I
imported_Trung Buu
Guest
NGƯỜI KHÉO LUYỆN THIỆN TÂM
Thiện tâm là đức tính cao cả của tứ vô lượng tâm; từ, bi, hỉ, xả. Hay nói cách khác là tấm lòng nhân đức quảng đại, vị tha, vô ngã, khoan dung, độ lượng ở mỗi tâm; từ loài hữu hình cho đến vô hình, mỗi mỗi đều có thiện tâm trong tự thâm tâm mình. Thiện tâm còn là lương tâm đạo đức, hay trực tâm hành đạo của cả hai tâm; phàm phu tâm và Thánh nhân tâm. Giữa hai phạm trù tâm đang khéo luyện tâm của phàm nhân, hoặc đã luyện thuần thục hoàn hảo thiện tâm như các bậc Thánh nhân. Thế thì điểm tương đồng mà dị biệt về thiện tâm ở đây, đều có sự gạch nối tương quan, tương duyên, mật thiết lẫn nhau. Đứng trên phương diện bản thể Phật tánh, vốn bình đẳng tính trí, thanh tịnh, sáng suốt xuyên qua tất cả tâm hữu tình và vô tình chúng sinh trong Hoa tạng thế giới trùng trùng duyên khởi mà nói thì: “Nhất thiết pháp giai thị Phật Pháp, nhất thiết sự giai thị Phật sự và nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh”, đều có khả năng giác ngộ, giải thoát, đạt thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Vậy thiện tâm nói chung là tâm từ bi. Chính tâm từ bi là áo giáp nhu hòa, nhẫn nhục, có sức mạnh vô song, không hề thất bại khi lâm trận. Đồng thời thiện tâm cũng là vũ khí tối tân thiện xảo nhất để hàng phục ma quân phiền não. Chính thiện tâm mới có đủ tư cách, thẩm quyền để chuyển hóa những nội kết khổ đau bất thiện tâm sở như: Phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, xiểm, hại, kiêu, vô tàm, vô quý… ganh tị, hơn thua, đố kị, kiêu mạn, bạo động, phá hại, cuồng tín, khủng bố, hãm hại… Từ bi tâm là giọt nước cam lồ tươi mát như “chất đề hồ trong cổ họng, làm mát diệu tâm hồn”. Nếu chúng ta mỗi ngày thường ngậm nhấm, thẩm thấu chất đề hồ từ bi tâm trong tam nghiệp; thân, khẩu, ý của chúng ta, chúng mình sẽ lần lần khéo luyện thiện tâm, phòng hộ các căn, luôn luôn tĩnh tâm tự chủ được không gian vô cùng, thời gian vô tận của những tâm hoan vu bất thiện đó. Hằng ngày chúng ta nên thường hành giải pháp đối nhân xử thế với thiện tâm chánh trực, hiền hòa, và thường dọn dẹp mọi tâm kiêu căng, khinh khi, ngạo mạn; cố giữ tâm an hòa, nhu nhuyến, không nộ khí, lộ thần, để điều phục vọng tưởng điên đảo, ngã, nhơn, chúng sinh, thọ mạng giả, mà hướng thiện tâm sở về nương tựa chỗ an trú yên ổn nhất nơi Tự Tánh Quy Y Tam Bảo. Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo là biểu tượng cho kho báu lý tưởng an trú vững chãi, thảnh thơi, an lạc, thanh tịnh, giải thoát, tươi mát, từ bi, bình đẳng, hòa bình, hòa hợp, đoàn kết, độc lập, tự do, dân chủ, tự lợi, lợi tha công đức viên mãn. Sự ẩn tàng đức tính cao siêu thánh thiện của Tam Bảo được thể hiện như bản thiên anh hùng ca, xuyên qua toàn bộ phẩm Kinh Từ Bi (Metta sutta) với những lời khai tâm, điểm nhãn, thật vô cùng thậm thâm vi diệu, có trí tuệ siêu việt nhất trong đời ngũ trược ác thế như:
“Người khéo luyện thiện tâm, Đạt cảnh giới tịch tịnh,
Ắt thường niệm chân chính, Chánh trực và hiền hòa,
Nhu nhuyến điều phục ma, Diệt trừ mọi kiêu mạn.
Sống cảm thấy vừa đủ, Nuôi sống thật dễ dàng,
Ít có sự rộn ràng, Sống đạm bạc giản dị.
Các căn được tịnh lạc, Khôn ngoan và thận trọng,
Không xông xáo gia đình, Không tham ái, tham vọng.
Các sở hành của mình, Không nhỏ nhen vụn vặt,
Khiến người khác có trí, Có thể sanh chỉ trích.
