KINH HẠNH PHÚC

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Hạnh Phúc Kinh
(Mangala Sutta) [1]

Tôi có nghe như vầy:
Vào một thời nọ Đức Thế Tôn ngự tại Jetavana (Kỳ Viên) của Trưởng Giả Anathapindika [2] (Cấp Cô Độc), gần thành Savatthi (Xá Vệ) [3].
Lúc bấy giờ, đêm về khuya, có một vị Trời hào quang chiếu diệu sáng tỏa toàn khu Kỳ Viên, đến hầu Phật, lại gần nơi Phật ngự, đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi đứng sang một bên. Khi đã đứng yên, vị Trời cung kính bạch với Đức Thế Tôn bằng lời kệ [4]:

Chư Thiên và nhân loại đều cầu mong được an lành, và ai cũng suy tìm hạnh phúc. Kính Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ chỉ dạy chúng con về Phúc Lành Cao Thượng Nhất. [5]

Đức Phật giảng :
I. Không kết giao với người ác, thân cận với bậc hiền trí, và tôn kính bậc đáng kính - là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
II. Cư ngụ nơi thích nghi [6], đã có tạo công đức trong quá khứ, và hướng tâm về chánh đạo [7] - là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
III Học nhiều hiểu rộng [8], lão luyện tinh thông thủ công nghiệp [9], giới hạnh thuần thục trang nghiêm [10], có lời nói thanh nhã - là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
IV. Hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ, thương yêu tiếp độ vợ con, và hành nghề an lạc - là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
V. Rộng lượng bố thí, tâm tánh trực giác, giúp đỡ họ hàng, và tạo nghiệp chân chánh - là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
VI. Loại trừ và ngăn ngừa nghiệp ác [11], thận trọng kiêng cữ các chất say, vững vàng giữ gìn phẩm hạnh - là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
VII. Đức hạnh biết tôn kính [12], khiêm tốn, biết đủ, biết ơn và đúng lúc, lắng nghe Giáo Pháp (Dhamma) [13] - là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
VIII. Nhẫn nhục, biết vâng lời, thường gặp gỡ bậc Sa Môn (Samanas) [14] và tùy thời, luận đàm về Giáo Pháp - là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
IX. Tự kiểm soát, sống đời Thánh Thiện, quán tri Tứ Đế, liễu ngộ Niết Bàn - là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
X. Người mà tâm không giao động khi tiếp xúc với thế gian pháp [15], Không Sầu Muộn, Vô Nhiễm và An Toàn [16] - là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
XI. Đối với những ai đã viên mãn hoàn thành các pháp trên [17], ở mọi nơi đều không thể bị thất bại, đi khắp nơi đều được hạnh phúc - là Phúc Lành Cao Thượng Nhất [18].

-oOo-

Chú Giải Hạnh Phúc Kinh:
[1] So sánh với Túc Sanh Truyện Mahamangala Jakata (số 453). Bài kinh này được ghi trong bộ Sutta Nipata và Khuddaka Nikaya.
[2] Anathapindika, theo nghĩa trắng là "Người cho ăn đến kẻ cô đơn không được giúp đỡ" hoặc "Nuôi sống những người bị bỏ rơi", ta thường gọi là Cấp Cô Độc. Tên thật của ông là Sudatta. Sau khi quy y trở thành Phật tử, ông mua một khu rừng tươi tốt của Ông Hoàng Jeta (Kỳ Đà) và xây dựng một ngôi đạo tràng có tên là Jetavanarama (Kỳ Viên Tịnh Xá). Nơi đây Đức Phật cư ngụ phần lớn đời Ngài.
Muốn có nhiều chi tiết về Sudatta, đọc Kindred Sayings, phần I, trang 27; và Vinaya Text, tập iii, trang 179.
[3] Savathi, tên ngày nay là Sahet-Mahet.
[4] Bản Chú Giải ghi nhận rằng ngày kia có một cuộc bàn thảo sôi nổi xảy ra trong "Hội Trường" nhằm tìm hiểu thế nào là phúc lành cao thượng nhất.
Đông người, mỗi người có một ý kiến riêng. Có người chủ trương rằng sáng sớm ra đường thấy một điềm lành (như gặp một người mẹ bồng con, một em bé, một con bò trắng, v.v...) là phúc lành.
Những người có ý kiến khác nhau chia làm ba nhóm, mạnh mẽ bênh vực ý kiến của nhóm mình, và cuộc bàn cãi sôi nổi lan tràn đến cảnh giới chư thiên. Các vị Trời cũng không đồng ý với nhau, không thỏa mãn được với những cuộc tranh luận, đem câu chuyện lên đến Vua Trời Sakka (Đế Thích).
Sau cùng, Vua Trời Sakka đề cử một vị Trời đại diện đến hầu Phật và cung thỉnh tôn ý Ngài. Chính vị Trời ấy đến gần Đức Thế Tôn và bạch hỏi bằng câu kệ.
[5] Phúc Lành Cao Thượng Nhất. Theo Bản Chú Giải, Mangala có nghĩa là những gì dẫn đến hạnh phúc và thịnh vượng. Theo các nhà ngữ nguyên học, danh từ này chia làm ba phần: "Man" là trạng thái khốn khổ, "ga" là đưa đến và "la" là cắt đứt. Các Ngài gộp chung ba phần lại và giải thích "Mangala" là "cái gì chặn đứng con đường đưa đến trạng thái khốn khổ".
[6] Cư ngụ nơi thích nghi. Tức là nơi nào Tứ Chúng (chư vị Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Cận Nam và Tín Nữ) thường cư trú, thường có những người tâm đạo nhiệt thành thực hành thập thiện nghiệp, và nơi mà Giáo Pháp được xem là quy tắc của đời sống. (Bản Chú Giải).
[7] Hướng tâm về chánh đạo. Tức là hướng cái tâm đồi bại vô luân về đạo đức chân chánh, tâm mất đức tin về niềm tin chân chánh và tâm ích kỷ vị ngã về lòng quảng đại vị tha. (Bản Chú Giải).
[8] Học nhiều hiểu rộng. Bahusutta, theo nghĩa trắng là "người có nghe nhiều", đa văn. Danh từ này hàm ý là người có học vấn uyên bác thâm sâu. Vào thời xưa không có sách vở, vì lẽ ấy, người nhớ nhiều giáo huấn của thầy được xem là học rộng, hiểu sâu. Nơi đây học rộng, hay "nghe nhiều" có nghĩa là người thông hiểu Giáo Pháp (Dhamma) một cách sâu xa.
[9] Bản Chú Giải đề cập đến hai loại công ăn việc làm: nghề không làm tổn hại đến ai của người sống tại gia, như thợ bạc, thợ rèn v.v... và nghề của người xuất gia như vá y v.v...
[10] Vinaya, tức giới hạnh trang nghiêm trong tư tưởng, lời nói và việc làm.
Bản Chú Giải đề cập đến hai loại giới hạnh: giới của người tại gia, tức không vi phạm thập bất thiện nghiệp và giới hạnh của hàng xuất gia như bảy loại vi phạm được kể trong Giới Bổn (Patimokkha), hoặc nghiêm trì Tứ Thanh Tịnh Giới.
[11] Hoàn toàn lánh xa ác nghiệp, không phải chỉ tiết chế chừng mực.
[12] Tức tôn kính Đức Phật và các môn đệ của Ngài, tôn kính Thầy, cha, mẹ, bậc trưởng thượng v.v... (Bản Chú Giải).
[13] Thí dụ như lúc ta bị những tư tưởng ô nhiễm ám ảnh, khuấy động.
[14] Những người đã đè nén khát vọng của mình.
[15] Thế gian pháp (lokadhamma), gồm có tám là: được và thua, danh thơm và tiếng xấu, tán dương và khiển trách, đau khổ và hạnh phúc (xem Chương 43).
[16] Asokam, Virajam và Khemam. Mỗi danh từ trong ba Phạn ngữ này đều hàm xúc tâm của một vị A La Hán. Asoka là không sầu não, phiền muộn. Virajam là không có những ô nhiễm tham ái, sân hận và si mê. Khema là an toàn không bị trói buộc trong những thằng thúc tham dục (Kama), trở thành, hữu (Bhava), tà kiến (Ditthi) và vô minh (Avijja) -- (dục lậu, hữu lậu, tà kiến lậu và vô minh lậu).
[17] Tức ba mươi tám Phúc Lành kể trên. (Bản Chú Giải).
[18] So bản dịch trong quyển "Buddhism" trang 125 của Rhys David và "Some Sayings of the Buddha" của Woodward, trang 56.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Kinh Hạnh Phúc (thơ)

