày tháng được biên soạn.5 Vì mục đích dạy học, ông sắp xếp chúng theo thứ tự dần dần tùy theo chủ đề, bắt đầu với những văn bản chủ yếu đề cập đến các chủ đề kinh điển tổng quat và tiến dần đến những tài liệu tập trung hoàn toàn vào giáo lý Đại Toàn Thiện. Theo sự sắp đặt này, trước hết, ông sẽ giảng
Kho Tàng Ngọc Như Ý và
Kho Tàng Hệ Thống Nguyên Lý,6 về các chủ đề chung và triết học. Tiếp theo là nghiên cứu về
Kho Tàng Những Chỉ Dẫn Thiết Yếu,7 là một tuyển tập lớn gồm những câu cách ngôn sáu dòng bao quát hàng loạt các chủ đề về học thuyết được rút ra từ các giáo lý Kinh điển, Mật điển và Đại Toàn Thiện. Phần giới thiệu trực tiếp về Đại Toàn Thiện sẽ theo sau phần trình bày về
Kho Tàng của Pháp Giới và
Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng,8 hai văn bản đầy chất thi ca đẹp đẽ được thiết kế để đưa học viên tiếp xúc trực tiếp và đầy hứng khởi với cái thấy của Đại Toàn Thiện về tính thanh tịnh bản nguyên, cùng với thực hành
Trekcho, hay “cắt đứt”. Cuối cùng, khóa học sẽ kết thúc với việc đọc
Kho Tàng của Tối Thượng Thừa và
Kho Tàng của Ngôn Từ và Ý Nghĩa,9 những giảng giải mang tính học thuật về nền tảng lý thuyết của Đại Toàn Thiện, nằm trong số những tác phẩm khó và yêu cầu khắt khe nhất của Longchenpa.
KHO TÀNG CỦA BẢN TÍNH NỀN TẢNG
Trong những trang đầu của bình luận về
Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng, Tenpai Wangchuk đề cập tới mối quan hệ chặt chẽ của nó với
Kho Tàng của Pháp Giới. Ông nói, cả hai văn bản đều chắt lọc giáo lý của cả ba tầng lớp Đại Toàn Thiện (lớp tâm trí, lớp không gian, và lớp chỉ dẫn cốt lõi), chứa đựng những điểm cốt yếu cho sự hiểu biết về cái thấy và thực hành trekcho, giảng giải về tính thanh tịnh nguyên sơ.
Hơn nữa, hai tác phẩm này được cho là bổ sung nhau về mặt lý thuyết và thực hành. Về lý thuyết,
Kho Tàng của Pháp Giới xác lập bản tính của mọi hiện tượng của cả luân hồi và niết bàn không quá nhiều về mặt bản thể học, theo nghĩa chúng thiếu vắng sự tồn tại thực sự, mà về mặt trí tuệ, như một biểu hiện sáng tạo trong sự mở rộng bao la của bản tính tâm trí, “
Pháp Giới vô hạn, tỉnh giác mà thôi”. Đây là ghi chú đặc trưng của Đại Toàn Thiện, trong đó trạng thái bản thể luận của vạn sự như được xác lập trong Trung Quán được thay thế bằng nhãn quan thấy mọi hiện tượng là sự phô diễn của tính giác, thanh tịnh bản nguyên và tịnh quang tự phát. Tuy nhiên, đồng thời Tenpai Wangchuk nói rằng
Kho Tàng Bản Tính Nền Tảng khác với
Kho Tàng Pháp Giới ở chỗ nó áp dụng hiểu biết này vào tâm trí của cá nhân hành giả “trong một sự trình bày có hệ thống về các giai đoạn kế tiếp nhau”. Nó mô tả cách những hành giả đã bước vào con đường Đại Toàn Thiện phải hiểu và liên hệ với chính những hình tướng hiện tượng, cả thế giới bên ngoài lẫn các trạng thái chủ quan bên trong nắm bắt nó. Do vậy các hiện tượng được trình bày dưới dạng bốn nguyên tắc kim cương: đó là sự không tồn tại của chúng, tính bình đẳng của chúng, hiện diện tự phát của chúng, và bản tính đơn nhất của chúng. “Nếu hành giả đem những nguyên tắc giống như thế này vào trong tâm trí mình thì họ sẽ dễ dàng thực hiện lời dạy này một cách tuần tự và có hệ thống”.
Có lẽ có tình trạng chưa rõ ràng ngay lập tức về việc áp dụng những nguyên tắc này vào tâm trí của hành giả như thế nào.
