11. Không, Vô tướng. Vô tác : Gọi là tam không. Ba môn này đều nói về Lý Không, cũng gọi là Tam tam muội.
....1) Không tam muội : Quán các pháp từ nhơn duyên sanh, không có ngã và ngã sở.
....2) Vô tướng tam muội : Xa lìa những tướng Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc và tướng Nam, tướng Nữ.
....3) Vô tác tam muội : Ðối với các pháp xả hết tâm mong muốn, không còn sự tạo tác
12. Ðại Ca Diếp : Tàu dịch là Ẩm Quang, nghĩa là hào quang chói sáng trùm hết các ánh sáng khác. Nguyên kiếp trước ông chung đậu vàng với người ta và ra công thiếp tượng Phật, nhờ công đức ấy, nên đời đời cảm đặng cái báo thân sắc vàng ánh chóí. Khi gặp Ðức Phật ra đời giáo hóa, ông nguyện theo tu hành, sau lãnh thọ đặng chánh pháp. Trong hàng Ðại đệ tử, ông là đức hạnh bực nhất, cũng là khổ hạnh bực nhứt nữa.
13. Như trí chứng : Tức là khi Thật trí chứng chơn lý thành tựu đạo quả, toàn thân nhẹ nhàng an vui mà không sanh đắm nhiễm ; ý nói thân chạm lánh các vật tốt, xấu, êm ấm v.v... cũng không có cảm thọ mê đắm như trí chứng vậy.
14. Bát tà : 1. Tà kiến, 2. Tà tư duy, 3. Tà ngữ, 4. Tà nghiệp, 5. Tà mạng, 6. Tà phương tiện, 7. Tà niệm: 8. Tà định. Trái với Bát chánh đạo thời gọi là Bát tà.
15. Bát giải thoát : Cũng là bát bội xả. Nghĩa là tám pháp thiền định này có công năng xa lìa, trãi bỏ tất cả phiền não được giải thoát những sự triền phược trong ba cõi.
....1) Nội hữu sắc tướng ngoại quán sắc : Vì muốn diệt trừ lòng tham đắm, người tu hành trước phải quán thân mình là vật nhơ nhớp, nhưng vì còn lòng tham đối với thân người, nên cũng phải quán cái thân ngưòi khác cũng như thế.
....2) Nội vô sắc tướng ngoại quán sắc : Mới diệt được sắc tướng trong thân nhưng lòng tham dục đối với người ở cõi Dục khó đoạn hết, nên cũng còn quán tướng người khác bất tịnh.
....3) Tịnh bội xả thân tác chứng : Ðến đây không còn tham trước tướng bất tịnh ở ngoài, chỉ ở trong cảnh định luyện tập tâm sắc quang minh trong suốt (Tịnh Bội xả). Tâm đã sáng suốt thì vui càng tăng trưởng đầy khắp trong thân (thân bội xả).
....4) Hư không xứ bội xả : Người tu hành diệt được lòng tham muốn sắc thân bất tịnh của mình và của người, được nhứt tâm duyên “Không” cùng với “Không” tương ứng, tức nhập được định “Vô biên hư không xứ”.
....5) Thức xứ bội xả : Do xả Hư không xứ định, nhứt tâm duyên thức. Lúc nhập định này, tức quán định, nhàm chán không ưa đắm nữa.
....6) Vô sở hữu xứ bội xả : Do xả thức xứ, nhứt tâm duyên Vô sở hữu xứ. Lúc nhập định này, tức quán định y nơi năm uẩn đều không thật nên không còn ái trước nữa.
....7) Phi hữu tưởng, Phi vô tưởng xứ bội xả : Do xả vô sở hữu xứ định, nhứt tâm duyên phi hữu tưởng, phi vô tưởng. Lúc nhập định này, y nơi năm uẩn đều không thật, nên tâm sanh nhàm chán.
....8) Diệt thọ tưởng bội xả : Vì nhàm chán cái tâm tán loạn nên nhập định cho diệt hẳn tâm ấy đi. Khi đắc định cả rồi thì thành ra tám đạo giải thoát nên gọi là Bát giải.
16. Ðịnh ý : Tức tịnh tâm. Tu thiền định xa lìa ý tán loạn.
17. Thanh Văn : Hàng đệ tử Tiểu thừa y theo chánh giáo của Phật dạy, tu tập pháp Tứ đế, đoạn Kiến hoặc và Tư hoặc, chứng chánh quả. Có 4 bực:
1) Tu đà hoàn (Dự lưu quả), 2. Từ đà hàm (Nhứt lai quả), 3. A na hàm (Bất lai quả), 4. A la hán (Vô sanh quả).
18. Bích Chi Phật : Thuộc về trung thừa có 2 hạng :
....1) Ðộc Giác : ra đời không gặp đặng Phật và giáo pháp, do căn lành sẵn có, ngó thấy cảnh tang thương, hoa tàn, lá úa v.v... ngộ lý vô thường, phát tâm xuất ly dục trần, tự tu tập pháp vô thường quán, chứng quả vô sanh khỏi vòng sanh tử trong tam giới.
....2) Duyên Giác : Ra đời gặp Phật và giáo pháp, tu tập theo phép quán 12 nhơn duyên chứng quả vô sanh (Ðồng bực A La Hán của Thanh Văn).
19. Tu Bồ Ðề : (Shabuti) Tàu dịch là Không Sanh. Bực Ðại A La Hán tỏ ngộ lý chơn không, bực nhứt trong hàng Thanh Văn.
20. Ngũ nghịch : 1) Giết cha ; 2) Giết mẹ ; 3) Giết A La Hán ; 4)Phá hòa hợp của chúng Tăng ; 5) Làm cho thân Phật chảy máu.