KINH PHƯỚC ÐỨC
(Maha Mangala Sutta)
Đây là những điều tôi được nghe hồi đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya, có một vị thiên gỉa hiện xuống thăm người, hào quang và vẻ đẹp của thiên gỉa làm sáng cả vườn cây. Sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn, vị thiên gỉa xin tham vấn Người bằng một bài kệ:

"Thiên và nhân thao thức
Muốn biết về phước đức
Để sống đời an lành
Xin Thế Tôn chỉ dạy."

(và sau đây là lời đức Thế Tôn:)

"Lánh xa kẻ xấu ác
Được thân cận người hiền
Tôn kính bậc đáng kính
Là phước đức lớn nhất

"Sống trong môi trường tốt
Được tạo tác nhân lành
Được đi trên đường chánh
Là phước đức lớn nhất

"Có học, có nghề hay
Biết hành trì giới luật
Biết nói lời ái ngữ
Là phước đức lớn nhất

"Được cung phụng mẹ cha
Yêu thương gia đình mình
Được hành nghề thích hợp
Là phước đức lớn nhất

"Sống ngay thẳng, bố thí,
Giúp quyến thuộc, thân bằng
Hành xử không tỳ vết
Là phước đức lớn nhất

"Tránh không làm điều ác
Không say sưa nghiện ngập
Tinh cần làm việc lành
Là phước đức lớn nhất

"Biết khiêm cung lễ độ
Tri túc và biết ơn
Không bỏ dịp học đạo
Là phước đức lớn nhất

"Biết kiên trì, phục thiện
Thân cận giới xuất gia
Dự pháp đàm học hỏi
Là phước đức lớn nhất

"Sống tinh cần,tỉnh thức
Học chân lý nhiệm mầu
Thực chứng được Niết Bàn
Là phước đức lớn nhất

"Chung đụng trong nhân gian
Tâm không hề lay chuyển
Phiền não hết, an nhiên,
Là phước đức lớn nhất

"Ai sống được như thế
Đi đâu cũng an toàn
Tới đâu cũng vững mạnh
Phước đức của tự thân."

(Trích Nghi Thức Tụng Niệm toàn bằng quốc văn do nhà sách Lá Bối xuất bản, San Jose,1989).
 

Cavoi

Registered
Phật tử
Tham gia
5 Thg 8 2009
Bài viết
120
Điểm tương tác
4
Điểm
18
Kinh Ðiềm Lành (Mangala Sutta)

Bản dịch của HT.Thích Minh Châu.

V. Kinh Ðiềm Lành (Mangala Sutta)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi một Thiên tử, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, vị Thiên tử ấy bạch Thế Tôn với bài kệ:

Thiên tử:

1. Nhiều Thiên tử và người,
Suy nghĩ đến điềm lành,
Mong ước và đợi chờ,
Một nếp sống an toàn,
Xin Ngài hãy nói lên,
Về điềm lành tối thượng.

(Ðức Phật giảng:)

2. Không thân cận kẻ ngu,
Nhưng gần gũi bậc Trí,
Ðảnh lễ người đáng lễ,
Là điềm lành tối thượng.

3. Ở trú xứ thích hợp,
Công đức trước đã làm,
Chân chánh hướng tự tâm,
Là điềm lành tối thượng.

4. Học nhiều, nghề nghiệp giỏi,
Khéo huấn luyện học tập,
Nói những lời khéo nói,
Là điềm lành tối thượng.

5. Hiếu dưỡng mẹ và cha,
Nuôi nấng vợ và con.
Làm nghề không rắc rối,
Là điềm lành tối thượng.

6. Bố thí, hành, đúng pháp,
Săn sóc các bà con,
Làm nghiệp không lỗi lầm,
Là điềm lành tối thượng.

7. Chấm dứt, từ bỏ ác,
Chế ngự đam mê rượu,
Trong Pháp, không phóng dật,
Là điềm lành tối thượng.

8. Kính lễ và hạ mình,
Biết đủ và biết ơn,
Ðúng thời, nghe Chánh Pháp,
Là điềm lành tối thượng.

9. Nhẫn nhục, lời hòa nhã,
Yết kiến các Sa-môn,
Ðúng thời, đàm luận Pháp,
Là điềm lành tối thượng.

10. Khắc khổ và Phạm hạnh,
Thấy được lý Thánh đế.
Giác ngộ quả: "Niết Bàn"
Là điềm lành tối thượng.

11. Khi xúc chạm việc đời
Tâm không động, không sầu,
Không uế nhiễm, an ổn,
Là điềm lành tối thượng.

12. Làm sự việc như vầy,
Không chỗ nào thất bại,
Khắp nơi được an toàn,
Là điềm lành tối thượng.
 

Cavoi

Registered
Phật tử
Tham gia
5 Thg 8 2009
Bài viết
120
Điểm tương tác
4
Điểm
18
Bản dịch tiếng Anh (Translated from the Pali by Thanissaro Bhikkhu)

5. Mangala Sutta -- Protection

I have heard that at one time the Blessed One was staying in Savatthi at Jeta's Grove, Anathapindika's park. Then a certain deva, in the far extreme of the night, her extreme radiance lighting up the entirety of Jeta's Grove, approached the Blessed One. On approaching, having bowed down to the Blessed One, she stood to one side. As she stood to one side, she addressed him with a verse.

Many devas and humans beings
give thought to protection,
desiring well-being.
Tell, then, the highest protection.

[The Buddha:]

Not consorting with fools,
consorting with the wise,
paying homage to those worthy of homage:
This is the highest protection.

Living in a civilized land,
having made merit in the past,
directing oneself rightly:
This is the highest protection.

Broad knowledge, skill,
well-mastered discipline,
well-spoken words:
This is the highest protection.

Support for one's parents,
assistance to one's wife and children,
consistency in one's work:
This is the highest protection.

Generosity, living in rectitude,
assistance to one's relatives,
deeds that are blameless:
This is the highest protection.

Avoiding, abstaining from evil;
refraining from intoxicants,
being heedful of the qualities of the mind:
This is the highest protection.

Respect, humility,
contentment, gratitude,
hearing the Dhamma on timely occasions:
This is the highest protection.

Patience, composure,
seeing contemplatives,
discussing the Dhamma on timely occasions:
This is the highest protection.

Austerity, celibacy,
seeing the Noble Truths,
realizing Unbinding:
This is the highest protection.

A mind that, when touched
by the ways of the world,
is unshaken, sorrowless, dustless, secure:
This is the highest protection.

Everywhere undefeated
when acting in this way,
people go everywhere in well-being:
This is their highest protection.
 

Cavoi

Registered
Phật tử
Tham gia
5 Thg 8 2009
Bài viết
120
Điểm tương tác
4
Điểm
18
453. Chuyện Điềm Lành Lớn (Tiền thân Mahà-Mangala)

Hiển bày chân lý giải nghi nan...,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Kinh Ðiềm lành Tối thượng hay Luận về Ðiềm lành.