Mong mọi loài chúng sanh, Ðược an lạc, an ổn,
Mong họ chứng đạt được, Hạnh phúc và an lạc.
Mong tất cả những ai, Hữu tình có mạng sống,
Kẻ yếu hay kẻ mạnh, Không bỏ sót một ai,
Kẻ dài hay kẻ lớn, Trung, thấp, loài lớn, nhỏ.
Loài được thấy, không thấy, Loài sống xa, không xa,
Các loài hiện đang sống, Các loài sẽ được sanh,
Mong mọi loài chúng sanh, Sống hạnh phúc an lạc.
Mong rằng không có ai, Lường gạt lừa dối ai,
Không có ai khinh mạn, Tại bất cứ chỗ nào.
Không vì giận hờn nhau, Không vì tưởng chống đối.
Lại có người mong muốn, Làm đau khổ cho nhau.
Như tấm lòng người mẹ, Ðối với con của mình,
Trọn đời lo che chở, Con độc nhất mình sanh.
Cũng vậy, đối tất cả, Các hữu tình chúng sanh,
Hãy tu tập tâm ý, Không hạn lượng rộng lớn.
Hãy tu tập từ tâm, Trong tất cả thế giới,
Phía trên và phía dưới, Cũng vậy, cả bề ngang,
Không hạn chế, trói buộc, Không hận, không thù địch.
Khi đứng, hay khi đi, Khi ngồi, hay khi nằm,
Lâu cho đến khi nào, Khi đang còn tỉnh thức,
Hãy an trú niệm này, Nếp sống này như vậy,
Ðược đời đề cập đến, Là nếp sống tối thượng.
Ai từ bỏ tà kiến, Giữ giới, đủ chánh kiến,
Nhiếp phục được tham ái, Ðối với các dục vọng,
Không còn phải tái sanh, Ði đến thai tạng nữa.”
Như một sợi chỉ đỏ hoàn hảo, tuyệt đối, xuyên suốt toàn bộ bản Kinh Từ Bi, mỗi từ ngữ thật uyên bác, đầy cô động, súc tích, và mỗi ý tứ siêu thoát thật cao thâm, mầu nhiệm trong bổn Kinh này. Chính đức tính cao siêu, thoát tục, thánh thiện của kinh Từ Bi, mỗi khi thọ trì, đọc tụng, biên chép, diễn giải đến, khiến cho thiện tâm càng năng huân bát nhã chủng tử, càng gieo trồng thêm thiện nhân duyên, sở duyên duyên, bình đẳng vô gián duyên và làm tăng thượng thiện duyên trên lộ trình hướng đến an lạc, giải thoát cho những ai đang thực tập sự khéo luyện thiện tâm của mình. Như chúng ta biết trong câu truyện kể về “Tỳ Kheo và Thần Cây” hay “Từ Bi là vũ khí hàng phục sạch ma binh” trong Tích Truyện Pháp Cú rằng: Nhân một mùa hạ nọ có một đoàn Tỳ Kheo đệ tử của Đấng Đại Giác Thế Tôn du hành đến một làng kia để An Cư Kiết Hạ trong ba tháng. Để tiện cho việc thành kính, cúng dường tứ vật dụng, cũng như chỗ cư trú thích hợp cho chư vị Tỳ Kheo được an ổn tu hành, thúc liểm thân tâm, tấn tu đạo nghiệp, trau dồi giới đức. Dân làng đã xắp xếp một khu rừng yên tĩnh cho chư vị Thánh đệ tử Phật trú ẩn. Trong khu rừng này có rất nhiều thần linh, yêu quái có cả tâm thiện và tâm bất thiện, các yêu quái có tâm bất thiện; ganh tị, tật đố khởi lên, sợ mất mát cũng như quấy rầy chỗ cư trú của mình, vì vậy chúng đã nhân bóng đêm tịch mịch, liền dùng yêu ma quỷ kế để: “Bằng cách nào chúng ta cũng phải trục xuất họ. Thế là chúng thực hiện quỷ kế hù dọa bằng cách biến hóa ra nhiều hình dạng âm binh, ma quỷ: khi lơ lửng chiếc đầu không mình, lúc sừng sững thân hình không đầu, đặc biệt là vào lúc nửa đêm, bốn bề hoang vắng, từ trong bụi cây, hốc đá vang ra những âm thanh kỳ dị, nghe rởn ốc, rợn người; trong lúc đó cơ thể các Sa môn bỗng dưng bất an: hắt hơi, sổ mũi, ho khan v.v... và tâm tư dao động về những bóng dáng âm binh, cô hồn chập chờn, ẩn hiện. Tăng đoàn đồng lòng quyết định từ bỏ trú xứ, trở về bổn tự với Đức Thế Tôn. Họ rời khỏi cánh rừng rắc rối, đi thẳng về gặp Bổn Sư, cung kính đảnh lễ Ngài, rồi ngồi sang một bên. Đức Thế Tôn hỏi: Vì sao các thầy trở về? Ở đó không tiện cho việc tu tập sao? Dạ!... rất bất