5. Ngày 16 tháng 2, 2008
Sáng sớm, 5 giờ, tôi đã thức dậy tắm rửa sạch sẽ và ngồi túc trực chờ thày
viện trưởng để khởi hành đi Bangalore. Sau khi làm vệ sinh cá nhân xong,
trời vẫn còn tờ mờ sáng. Tôi đóng hết cả hành lý lại gọn gàng và ra ngồi
trước bàn ăn lớn bên ngoài. Trong khi chờ đợi, tôi định pha ly cà phê uống,
nhưng xem lại thì trong bình thủy chẳng còn tí nước nóng nào. Tôi đành lấy
chút nước trái cây hộp ngồi nhâm nhi. Khoảng mười phút sau, một số các vị
sư nhỏ tuổi, đệ tử của thày viện trưởng đã tề tựu đến để tiễn đưa thày đi.
Tôi cũng nhân tiện hỏi chương trình đi về Dharamsala và những ai sẽ đi. Một
vị thày trẻ nói được chút đỉnh anh ngữ bảo tôi là chuyến xe lửa sẽ vào lúc 8
giờ tối mai 17 tháng 2, và sẽ đến New Delhi vào lúc 9 giờ sáng ngày 19
tháng 2. Như thế có nghĩa là cuộc hành trình trên xe lửa sẽ kéo dài 2 đêm,
một ngày, tổng cộng khoảng 32 giờ ngồi trên xe lửa.
Tôi cần phải sửa soạn tinh thần, bởi vì chuyến đi về Dharamsala này có vẻ
không dễ dàng lắm. Dù sao, tôi cũng đã quen với các điều kiện sinh sống và
tiêu chuẩn của vùng Bắc Mỹ. Còn xe lửa ở Ấn độ này thì khác hẳn, bao gồm
nhiều toa xe kéo với nhau. Mỗi toa chia làm nhiều phòng, thông với nhau
qua một hành lang hẹp dùng để di chuyển. Tuy có máy lạnh, nhưng mỗi
phòng có tổng cộng tới 8 giường ngủ, chia làm 6 giường xếp chồng thành 3
tầng và 2 giường ngủ còn lại xếp chồng thành hai tầng dọc theo hành lang.
Dù là trên xe lửa tôi sẽ có giường ngủ, nhưng tôi sẽ phải chia chung một
phòng với 7 người xa lạ khác, không biết họ là ai. Tôi chặc lưỡi tự bảo, cũng
chẳng có gì đáng giá trong các hành lý của mình, bao gồm một cái va-li và
một cái va-li xách tay[13]. Chỉ có thuốc cá nhân và tiền thì cần phải cẩn trọng,
và tôi đã chuyển các thức tối cần thiết đó sang một cái túi ruột tượng đeo
quanh lưng, vậy là yên chí để đi du hành.
Sáu giờ sáng, thày viện trưởng đi ra ngoài và sửa soạn lên xe khởi hành. Vị
phó viện trưởng từ hòa đã đến để chúc lên đường vui vẻ và tặng khăn trắng
cho thày cũng như cho tôi. Cũng như mọi lần, thày phó viện trưởng ôm đầu
tôi, vuốt má và đọc kinh ban sự an lành. Bao giờ bên thày phó viện, tôi cũng
cảm động rưng rưng trong lòng… Nhất là trong không khí của buổi từ giã
này, mặc dù thày phó viện cũng sẽ đi đến Dharamsala sau đó.
Chiếc xe đã chuyển bánh, buổi sáng gió thổi lạnh lạnh vào xe, tôi kéo cổ áo
lên và thầm nguyện, xin giã từ Sera Mey lần thứ hai, xin nguyện cầu cho
tương lai, con sẽ có dịp quay về và nhất là có đủ duyên để thành tăng sĩ,
mau đạt giác ngộ để cứu độ mọi chúng sinh thoát khỏi khổ đau.
Thày viện trưởng bắt đầu trì tụng, ngài vẫn có thói quen trì tụng khoảng nửa
tiếng sau khi xe bắt đầu lăn bánh. Có lẽ là ngài gia hộ cho chuyến đi được an
bình. Còn tôi, tôi cũng yên lặng hành trì, sáng nay dậy quá sớm, tôi không
có đủ giờ để hành trì phần công phu sáng.
Khoảng một tiếng sau, thày viện trưởng gọi tôi, con có thấy Ấn độ không ?