Tại kinh thành Vương Xá vì một lý do này nọ, một đám đông tụ họp trong nhà nghỉ của vua, giữa bọn ấy có người đứng dậy, bước ra nói:

- Hôm nay là ngày có Ðiềm lành.

Một người khác nghe được, bảo rằng người kia bước ra và nói đến "Ðiềm triệu", vậy y muốn nói gì qua chữ "Ðiềm"?

Một người thứ ba bảo:

- Dấu hiệu gì có vẻ may mắn thì đó là điềm lành, ví dụ một người thức dậy sớm, và thấy một con bò đực toàn trắng hay một người đàn bà có thai, hay con cá màu đỏ (Ciprinus Rohita) hay cái bình đầy đến tận miệng, hoặc bơ tươi mới tan từ sữa bò, hoặc y phục mới chưa giặt hoặc cháo gạo, thì chẳng có điềm nào tốt hơn nữa.

Vài kẻ bàng quan bình phẩm lời giải thích này:

- Nói hay đấy.

Song có kẻ khác chen vào:

-Ồ không, chẳng có điềm gì trong việc ấy cả, chỉ lời nói bạn nghe mới là điềm. Có người nghe người ta nói: "Ðầy đủ", rồi lại nghe "Lớn đầy đủ" hoặc "Ðang lớn", hoặc nghe chúng bảo: "Ăn đi" hay "Nhai đi" thì chẳng có điềm nào tốt hơn nữa.

Một số kẻ bàng quan bảo:

- Nói hay đấy.

Và họ bình phẩm lời giải thích này. Một người khác lại nói:

- Chẳng có điềm gì trong mọi chuyện ấy cả. Hễ vật gì bạn đụng chạm đến mới là điềm. Nếu một người thức dậy sớm đụng vào đất hay cỏ xanh, phân bò tươi, chiếc áo sạch, cá màu đỏ, vàng hay bạc, thức ăn... thì chẳng có điềm gì tốt hơn nữa.

Ở đây vài kẻ bàng quan lại tán đồng và bảo là khéo nói. Và sau đó, số người theo phái chủ trương các điềm do mắt thấy, điềm về âm thanh, điềm về xúc chạm, chia làm ba nhóm, không ai thuyết phục ai được cả. Từ chư Thần trên mặt đất đến Phạm thiên giới không ai có thể xác định điềm là như thế nào cả. Ðế Thích Thiên chủ nghĩ thầm: "Giữa chư thiên và loài người ai ngoài đức Thế Tôn là có thể giải đáp đúng vấn đề điềm triệu. Ta muốn đi đến đức Thế Tôn, và đặt vấn đề với Ngài."

Thế là ban đêm Thiên chủ đến thăm đức Thế Tôn, đảnh lễ ngài và chắp tay vào nhau để thỉnh cầu, Thiên chủ đặt câu hỏi bắt đầu bằng: "Có chư Thiên và loài người." Sau đó Bậc Ðạo Sư dùng mười hai vần kệ nói cho biết ba mươi tám điềm lành lớn. Và trong khi ngài ngâm những lời kinh điềm lành ấy, lần lượt chư Thiên lên đến con số mười ngàn triệu vị đắc Thánh quả A-la-hán, còn các vị đắc ba Ðạo Quả kia thì không sao kể xiết. Thiên chủ nghe xong các điềm lành, liền trở về cõi của mình.

Khi Bậc Ðạo Sư nói các điềm lành xong, thế giới loài người và Thiên giới đồng tán thành và bảo:

- Thật là khéo nói.

Sau đó trong Chánh pháp đường, Tăng chúng bắt đầu bàn luận về công đức của đức Như Lai:

- Này các Hiền gỉa, vấn đề Ðiềm triệu vượt phạm vi hiểu biết của mọi người, nhưng Ngài đã tuệ tri tâm của loài người và chư Thiên, cùng giải tỏa các mối nghi của quần chúng như thể ngài khiến mặt trăng hiện lên trên bầu trời! Ôi đức Như Lai là một bậc Ðại trí, này các hiền hữu!

Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì trong lúc ngồi tại đó. Tăng chúng trình với Ngài. Ngài bảo:

- Này các Tỳ kheo, chẳng vi diệu gì khi Ta giải đáp vần đề điềm lành, vì nay ta đã đạt Trí tuệ Tối thắng; mà ngay cả khi Ta còn là Bồ-tát trên trần gian, Ta đã giải đáp các mối nghi hoặc của chư Thiên và loài người bằng cách trả lời vấn đề Ðiềm lành.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.


*
 

Cavoi

Registered
Phật tử
Tham gia
5 Thg 8 2009
Bài viết
120
Điểm tương tác
4
Điểm
18
Một thuở nọ, Bồ-tát tái sinh vào một thị trấn trong một gia đình Bà-la-môn giàu có, cha mẹ đặt tên ngài là Rakhita-Kumàra. Khi ngài khôn lớn và đã hoàn thành việc học tập tại Takkasilà, ngài cưới vợ. Sau khi song thân qua đời, ngài kiểm tra lại gia sản, suy nghĩ kỹ, ngài phân chia tài sản để bố thí, và điều phục các tham dục rồi, ngài trở thành ẩn sĩ trong vùng Tuyết Sơn. Ở tại đó, Ngài tu tập các Thắng trí, và an trú tại một nơi, tự nuôi sống bằng các thứ củ, quả rừng. Theo thời gian, đệ tử của ngài rất đông, gồm năm trăm vị cùng sống với ngài.

Một ngày kia, các ẩn sĩ này đến gần Bồ-tát nói như sau:

- Bạch Ðạo sư, khi mùa mưa đến, xin cho chúng con xuống vùng Tuyết Sơn đi qua đồng bằng để kiếm muối và các thứ gia vị; nhờ vậy thân thể chúng con sẽ được khỏe mạnh và chúng con sẽ thành tựu cuộc sống tu hành.

- Ðược rồi, các bạn cứ đi - ngài bảo. Còn ta sẽ ở lại nơi này.

Thế là các vị từ giã ngài, đi xuống từ vùng Tuyết Sơn, tiến hành trên lộ trình đến tận Ba-la-nại, tại đó các vị trú ngụ ở trong ngự viên. Dân chúng đón tiếp các vị rất trọng thể và nồng nhiệt.

Lúc bấy giờ, một ngày kia, có đám đông tụ tập trong nhà nghỉ của cung vua tại Ba-la-nại, và vấn đề Ðiềm triệu được đưa ra bàn cãi. Lúc ấy, cũng như trước kia, đám đông không thấy ai có đủ khả năng đánh tan mối hoài nghi của mọi người và giải đáp vấn đề Ðiềm triệu; vì thế họ đi đến ngự viên đặt vấn đề cùng hội chúng hiền nhân kia. Các hiền nhân ấy nói với vua:

- Tâu Ðại vương, chúng thần không thể giải đáp vấn đề này, song Bổn sư của chúng thần, ẩn sĩ Rakkhita, một bậc đại tuệ sống ở Tuyết Sơn, ngài sẽ giải đáp vấn đề ấy, vì ngài thông suốt tư tưởng của chư Thiên và loài người.

Vua đáp:

- Này các Hiền giả, Tuyết Sơn quá xa xôi và khó đi lắm đấy, chúng ta không thể nào đến đó được. Xin các Hiền giả đích thân đi về gặp đức Bổn sư và xin hỏi ngài vấn đề ấy. Sau khi các vị đã biết rồi, hãy trở lại đây nói cho chúng ta biết được chăng?