tiện, bạch Thế Tôn. Chúng con bị nhiều ám ảnh rùng rợn. Chúng cứ diễn đi diễn lại hoài trước mắt; khủng khiếp nhất là những âm thanh quái dị, tru tréo cả đêm, nên thân tâm chúng con thường bị bất an, dao động, dẫn đến lâm bệnh thời khí khá nhiều. Bạch Thế Tôn, nơi đó quả thật nhiễu loạn, chúng con phải lui về thôi. Các thầy nên trở lại nơi đó. Dạ... không được, bạch Thế Tôn! Các thầy thấy đấy! Lần trước các thầy đi với hai bàn tay trắng, không một vũ khí hộ thân. Lần này các thầy đi phải mang theo vũ khí. Vũ khí gì, bạch Thế Tôn? Thầy trò mình tu hành có vũ khí gì đâu! Các Sa môn hỏi với gương mặt hồn nhiên, ngơ ngác. Được rồi, ta sẽ trao vũ khí cho các thầy. Đức Thế Tôn nói. Sau đó Ngài tụng toàn phẩm kinh Từ Bi với những lời mở đầu như sau: Người khéo luyện thiện tâm… Tụng xong, Đức Thế Tôn nhắn nhủ như lời kệ:
Này các thầy tỳ kheo,
Hãy tụng kinh Từ Bi,
Nơi núi rừng cô quạnh,
Dù không nơi thanh cảnh,
Cũng sẽ được an lành,
Vào tịnh địa rừng xanh,
Sẽ có ngay am thất.
Theo lời huấn thị, các Sa môn đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi lên đường trở lại cánh rừng tu tập. Trước khi vào trú xứ, các sư đều tụng kinh Từ Bi, và thần linh ở rải rác khắp nơi đều cảm thấy hân hoan, mát mẻ trong lòng. Chúng kéo nhau đến vấn an Tăng đoàn, xin được mang y bát, đem nước rửa chân tay các sư, và phát nguyện hộ trì cánh rừng nghiêm mật. Từ đó, không một hồn ma vất vưởng, chờn vờn; không một âm thanh oán than, văng vẳng. Tâm tư các sư mỗi lúc một an nhiên, định tĩnh; tự tâm soi chiếu, nội thủ u nhàn; và ngày đêm quán niệm về lẽ suy vong của sắc thân ngũ uẩn:
Căn thân vốn mong manh, Bấp bênh và dễ vỡ,
Như lọ sành sặc sỡ, Sớm muộn sẽ tan hoang.
Đức Thế Tôn đang thiền định trong tịnh thất, thấy các Sa-môn đã phát huy cao độ năng lực thiền quán, bèn tuyên thuyết pháp thoại cho họ: Đúng thế! Đúng thế! Này các thầy Tỳ kheo, thân này vốn thật mong manh. Bấp bênh dễ vỡ như bình sứ thôi. Thuyết xong, Ngài phân thân trong ánh hào quang đến ngồi hiện diện trước mặt các Sa-môn, đọc kệ (PC.40):
Biết thân như nồi đất, Trụ tâm như thành trì,
Đánh ma bằng gươm trí, Thủ thắng, đừng lụy gì.”
Nói chung quy lại, trên cuộc đời ngũ trược, đầy phong ba bảo táp bởi những phù hoa vật chất cám dỗ như; tình, tiền, danh lợi, địa vị làm cho thiện tâm con người càng ngày càng suy giảm biến chất. Ngay cả lắm lúc làm thối thất Bồ đề tâm (Vong thất Bồ-đề tâm hành chư thiện pháp thị danh ma đạo) mà khiến cho bất thiện tâm nổi dậy mất thăng bằng tự chủ, say mê, tham đắm, ham danh, trục lợi; cứ thế hết đời này qua đời khác, trôi lăng qua lại trong tam giới bất an do như nhà lửa của ngũ dục quá hoạn này. Tâm bất thiện thường gây ra cảnh sóng gió tràn ngập điêu linh, ai oán, với chuỗi ngày hoan mang bất tận, càng chất chồng thêm những tâm hoan vu chông gai, phiền não, khổ đau cho tự thân tâm mình cũng như tâm người khác. Trong cuộc đời đầy lầm than, biến động, đáng thương sót đau khổ này, chúng ta không giúp được ai an lạc, hạnh phúc, thì cũng đừng gây khó khăn, rắc rối, cản trở, khủng bố, hãm hại lẫn nhau. Mỗi khi nghe thấy ai làm được việc gì đem lại lợi lạc cho mình và người, thì chúng ta nên khởi niệm thiện tâm tùy hỉ, vui theo mà có phước báu thù thắng (Ngũ giả tùy hỷ công đức), hầu tích lũy chút thiện căn phước đức, dần dần đạt thành “Công viên quả mãn, bách kiếp tu nhơn” mà trang nghiêm Phật quả vậy.