Tôi thưa vâng, nghèo quá thưa thày. Xe chạy qua thị trấn lớn Mysore, mà
nguyên cả khu phố chính trông thật tồi tàn khổ sở. Hai bên đường dân chúng
đang xăn quần lên để đào mương. Cuộc sống nghèo khổ làm tôi mủi lòng và
cầu nguyện cho họ. (Tôi nhớ đến hồi cách đây 10 năm, hãng của tôi gửi tôi
về Việt nam công tác, khảo sát đường dây điện cao thế, tôi cố tình lấy
chuyến xe lửa tốc hành từ Hà nội vào Sài gòn, cũng tương tự như chuyến xe
lửa tôi sẽ phải lấy hôm nay, để tìm hiểu đời sống của dân chúng. Ngồi trên
xe lửa rời Hà nội, tôi không ngăn được nước mắt vì nhớ lại cảnh khổ của
người dân, nhất là khi nhớ lại tình cảnh của một em gái đi làm trong quán cà
phê ca hát karaoke. Trông em cỡ khoảng 17, 18 tuổi, vừa bưng cà phê, vừa
ôm con búp bê trong tay, mặt còn rất ngây thơ. Tôi hỏi, em thích búp bê lắm
sao, quê ở đâu, sao không ở nhà đi học. Em nói thích búp bê lắm, quê ở Hà
đông (cùng quê với mẹ tôi) và phải đi bưng cà phê vì cha mẹ buôn bán thua
lỗ phá sản, không có tiền sinh sống ở quê, nên phải lên Hà nội bưng cà phê.
Tôi hỏi thế em muốn đi học không. Em nói chỉ mơ ước có đủ tiền đi học ra
nghề thợ may. Và còn bao nhiêu người và bao nhiêu chuyện như thế. Trên
chuyến xe lửa về Sài gòn, tôi cứ ứa nước mắt thương cho những cảnh đời
thật buồn bã vô vọng, và tôi ngồi trì chú sám hối 100 chủng tự Phật Kim
Cang Tát Đỏa[14], hồi hướng cho em cũng như tất cả những cảnh đời khốn khó
ấy để họ được tiêu trừ nghiệp dĩ, mà có thể thoát ra để vươn lên…)
Còn ở đây, những cảnh làm tôi mủi lòng nhất không phải là những người ăn
mày. Dĩ nhiên là cũng có những người ăn mày trông rất tội. Nhưng cảnh mủi
lòng nhất là khi tôi nhìn thấy những phụ nữ Ấn độ, gầy như que củi, có lẽ là
họ rất thiếu ăn và suy dinh dưỡng. Vậy mà họ phải làm quần quật trong các
công trường xây cất, đầu đội những thúng đá hay những thúng cát thật to,
mang đổ vào những chỗ trộn hồ hay vào các móng làm nền nhà. Với tôi,
những người đó đáng thương và đáng quý, Họ không hề đi ăn xin, làm việc
cực nhọc và nhẫn nhịn các khó khăn trong đời sống, không than van. Mà đặc
biệt là họ vẫn mặc bộ quần áo quốc phục tha thướt Saree của Ấn độ, màu
sắc sặc sỡ, trong khi làm việc ở một môi trường xây cất nặng nhọc và bụi
bậm bẩn thỉu như thế. "Có cái gì tương phản mà thương xót". Đôi khi tôi
lặng nhìn họ làm việc cực khổ như vậy rất lâu. Mà lạ một điều, phụ nữ làm
khuân vác như vậy rất nhiều trong các công trường, thế mà công việc loại đó
lại thấy hiếm đàn ông đụng vào. Nhiều khi tôi không hiểu cái văn hóa của họ
như thế nào và họ nghĩ gì. Một lần, tôi đánh bạo đến gần một người phụ nữ
khuân vác đó, và cho họ ít tiền rupee, nhưng họ chỉ nhìn tôi trân trối và
không chịu lấy…
Phải nói thực tình là đi nhiều cũng học được rất nhiều điều, nhất là mở mắt
to ra để thấy những mảnh đời xót xa…Tôi quý hình ảnh những người đó, làm
việc rất cực nhọc, nhưng không đi ăn xin, viết đến đây nước mắt tôi vẫn còn
chực muốn trào ra… Tôi làm gì được cho họ ? Có chăng chỉ còn những lời cầu
nguyện chân thành hồi hướng đến họ.
_________
13. carry-on
14. Vajrasattva.