Các vị ấy hứa sẽ làm như vậy; và khi các vị đã trở về gặp đức Bổn sư, đảnh lễ ngài và sau khi ngài đã vấn an vua cùng các phong tục của dân chúng, các vị kể lại cho ngài toàn thể câu chuyện các Ðiềm triệu như trên, từ đầu tới cuối và giải thích việc các vị đến đây theo lời dặn dò của vua như thế nào, để nghe tận tai lời giải đáp vấn đề này. Các vị thưa:

- Bạch Tôn Sư, giờ đây xin Tôn Sư giải thích vấn đề Ðiềm triệu cho chúng con rõ và cho chúng con thấy chân lý. Lúc ấy vị đệ tử lớn tuổi nhất hỏi Bậc Ðạo Sư bằng cách ngâm vần kệ đầu:

1. Hiển bày chân lý, giải nghi nan,
Xin dạy kinh gì của Thánh nhân
Ðược học hành theo giờ thuận lợi,
Ðời này, đời kế tạo hồng ân?

Khi vị đệ tử lớn nhất đã đặt vấn đề Ðiềm lành qua các lời kệ này, bậc Ðại Sĩ muốn xóa tan mọi nỗi nghi ngờ của chư Thiên và loài người, liền đáp lại:

- Ðây và đây chính là điềm lành.

Và như vậy ngài diễn tả các điềm lành với tài thiện xảo của một vị Phật:

2. Mỗi Phạm thiên, thần thánh hiển linh,
Rắn rồng ta thấy giữa quần sinh,
Trong lòng mãi mãi đầy từ mẫn,
Vị ấy ban ơn mọi hữu tình.

Như vậy Bậc Ðại Sĩ đã thuyết giảng Ðiềm lành thứ nhất, rồi tiếp đến thuyết giảng Ðiềm lành thứ hai và các Ðiềm lành khác còn lại:

3. Kẻ nào khiêm tốn với muôn người,
Yêu mến nữ nam, mọi gái trai,
Ðứng trước lời bình, không đáp lại,
Sẽ mang hạnh phúc đến cho đời.

4. Gặp hiểm nguy, người có trí nhanh
Chẳng khinh đồng nghiệp, bạn đồng hành,
Chẳng khoe dòng trí, giàu, giai cấp,
Hạnh phúc cho đời ắt khởi sinh.

5. Người nào kết bạn thiện, hiền nhân,
Ðược trọng vì mồm chẳng ác thâm,
Không hại bạn, chia đều của cải,
Chính niềm hạnh phúc giữa thân bằng.

6. Vợ hiền, đồng tuổi, có tình thân,
Tận tụy, nhân từ, trẻ lại đông,
Ðức hạnh, trung thành, dòng quý tộc,
Ấy niềm hạnh phúc giữa hồng quần.

7. Vua nào đại đế giữa thần dân,
Biết sống thanh cao, đủ khả năng,
Bảo: "Ðấy bạn ta", không dối trá,
Chính niềm hạnh phúc giữa vương quân.

8. Thành tín, cùng cơm nước cúng dường,
Vòng hoa tươi tốt, các mùi hương,
Với tâm thanh tịnh, gieo an lạc,
Ấy mang hạnh phúc mọi thiên đường.

9. Các trí nhân thuần thiện, chánh chân,
Tâm tư rửa sạch, gắng tinh cần,
Theo đời thanh tịnh, người hiền trí,
Phúc lạc thay người giữa Thánh nhân!

Cứ như vậy bậc Ðại Sĩ đã đưa bài thuyết Pháp lên đến đỉnh cao nhất của Thánh Quả, và sau khi đã giải thích các Ðiềm lành trong tám vần kệ, ngài ngâm vần kệ cuối cùng để tán thán các Ðiềm lành ấy:

10. Công đức như vầy giữa thế gian,
Ðược tôn sùng bởi mọi hiền nhân,
Người khôn hãy bước đi theo chúng,
Ðiềm triệu chẳng mang tính thật chân.


Các bậc hiền trí, sau khi nghe các Ðiềm lành này xong, còn ở lại bảy tám ngày nữa rồi từ giã ngài và lên đường đến chỗ cũ.

Vua đến thăm các ông và hỏi chuyện kia. Các vị giải thích vấn đề Ðiềm lành như cách đã được giải thích cho quý vị và trở lại Tuyết Sơn. Từ đó về sau, vấn đề Ðiềm lành đã được thông hiểu trên thế giới. Sau khi đã chuyên tâm học tập vấn đề Ðiềm lành, lúc mạng chung, các vị đều lên cộng trú với Thiên chúng rất đông đảo. Còn Bồ-tát tu tập Tứ Vô lượng tâm, và cùng với hội chúng của ngài được tái sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, Bậc Ðạo Sư bảo:

- Này các Tỳ kheo, không phải bây giờ mà cả ngày xưa nữa Ta cũng đã giải thích vần đề Ðiềm lành.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

- Vào thời ấy, hội chúng đệ tử của đức Phật là đám hiền nhân kia, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vị Trưởng đệ tử, người đã hỏi vấn đề Ðiềm lành, và Ta chính là Ðạo Sư.
 

Cavoi

Registered
Phật tử
Tham gia
5 Thg 8 2009
Bài viết
120
Điểm tương tác
4
Điểm
18
Kinh Ðại Hạnh Phúc (Kinh Phước Ðức) (Maha Mangala Sutta, Kinh Tập, 258-269)

Giới thiệu: Bài kinh nổi tiếng nầy, thường được trì tụng trong các nước Phật Giáo, là một bài tóm tắt minh bạch và đầy đủ các điều luân lý của đạo Phật, cho cá nhân và xã hội. Ba mươi tám điều phước đức trong bài đó là một hướng dẫn thiết yếu cho đường đời. Bắt đầu là "lánh xa kẻ xấu ác" vốn căn bản cho các tiến bộ luân lý và tâm linh, những điều Phước Ðức đưa đến thành tựu một tâm ý vô tham, vô úy an nhiên. Hành trì theo các lời dạy trong bài kệ là một con đường chắc chắn đưa đến đời sống hài hòa và tiến bộ của cá nhân cũng như của xã hội, quốc gia, và nhân loại. (HT Narada)

Ðây là những điều tôi được nghe. Hồi đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Ðộc, trong vườn Kỳ Ðà. Hôm đó, trời đã vào khuya, có một vị thiên giả hiện xuống thăm người, hào quang và vẻ đẹp của thiên giả làm sáng cả vườn cây. Sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn, vị thiên giả xin tham vấn Người bằng một bài kệ:

"Thiên và nhân thao thức
Muốn biết về phước đức
Ðể sống đời an lành
Xin Thế Tôn chỉ dạy."

(Ðức Thế Tôn giảng:)
"Lánh xa kẻ xấu ác
Ðược thân cận người hiền
Tôn kính bậc đáng kính
-- Là phước đức lớn nhất

"Sống trong môi trường tốt
Ðược tạo tác nhân lành
Ðược đi trên đường chánh
-- Là phước đức lớn nhất

"Có học, có nghề hay
Biết hành trì giới luật
Biết nói lời ái ngữ
-- Là phước đức lớn nhất

"Ðược cung phụng mẹ cha
Yêu thương gia đình mình
Ðược hành nghề thích hợp
-- Là phước đức lớn nhất

"Sống ngay thẳng, bố thí,
Giúp quyến thuộc, thân bằng
Hành xử không tỳ vết
-- Là phước đức lớn nhất

"Tránh không làm điều ác
Không say sưa nghiện ngập
Tinh cần làm việc lành
-- Là phước đức lớn nhất

"Biết khiêm cung lễ độ
Tri túc và biết ơn
Không bỏ dịp học đạo
-- Là phước đức lớn nhất

"Biết kiên trì, phục thiện
Thân cận giới xuất gia
Dự pháp đàm học hỏi
-- Là phước đức lớn nhất

"Sống tinh cần,tỉnh thức
Học chân lý nhiệm mầu
Thực chứng được Niết Bàn
-- Là phước đức lớn nhất

"Chung đụng trong nhân gian
Tâm không hề lay chuyển
Phiền não hết, an nhiên,
-- Là phước đức lớn nhất

"Ai sống được như thế
Ði đâu cũng an toàn
Tới đâu cũng vững mạnh
Phước đức của tự thân."