Đồng thời chúng ta cần phải phối hợp uyển chuyển khéo léo tu luyện thiện tâm một cách thiện xảo, thế thường thì chúng mình hay ứng nhân xử thế theo bản năng kỷ xảo, tiểu xảo, đại xảo và gian xảo, chứ ít khi hành xử theo thiện xảo. Để nhận biết căn thân ngũ uẩn giả hợp vốn mong manh vô thường, bấp bênh, dễ vỡ như bình sứ sặc sỡ nầy. Cũng như chúng ta phải cố lên để khéo luyện thiện tâm, trụ vững như bức thành trì kiên cố, như ngọn gió bát phong của sự thành công hay thất bại thổi không hề lay động trước thiện tâm sở mình. Vì lẽ tâm ta luôn an trú trong chánh niệm về vô thường, về thế thái nhân tình, về vật đổi sao dời, về biển cả hóa đồi nương, mà thường canh cánh, cảnh tỉnh tâm mình; “Thế sự thăng trầm quân mạc vấn”, hay “Nhậm vận thạnh suy vô bố úy, thạnh suy như lộ thảo đầu phô”. Và chúng mình hãy đồng tâm, hiệp lực, hết lòng hạ quyết tâm tu luyện vũ khí thiện xảo của gươm từ bi, kiếm trí tuệ và cung thiền định để hóa giải nội kết; để có thể ngồi lại đoàn viên, hội tụ, chia sẻ tâm tư, nguyện vọng, đem lại sự hiện diện tươi mát, an tâm cho nhau, cũng chính để có khả năng góp phần hòa hợp, thanh tịnh trên tinh thần “Lục hòa cộng trụ” vậy. Là người Phật tử chơn chánh nên học theo hạnh Đức Bồ Tát Đại Bi Quán Tự Tại khi Ngài hành thâm Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán năm uẩn đều không, mà có công năng vượt qua tất cả các khổ ách, bức bách của cuộc đời. Với hình ảnh ngữ cảnh sống động quảng đại, vô lượng, vô biên, đại hùng, đại lực, đại từ bi toả ra từ bình Cam Lồ vị và nhành Dương liễu xanh tươi của Đức Quán Tự Tại Bồ Tát có năng lực làm sống dậy tâm hồn tăng thân cao thượng: “Phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long Thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu..” .
Sau cùng nhằm để đồng lòng tạo sức mạnh đại đoàn kết của thân tâm thiện nhất như, ngõ hầu có chút cơ hội chinh phục phiền não khổ đau, bất an, bức xúc, căng thẳng, ngang tàng, bạo ngược, xuyên tạc, méo mó trong bất thiện tâm sở của chính mình và của mọi người, cũng như đừng phi lý tác ý làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai nữa, mà hãy như lý tác ý làm lợi mình, lợi người và lợi cả hai. Để trở thành người khéo luyện thiện tâm một cách hoàn hảo đúng nghĩa với Chánh Đạo, cũng như không có gì cao quý đại trượng phu hơn là luôn luôn ứng dụng câu:“Dĩ thiên hạ vi dục chi dục, dĩ thiên hạ vi tâm chi tâm.” Luôn luôn mở rộng lương tâm từ bi thánh thiện, khuyến phát tâm Bồ đề kiên cố, dũng mãnh, tiến tu đạo nghiệp vững chãi trên lộ trình an lạc, giải thoát: “Tu là cội phúc, tình là dây oan”. Hằng luôn hạ thủ công phu tu hành theo tâm trung dung, ôn hòa, bất bạo động của Trung đạo đế trong Bát Chính Đạo, và thường ứng dụng thiện tâm từ bi, hỉ xả một cách cẩn mật thiện xảo, luôn luôn trụ tâm và hàng phục kỳ tâm vào vô thượng an ổn trong tự tịnh thâm tâm mình theo lời Phật dạy: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo.”