Kho Tàng Bản Tính Nền Tảng không phải là một cẩm nang hướng dẫn thực hành. Tuy nhiên, sự mô tả của nó về cách thức xuất hiện các hiện tượng phải được hiểu và liên hệ đến việc giới thiệu học viên khá trực tiếp vào cái thấy và thực hành trekcho. Bốn nguyên tắc kim cương trên thực tế là bốn
samaya (giới nguyện mật tông) về không có gì để nắm giữ, bốn cách mà những hành giả đủ tiêu chuẩn của Đại Toàn Thiện phải kinh nghiệm và hiểu các hiện tượng của thế giới bên ngoài được nhận thức bởi các giác quan cũng như các trạng thái tinh thần và cảm xúc chủ quan nắm bắt chúng.
Kho Tàng Bản Tính Nền Tảng là sự khám phá sâu sắc và chi tiết về bốn giới nguyện này.
Cần phải hiểu rằng từ “samaya” ở đây được dùng với một ý nghĩa đặc biệt. Nói chung, ở cấp độ mật tông, samaya được hiểu là một lời cam kết, đề cập đến thái độ và hành vi mà các đạo sư và đệ tử cam kết thực hiện một khi quán đỉnh đã được ban ra và nhận được. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện tại, bốn “samaya” thực ra là bốn nguyên tắc, bốn cách hiểu về hình tướng hiện tượng, bắt nguồn từ sự chứng ngộ được tu luyện bởi hành giả Đại Toàn Thiện. Như Dilgo Khyentse Rinpoche từng lưu ý, trong bối cảnh đó, “samaya” ám chỉ trí tuệ bản nguyên bất động của cõi bao la tối thượng. Và “vì mọi thứ đều là sự phô diễn của trí tuệ này, giới nguyện này không thể bị vi phạm”.10
Bốn samaya của không có gì để nắm giữ được đề cập ngắn gọn trong
Kho Tàng của Các Phẩm Tính Quý Giá của Jigma Lingpa, và một bản tóm tắt của chúng có thể được tìm thấy trong một bình luận ngắn gọn những hữu ích của Kangyur Rinpoche, bắt đầu bằng sự mô tả về loại người mà họ cần rèn luyện, cụ thể là, những người có khả năng thi hành các giáo lý Đại Toàn Thiện và những người mà bốn mật nguyện là vấn đề sống còn đối với họ. Ông nói:
Những người đã được giới thiệu trọn vẹn vào bản tính của tâm trí và có thể an trú trong đó sẽ nhận ra rằng những hình tướng bên ngoài là không có nền tảng và tỉnh giác bên trong là không có đối tượng. Những người như vậy an trú trong một trạng thái mà họ không phân biệt được điều gì nên được chấp nhận và điều gì cần phải bị từ chối.11
Sau đó ông lưu ý:
Các samaya của “không có gì để nắm giữ” ám chỉ cách mà người ta an trú trong bản tính nền tảng của mọi thứ, trạng thái bất hoại như kim cương, vốn chẳng có khiếm khuyết từ nguyên thủy, không bị chia cắt bởi nhị nguyên. Tâm trí và các hình tướng đều bị chế ngự bởi trí tuệ bản nguyên của pháp thân.12
Những phát biểu ngắn gọn nhưng đầy sức thuyết phục này tập trung vào điểm cốt yếu rằng việc thực hành Đại Toàn Thiện và đặc biệt là trekcho không bắt đầu bằng sự hiểu biết tri thức từ một quan điểm triết học, như trường hợp của các thừa thấp hơn trong giáo lý Phật, mà với sự chứng ngộ và kinh nghiệm vững vàng về bản tính của tâm trí, là thứ trong thực tế tương ứng với cái thấy trực tiếp về chân lý tối thượng trong chính nó. Nói cách khác, điểm khởi đầu cho việc thực hành Đại Toàn Thiện không phải là một sự hiểu biết tri thức mà là một trạng thái chứng ngộ. Trước cơ duyên nhận biết trực tiếp về về bản tính của tâm trí, nghiên cứu tri thức về Đại Toàn Thiện, mối quan tâm được chất chứa vào nó, và bản thân sự thực hành, nói đúng ra đều thuộc về con đường tu tập sơ khởi của nỗi khát khao tìm đạo nhưng lại có tầm quan trọng thiết yếu.
Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng là một bản thuyết trình thấu đáo trong đó mỗi một trong số bốn giới nguyện về “không có gì để nắm giữ” được giải thích trong bốn giai đoạn liên tiếp. Đầu tiên, ý nghĩa của giới nguyện trong câu hỏi (không tồn tại, bình đẳng, hiện diện tự phát, và bản tính đơn nhất) được tuyên bố hay tiết lộ trong một chuỗi những điểm then chốt. Thứ hai,các hiện tượng được khám phá sâu hơn và bản tính của chúng được tóm lược hay thiết yếu hóa dưới dạng giới nguyện trong câu hỏi. Thứ ba, quá trình tương tự được lặp lại nhưng lần này từ quan điểm của chính giới nguyện, nó được chứng minh là bao gồm hoặc gộp vào trong nó toàn bộ tập hợp các hình tướng hiện tượng.Cuối cùng, tất cả những điểm này được mang vào trong sự tập trung để dẫn đến một trạng thái chắc chắn mang tính quyết định.13
Để giới thiệu ngắn gọn về bốn giới nguyện samaya, chúng tôi tjam thời đề xuất tóm tắt sau đây. Chúng tôi đã chỉ ra rằng đặc trưng trong cách tiếp cận của Đại Toàn Thiện không giống như trong Trung Quán, vốn đặt các hiện tượng của thế giới bên ngoài vào phân tích logic như một phương tiện để làm suy yếu sự bám víu của chúng ta vào nó. Thay vào đó, nhiệm vụ là nhận ra bản tính của mọi hình tướng hiện tượng bên trong tâm trí và đạt đến hiểu biết, hay đúng hơn là nhìn thấy trực tiếp, rằng thế giới hiện tượng chẳng là gì khác ngoài sự phô diễn của tính giác. Đạt được và nghỉ ngơi trong sự nhận biết này chính là giải thoát. Vì theo giáo lý của Đại Toàn Thiện, chính xác là do không nhận ra bản chất của các hiện tượng là sự hiển lộ của tính giác, và thay vào đó lại tin rằng chúng tồn tại khách quan, nên chúng sinh lang thang trong những kinh nghiệm ảo tưởng của luân hồi, lầm tưởng rằng các hiện tượng là thật.
Longchenpa nói rằng giống như vũ trụ, dù rộng lớn đến đâu, cũng bị chứa đựng trong chiều sâu của không gian, tương tự với toàn thể thế giới hiện tượng của cả luân hồi và niết bàn, mọi thứ xuất hiện và có thể xuất hiện trong tâm trí của chúng sinh, đều sinh khởi trong sự mở rộng của tính giác thanh tịnh. Mọi hiện tượng không tồn tại bên ngoài tính giác. Ngay cả trong chính tính giác, các hiện tượng chỉ là những hình tướng không có thực thể. Đây là samaya hay nguyên tắc
không tồn tại.
Khi yogi an trú trong nhận biết về bản tính tối hậu, trong hiểu biết rằng các hiện tượng là sự phô diễn hư ảo của tính giác, và khi, liên quan đến cùng những hiện tượng tương tự này, mọi nhận thức giác quan được để ngỏ và tự do, không có sự phân biệt hay đánh giá định tính, khi, nói cách khác, các hiện tượng được để mặc như chúng vốn có mà không có sự phán xét, “được an trú trọn vẹn trong sự mở rộng bao la của bản tính tối thượng”, chúng được cho là “bình đẳng”. Tất cả đều hiển lộ phẩm cách như nhau. Đây là samaya của
tính bình đẳng bao trùm toàn thể.
Khi tính bình đẳng này được tiến thêm một bước nữa, chúng ta đến với samaya của sự
hiện diện tự phát, có lẽ là thứ khó nắm bắt nhất. Nhìn chung, khi mọi thứ được cho là hiện diện tự phát, vấn đề được hiểu là chúng không sinh khởi do các nguyên nhân và điều kiện. Chúng chỉ đơn giản là “ở đó”. Để giải thích đặc tính của hình tướng hiện tượng này, Longchenpa dùng ví dụ về giấc mộng. Mặc dù mọi thứ được kinh nghiệm trong những giấc mơ, đối với người đang nằm mộng, là không thể phân biệt được với những thứ đối diện trong lúc thức, nhưng thực tế là chúng không phát sinh từ sự kết hợp giữa các nguyên nhân và điều kiện như những sự kiện chúng ta gặp lúc thức. Không có sự tồn tại bên ngoài tâm trí của người mơ, những hình ảnh trong mơ xuất hiện đơn giản nhờ “năng lực sáng tạo của trạng thái ngủ”. Chúng “chỉ ở đó”, hiện diện tự phát. Cũng giống như những hình ảnh trong mơ xuất hiện nhờ năng lực sáng tạo của giấc ngủ, các hiện tượng của cuộc sống lúc thức cũng phát sinh nhờ năng lực sáng tạo của tính giác, chúng không tồn tại ngoài tính giác.
Cuối cùng, người ta có thể suy nghĩ thêm rằng bất cứ hiện tượng nào được nhận thức, dù dưới dạng xuất hiện khách quan hay trạng thái chủ quan nhận ra chúng, và bất kể “sắc thái” của chúng là tích cực hay tiêu cực, tốt hay xấu, tất cả đều phát sinh, duy trì, và tàn lụi ngay trong tính giác. Theo nghĩa này, chúng chỉ đơn giản là một tính giác duy nhất. Samaya cuối cùng này là giới nguyện của
bản tính đơn nhất.