(dựa theo bản dịch Việt ngữ của HT Thích Nhất Hạnh)
 

Cavoi

Registered
Phật tử
Tham gia
5 Thg 8 2009
Bài viết
120
Điểm tương tác
4
Điểm
18
Discourse on the Greatest Blessings (Maha Mangala Sutta, Suttanipata, 258-269)

Introduction: This famous text, cherished highly in all Buddhist lands, is a terse but comprehensive summary of Buddhist ethics, individual and social. The thirty-eight blessings enumerated in it, are an unfailing guide on life's journey. Rightly starting with "avoidance of bad company" which is basic to all moral and spiritual progress, the Blessings culminate in the achievement of a passion-free mind, unshakable in its serenity. To follow the ideals set forth in these verses, is the sure way to harmony and progress for the individual as well as for society, nation and mankind. (Narada Maha Thera)

Thus have I heard. On one occasion the Exalted One was dwelling at Anathapindika's monastery, in Jeta's Grove, near Savatthi. Now when the night was far spent, a certain deity whose surpassing splendour illuminated the entire Jeta Grove, came to the presence of the Exalted One and, drawing near, respectfully saluted him and stood at one side. Standing thus, he addressed the Exalted One in verse:

"Many deities and men,
yearning after good,
have pondered on blessings.
Pray, tell me the greatest blessing!"

(The Exalted One answered:)
"Not to associate with the foolish,
but to associate with the wise;
and to honour those who are worthy of honour
-- this is the greatest blessing.

"To reside in a suitable locality,
to have done meritorious actions in the past
and to set oneself in the right course
-- this is the greatest blessing.

"To have much learning, to be skillful in handicraft,
well-trained in discipline,
and to be of good speech
-- this is the greatest blessing.

"To support mother and father,
to cherish wife and children,
and to be engaged in peaceful occupation
-- this is the greatest blessing.

"To be generous in giving, to be righteous in conduct,
to help one's relatives,
and to be blameless in action
-- this is the greatest blessing.

"To loathe more evil and abstain from it,
to refrain from intoxicants,
and to be steadfast in virtue
-- this is the greatest blessing.

"To be respectful, humble,
contented and grateful;
and to listen to the Dhamma on due occasions
-- this is the greatest blessing.

"To be patient and obedient,
to associate with monks
and to have religious discussions on due occasions
-- this is the greatest blessing.

"Self-restraint, a holy and chaste life,
the perception of the Noble Truths
and the realisation of Nibbana
-- this is the greatest blessing.

"A mind unruffled by the vagaries of fortune,
from sorrow freed, from defilements cleansed,
from fear liberated
-- this is the greatest blessing.


"Those who thus abide,
ever remain invincible,
in happiness established.
These are the greatest blessings."

(based on the English translation by Narada Maha Thera)

Bình Anson ghi chép,
tháng 4, 1998

Perth, Western Australia
:smt024
 

Cavoi

Registered
Phật tử
Tham gia
5 Thg 8 2009
Bài viết
120
Điểm tương tác
4
Điểm
18
Mahamangala Sutta Kinh Ðại Phước Ðức - Thích Huyền Diệu (Rev. Dr. Lâm Trung Quốc)

Bản dịch của Thượng tọa Thích Huyền Diệu,
Việt Nam Phật Quốc Tự, Lâm Tỳ Ni, Nepal:




Lời Giới Thiệu

Nhân dịp quý vị đến viếng Lâm Tỳ Ni, nơi giáng trần của Ðức Phật Thích Ca, một trong bốn Thánh địa quan trọng nhất của Phật Giáo, cùng lúc trú ngụ tại Việt Nam Phật Quốc Tự, ngôi chùa quốc tế đầu tiên tại Lumbini nơi Phật giáng trần.

Hôm nay là ngày trăng tròn tháng bẩy năm Bính Tý 1996. Quý vị là những ngưi Việt Nam đầu tiên đến chiêm bái thánh địa Lâm Tỳ Ni cùng trú ngụ tại "tòa nhà tri ân thầy", Việt Nam Phật Quốc Tự. Tôi rất vui mừng được đón tiếp qúi vị tại ngôi chùa mầu nhiệm và lịch sử nầy. Nhiều vị yêu cầu tôi trích và diễn giảng những đoạn kinh hay của Phật đã thuyết. Tôi rất hoan hỉ nhận lời dịch và giảng về bài kinh Phước Ðức nầy để kính biếu quý vị, cùng hồi hướng và cầu nguyện tất cả đồng tụng, thông hiểu và thực hành để có được tất cả Phước Ðức.

Theo truyền thống các nước Phật Giáo, nhất là các nước theo Nam Tông thì Kinh Ðại Phước Ðức nầy được truyền tụng trong các buổi lễ như là một kinh chú mầu nhiệm. Tu sĩ hoặc Phật Tử thuần thành tin tưởng khi tụng hoặc khi nghe và thực hành kinh nầy thì sẽ gặp được nhiều Phước Ðức, nhiều may mắn và tránh được nhiều tai nạn trong cuộc đời. Người chí thành trì tụng và thực hành kinh Ðại Phước Ðức nầy sẽ được thành công và an lạc dù ở bất cứ nơi nào.

Mahamangala Sutta là một trong những đoạn kinh rất quan trọng trong Tam Tạng kinh điển mà Phật Thích Ca đã thuyết pháp độ sanh. "Maha" nghĩa là "Lớn ; Ðại ; To". "Mangala" nghĩa là "Phước Ðức, điều thiện, sự may mắn, phước lành, gia tài tốt". "Sutta" nghĩa là "Kinh". Mahamangala có thể dịch là Kinh Ðại Phước Ðức hay Kinh Phước Ðức Lớn.

Theo tạng kinh và các tài liệu liên hệ, bài kinh nầy được truyền thống Phật Giáo các nước cho biết rằng nguyên do Phật nói kinh này tại Tu Viện Cấp Cô Ðộc, nơi vườn Thái tử Kỳ Ðà; gần nước Xá Vệ; suốt mười hai năm. Thiên và Nhân đã tranh cãi và bất đồng ý kiến về việc làm cùng ý nghĩa về Phước Ðức.

Vua Phạm Thiên đã theo lời khuyên của Sakka, đại diện đến hỏi Phật về ý nghĩa thật của sự Phước Ðức. Phật Thích Ca đã giải thích tường tận và đã khuyên Thiên cũng như Nhân nên học và thực hành Ba mươi tám điều Phước Ðức để tu thân mình được an lành, hạnh phúc và tất cả những người xung quanh mình cũng đều được Phước Ðức.

Kinh Ðại Phước Ðức được diễn tả trong mười bài kệ.




Mahamangala Sutta
Kinh Ðại Phước Ðức

Chính tôi được nghe như vầy: Một thuở nọ khi Ðức Thế Tôn cư ngụ tại thành Xá Vệ, tại Tu Viện Cấp Cô Ðộc trong vườn Kỳ Ðà. Hôm đó, trời đã về khuya, có một vị Thiên Giả hiện xuống thăm Ngài, hòa quang và vẻ đẹp của Thiên Giả làm sáng cả vườn cây. Sau khi đảnh lễ Ðức Thế Tôn ; vị Thiên Giả đứng sang một bên và cung kính tham vấn Ngài bằng một bài kệ:

Nhiều Thiện Nhân thao thức
Muốn biết về Phước Ðức
Ðể sống được an lành
Xin Ðức Thế Tôn chỉ dạy.