Thiện tâm là đức tính cao cả của tứ vô lượng tâm; từ, bi, hỉ, xả. Hay nói cách khác là tấm lòng nhân đức quảng đại, vị tha, vô ngã, khoan dung, độ lượng ở mỗi tâm; từ loài hữu hình cho đến vô hình, mỗi mỗi đều có thiện tâm trong tự thâm tâm mình. Thiện tâm còn là lương tâm đạo đức, hay trực tâm hành đạo của cả hai tâm; phàm phu tâm và Thánh nhân tâm. Giữa hai phạm trù tâm đang khéo luyện tâm của phàm nhân, hoặc đã luyện thuần thục hoàn hảo thiện tâm như các bậc Thánh nhân. Thế thì điểm tương đồng mà dị biệt về thiện tâm ở đây, đều có sự gạch nối tương quan, tương duyên, mật thiết lẫn nhau. Đứng trên phương diện bản thể Phật tánh, vốn bình đẳng tính trí, thanh tịnh, sáng suốt xuyên qua tất cả tâm hữu tình và vô tình chúng sinh trong Hoa tạng thế giới trùng trùng duyên khởi mà nói thì: “Nhất thiết pháp giai thị Phật Pháp, nhất thiết sự giai thị Phật sự và nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh”, đều có khả năng giác ngộ, giải thoát, đạt thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Vậy thiện tâm nói chung là tâm từ bi. Chính tâm từ bi là áo giáp nhu hòa, nhẫn nhục, có sức mạnh vô song, không hề thất bại khi lâm trận. Đồng thời thiện tâm cũng là vũ khí tối tân thiện xảo nhất để hàng phục ma quân phiền não. Chính thiện tâm mới có đủ tư cách, thẩm quyền để chuyển hóa những nội kết khổ đau bất thiện tâm sở như: Phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, xiểm, hại, kiêu, vô tàm, vô quý… ganh tị, hơn thua, đố kị, kiêu mạn, bạo động, phá hại, cuồng tín, khủng bố, hãm hại… Từ bi tâm là giọt nước cam lồ tươi mát như “chất đề hồ trong cổ họng, làm mát diệu tâm hồn”. Nếu chúng ta mỗi ngày thường ngậm nhấm, thẩm thấu chất đề hồ từ bi tâm trong tam nghiệp; thân, khẩu, ý của chúng ta, chúng mình sẽ lần lần khéo luyện thiện tâm, phòng hộ các căn, luôn luôn tĩnh tâm tự chủ được không gian vô cùng, thời gian vô tận của những tâm hoan vu bất thiện đó. Hằng ngày chúng ta nên thường hành giải pháp đối nhân xử thế với thiện tâm chánh trực, hiền hòa, và thường dọn dẹp mọi tâm kiêu căng, khinh khi, ngạo mạn; cố giữ tâm an hòa, nhu nhuyến, không nộ khí, lộ thần, để điều phục vọng tưởng điên đảo, ngã, nhơn, chúng sinh, thọ mạng giả, mà hướng thiện tâm sở về nương tựa chỗ an trú yên ổn nhất nơi Tự Tánh Quy Y Tam Bảo. Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo là biểu tượng cho kho báu lý tưởng an trú vững chãi, thảnh thơi, an lạc, thanh tịnh, giải thoát, tươi mát, từ bi, bình đẳng, hòa bình, hòa hợp, đoàn kết, độc lập, tự do, dân chủ, tự lợi, lợi tha công đức viên mãn. Sự ẩn tàng đức tính cao siêu thánh thiện của Tam Bảo được thể hiện như bản thiên anh hùng ca, xuyên qua toàn bộ phẩm Kinh Từ Bi (Metta sutta) với những lời khai tâm, điểm nhãn, thật vô cùng thậm thâm vi diệu, có trí tuệ siêu việt nhất trong đời ngũ trược ác thế như:
“Người khéo luyện thiện tâm, Đạt cảnh giới tịch tịnh,
Ắt thường niệm chân chính, Chánh trực và hiền hòa,
Nhu nhuyến điều phục ma, Diệt trừ mọi kiêu mạn.
Sống cảm thấy vừa đủ, Nuôi sống thật dễ dàng,
Ít có sự rộn ràng, Sống đạm bạc giản dị.
Các căn được tịnh lạc, Khôn ngoan và thận trọng,
Không xông xáo gia đình, Không tham ái, tham vọng.
Các sở hành của mình, Không nhỏ nhen vụn vặt,
Khiến người khác có trí, Có thể sanh chỉ trích.