Sau đây là lời Ðức Thế Tôn :

Nên tránh kẻ xấu ác (1)
Hãy gần bậc hiền lành (2)
Tôn kính bậc đáng kính (3)
Là Phước Ðức lớn nhất.

Sống trong môi trường tốt (4)
Ðã tạo tác nhân lành (5)
Ðược đi trên đường chánh(6)
Là Phước Ðức lớn nhất.

Có học (7), có nghề hay (8)
Biết hành trì giới luật (9)
Biết nói lời ái ngữ (10)
Là Phước Ðức lớn nhất.

Ðược phụng dưỡng mẹ cha (11)
Yêu thương gia đình mình (12)
Ðược hành nghề an lạc (13)
Là Phước Ðức lớn nhất.

Sống ngay thẳng (14), bố thí (15)
Giúp quyến thuộc thân bằng (16)
Hành xử không tỳ vết (17)
Là Phước Ðức lớn nhất.

Tránh không làm điều ác (18)
Nên xa các tội lỗi (19)
Không say sưa nghiện ngập(20)
Tinh cần làm việc lành (21)
Là Phước Ðức lớn nhất.

Biết khiêm cung (22), lễ độ (23)
Tri túc (24) và biết ơn (25)
Không bỏ việc học đạo(26)
Là Phước Ðức lớn nhất.

Biết kiên trì (27), phục thiện (28)
Thân cận bậc Thánh Hiền (29)
Dự pháp đàm học hỏi (30)
Là Phước Ðức lớn nhất.

Sống tinh cần (31), tỉnh thức (32)
Học chân lý nhiệm mầu (33)
Thực chứng được Niết Bàn (34)
Là Phước Ðức lớn nhất.

Sống chung đụng nhân gian
Tâm không hề lay chuyển (35)
Phiền não hết (36), an nhiên (37)
Sống hoàn toàn an tịnh (38)
Là Phước Ðức lớn nhất.

Cứ sống được như thế
Ði đâu cũng an lành
Tới đâu cũng hạnh phúc
Thật Phước Ðức vô biên

-oOo-

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính biếu và nguyện cầu tất cả chúng sanh đều được nhiều Phước Ðức

Thích Huyền Diệu
Vietnam Lumbini Buddha Bhumi Vihara
P.O Box 4
Siddhartha Nagar (Bhairawa)
Lumbini Zone
NEPAL
 

Cavoi

Registered
Phật tử
Tham gia
5 Thg 8 2009
Bài viết
120
Điểm tương tác
4
Điểm
18
Kinh Chân Hạnh Phúc ( Maha Mangala Sutta) - Hoà Thượng Thiện Châu (dịch)

Như vầy tôi nghe, một thời Thế Tôn ở tại Savatthi, trong rừng Jeta, vườn Anathapindika. Có một thiên nhân, khi đêm gần tàn, với dung sắc thù thắng chiếu khắp rừng Jeta, đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, kính lễ Thế Tôn, rồi đứng một bên, thiên nhân ấy nói lên bài kệ trước Ðức Thế Tôn như sau:

'' Chư thiên và loài người
Suy nghĩ về hạnh phúc
Ước mong được hạnh phúc
Chân hạnh phúc là gì ?

Thế Tôn đáp kệ rằng:

'' Kẻ si mê nên tránh
Bậc hiền đức phải gần
Cung kính người đáng kính
Ấy là chân hạnh phúc.

Chọn nơi lành mà ở
Ðời trước đã tạo phúc
Nay giữ lòng thẳng ngay
Ấy là chân hạnh phúc.

Hiểu rộng và khéo tay
Giữ tròn các giới luật
Nói những lời hòa ái
Ấy là chân hạnh phúc.

Cung dưỡng cha mẹ già
Yêu mến vợ /chồng và con
Không vương vấn phiền hà
Ấy là chân hạnh phúc.


Cho và sống đúng cách
Nên giúp đỡ bà con
Hành động không chê trách
Ấy là chân hạnh phúc.

Ngăn trừ điều ác xấu
Dứt bỏ thói rượu chè
Chuyên cần trong Chánh Ðạo
Ấy là chân hạnh phúc.

Kính nhường và khiêm tốn
Biết đủ và nhớ ơn
Tuỳ thời học đạo lý
Ấy là chân hạnh phúc.

Nhẫn nhục vâng ý lành
Viếng thăm bậc tu hành
Tuỳ thời bàn luận đạo
Ấy là chân hạnh phúc.

Trong sạch và siêng năng
Suốt thông các chân lý
Thực hiện vui Niết Bàn
Ấy là chân hạnh phúc.

Tiếp xúc với thế gian
Giữ lòng không sa ngã
Bình an, không sầu nhiểm

Ấy là chân hạnh phúc.

Như thế mà tu hành
Việc gì cũng thành tựu
Ở đâu cũng an lành
Ấy là chân hạnh phúc''.
 

Cavoi

Registered
Phật tử
Tham gia
5 Thg 8 2009
Bài viết
120
Điểm tương tác
4
Điểm
18
Chú giải kinh điềm lành -Buddhaghosa (TK Thích Thiện Minh dịch)

Chương V

KINH ĐIỀM LÀNH
(Mangalasuttam)

1. Giờ đến lượt ta chú giải Kinh Điềm Lành, được sắp xếp kế ngay sau Kinh Nam Tử Hỏi Đạo trong Tiểu Tụng. Sau khi đã khẳng định mục tiêu sắp xếp Kinh Điềm Lành ở vị trí này, chúng ta sẽ đề cập đến phần chú giải ý nghĩa của Kinh. [Mục đích sắp xếp Kinh này trong Tiểu Tụng thực chất được trình bày như sau.]

2. Cho dù thực chất Đức Phật đã không trình bày Kinh này theo thứ tự [như ta thấy trong Tiểu tụng], tuy nhiên Ngài trình bày Kinh Điềm Lành ở đây [thứ nhứt] nhằm chứng tỏ cho thấy việc Quy Y Đức Phật [89] và cách phân loại các giới (sīla), định (concentration) và Tuệ, được minh chứng tiếp ngay sau đó bằng Mười điều học, Ba Mươi Hai thể và Nam Tử Hỏi Đạo, toàn bộ những thiết lập trên tạo thành Kinh Điềm Lành, do đó [thứ đến] chính ngay tại vị trí này Đức Phật nhằm tôn vinh những ai cố gắng muốn tìm kiếm những điềm lành đó, và [thứ ba] ta phải tìm hiểu nội dung những điềm lành đó ra sao và am hiểu theo một trình tự như trình bày trong Kinh Điềm Lành này. Đây chính là mục tiêu Đức Phật sắp xếp Kinh Điềm Lành ngay tại vị trí này.

3. Kinh Điềm Lành được sắp đặt ngay tại vị trí này là như vậy, và sau đây là lộ trình chú giải ý nghĩa Kinh như sau:

1. Do ai công bố, khi nào và ở đâu
Trước tiên những gì ta đề cập đến

2. Rồi bộc lộ tiếp phần chú giải
về từ ‘như vậy’ và vài từ có liên quan
để làm rõ ý nghĩa trước khi ta nói đến:

3. Nguồn gốc xuất xứ Kinh Điềm Lành

4. Và định rõ điềm lành đó là gì
làm sáng tỏ lý do các điềm lành đó tồn tại.

[Tại sao Kinh điềm Lành lại được gộp trong Tam Tạng (Tipiṭaka)?]