Mong mọi loài chúng sanh, Ðược an lạc, an ổn,
Mong họ chứng đạt được, Hạnh phúc và an lạc.
Mong tất cả những ai, Hữu tình có mạng sống,
Kẻ yếu hay kẻ mạnh, Không bỏ sót một ai,
Kẻ dài hay kẻ lớn, Trung, thấp, loài lớn, nhỏ.
Loài được thấy, không thấy, Loài sống xa, không xa,
Các loài hiện đang sống, Các loài sẽ được sanh,
Mong mọi loài chúng sanh, Sống hạnh phúc an lạc.
Mong rằng không có ai, Lường gạt lừa dối ai,
Không có ai khinh mạn, Tại bất cứ chỗ nào.
Không vì giận hờn nhau, Không vì tưởng chống đối.
Lại có người mong muốn, Làm đau khổ cho nhau.
Như tấm lòng người mẹ, Ðối với con của mình,
Trọn đời lo che chở, Con độc nhất mình sanh.
Cũng vậy, đối tất cả, Các hữu tình chúng sanh,
Hãy tu tập tâm ý, Không hạn lượng rộng lớn.
Hãy tu tập từ tâm, Trong tất cả thế giới,
Phía trên và phía dưới, Cũng vậy, cả bề ngang,
Không hạn chế, trói buộc, Không hận, không thù địch.
Khi đứng, hay khi đi, Khi ngồi, hay khi nằm,
Lâu cho đến khi nào, Khi đang còn tỉnh thức,
Hãy an trú niệm này, Nếp sống này như vậy,
Ðược đời đề cập đến, Là nếp sống tối thượng.
Ai từ bỏ tà kiến, Giữ giới, đủ chánh kiến,
Nhiếp phục được tham ái, Ðối với các dục vọng,
Không còn phải tái sanh, Ði đến thai tạng nữa.”
Như một sợi chỉ đỏ hoàn hảo, tuyệt đối, xuyên suốt toàn bộ bản Kinh Từ Bi, mỗi từ ngữ thật uyên bác, đầy cô động, súc tích, và mỗi ý tứ siêu thoát thật cao thâm, mầu nhiệm trong bổn Kinh này. Chính đức tính cao siêu, thoát tục, thánh thiện của kinh Từ Bi, mỗi khi thọ trì, đọc tụng, biên chép, diễn giải đến, khiến cho thiện tâm càng năng huân bát nhã chủng tử, càng gieo trồng thêm thiện nhân duyên, sở duyên duyên, bình đẳng vô gián duyên và làm tăng thượng thiện duyên trên lộ trình hướng đến an lạc, giải thoát cho những ai đang thực tập sự khéo luyện thiện tâm của mình. Như chúng ta biết trong câu truyện kể về “Tỳ Kheo và Thần Cây” hay “Từ Bi là vũ khí hàng phục sạch ma binh” trong Tích Truyện Pháp Cú rằng: Nhân một mùa hạ nọ có một đoàn Tỳ Kheo đệ tử của Đấng Đại Giác Thế Tôn du hành đến một làng kia để An Cư Kiết Hạ trong ba tháng. Để tiện cho việc thành kính, cúng dường tứ vật dụng, cũng như chỗ cư trú thích hợp cho chư vị Tỳ Kheo được an ổn tu hành, thúc liểm thân tâm, tấn tu đạo nghiệp, trau dồi giới đức. Dân làng đã xắp xếp một khu rừng yên tĩnh cho chư vị Thánh đệ tử Phật trú ẩn. Trong khu rừng này có rất nhiều thần linh, yêu quái có cả tâm thiện và tâm bất thiện, các yêu quái có tâm bất thiện; ganh tị, tật đố khởi lên, sợ mất mát cũng như quấy rầy chỗ cư trú của mình, vì vậy chúng đã nhân bóng đêm tịch mịch, liền dùng yêu ma quỷ kế để: “Bằng cách nào chúng ta cũng phải trục xuất họ. Thế là chúng thực hiện quỷ kế hù dọa bằng cách biến hóa ra nhiều hình dạng âm binh, ma quỷ: khi lơ lửng chiếc đầu không mình, lúc sừng sững thân hình không đầu, đặc biệt là vào lúc nửa đêm, bốn bề hoang vắng, từ trong bụi cây, hốc đá vang ra những âm thanh kỳ dị, nghe rởn ốc, rợn người; trong lúc đó cơ thể các Sa môn bỗng dưng bất an: hắt hơi, sổ mũi, ho khan v.v... và tâm tư dao động về những bóng dáng âm binh, cô hồn chập chờn, ẩn hiện. Tăng đoàn đồng lòng quyết định từ bỏ trú xứ, trở về bổn tự với Đức Thế Tôn. Họ rời khỏi cánh rừng rắc rối, đi thẳng về gặp Bổn Sư, cung kính đảnh lễ Ngài, rồi ngồi sang một bên. Đức Thế Tôn hỏi: Vì sao các thầy trở về? Ở đó không tiện cho việc tu tập sao? Dạ!... rất bất