4. (1) Về điểm này, trước tiên đoạn kệ, ‘Do ai công bố, khi nào và ở đâu, Trước tiên là những gì ta đề cập đến’ nhắc đến đoạn nhập đề: như vầy tôi đã nghe. Một dịp kia, Đức Phật ... ngài đã nói với vị (trưởng lão) bằng tám kệ như sau. Vì đây là điều được diễn tả theo cách có người đã nghe chính Đức Phật diễn tả: Nhưng ngược lại, Đức Thế Tôn là đấng Tự Hữu, không cần đến Đạo sư nào cả; do vậy đó chính là lời của Đức Thế Tôn, bậc A La Hán và Chánh đẳng Chánh giác. Đó chính là lý do tại sao ta nêu lên câu hỏi: Ai đã công bố những lời lẽ trên? Được công bố khi nào và tại đâu? Ta có thể khẳng định được là chính Trưởng Lão Ānanda đã công bố những lời đó và vào thời điểm đại hội kết tập tam tạng lần đầu tiên (First Great Rehearsal). Giờ đây điều ta phải làm rõ đó là đại hội kết tập tam tạng lần đầu tiên, là điểm ta cần hiểu rõ để có được kiến thức rõ ràng nhằm tiếp cận với các nguồn tư liệu trong toàn bộ kinh văn.

5. Vào khoảng khắc đầu tiên trong đêm rằm tháng tư (Visakha) Đức Thế Tôn [33], vị Cứu Thế, đã đạt viên tịch Níp Bàn. [Điều đó diễn ra] ở vị trí giữa hai cây Sālā trong cánh rừng Sālā của vua Malla vào lúc ngài trở lại vùng Kusinārā. Sau khi đã thực hiện hoàn tất công việc của vị Giác Ngộ ngay từ lúc bắt đầu công việc Chuyển Pháp Luân (S. v. 420tt) cho tới thời gian ngài giáo hóa Du sĩ Subhaddha (D. ii 148tt)

6. Hiện giờ Trưởng lão Māha Kassapa là Trưởng Lão đang trụ trì Tăng Già có tới 700.000 vị tỳ khưu đang qui tụ lại nhằm chứng kiến giây phút viên tịch của Đức Phật. Lại có vị Trưởng lão [khác nữa] tên là Shubhaddha, đã xuất gia vào lúc tuổi đã cao, [34] ngài lên tiếng động viên các vị tỳ khưu, ‘Hỡi các chư huynh, đủ rồi đừng quá buồn rầu thê thảm làm gì, vị Đại Sa Môn đã rời bỏ chúng ta, chúng ta đã được người nhắn nhủ bằng những lời ‘hãy thực hiện những điều này, hãy xa tránh những điều nọ.” Tuy nhiên, giờ đây chúng ta có thể làm những gì ta muốn và tránh không thực hiện những gì ta không muốn.” (D. ii 162). Chính vì thế ngài đã suy nghĩ như sau: “Rất có thể các vị tỳ khưu không tốt. Coi điều này như là học thuyết đi kèm với vị Đạo sư quá cố, có thể tạo ra những bè phái và chẳng bao lâu đã làm đức tin chánh pháp biến mất. Nhưng bao lâu Pháp và giới luật còn tồn tại trên đời này, đây không phải là học thuyết của vị Đạo Sư quá cố; vì Đức Phật đã nói, ‘ Hỡi Ananda, Pháp và giới luật ta đã chỉ vẽ và mô tả cho các ngươi, sẽ trở thành Đạo sư của các ngươi sau khi ta từ bỏ cõi đời này.’ (D. ii 154) Giờ đây giả sử ta trùng tụng lại các pháp và Giới luật nhằm làm sống động và khiến cho Giáo Pháp này tồn tại lâu dài vì chính Đức Phật đã trợ giúp cho ta khi ngài cũng chia sẻ tấm y cà sa với ta và yêu cầu ta “ Hỡi Kassapa, liệu nhà ngươi có thể mặc lấy chiếc y bằng sợi gai ta bỏ ra chăng?’ (S. ii 221) và khi Đức Phật đã khôi phục nơi ta địa vị như chính ngài liên quan đến vấn đề pháp nhân cao hơn suy nghĩ loài người gồm có chín nơi cư trú liên tiếp nhau và sáu thắng tri [35] bắt đầu như sau: ‘Hỡi các vị tỳ khưu, bất luận lúc nào ta mong muốn ly dục. [ly khỏi những pháp bất thiện] ta chứng trú nơi thiền bậc nhất, [kèm với suy tư và khám phá trong đó cộng với hạnh phúc và lợi ích do lánh tục đem lại] và cả Kassapa cũng vậy, bất luận khi nào nhà ngươi ước ao và sa lánh khỏi các ước muốn trần tục... ngài cũng có thể gia nhập và cư trú nơi thiền thứ nhất... [với hỷ và do ly dục đem lại] (S. ii 210; 216). Tuy nhiên bằng cách nào tôi được hưởng phần thưởng đó? Và đã chẳng phải chính Đức Phật cũng giúp ta bằng những trợ giúp mà không người nào khác có thể chia sẻ được bằng cách khuyên cáo ta như sau: ‘con người này sẽ trở nên người thừa kế đích thực Giáo pháp của Như Lai vậy’ Giống hệt như một vị Chuyển Luân Vương (xin đọc D. Sutta 26, M. Sutta 129) thực hiện bằng cách ban tặng chính vương niệm và quyền thống trị của ngài cho ta hay sao?
 

Cavoi

Registered
Phật tử
Tham gia
5 Thg 8 2009
Bài viết
120
Điểm tương tác
4
Điểm
18
Chú giải kinh điềm lành (tt)

7. [Chính vì thế] ngài mong muốn các vị tỳ khưu lắng nghe cẩn thận pháp và Giới luật. [91] theo như lời người đã phán ‘Thế rồi Ngài Đại Trưởng lão Māha Kassapa truyền đạt lại cho các vị tỳ khưu như sau: “Chư huynh đệ, một dịp nọ, đang thực hiện cuộc hành trình trên đường từ Pāvā đến Kusinārā cùng với một đoàn tùy tùng đông đảo các vị tỳ khưu, khoảng độ năm trăm vị... (Vin. ii. 284-5) toàn bộ sự kiện này được kể lại trong Chương Subhadda nên được tụng đầy đủ.

8. Sau đó ngài cho biết tiếp ‘Hỡi chư huynh đệ, chúng ta hãy nhắc lại toàn bộ pháp và Giới luật trước khi những tà thuyết và tà luật tỏ ra vẻ quyến rũ và những chánh pháp và chánh luật lại bị xem thường, trước khi những người ủng hộ tà pháp và tà luật trở nên mạnh mẽ và những người ủng hộ chánh pháp và chánh luật trở nên yếu đuối’ (Vin. ii. 285)

Các vị tỳ khưu lên tiếng ‘Được rồi, thưa ngài Đại Trưởng Lão, xin ngài triệu tập một hội nghị các vị Tỳ khưu.’

Trải qua hàng trăm, hàng ngàn các vị tỳ khưu là những vị phàm nhân, có các vị Nhập Lưu, các vị Nhất Lai, các vị Bất Lai và các vị Nhập Thiền Quán Thuần Tuý [36] các vị Tỳ khưu A-la-hán lậu tận. [Tất cả họ đều là những người chứng đắc cho Kinh bao gồm toàn bộ Giáo Pháp chín chi [37] của Đức Phật để lại, vị Trưởng Lão đã triệu tập bốn trăm chín mươi chín vị tỳ khưu đã tận diệt được hết mọi lậu hoặc là người sẵn sàng làm chứng đắc cho toàn bộ các tầng lớp Kinh trong Tam tạng (Tipitaka) là các vị đã đạt đến Biện Tài giáo pháp, họ là những người rất sung mãn, nhiều người trong số họ đã được Đức Phật đề cập đến trong Kinh Tuyệt Hảo này. (A. i. 23 tt) và họ cũng là những người đã chứng đắc Tam Minh v.v... liên quan đến vấn đề này người ta kể lại rằng, ‘Thế rồi, vị Trưởng Lão Māha Kassapa đã triệu tập một Đoàn Thể Tăng Già gồm gần năm trăm các vị A-la-hán’ (Vin. ii. 285).