tiện, bạch Thế Tôn. Chúng con bị nhiều ám ảnh rùng rợn. Chúng cứ diễn đi diễn lại hoài trước mắt; khủng khiếp nhất là những âm thanh quái dị, tru tréo cả đêm, nên thân tâm chúng con thường bị bất an, dao động, dẫn đến lâm bệnh thời khí khá nhiều. Bạch Thế Tôn, nơi đó quả thật nhiễu loạn, chúng con phải lui về thôi. Các thầy nên trở lại nơi đó. Dạ... không được, bạch Thế Tôn! Các thầy thấy đấy! Lần trước các thầy đi với hai bàn tay trắng, không một vũ khí hộ thân. Lần này các thầy đi phải mang theo vũ khí. Vũ khí gì, bạch Thế Tôn? Thầy trò mình tu hành có vũ khí gì đâu! Các Sa môn hỏi với gương mặt hồn nhiên, ngơ ngác. Được rồi, ta sẽ trao vũ khí cho các thầy. Đức Thế Tôn nói. Sau đó Ngài tụng toàn phẩm kinh Từ Bi với những lời mở đầu như sau: Người khéo luyện thiện tâm… Tụng xong, Đức Thế Tôn nhắn nhủ như lời kệ:
Này các thầy tỳ kheo,
Hãy tụng kinh Từ Bi,
Nơi núi rừng cô quạnh,
Dù không nơi thanh cảnh,
Cũng sẽ được an lành,
Vào tịnh địa rừng xanh,
Sẽ có ngay am thất.
Theo lời huấn thị, các Sa môn đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi lên đường trở lại cánh rừng tu tập. Trước khi vào trú xứ, các sư đều tụng kinh Từ Bi, và thần linh ở rải rác khắp nơi đều cảm thấy hân hoan, mát mẻ trong lòng. Chúng kéo nhau đến vấn an Tăng đoàn, xin được mang y bát, đem nước rửa chân tay các sư, và phát nguyện hộ trì cánh rừng nghiêm mật. Từ đó, không một hồn ma vất vưởng, chờn vờn; không một âm thanh oán than, văng vẳng. Tâm tư các sư mỗi lúc một an nhiên, định tĩnh; tự tâm soi chiếu, nội thủ u nhàn; và ngày đêm quán niệm về lẽ suy vong của sắc thân ngũ uẩn:
Căn thân vốn mong manh, Bấp bênh và dễ vỡ,
Như lọ sành sặc sỡ, Sớm muộn sẽ tan hoang.
Đức Thế Tôn đang thiền định trong tịnh thất, thấy các Sa-môn đã phát huy cao độ năng lực thiền quán, bèn tuyên thuyết pháp thoại cho họ: Đúng thế! Đúng thế! Này các thầy Tỳ kheo, thân này vốn thật mong manh. Bấp bênh dễ vỡ như bình sứ thôi. Thuyết xong, Ngài phân thân trong ánh hào quang đến ngồi hiện diện trước mặt các Sa-môn, đọc kệ (PC.40):
Biết thân như nồi đất, Trụ tâm như thành trì,
Đánh ma bằng gươm trí, Thủ thắng, đừng lụy gì.”
Nói chung quy lại, trên cuộc đời ngũ trược, đầy phong ba bảo táp bởi những phù hoa vật chất cám dỗ như; tình, tiền, danh lợi, địa vị làm cho thiện tâm con người càng ngày càng suy giảm biến chất. Ngay cả lắm lúc làm thối thất Bồ đề tâm (Vong thất Bồ-đề tâm hành chư thiện pháp thị danh ma đạo) mà khiến cho bất thiện tâm nổi dậy mất thăng bằng tự chủ, say mê, tham đắm, ham danh, trục lợi; cứ thế hết đời này qua đời khác, trôi lăng qua lại trong tam giới bất an do như nhà lửa của ngũ dục quá hoạn này. Tâm bất thiện thường gây ra cảnh sóng gió tràn ngập điêu linh, ai oán, với chuỗi ngày hoan mang bất tận, càng chất chồng thêm những tâm hoan vu chông gai, phiền não, khổ đau cho tự thân tâm mình cũng như tâm người khác. Trong cuộc đời đầy lầm than, biến động, đáng thương sót đau khổ này, chúng ta không giúp được ai an lạc, hạnh phúc, thì cũng đừng gây khó khăn, rắc rối, cản trở, khủng bố, hãm hại lẫn nhau. Mỗi khi nghe thấy ai làm được việc gì đem lại lợi lạc cho mình và người, thì chúng ta nên khởi niệm thiện tâm tùy hỉ, vui theo mà có phước báu thù thắng (Ngũ giả tùy hỷ công đức), hầu tích lũy chút thiện căn phước đức, dần dần đạt thành “Công viên quả mãn, bách kiếp tu nhơn” mà trang nghiêm Phật quả vậy.
Đồng thời chúng ta cần phải phối hợp uyển chuyển khéo léo tu luyện thiện tâm một cách thiện xảo, thế thường thì chúng mình hay ứng nhân xử thế theo bản năng kỷ xảo, tiểu xảo, đại xảo và gian xảo, chứ ít khi hành xử theo thiện xảo. Để nhận biết căn thân ngũ uẩn giả hợp vốn mong manh vô thường, bấp bênh, dễ vỡ như bình sứ sặc sỡ nầy. Cũng như chúng ta phải cố lên để khéo luyện thiện tâm, trụ vững như bức thành trì kiên cố, như ngọn gió bát phong của sự thành công hay thất bại thổi không hề lay động trước thiện tâm sở mình. Vì lẽ tâm ta luôn an trú trong chánh niệm về vô thường, về thế thái nhân tình, về vật đổi sao dời, về biển cả hóa đồi nương, mà thường canh cánh, cảnh tỉnh tâm mình; “Thế sự thăng trầm quân mạc vấn”, hay “Nhậm vận thạnh suy vô bố úy, thạnh suy như lộ thảo đầu phô”. Và chúng mình hãy đồng tâm, hiệp lực, hết lòng hạ quyết tâm tu luyện vũ khí thiện xảo của gươm từ bi, kiếm trí tuệ và cung thiền định để hóa giải nội kết; để có thể ngồi lại đoàn viên, hội tụ, chia sẻ tâm tư, nguyện vọng, đem lại sự hiện diện tươi mát, an tâm cho nhau, cũng chính để có khả năng góp phần hòa hợp, thanh tịnh trên tinh thần “Lục hòa cộng trụ” vậy. Là người Phật tử chơn chánh nên học theo hạnh Đức Bồ Tát Đại Bi Quán Tự Tại khi Ngài hành thâm Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán năm uẩn đều không, mà có công năng vượt qua tất cả các khổ ách, bức bách của cuộc đời. Với hình ảnh ngữ cảnh sống động quảng đại, vô lượng, vô biên, đại hùng, đại lực, đại từ bi toả ra từ bình Cam Lồ vị và nhành Dương liễu xanh tươi của Đức Quán Tự Tại Bồ Tát có năng lực làm sống dậy tâm hồn tăng thân cao thượng: “Phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long Thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu..” .
Sau cùng nhằm để đồng lòng tạo sức mạnh đại đoàn kết của thân tâm thiện nhất như, ngõ hầu có chút cơ hội chinh phục phiền não khổ đau, bất an, bức xúc, căng thẳng, ngang tàng, bạo ngược, xuyên tạc, méo mó trong bất thiện tâm sở của chính mình và của mọi người, cũng như đừng phi lý tác ý làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai nữa, mà hãy như lý tác ý làm lợi mình, lợi người và lợi cả hai. Để trở thành người khéo luyện thiện tâm một cách hoàn hảo đúng nghĩa với Chánh Đạo, cũng như không có gì cao quý đại trượng phu hơn là luôn luôn ứng dụng câu:“Dĩ thiên hạ vi dục chi dục, dĩ thiên hạ vi tâm chi tâm.” Luôn luôn mở rộng lương tâm từ bi thánh thiện, khuyến phát tâm Bồ đề kiên cố, dũng mãnh, tiến tu đạo nghiệp vững chãi trên lộ trình an lạc, giải thoát: “Tu là cội phúc, tình là dây oan”. Hằng luôn hạ thủ công phu tu hành theo tâm trung dung, ôn hòa, bất bạo động của Trung đạo đế trong Bát Chính Đạo, và thường ứng dụng thiện tâm từ bi, hỉ xả một cách cẩn mật thiện xảo, luôn luôn trụ tâm và hàng phục kỳ tâm vào vô thượng an ổn trong tự tịnh thâm tâm mình theo lời Phật dạy: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo.”