9. Nhưng tại sao vị Trưởng Lão chỉ triệu tập một Đoàn thể Tăng Già gồm kém năm trăm tỳ khưu? Để tạo điều kiện cho Trưởng Lão Ananda. Giờ đây Đại Hội không thể được tổ chức mà không có sự hiện diện của vị trưởng lão này; vì ngài là người duy nhất còn là bậc hữu học, với nhiệm vụ phải thực hiện, chính vì thế thiếu sự hiện diện của ngài Đại Hội không thể được tổ chức. Nhưng vì không có bất kỳ pháp nào được Đấng thập lực giảng dạy trong số các Khế Kinh, các bản Ứng Tụng. v.v... mà vị Trưởng Lão Ananda đã không được học hỏi dưới sự hiện diện của Đức Phật, chính vì thế Đại Hội không được tổ chức nếu ngài không hiện diện. Thế rồi để tránh sự chỉ trích không cần thiết của hiệu quả ‘Nếu như vậy, ngài nên được vị trưởng lão mời trong khi triệu tập vì ngài sẽ giúp ích rất nhiều trong việc duyệt xét pháp, ngay cả ngài mới chỉ là một bậc hữu học, và vì thế tại sao ngài lại không được triệu tập? Thực chất đây Trưởng Lão là người có ảnh hưởng nhiều đến Ngài Ananda, đã động viên ngài với ‘lời khuyên của Nam tử’ cho dù có những người đầu bạc cho là ‘ nam tử vẫn chưa hiểu hết khả năng của mình!’ (S. ii. 218) Nhưng mặt khác Trưởng lão Ananda là người thuộc thân tộc Thích Ca là con trai người chú Đức Phật, [38] và các vị tỳ khưu lại xem thường và chỉ trích điều đó. Như vậy ‘vị Trưởng Lão đã tham khảo rất nhiều vị tỳ khưu đã chứng đắc Tuệ phân tích vô học và đã chấp nhận việc triệu tập Ananda, chỉ là người đắc vô ngại hữu học’. Chính vì thế có thể đoán trước được việc chỉ trích của những người khác, tự bản thân ngài đã loại Ananda ra khỏi danh sách những người được triệu tập, nghĩ rằng ‘Cho dù Đại Hội không thể được triệu tập mà không có sự hiện diện của ngài Ananda, tôi sẽ chỉ hành sử dựa theo đồng ý của các tỳ khưu.’ Rồi chính các vị tỳ khưu lại yêu cầu nhân danh Ananda. Theo như người ta kể lại ‘Các vị tỳ khưu nói với Đại Trưởng lão Māha Kassapa rằng: “Thưa Đại Trưởng Lão, vẫn còn Trưởng Lão Ananda, cho dù ngài chỉ là bậc hữu học, cho dù ngài không thể đi đến khổ cảnh thông qua tham dục, sân hận, si mê hoặc sợ hãi. Ngài đã cai quản được [với sự hiện diện của Đức Phật] rất nhiều về Pháp và Giới luật thuộc nhiều góc độ đa dạng. Xin các vị Trưởng lão hãy triệu tập ngài Ananda vào trong danh sách các vị tham dự Đại Hội. Chính vì thế Trưởng lão Māha Kassapa đã chính thức triệu tập trưởng lão Ananda vào trong danh sách những người tham dự Đại Hội.

10. Khi theo ý kiến của các vị tỳ khưu ngài đã được liệt kê vào danh sách những người tham dự Đại Hội, lúc đó có năm trăm vị trưởng lão cộng với ngài vào đó nữa. ‘Rồi các vị trưởng lão tỳ khưu nghĩ rằng, ‘Chúng ta sẽ tổ chức duyệt xét Pháp và giới luật ở đâu?” Rồi các vị trưởng lão Tỳ khưu nghĩ là “ Rājagaha là nơi rộng lớn có rất nhiều tiện nghi. Giả như chúng ta an cư mùa mưa tại Rajagaha và duyệt xét Pháp và Giới Luật tại đó, và giả như không có bất kỳ vị tỳ khưu nào khác lại không an cư mùa mưa tại Rājagaha hay sao? (Vin. ī 285). Nhưng tại sao các vị này lại có tư tưởng như vậy? [Họ suy nghĩ] ‘nhiệm vụ của chúng ta là phải củng cố điều đó [93] một số người bất mãn có thể thâm nhập vào Tăng Già và tạo ra xáo trộn chăng.’

11. Thế là Trưởng lão Māha Kassapa thiết lập những thủ tục liên quan đến việc ban hành đạo luật thứ nhì về quyết định trong chương kết tập được ghi lại trong Tiểu Phẩm (Cullavagga) luật tạng.

12. Thời gian bảy ngày tưởng niệm, Đức Phật tịch diệt đã qua và bảy ngày nữa dùng để tưởng niệm kính lễ xá lợi của ngài. Vị Trưởng Lão Māha Kassapa nhận định “Nửa Tháng đã trôi qua, hiện giờ chỉ còn lại một tháng rưỡi mùa nóng và việc quyết định thiết lập an cư dành cho mùa mưa đã đến gần’ và ngài lên tiếng nói rằng, ‘Hỡi các sư huynh, chúng ta hãy đến Rajagaha’ Ngài liền lên đường với một phần Đoàn thể Tăng Già các vị tỳ khưu, đang khi đó Trưởng lão Anuruddha lại theo một đường khác đến Rajagaha cùng với số các vị tỳ khưu còn lại.

13. Vị trưởng lão Ananda lại muốn đem các dụng cụ: bát khất thực và y cà sa của Đức Phật trở lại Savatthi cùng với một đoàn tuỳ tùng các vị tỳ khưu; và sau đó trở lại Rajagaha sau. Bất kỳ nơi nào Ngài Ananda đặt chân đến dân chúng đều than khóc lớn tiếng: ‘Ngài đã đến đây, hỡi Ngài Ananda, nhưng ngài đã để lại bậc Đạo sư của chúng ta ở đâu?” cuối cùng khi vị trưởng lão đã đặt chân tới Savatthi lại diễn ra cảnh tượng dân chúng than khóc thảm thiết giống như lúc Đức Phật tịch diệt. Chính vì thế Trưởng Lão Ananda đã thuyết pháp cho đám đông một bài pháp liên quan đến vô thường, sau khi ngài đặt chân đến khu rừng Jeta.

14. Ngài đã mở cửa hương phòng là nơi Đức Phật (đấng thập lực) đã cư ngụ. Rồi ngài lấy ra chiếc giường và chiếc ghế, phủi bụi bám trên đó, quét dọn phòng. Ném ra ngoài bình hoa cũ và rồi kê lại giường chiếu và ghế vào chỗ cũ: thực chất, ngài đã thực hiện tất cả những công việc ngài thường làm lúc Đức Phật vẫn còn sống.

15. Giờ đây vì ngài đã đứng và ngồi quá mức kể từ khi Đức Phật nhập tịch diệt, thế nên thân xác trưởng lão đau nhức khác thường, và để có thể chữa trị chứng đau nhức đó, ngài đã phải dùng một cốc sữa tinh khiết vào ngày hôm sau và ngồi thiền riết trong Chùa. Chính trong dịp này Trưởng Lão đã nói với một đệ tử do Subha sai tới ‘Chưa đến giờ, đệ tử ơi. [94] hôm nay ta đang phải dùng thuốc. Có lẽ chúng ta sẽ đến đó vào ngày mai.’ (D.i. 205) Ngày hôm sau trưởng lão đã lên đường với Cetaka đóng vai nhà sư phụ tá của ngài. Và Subbha đã đặt câu hỏi, trưởng lão đã thuyết pháp kinh thứ mười trong Trường Bộ Kinh được gọi là kinh Subha.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên