Ni sư Tenzin Palmo và tâm nguyện trong các dự án của mình

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Ni sư Tenzin Palmo và tâm nguyện trong các dự án của mình

http://www.tenzinpalmo.com/

title-ci15i37.jpg


title-beginnings.jpg

Ni sư Tenzin Palmo tôn quý lớn lên ở London và Ngài đã trở thành Phật tử khi còn ở độ tuổi thiếu niên. Vào năm 1964, năm 20 tuổi, Ngài quyết định tới Ấn Độ để tìm cầu con đường tâm linh. Ở đó, Ngài đã hạnh ngộ căn bản Thượng Sư của mình, Nhiếp Chính Vương Khamtrul Rinpoche đời thứ VIII và trở thành một trong những người phương Tây đầu tiên được công nhận là một Ni sư. Ngài đã ở lại lân mẫn tham học với Khamtrul Rinpoche và cộng đồng của Ngài ở Himachal Pradesh, miền Bắc Ấn Độ khoảng 6 năm. Sau đó Khamtrul Rinpoche hướng đạo Ngài tới thung lũng Himalayan ở Lahaul để thực hiện những pháp tu chuyên sâu hơn. Tenzin Palmo ẩn cư tại một tự viện nhỏ khoảng vài năm, nhập thất trong suốt những tháng mùa đông dài. Sau đó, ni sư đã tìm nơi bế quan ẩn cư và những điều kiện hoàn cảnh cô tịch thuận lợi hơn để tĩnh tu, ni sư đã tìm được một động tuyết ở gần đó và đã trải qua 12 năm tu tập, ba năm nghiêm mật cuối trong kỳ nhập thất. Ngài rời Ấn Độ năm 1998 và đến sống ở nước Ý, ở nơi đó Ngài đã thuyết giảng ở nhiều trung tâm Phật Pháp khác nhau.

Trước khi Nhiếp Chính Vương Khamtrul đời thứ VIII viên tịch năm 1980, Ngài đã nhiều lần yêu cầu Tenzin Palmo xây dựng Ni viện. Vào năm 1993, những bậc thầy của tự viện Khampagar ở vùng Himachal Pradesh ở Ấn Độ, lại thỉnh cầu Ngài thực hiện công việc này. Lần này Tenzin Palmo đã sẵn sàng gánh vác sứ mệnh đầy thách thức này.

Vào tháng 1 năm 2000, những ni sư đầu tiên đã tới và vào năm 2001, Ni viện Dongyu Gatsal bắt đầu được xây dựng và hiện nay tại đây đang triển khai rất nhiều dự án.

Vào tháng 2 năm 2008, Tenzin Palmo đã được đức Pháp vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII, bậc đứng đầu dòng truyền thừa Drukpa, đăng quang danh hiệu Jetsunma, có nghĩa bậc Thượng sư tôn quý, nhằm ấn chứng thành tựu tâm linh của ni sư trong hình tướng nữ nhân và những nỗ lực của ngài trong việc thúc đẩy nâng cao địa vị của nữ hành giả Phật giáo Kim cương thừa.

Tenzin Palmo đã giành phần lớn thời gian tại Ni việc Dongyu Gatsal và thường du hóa hoằng dương giáo pháp, gây quỹ để thiết lập phát triển Ni viện và cho ni chúng DGL.

Để biết thêm về cuộc đời của Jetsunma Tenzin Palmo, hãy đọc tiểu sử của ngài Trong Động Tuyết Sơn đã được dịch sang tiếng Việt bởi dịch giả Thích Nữ Minh Tâm.

Để viếng thăm website của bậc đứng đầu dòng truyền thừa Drukpa, xin hãy click vào đây. www.Drukpa.org

Tenzin Palmo đã kiến lập Ni viện để ban cho những ni sư trẻ tuổi của dòng truyền thừa Drukpa cơ hội được tu tập chứng ngộ tiềm năng tâm linh và trí tuệ của mình sau nhiều thế kỷ bị quên lãng, và để phục hồi truyền thống Togdenma (Yogini).

Ni viện được đặt tên là “Dongyu Gatsal Ling” bởi bậc Thượng sư của ngài, Nhiếp Vương Khamtrul Rinpoche Shedrup Nyima. Có nghĩa là “Pháp Uyển của dòng truyền thừa chân chính”, theo hồng danh của bậc căn bản Thượng sư Khamtrul Rinpoche của ngài.

Mục đích của Ni viện DGL hướng tới:

* Trang bị một chương trình tu học, thiền định và phụng sự chúng sinh.
* Rèn luyện ni sư hòa nhập giáo pháp vào đời sống thường nhật.
* Khuyến tấn một đời sống dựa trên trì giữ giới luật và hòa hợp cộng đồng, tái thiết lập truyền thống Tỳ kheo ni.
* Phục hồi truyền thống Togdenma tôn quý của truyền thừa Drukpa và rèn luyện một số ni sư trở thành những thiền sư.
* Chuẩn bị cho một số ni sư tham dự những khóa tu học triết học cao cấp hơn để trở thành những giảng sư.

Một website DGL đã được thiết lập và những chuyến giảng pháp đã được tổ chức để tìm kiếm sự ủng hộ cho Ni viện cũng như với mục đích hoằng dương giáo pháp.

“Theo quan kiến của tôi, trong tương lai, những ni sư được rèn luyện nghiêm cẩn sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo trì giáo pháp và chúng tôi phát nguyện trợ giúp cho mục đích cao cả này”.

Vào đầu năm 2008, có 45 ni sư đang cư trú, tu học tại ni viện DGL. Trước đó là vào tháng 12 năm 2006 với sự tham gia của 28 ni sư trẻ tuổi đến từ Kinaur, Bhutan, Zanskar, Spiti và Tây Tạng.

Những ni sư này tuổi mới từ 15 đến 25. Nhiều trong số các ngài chỉ mới thụ nhận giáo pháp rất hạn chế và một số chưa từng được chút nào. Ni viện DGL ban đầu đòi hỏi một chương trình tu học trong 6 năm và những thành tựu của các ngài được chứng minh bằng sự phát nguyện và sự tinh tiến trong Phật sự.

Chương trình các lớp triết học đạo Phật

Các khóa ngôn ngữ Tây Tạng nâng cao

Tiếng Anh

Các khóa thực hành nghi thức và torma

Khóa nhập thất 2 tháng

Quán đỉnh và giảng pháp của các bậc Thượng sư


Tại đây sau khi hoàn thành 6 năm đầu tiên tu học chương trình, các ni sư có thể tham gia khóa nhập thất dài ngày, và thực sự thì đã có năm ni sư đang bước vào kỳ nhập thất dài ngày bắt đầu từ tháng Tư năm 2008. Trong tương lai những ni sư tham gia kỳ nhập thất dài ngày và thể hiện những năng lực tốt, có tâm dâng hiến sẽ được lựa chọn để rèn luyện là Togdenma (những yogini) nếu các ngài có tâm nguyện.

Với tâm nguyện rằng trong tương lai, một số ni sư sẽ tham gia các khóa tu học cao cấp để trở thành Khenmo (một giảng sư triết học cao cấp). Sau đó một số ni sư được tu học hoàn toàn sẽ có thể trở về những vùng miền xa xôi của mình để kiến lập ni viện, trở thành những giảng sư, và đóng góp cho cộng đồng với những kỹ năng mà các ngài đã tu học được tại tự viện.

Vào thời của đại hành giả Yogi Miralepa, có rất nhiều những nữ và nam hành giả vĩ đại được gọi là “Togden” và “Togdenma” (nghĩa đen có nghĩa là bậc chứng ngộ), các ngài chọn con đường chân tu khổ hạnh để chứng đạt giác ngộ giải thoát.

Dòng truyền thừa Drukpa, được kiến lập vào thế kỷ 12 bởi đức Pháp vương Gyalwang Drukpa đời thứ nhất, ngài là bậc Thượng sư hóa thân của Bồ tát quán thế âm. Với tâm nguyện cứu độ cho vạn loài chúng sinh, rất nhiều các hành giả của truyền thừa đã chọn con đường chân tu khổ hạnh để tu tập chứng đạt các thành tựu tâm linh giác ngộ giải thoát. Thật không may mắn, truyền thống tôn quý này đang ngày càng trở nên có nguy cơ thất truyền.

Tự viện Khampagar trứ danh với các bậc nam hành giả Togden và có những ni viện dưới sự quản lý của Khampagar với những Togdenma trứ danh. Mặc dù không nhận được sự giáo dục chính thức của môi trường tự viện, nhưng những ni sư đó là những đại hành giả. Ngày nay truyền thống này đang có nhiều những dấu hiệu phục hồi một cách tích cực.

Ni viện DGL có một số ni sư tâm nguyện được rèn luyện để trở thành những Togdenma và đã chuẩn bị tham gia vào những pháp thực hành thời gian dài, và rất nghiêm cẩn, đòi hỏi phải giành thời gian nhiều năm nhập thất, để chứng đạt giác ngộ giải thoát ngay trong một đời.

Những nỗ lực của Tenzin Palmo để bảo trì dòng truyền thừa Togdenma tôn quý tại Ni viện DGL đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ bởi các bậc Kim Cương thượng sư truyền thừa Drukpa.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
LỄ TẤN PHONG Jetsunma Tenzin Palmo
Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị

Thưa tất cả những đạo hữu và học trò của tôi, những đệ tử của đức phật Thích Ca Mâu Ni những người đang sử dụng tiếng Anh. Tôi chỉ muốn chia sẻ một đôi điều vì chúng ta thực sự không có nhiều thời gian. Hôm nay là một ngày cát tường, không chỉ bởi vì là ngày sinh nhật của tôi mà đây còn là ngày linh thiêng của đức Liên Hoa Sinh và của tất cả các bậc Thầy khác. Thế nên những pháp tu chính rất cần thiết được thực hiện trong một ngày cát tường như thế này. Bên cạnh đó tôi cũng có một sự kiện đặc biệt vừa mới diễn ra cách đây một vài phút và nó thực sự làm tôi hoan hỷ. Không chỉ là hoan hỷ mà còn thực sự xúc động sâu sắc và đầy lòng tri ân. Tôi rất vinh dự tự hào để làm được điều đó, đó là có được sự hiện diện của Tenzin Palmo ở đây với tôi. Như tất cả các bạn đã biết, Ni sư đã tu tập như một người Phật tử và theo dòng truyền thừa Drukpa từ khi còn rất trẻ. Ni sư không chỉ thực hành bề ngoài vì tò mò mà thực sự Ni sư đã được chỉ dạy bởi một bậc Thầy vĩ đại của dòng truyền thừa Drukpa. Bậc Thầy của ni sư, cố Khamtrul Rinpoche là một trong những bậc Thầy trứ danh và toàn tri. Dưới sự hướng đạo của Ngài, Ni sư đã học tập và thực hành cực kỳ căn bản hàng nhiều năm nay. Cuối cùng, Ni sư đã quyết định sống ở nơi thâm sơn cô tịch, thiếu thốn đủ mọi thứ. Ý tôi là đó chỉ là một nơi nhập thất rất xa khu dân cư và Ni sư đã quyết định sống và tu tập vĩnh viễn ở đó. Dĩ nhiên tất cả các bạn có thể đọc tiểu sử của Ni sư cho nên tôi không phải nói gì thêm về cuộc đời 279 của Ni sư nữa.

Với sự hiểu biết và kiến thức của tôi Ni sư đã thực sự đại thành tựu tất cả các pháp tu thực hành tâm linh đặc biệt là pháp tu của dòng truyền thừa Drukpa. Ni sư đã bế quan tu tập ở một nơi cô tịch nhưng Ni sư đã thực hành hơn 12 năm thậm chí là13, 14 năm không ngừng và liên tục. Không làm bất cứ điều gì vì danh tiếng hay vì 8 động cơ thế tục. Vì thế, dĩ nhiên tôi không thấy ngạc nhiên là Ni sư đã thành tựu được rất nhiều. Như tôi đã nói, Ni sư được hướng đạo bởi bậc Thầy tâm linh chân chính đó là cố Khamtrul Rinpiche.

Đây là lý do tại sao tôi cảm thấy rất vinh dự, tự hào có thể tấn phong Ni sư trong chính điện tại núi Druk Amitaba này, đây thực sự là mong nguyện của chính tôi, không một ai bảo tôi, thuyết phục tôi hay khuyến khích tôi làm điều này. Đó là ý tưởng và quyết định của riêng tôi tấn phong Ni sư, đây không chỉ vì lợi ích của Ni sư bởi tôi biết rằng Ni sư cũng không cần tới bất kỳ những gì vô nghĩa như thế này. Từ quan điểm tâm linh, sự tấn phong thực sự là một điều vô nghĩa. Nhưng nó lại rất cần thiết cho thời mạt pháp này và đặc biệt trong thời đại rất khó khăn cho những nữ hành giả ở khắp nơi, nhất là trong Phật Giáo Tây Tạng. Jetsunma Tenzin Palmo là một tấm gương ngời sáng cho những nữ hành giả khác, Ngài chứng minh cho họ thấy rằng với niềm tin họ cũng có thể thành tựu như Ni sư, Tenzin Pamo không chỉ trong việc tu tập Kim Cương Thừa mà còn trong việc tu tập kinh thừa, bởi Kim Cương Thừa dựa vào việc tu tập kinh thừa. Cốt tủy của tu tập kinh thừa dĩ nhiên như tất cả các bạn đã biết là giới luật, bởi nếu không có giới luật thì không có việc thực hành kinh thừa. Kinh thừa dựa vào giới luật mà giới luật thì phụ thuộc vào các giới Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni. Có 6 loại giới. Loại cao cấp nhất dĩ nhiên là giới luật của Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni. Vì một số lý do, cộng đồng Phật Giáo Tây Tạng không có truyền thống TỳØ kheo Ni. Nhưng Jetsunma Tenzin Palmo đã nỗ lực hết mình để đón nhận và trì giữ truyền thống của Tỳ kheo và Tỳ Kheo Ni. Tôi nghĩ rằng Ngài không cần thụ giới Tỳ Kheo ni nhưng để nâng đỡ truyền thống Tỳ Kheo Ni, Ngài đã tự mình đón nhận giới luật của Tỳ Kheo Ni từ một truyền thống Phật giáo Đại thừa khác. Vì thế Ni sư thực sự là một Tỳ kheo Ni và cũng là một nữ du già Yogini. Bởi vậy, tôi đã chọn danh hiệu “Jetsunma” để phong tặng cho Ngài. “Je” tượng trưng cho đại thành tựu về thực hành Yoga của Kim Cương Thừa và “tsun” biểu trưng cho thành tựu con đường giới luật, đó là sự thành tựu Tỳ Kheo Ni. Còn “ma” có nghĩa là nữ tính.

Tôi thoáng nghe cách đây một vài ngày hay một vài tuần gì đó rằng có một ai đang cảm thấy đôi chút không thoải mái bởi vì một vài Jetsunma khác (tôi không biết là ai) Nhưng một vài người đã nhận ra rằng Jetsunma không thực sự có một tiếng tốt, vì thế họ muốn yêu cầu tôi giải 281 thích nghĩa của từ “Je” và “tsuma”. Tôi cho rằng đây là một danh hiệu rất phù hợp với Ni sư, bởi vậy tôi rất vui mừng và trân trọng trao danh hiệu này cho Ni sư, vì lợi ích của dòng phái Drukpa đặc biệt là cho nữ hành giả. Đó là lợi ích của những nữ hành giả, những người bấy lâu nay đã bị lãng quên. Trong khoảng nhiều trăm năm còn nam giới thì vẫn cứ tận hưởng cuộc sống cuả họ và những đặc quyền, đặc lợi để thực hành mọi thứ. Phụ nữ đã không có một chút cơ hội và quyền lợi nào. Vì vậy đối với họ khoảng thời gian dài đó thật đáng buồn. Bây giờ, đã đến lúc tiến hành một cuộc cách mạng thông qua những bậc Thầy tâm linh như Jetsunma những người thực sự đã đại thành tựu trong việc tu tập các thừa bên ngoài, bên trong và các pháp tu bí mật. Điều này giải thích cho danh hiệu mà tôi đã cúng dường Ni sư. Đây thực sự là danh hiệu thật xứng đáng với Ni sư. Lúc này, xin thay mặt tất cả mọi người đặc biệt là các Chư Tăng Ni có mặt nơi đây từ tận đáy lòng, tôi thực sự gửi lời tri ân tới Jetsunma về việc cố gắng bảo tồn và trì giữ những pháp môn thực hành liên tục và sự nỗ lực không biết mệt mỏi để nâng đỡ nhiều chúng sinh, đặc biệt là những chúng sinh những người đã bị lãng quên nhiều năm và nhiều thế hệ.

Cuối cùng tôi xin nói thêm một điều nữa là tôi rất hạnh phúc vì Ni sư đã sẵn lòng nhận lời mời của tôi tới đây để đón nhận lễ tấn phong từ chúng tôi.

Tôi biết rằng Ni sư đã chấp nhận lời mời của tôi và lễ tấn phong danh hiệu “Jetsunma” chỉ vì lợi ích của tất thảy chúng sinh, đặc biệt là vì lợi ích của truyền thống của những nữ hành giả cũng như là của toàn bộ dòng truyền thừa Drukpa.

Với tất cả những điều trên, tôi có một niềm tin tuyệt đối vào Ni sư.

Tôi thấy rằng mình có trách nhiệm cúng dường Ni sư danh hiệu Jetsunma và lễ tấn phong này. Nếu tôi không làm như vậy thì thật không công bằng với dòng phái và cả những nữ hành giả. Chính bản thân tôi, cũng có mối quan hệ rất gần gũi với những nữ hành giả, ví dụ như tôi có thể nhìn thấy rất nhiều Ni chúng của tôi ở đây. Họ thực sự đã từ bỏ gia đình mình, những người thân yêu của họ để đến đây tu tập. Nếu như tôi không nâng đỡ họ thì thật bất công với họ. Do vậy tôi cảm thấy có trách nhiệm to lớn phải trợ giúp, nâng đỡ họ.

Lễ kỷ niệm này mà chúng ta có thực sự được thể hiện từ trong sâu thẳm trái tim tôi. Tôi muốn cảm ơn tất cả về việc đã cố gắng đã tham gia với chúng tôi. Dĩ nhiên có rất nhiều người trong số các bạn đến từ những nơi thực sự xa xôi để tham gia vào lễ tân phong này, không chỉ vì lễ sinh nhật của tôi mà cho lễ tấn phong này, tôi thực sự đánh giá cao về điều đó, tôi cũng được nghe nói rằng một số đến từ những trung tâm ở những khu vực khác nhau trên thế giới cũng đến đây mong muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với Jetsunma.
Vì vậy tôi phải để các bạn ở đây. Một lần nữa tôi xin chân thành tri ân tới Jetsunma
.


(Nguồn: On the Enthronement of Jetsunma Tenzin Palmo, www.Drukpa.org)
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Nam mô Kim Cương Thượng sư! “Theo quan kiến của tôi, trong tương lai những sư ni được tu học và rèn luyện một cách nghiêm túc đúng theo đường lối của đức Phật sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn trong việc bảo trì giáo Pháp tôn quý. Do vậy chúng tôi phát nguyện sẽ nâng đỡ, trợ giúp tạo môi trường tốt để chư ni có điều kiện tu học và rèn luyện sớm trưởng thành, góp phần làm cho Phật Pháp mãi trường tồn, đem lại lợi ích cho hết thảy hữu tình”.

Jetsunma Tenzin Palmo


DrukpaVietnam xin thành kính thông bạch tới chư Tăng ni Phật tử và quý thiện hữu tri thức gần xa:

Nữ Kim cương thượng sư Tenzin Palmo đã viếng thăm Việt nam từ ngày 28/12/2009 đến ngày 13/01/2010, với cương vị là Phó Chủ tịch Đại hội phụ nữ Phật giáo quốc tế lần thứ 11. Ngài là nữ đạo sư trứ danh đã chứng đạt giác ngộ thông qua các giáo pháp đặc biệt của truyền thừa Drukpa.

Ni sư Tenzin Palmo từng được bao độc giả Việt Nam cũng như trên thế giới biết tới và ngưỡng mộ qua tác phẩm Trong Động Tuyết sơn, một “tác phẩm nổi tiếng diễn tả sự can đảm, khí phách, và trí tuệ của một vị ni sư Tây Phương đầu tiên đã đối phó và vượt qua một cách dũng mãnh những chướng ngại thiên nhiên; cũng như sinh lý và tâm lý để đạt tới cảnh giới giác ngộ giải thoát”.

Với sự khao khát những giá trị tâm linh đích thực, với lời thệ nguyện sẽ chứng đạt giác ngộ giải thoát trong thân tướng của người nữ dù phải trải qua vô số kiếp, ngài đã xả ly đời sống thế gian, tìm cầu sự hướng đạo của bậc minh sư. Ngài đã hạnh ngộ bậc căn bản Thượng sư Khamtrul Rinpoche đời thứ VIII, hóa thân của Đạo sư Liên Hoa sinh, một bậc Thượng sư trứ danh siêu việt của dòng truyền thừa Drukpa. Dưới sự hướng đạo của căn bản Thượng sư, ni sư Tenzin Palmo đã ẩn cư tu tập các giáo pháp giải thoát hơn 12 năm trong một sơn động tại dãy Himalaya. Ngài đã trải qua vô vàn những thử thách bên ngoài như: bệnh tật, thiên tai, đói khát, lạnh rét và đã chuyển hóa thành công các xúc tình phiền não hiện khởi trong nội tâm. Khi tu tập trong cảnh cô tịch, thậm chí rất nhiều lần ngài đã can đảm mặt đối mặt với cái chết.

Theo lời chỉ dạy của Ngài Khamtrul Rinpoche đời thứ VIII cùng với tâm nguyện mang lại cơ hội tu tập bình đẳng cho chư ni và ước mong phục hồi truyền thống Thành tựu giả Yogini (Togdenma) của truyền thừa Drukpa, sau khi hoàn thành khóa nhập thất dài hạn, ngài đã thiết lập Ni viện , xây dựng các chương trình tu học cho chư ni. Bằng sự thực chứng tâm linh tràn đầy trí tuệ và tình yêu thương, Ngài đã du hóa hoằng dương giáo pháp nhiều nơi trên thế giới lợi ích cho vô số chúng sinh.

Vào tháng 2 năm 2008, Ni sư Tenzin Palmo đã được đức Pháp vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII, bậc khai sáng và đứng đầu truyền thừa Drukpa, làm lễ đăng quang tấn phong danh hiệu Jetsunma. Jet là tượng trưng cho sự thành tựu về Pháp thực hành Yoga của Kim cương thừa. Sun tượng trưng sự thành tựu con đường giới luật, tức là thành tựu Tỳ kheo ni giới, còn ma có nghĩa chỉ về người nữ. Đó là sự ấn chứng thành tựu sự tu tập của ni sư trong hình tướng nữ nhân và những nỗ lực của ngài trong việc thúc đẩy, nâng cao địa vị của nữ hành giả Phật giáo Kim Cương thừa. Như trong phần giới thiệu của tác giả Vickie Mackenzie: Tenzin Palmo đã chứng tỏ cho chúng ta thấy ngài là một nữ anh hùng của thời đại chúng ta, một ngọn đuốc sáng đốt cháy hàng rào cản ngăn bước tiến của giới phụ nữ, và san bằng mọi ranh giới phân chia cách biệt giữa người và người, giữa nam và nữ từ ngàn xưa cho đến tận thế kỷ 20 này.

Với những công hạnh lợi ích hữu tình, ni sư đã được đề cử trách nhiệm là Phó chủ tịch Hội Đồng Drukpa Thường Niên lần thứ II, được tổ chức tại Núi Druk Amitabha, tại thủ đô Kathmandu, Nepal, ngày từ ngày 6 tháng 04 đến ngày 15 tháng 04 năm 2010. Hội đồng được tổ chức hàng năm là diễn đàn để các bậc Thượng sư truyền thừa Drukpa chia sẻ giáo pháp, kinh nghiệm cũng như ban bố các quán đỉnh và khẩu truyền cho các Phật tử tín tâm có nhân duyên, tạo điều kiện cho các Phật tử có cơ hội được hạnh ngộ nhiều bậc thượng sư giác ngộ cũng như thụ nhận giáo pháp trực tiếp từ các ngài, trưởng dưỡng đức tin để vượt qua mọi khó khăn thực hành theo sự hướng đạo của các bậc Thầy chân chính, đạt đến mục đích cuối cùng là giác ngộ giải thoát để lợi ích cho hết thảy hữu tình.

Một phúc duyên hy hữu, Ni sư đã đặt chân đến đất nước Việt Nam của chúng ta, đây là một cơ hội vô quý hiếm cho các Phật tử Việt nam được diện kiến, đỉnh lễ, học hỏi và thụ nhận giáo pháp từ một nữ thành tựu giả tôn quý của truyền thừa Drukpa.

DrukpaVietnam xin thành kính nguyện cầu Bậc Kim Cương Thượng sư Jetsunma Tenzin Palmo viên mãn hết thảy những tâm nguyện cao quý của mình!

Nguyện cầu những nữ hành giả truyền thừa Drukpa tinh tiến tu tập giáo pháp giải thoát, chứng đắc quả vị giác ngộ tối thượng vì lợi ích của chúng hữu tình hết thảy!


Nguyện cầu những công hạnh từ bi, trí tuệ của ngài ban trải khắp muôn nơi, khơi nguồn cảm hứng giác ngộ, soi đường, dẫn lối cho những nữ hành giả và hết thảy hữu tình tinh tiến tu tập trên đạo lộ giải thoát!

Nguyện cầu pháp giới chúng sinh đều được hạnh ngộ minh sư, và có cơ hội thực sự chứng đạt giáo pháp giải thoát không phân biệt!



DrukpaVietnam
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Cuộc phỏng vấn này diễn ra vào tháng 6 năm 2006 khi đại hội Sakyadhita lần thứ IX được tổ chức tại Kuala Lumpur, Malaysia. Sakyadhita có nghĩa là Ni chúng Phật tử của đức Phật và đây là một tổ chức được thành lập năm 1987 ở Bodhgaya Ấn Độ để đề cao bình đẳng giới trong đạo Phật. Tạp chí The Dragon đánh giá cao những chia sẻ kinh nghiệm của Tenzin Palmo với tư cách là một Ni sư Phương Tây thực hành tu tập Phật giáo Kim cương thừa trong hơn 30 năm, và cũng đánh giá cao quan kiến của Ngài về phương hướng trong tương lai của những nữ hành giả trong Phật giáo Tây Tạng, đặc biệt là đối với những phật tử tu tập theo dòng truyền thừa Drukpa. Để biết thêm thông tin về Sakyadhita, về Hiệp Hội Ni sư Quốc Tế, xin vui lòng vào trang web: www. Sakyadhita.org. Và để biết thêm về Tenzin Palmo và câu chuyện cuộc sống thú vị của Ngài, xin đọc cuốn truyện Trong Động Tuyết Sơn được viết bởi Vicki Mackenzie, xuất bản năm 1999 và hiện nay được dịch sang hơn 10 ngôn ngữ khác nhau trên toàn thế giới.

HOÀI NIỆM BỔN SƯ

D: Kính bạch Ni sư, xin hoan hỷ kể cho chúng con biết về bản sư của mình - Nhiếp Chính Vương Khamtrul Rinpoche Dongyu Nyima đời thứ VIII?



T: Lần đầu tiên tôi hạnh ngộ Khamtrul Rinpoche lúc đó Ngài khoảng 33 tuổi nhưng Ngài có thể là 1033 tuổi. Ngài đạt đến cảnh giới bất sinh bất diệt siêu việt thời gian và không gian. Ngài là một họa sĩ thiên tài và cũng là một nhà thơ. Ngài rất cao lớn và cường tráng nhưng cũng rất thanh tao và trầm lặng. Tôi cho rằng điều mà gây ấn tượng mạnh tới hầu hết mọi người là quyền năng của Ngài mặc dù Ngài rất nhu hòa. Ngài có một hình tướng cực kỳ oai mãnh – rất phẫn nộ mặc dù Ngài không thể hiện điều gì luôn rất nhân ái. Người ta rất sợ Ngài và chẳng bao giờ khám phá ra lý do tại sao bởi vì Rinpoche luôn cư xử rất tuyệt vời.

Rinpoche không phải là người nóng tính mà ngược lại, Ngài luôn nhân ái, nhu hòa và có giọng nói rất truyền cảm. Ngài là hóa thân của đấng Sengey Dradok, một trong những hóa thân phẫn nộ của Đạo sư Liên Hoa Sinh. Và thực sự, đôi khi bất chợt người ta nhận thấy Ngài trong hình tướng đó khiến họ hoàn toàn sửng sốt. Tôi tin tưởng rằng đó là bởi vì có một quyền năng nội chứng vĩ đại mà Ngài đang cố gắng giấu đi nhưng điều này là không thể. Ngài cố gắng xuất hiện như một người bình thường tới mức Ngài có thể, nhưng Ngài không thể làm được điều đó vì Ngài là bậc chứng ngộ siêu phàm.

Nhiếp Chính Vương cực kỳ tài năng, xuất chúng phi thường. Ngài quán xuyến toàn bộ cộng đồng Tashi Jong. Ngài chỉ dạy tất cả mọi người phải làm gì và làm như thế nào. Ngài chỉ dạy cách thức đục đẽo, trạm trổ khắc gỗ cho những người thợ đục, và Ngài hướng dẫn những thợ dệt thảm phải dệt như thế nào; trong thực tế chính Ngài đã trang trí, bố cục tất cả những tấm thảm. Ngài dạy chư Tăng vẽ Thangka (những bức tranh theo truyền thống Kim cương thừa) và đã khích lệ cộng đồng cả những người Phật tử và chư Tăng phát triển những kỹ năng của họ và sáng tạo ra rất nhiều những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo. Vì thế thời bấy giờ, Tashi Jong là một cộng đồng “kỹ nghệ”. Rinpoche luôn ở khắp mọi nơi, Ngài không chỉ quản lý điều hành cả cộng đồng và tự viện mà còn luôn cùng với những Phật tử giải quyết những rắc rối của họ và xử lý cả công việc quản lý, điều hành cộng đồng cũng như ở tự viện, thực hiện những nghi thức tâm linh mà một Lama cao cấp thường phải làm. Ngài ở khắp mọi nơi, Ngài thật giống như đức Phật.


Khi nhìn kỹ, bạn sẽ thấy trên vương miện của Ngài có một Ushnisa (Tiếng Sankrit là một chiếc lông vũ trên vương miện của Đức Phật, chiếc lông vũ này là biểu tượng của đại trí tuệ) và Ngài giống như một đức Phật. Tôi là thư ký của Ngài khoảng 5 hay 6 năm, nhưng trong suốt khoảng thời gian này, tôi không bao giờ thấy Ngài nói hay làm bất cứ điều gì mà bạn có thể từng nghĩ rằng, đó không phải là một công hạnh hoàn hảo của đức Phật. Thật đáng buồn là Ngài đã viên tịch quá sớm
.
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Một Ni Sư phương Tây tại tự viện Phật giáo Kim Cương thừa

D: Là một trong những Ni sư đầu tiên đến từ phương Tây sống tại một tự viện, trong thời kỳ đầu tu hành Ngài có khó khăn gì không?

T: Việc bắt đầu ở môi trường tự viện rất khó khăn bởi vì tôi là một người phương Tây, hơn thế nữa lại là một sư Ni, tôi không thể là một phần những gì đang diễn ra trong tự viện khi đó. Tôi luôn phải là một người bên ngoài nhìn vào bên trong, và điều đó làm cho tôi thật cô đơn. Tôi ăn một mình và ở một mình, tôi không phải là một phần của cộng đồng và tôi không thuộc về tự viện.

Đối với tôi, thời gian đó thực sự không thoải mái vì tôi biết rất ít về Phật giáo Kim Cương thừa lý do là có rất ít sách và những nguồn tài liệu khác. Nó giống như là đến một bữa tiệc lớn nhưng chỉ được cho một chút ít thực phẩm nhưng nó không thể chế biến thành một bữa ăn. Vì thế tôi đã cực kỳ bực bội.

Ban đầu, tôi không thể hiểu Phật Pháp và những gì đang thực sự diễn ra, đồng thời tôi có cảm giác là một người xa lạ và rất dễ tổn thương. Cảm giác này giống như một bức tường bằng kính, bạn có thể nhìn thấy mọi thứ nhưng không thể sờ chạm vào chúng. Bạn biết không, điều này giống như mọi thứ đang rất gần nhưng thực ra lại rất xa. Đó là một khoảng thời gian mà tôi thực sự cô đơn khủng khiếp.

Khi tôi tu tập một mình ở trong hang động, tôi không bao giờ cảm thấy cô đơn. Tôi cảm thấy được là chính mình vô cùng an lạc, nhưng khi tôi sống giữa cộng đồng mà không phải là một phần của cộng đồng đó thì thật đau đớn.


D: Đây có phải là trường hợp của tất cả những sư Ni Tây Tạng khác hay chỉ là với những sư Ni sống gần Ngài?


T: Có những sư Ni địa phương nhưng họ chỉ là những sư Ni trông coi nhà cửa, không được giáo dục. Họ là những sư ni mà tầm hiểu biết có thể chỉ là ngũ giới hoặc bát quan trai giới, và họ chỉ mặc váy chuba. Họ không thực sự khoác tăng phục và cũng không được xem như những người có chức sự. Họ chủ yếu sống cùng với gia đình và khi duyên đến thì tất cả đều cởi bỏ Pháp phục để lập gia đình.

D: Ngài có cho rằng, đã không có một sự nâng đỡ của cộng đồng giành cho bất cứ ai là sư Ni không, và cũng không thể có một lời phát nguyện trọn đời của một Ni sư?

T: Vâng, vào thời điểm đó không có một người nào là một sư Ni được giáo dục mà tôi thực sự có thể chia sẻ niềm vui. Khi cộng đồng bản sư của tôi chuyển tới Tashi Jong, tôi đã thực sự thỉnh cầu Ngài cho phép tôi đến và sống với một trong những vị sư Ni ở đó. Tôi nghĩ rằng, nếu tôi có thể sống cùng với ni sư ấy thì tôi có thể học được tiếng Tạng bởi vì sư Ni này không hề biết một chút tiếng Anh nào nhưng lại rất ham học. Khamtrul Rinpoche trả lời: “Không, cô ta chỉ nói được tiếng Tạng địa phương thôi, và thật không phù hợp với con để dùng loại ngôn ngữ đó.” Vì vậy, tôi luôn phải tự mình tu học.


D: Thế còn việc tu tập của Ngài thì sao? Bởi Ngài có mối liên hệ với Khamtrul Rinpoche và làm việc tại văn phòng của Khamtrul, Ngài có nhiều cơ hội hơn những sư ni khác trong việc đón nhận giáo pháp từ bản sư của mình phải không?


T: Hiển nhiên là tôi có nhiều cơ hội hơn bất kỳ một vị sư ni nào trong tự viện, những vị sư ni này không đón nhận được bất kỳ một loại giáo lý nào. Nhưng tôi cảm thấy mình vẫn chưa đón nhận đủ giáo lý. Đây là một trong những lý do tại sao tôi thành lập ni viện DGL, để giành cho những sư ni những giáo pháp tu tập mà tôi từng mong muốn có được nhưng lại chưa bao giờ có thể nhận được.


Ni Viện DGL
D: Ngài tâm nguyện Ni viện DGL được hoàn thành khi nào?

T: Ồ, tôi bắt đầu gây quỹ từ năm 1993. Nhưng ban đầu điều này cực kỳ khó khăn đối với một ni viện bởi sự thiếu nhận thức về những khó khăn chướng ngại mà ni chúng Phật giáo Tây Tạng đang phải đối mặt. Vì thế, chúng tôi chỉ mới bắt đầu việc xây dựng cách đây hai năm sau khi đã nỗ lực quyên góp đủ tiền. Cuốn sách với tiêu đề Trong Động Tuyết Sơn của Vicki đã giúp thu hút được sự chú ý của độc giả và nó thực sự mang lại những hứa hẹn cho sư ni Tây Tạng. Tôi nghĩ sự nổi tiếng của cuốn sách đã giúp chúng tôi rất nhiều trong việc gây quỹ để hoàn thành dự án tự viện DGL. Tôi rất biết ơn Vicki về sự giúp đỡ của bà trong nhiều cách khác nhau.

Tôi cho rằng, phải mất hơn ba năm nữa chúng tôi mới hoàn thành dự án này. Từ bây giờ sẽ phải mất một năm để hoàn thành trung tâm tu học, trung tâm nhập thất và hai năm tiếp theo để hoàn thành chính điện.


D: Thưa Ngài, có bao nhiêu sư ni tại Ni viện DGL?

T: Hiện nay chúng tôi có khoảng 50 ni sư và 20 ni sư nữa sẽ được nhập chúng vào trước cuối năm nay. Chúng tôi đang xây dựng chỗ ở cho khoảng 100 sư ni, nhưng vẫn có thêm chỗ cho những cô gái muốn xuất gia khi đủ duyên.
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
HOÀN CẢNH CỦA NHỮNG NỮ HÀNH GIẢ​



D: Khi Ngài nhìn thấy hoàn cảnh bây giờ, theo Ngài đã được cải thiện chưa? Nhận thức về nhu cầu đào tạo nữ hành giả tâm linh để đạt tới mức độ của những bậc thượng sư cao cấp trong Phật giáo Tây Tạng đã trở nên thực sự cần thiết chưa ạ?


T: À, dĩ nhiên hoàn cảnh của những sư ni đã được cải thiện rất nhiều, một phần bởi vì có một số lượng nhất định những sư ni phương Tây đã học qua trường phái biện chứng, họ đã bắt đầu đòi hỏi quyền lợi của nữ giới và chỉ ra rằng, phụ nữ có khả năng làm điều này một cách hoàn hảo ngay cả khi họ là người nước ngoài. Vì vậy điều này đã động viên, khích lệ sư ni Tây Tạng nhận ra rằng, họ có thể được giáo dục và không cần thiết phải tự ti. Dần dần, trong rất nhiều Ni viện các chương trình tu học đã được xây dựng. Hiện nay phần lớn các Ni viện đều mong muốn có một chương trình tu học chuyên sâu. Nếu họ chưa có một chương trình tu học như vậy, thì việc nghiên cứu và tổ chức những cuộc biện kinh giữa những các sư Ni với nhau hiện nay được coi là chuẩn. Điều này trước đây chưa bao giờ được nghe thấy.


D: Đây có thể là một câu hỏi rất phổ biến: đức Phật đã không khuyến khích bảo mẫu của Ngài và đoàn tùy tùng gồm 500 những quận Chúa tiểu thư đài các xuất gia trở thành ni sư, và rất nhiều các bậc Đại đức Tăng dùng câu chuyện này như một lời bào chữa và trích dẫn lời đức Phật rằng nếu chấp nhận như vậy thì sẽ làm giảm 500 năm trường tồn của Phật Pháp. Quan điểm của Ngài là gì?



T: Vâng theo các kinh điển, nếu phụ nữ gia nhập tăng đoàn thì Phật Pháp sẽ chỉ kéo dài 500 năm thay vì 1000 năm. Nhưng đã 2500 năm trôi qua, rõ ràng là thời điểm đó đã qua lâu rồi ?

Đầu tiên, khi tôn giả Anan hỏi: “Phụ nữ có khả năng đạt giác ngộ không?” Đức Phật đáp: “Dĩ nhiên là được”. “Thế thì tại sao Ngài lại ngăn cản họ không cho phép họ gia nhập Tăng đoàn.” Đức Phật trả lời: “Được, họ có thể xuất gia để thực chứng giác ngộ.” Theo cá nhân tôi nghĩ rằng, lý do tại sao đức Phật lúc đầu ngần ngại không chấp nhận phụ nữ gia nhập tăng đoàn là vì mẹ kế của Ngài là một trong những người thỉnh cầu Ngài. Maha Pajapati Gotami là dì ruột của đức Phật và cũng là mẹ kế của Ngài, năm đó bà khoảng 50 đến 60 tuổi. Bà là một phụ nữ dòng tộc hoàng gia và là một trong 500 quý bà quyền quý cao sang đó. Họ lớn lên trong nhung lụa giàu sang. Thời đó không có ni viện cho đến tận 6 năm sau khi đức Phật giác ngộ. Chư Tăng vẫn còn là những khất sĩ đi khất thực; họ không có tự viện và phải ngủ dưới gốc cây. Rõ ràng là đức Phật đã rất lo lắng cho những sư ni phải lang thang trên phố mà không được bảo vệ an toàn. Ở thời đó, có một số lượng lớn sư ni bị phạm hạnh là do hoàn cảnh bởi vì họ không có chỗ nào để ở, họ phải lang thang khắp nơi, sống nhờ bố thí và ngủ ở dưới gốc cây. Tôi nghĩ rằng, đức Phật đã thấu hiểu những khó khăn, chướng ngại của nữ giới. Dĩ nhiên sau này, đức Phật và cộng đồng Tăng già của Ngài bắt đầu xây dựng những tự viện cố định, nhờ đó ni chúng đã có chỗ an cư, điều kiện hoàn cảnh sống của họ không còn khó khăn như trước nữa.



Điều thứ hai là trong thời kỳ đó, Tăng Ni phải phụ thuộc vào việc đi khất thực, họ xin được rất ít đồ khất thực và chủ yếu những người bố thí là phụ nữ. Khi phải lựa chọn bố thí cho Tăng hay Ni thì những người này lại cúng dường cho tăng. Điều này xảy ra vì phụ nữ luôn có xu hướng cúng dường ưu tiên cho Tăng và tư tưởng cúng dường Tăng đoàn sẽ nhận được nhiều công đức hơn. Do vậy, sư ni luôn gặp nhiều khó khăn hơn trong việc xin đủ thức ăn để duy trì sự tồn tại của mình. Bởi vậy xuyên suốt lịch sử Phật giáo, sư ni luôn đứng hàng phía dưới, tôi nghĩ rằng không chỉ bởi chư Tăng mà còn do chính những nữ thí chủ. Vì điều này, ni chúng luôn gặp nhiều khó khăn chướng ngại.




D: Có phải những điều này trở thành những lời bào chữa cho việc không giành cơ hội bình đẳng để nâng đỡ cho những nữ hành giả thậm chí trong cộng đồng Tây Tạng, thưa Ngài?



T: Ồ dĩ nhiên, trong cộng đồng Tây Tạng, có một vấn đề khó khăn mà ni chúng luôn gặp phải là họ không có đủ nghi thức thọ đại giới mà họ chỉ có nghi thức để thọ Sa Di giới, nghĩa là họ không phải là phần chính yếu của Tăng đoàn. Nó giống như họ chỉ ở thềm cửa, chưa bao giờ được mời vào tham dự những tác Pháp của Tăng già. Điều này có nghĩa là ni chúng không đón nhận được một chút giáo dục nào. Ni chúng không viết sách, không được thuyết giảng một cách thông thường vì vậy họ không có tiếng nói trong Tăng đoàn. Vì thế, nếu chúng ta để ý điều này thì sẽ thấy tất cả những kinh luận, rất nhiều kinh điển, tất cả các câu chuyện và mọi giáo lý từ trước đến nay đều được viết bởi chư Đại Đức Tăng và tất cả những điều này thực sự là của chư Tăng chứ không phải là của chư Ni. Và kết quả cuối cùng luôn là nhận định rằng chư Tăng cao cấp hơn, giỏi hơn chư Ni khi thực hành Phật Pháp. Những bậc thầy của dòng truyền thừa hầu hết luôn là chư Tăng và 16 A La Hán cũng là nam thì nữ La Hán ở đâu.



VỊ TRÍ HIỆN NAY CỦA NGHI LỄ THỌ GIỚI TỲ KHEO NI


D: Điều này đưa chúng ta tới vấn đề của nghi lễ thọ giới Tỳ Kheo Ni, một sư ni đã được lãnh thọ đại giới. Thực ra điều này quan trọng như thế nào thưa Ngài? Ngài phải tu tập bao lâu để được thọ nhận Tỳ Kheo Ni hoặc giới Bhiksuni được thiết lập trong truyền thống Tây Tạng?


T: Tôi đã trở thành Gelongma và thọ nhận giới Tỳ Kheo Ni khi tôi quay lại Hồng Kông năm 1973. Và 25 năm qua, người Tây Tạng đã nghiên cứu về chủ đề này.



Một trong những vấn đề là hiện nay một số lượng đông đảo Ni chúng đã và đang nghiên cứu triết lý đạo Phật khoảng trên 15 năm, và đã đến lúc những công trình nghiên cứu đã được hoàn tất của họ phải được công nhận bằng danh hiệu học vị thực sự, điều mà cho đến nay không một ai trong số họ được nhận. Danh hiệu chính trong truyền thống Gelugpa – truyền thống mũ Vàng là một Geshema –danh hiệu nữ tiến sĩ Phật học. Mặc dù hiện nay, người ta nói rằng, ni chúng có thể trở thành Geshema trong khoảng thời gian 2 năm, nhưng đó chỉ là thọ giới Sa Di.



Theo luật, một vị Tăng không thể trở thành một tiến sĩ Phật học trừ khi vị Tăng đó phải được thọ đại giới, bởi vì một trong những chủ đề mà chư tăng đó sẽ bị kiểm tra là bộ luật và các chương của Tripitaka - Tam Tạng kinh điển. Vị Tăng đó không được chấp nhận để tu học toàn bộ hệ thống luật của tự viện trừ khi Ngài đã thọ nhận đại giới. Điều này có nghĩa là Ni chúng chỉ có thể thọ trì học giới Sa Di rất ngắn, và nếu họ được nhận bằng tiến sĩ Phật học, người ta sẽ nói: “Ồ, họ đâu phải là những tiến sĩ Phật học thực sự, chúng ta cho họ danh hiệu đó vì những cô gái tội nghiệp này đã cố gắng hết khả năng cho việc tu học, nhưng họ vẫn không phải là nữ tiến sĩ Phật học thực sự bởi vì họ không được thọ nhận đại giới và họ chưa hoàn thành đầy đủ việc tu học luật.” Vì vậy hiển nhiên giải pháp là việc cho phép Ni chúng học luật và thọ nhận đại giới và sau đó được nhận bằng Geshema - tiến sĩ Phật học là giải pháp. Trong trường hợp đó, họ có thể hoàn toàn bình đẳng với những chư Tăng. Hơn thế nữa, đối với những truyền thống khác, để trở thành một nữ Khenpo - ni trụ trì - Khenmo, như là một bậc thầy triết học thì một sư ni phải được thọ đại giới.




D: Hệ thống Phật giáo Tây Tạng có đại giới Tỳ Kheo Ni không thưa Ngài?


T: Không, vào thế kỷ 14 và 15 sau công nguyên, một bậc thầy dòng mũ Trắng (Sakyapa) đã truyền đại giới cho một, hai sư ni nhưng việc này đã bị đức Dalai Lama đời thứ V phản đối, vì thế nó không còn tồn tại nữa. Về cơ bản, họ chưa bao giờ thật sự được thọ giới. Điều này chưa bao giờ được áp dụng ở Tây Tạng thời bấy giờ. Nhưng ngày nay, nhiều ni sư không ở Tây Tạng nữa, họ ở Ấn Độ và bây giờ chẳng có lý do gì để họ không được thọ nhận đại giới. Ni chúng đang được giáo dục toàn diện. Họ sống và tu tập trong những ni viện được quản lý rất tốt, họ có kỷ luật và tận tụy xả thân dâng hiến. Vì thế tại sao lại không cho họ cơ hội để thọ nhận cảnh giới cao hơn, điều mà đã được chính đức Phật đã truyền lại cho tới ngày nay.


Không phải chúng ta không tạo ra đại giới cho sư ni. Cho đến nay đã có khoảng hàng mười ngàn Tỳ Kheo Ni trên thế giới thọ nhận đại giới. Bạn có thể thấy ở những nước như: Đài Loan, Hàn Quốc, Việt Nam, Trung Quốc, vô số ni chúng đã thọ đại giới, họ đã trì giới nghiêm túc và được giáo dục đầy đủ. Vì vậy không có lý do gì để chúng ta không thực hiện điều đó trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng.
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
PHỤC HỒI DÒNG TRUYỀN THỪA TOGDENMA


D: Điều này đưa chúng ta tới một chủ đề Togdenma hay nữ Yogi. Chúng con nghe nói rằng, Ngài đã và đang nghiên cứu về chủ đề này. Chúng ta có nhiều những đại Yogini trong dòng Truyền Thừa Drukpa không, thưa Ngài?



T: Theo như tôi biết, chúng ta có rất nhiều. Một ngày kia, Bản sư của tôi - Nhiếp Chính Vương Khamtrul Rinpoche đời thứ VIII đã chúc nguyện quàng một chiếc khăn Khata lên cổ tôi và nói rằng: “Thầy luôn cầu nguyện gia trì cho con mong nguyện rằng con sẽ là người phục hồi truyền thống Togdenma.”(Khata là khăn trắng được sử dụng rộng rãi theo truyền thống giữa những bậc thầy Phật giáo Tây Tạng và những hành giả, là một nghi thức chào hỏi trang trọng). Ngài đã ban phúc cho tôi một cách hết sức trang trọng, bởi vậy từ sâu thẳm trái tim, tôi đã phát nguyện hoàn thành viên mãn tâm nguyện của Ngài.


D: Ngài có biết tự viện nào của chúng ta có truyền thống Yogini hay Togdenma này không?

T: Một số Rinpoche đã nói với tôi rằng, khi họ đến thăm ni viện của Khamtrul Rinpoche ở tỉnh Kham trước cuộc Cách Mạng Văn Hóa, họ đã nhìn thấy những Togdenma. Tôi nhớ rõ ràng có người đã nói với tôi những Togdenma ngồi thành hàng ở giảng đường chính trong ni viện và tất cả đều để tóc dài, họ chải ngược lên với một sợi dây ban phước ở phía sau để làm nhẹ mái tóc khi họ cúi xuống. Bản sư của tôi một lần đã nói: “Ồ, nếu như thầy gặp con ở Tây Tạng thì có thể không bao giờ có duyên để con lân mẫn thầy giống như bây giờ trong đời này. Bởi vì con là một phụ nữ. Điều duy nhất mà thầy có thể làm được cho con là gửi con đến ni viện của thầy”. Nhưng lúc đó, Ngài đang đề cập tới ni viện nào thì tôi không biết.



Trong dòng truyền thừa của chúng ta, truyền thống Togdenma đã bị lắng chìm từ thời của đức Rechungpa. Đức Rechungpa có rất nhiều đệ tử là nữ đại hành giả. Một trong số họ là Machig Konchog. Trong thực tế, dòng truyền thừa Demchok trước đó có những đệ tử hành giả du già nữ nhưng khi dòng này trở nên mang tính tự viện hơn và tính Yogi yếu đi thì dĩ nhiên những nữ du già của dòng truyền thừa sẽ ngày càng ít đi.




D: Ngài dự định phục hồi lại dòng Yogini như thế nào?

T: Ồ, tôi vẫn đang tiếp tục nghiên cứu.



D: Đầu tiên Ngài có cần hoàn thành thọ nhận đại giới của sư Ni (Gelongma) trước khi phục hồi dòng Yogini không?



T: Không, chúng không liên quan đến nhau. Hiện nay chúng tôi đang thực hiện một số nghiên cứu và khi nó được hoàn tất trong thời gian 10 năm nữa thì một số sư ni của chúng tôi thực sự muốn thực hiện những khóa nhập thất lâu dài có thể sẽ tu tập dòng Yogini hay Togdenma. Vì thế, chúng tôi phải tìm người để hướng dẫn chỉ dạy họ. Ở đây chúng tôi có hai sự lựa chọn. Sự lựa chọn thứ nhất là có thể yêu cầu những Togden – những bậc Du già sĩ hoặc những Yogi của tự viện Tashi Jong, Khampagar để hướng dẫn họ. Nếu chúng ta có một Du già nữ - Togdenma sống cùng với ni chúng và hướng dẫn họ sẽ tốt hơn, bởi vì nam giới không thể sống ở trong ni viện. Điều này sẽ gây ra rất nhiều phiền phức. Vì vậy sự lựa chọn thứ hai là phải mời một nữ hành giả từ Tây Tạng về.



Dĩ nhiên, có một tự viện Gechak Gompa của Tsokyi Rinpoche ở Nangchen Tây Tạng. Mặc dù sư ni ở đó thuộc về dòng truyền thừa Drukpa của chúng ta nhưng thực ra họ đang tu tập Terma của Ratna Lingpa thuộc về truyền thống Ningmapa. Thế nên điều này thực sự không phù hợp. Điều lý tưởng phù hợp là phải tìm được những sư ni đã và đang tu tập Sáu Pháp Yoga của Naropa để hướng dẫn sư ni của chúng ta ở đây. Wangdrak Rinpoche - bậc thầy trưởng lão đảm trách tự viện Gechak Gompa chắc chắn với tôi rằng, sẽ có những ni sư làm được điều này mặc dù Ngài chưa tìm ra được ai. Ngài rất nhiệt tình và muốn tìm được một người để giúp chúng tôi hoàn thành tâm nguyện.

Mọi người gợi ý rằng, chúng tôi nên thỉnh nhờ Nhiếp Chính Vương Adeu Rinpoche đang sống ở Nangchen Tây Tạng bởi vì Ngài có rất nhiều ni viện, và chính Ngài là một chuyên gia thuần thục Sáu Pháp Du Già Của Naropa. Vì thế, tôi đã có kế hoạch gặp và thỉnh cầu Ngài khai thị chỉ giúp một bậc thầy đến, hướng dẫn chỉ dạy cho các sư ni của chúng ta.




D: Ngài có thể nói cho chúng con cần có phẩm chất nào để trở thành một Togdenma?



T: Tôi thật sự không chắc chắn lắm nhưng về cơ bản, tôi nghĩ rằng, phải phát nguyện trọn đời nhập thất tu tập. Ví dụ, phần lớn những hành giả tham gia khóa nhập thất 3 năm, 7 năm hoặc 12 năm nhưng đối với một Togdenma là phải nhập thất trọn đời. Ở Tây Tạng, cũng giống như Milarepa, những Togdenma hoặc Yogini trong quá khứ thường sống trong hang động trên núi cao. Họ theo truyền thống Milarepa mặc dù ở Khampagar, những Togden hay Yogi là những chư Tăng thọ đại giới, và điều này hoàn toàn khác thường. Những Togdenma có những lọn tóc dài và váy ngắn trắng mặc dù họ đã thọ đại giới. Đó là lời phát nguyện trọn đời tu tập. Dĩ nhiên, Togden có nghĩa là “chứng ngộ” hoặc “có sự chứng ngộ tâm linh”. Vì thế đây là sự phát nguyện trọn đời tu tập. Họ thường tu luyện rất nhiều pháp thực hành Yoga bên trong đặc biệt là tummo (pháp tu tập nội hỏa). Pháp này cho phép hành giả sống trong mùa đông khắc nghiệt nhất chỉ mặc một mảnh vải cotton trắng mong manh, và trở thành một chuyên gia tummo cũng như chuyên sâu vào bất cứ thứ gì thuộc mối quan tâm của họ.



Ngay cả khi họ không nhập thất nhưng họ luôn trong trạng thái tu tập. Ý tôi là đôi lúc họ không nhập thất mà họ nhập thế để giáo hóa chúng sinh, như cố Togden Amtrin của chúng ta là một ví dụ. Thời bấy giờ ai cũng biết rằng những Togden ở Khampagar rất hy hữu, tôn quý và độc nhất thậm chí trong toàn bộ lãnh thổ Tây Tạng. Và người ta nói rằng, những Togdenma còn siêu việt hơn thế. Cho nên chúng ta đang phải tìm kiếm những bậc như thế.




D: Sự phục hưng của dòng Togdenma sẽ làm thay đổi cái nhìn của Phật giáo Tây Tạng về những nữ hành giả Tây Tạng như thế nào?



T: Dĩ nhiên, ở Tây Tạng có nhiều nữ đại hành giả, chúng ta không nghi ngờ gì về điều này. Tuy nhiên, đầu tiên là họ thường không được giáo dục, vì thế họ đã không viết những cuốn sách về những trải nghiệm của họ. Và rất nhiều người trong số họ không để lại tiểu sử cho đời sau và hầu như không một ai viết về những trải nghiệm tu tập của mình. Thế nên, thông thường họ không được biết tới. Có lẽ có một vài người có đệ tử bên mình nhưng ảnh hưởng của họ thì rất ít, chúng ta thực sự không biết nhiều về họ vì không có một tài liệu nào ghi chép về họ. Ở Tây Tạng, điều này đã từng bị cấm, tất cả mọi người dường như rất tùy hỷ về điều này bởi vì Phật giáo Tây Tạng không những rất gia trưởng mà còn rất tôn ti thứ bậc.



Nhưng hiện nay, chúng ta đang sống trong thế kỷ 21, mọi thứ đang thay đổi và Phật giáo Tây Tạng cũng phải thay đổi cùng với điều đó. Phụ nữ ngày nay khao khát được giáo dục, có cùng những cơ hội, điều mà cho mãi đến gần đây họ mới có quyền được thực hiện trong những lĩnh vực của nam giới. Hiện nay phụ nữ đã dần được giáo dục và thường thành tín hơn nam giới, không có bất kỳ một lý do gì mà họ không có cơ hội bình đẳng để chứng ngộ khả năng nhận thức cũng như những tiềm năng tâm linh của họ. Khi điều này xảy ra thì dần dần những người phụ nữ có năng lực để trở thành những bậc đạo sư về cả triết học và thực hành tâm linh. Đối với nhiều người phụ nữ, trong họ có một sự khao khát mãnh liệt mong muốn được tiếp cận với những bậc thầy có thể nâng đỡ họ. Dĩ nhiên ở phương Tây và một số khu vực khác ở Châu Á, có nhiều đại đức Tăng hơn bởi vì có nhiều vùng, nữ giới không thể tiếp cận lân mẫn đại đức Tăng để luận bàn chia sẻ về những vấn đề khó khăn của họ để tìm cách giải quyết. Người phụ nữ trong một chừng mực nào đó cảm thấy rất bất tiện khi luôn phải tìm cầu một đại đức Tăng khai thị cho họ.



Cuối cùng, tôi mong rằng, tất cả mọi người đều sẽ đón nhận được rất nhiều giáo pháp từ giáo thọ Tăng và giáo thọ Ni. Không phải chúng ta ngăn chặn số lượng những giáo thọ Tăng mà chúng ta chỉ tăng số lượng lên thôi, bằng cách có thêm giáo thọ Ni. Rất nhiều nam giới cũng có duyên pháp với giáo thọ Ni bởi vì giáo thọ Ni có phẩm chất mẫu tính hay ân cần chu đáo. Và rất nhiều người cảm thấy an ổn thoải mái khi tiếp cận lân mẫn nữ đạo sư, không chỉ là những người hướng đạo tâm linh mà còn giải quyết những vấn đề nội chướng của họ. Tôi nghĩ rằng, nhìn toàn bộ giáo pháp chỉ có thể mang lại lợi ích khi có tiếng nói của phái nữ đồng hành với tiếng nói của phái nam.



Đã lâu rồi, chúng ta chỉ có tiếng nói của nam giới đã đến lúc chúng ta phải có những tiếng nói nữ giới ở trong đó.



D: Ngài có nhận được sự nâng đỡ của những bậc thầy của dòng phái chúng ta trong việc phục hồi truyền thống Togdenma hay Yogini?



T: Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII của chúng ta có hơn 300 sư Ni, Ngài đã viết thư cho tôi một vài lần, thể hiện sự ủng hộ tuyệt đối trong việc đào tạo những Togdenma. Ngài cũng lo lắng là hiện nay Ni chúng không nhận được nhiều những giáo lý đào tạo sâu sắc trong việc thực hành tâm linh và đặc biệt là không còn được tu tập Sáu Pháp Du Già Của Naropa. Pháp Vương cũng rất lo lắng là Ni chúng không tu tập bất cứ pháp thực hành sâu sắc nào, chỉ có ít người thực hành Tantra ở mức độ thấp mà thôi. Ngài thấy rằng điều này sẽ dẫn tới sự suy thoái của dòng truyền thừa Drukpa, trừ khi phụ nữ bắt đầu việc tu tập Yogini càng sớm càng tốt. Có một đòi hỏi cấp thiết là mang lại những pháp thực hành sâu sắc trong truyền thống Togdenma tới cho những nữ hành giả, đặc biệt là cho Ni chúng của dòng truyền thừa chúng ta. Vì vậy, Pháp Vương đã và đang hết sức khích lệ, và nỗ lực nâng đỡ chúng tôi phục hồi truyền thống Togdenma càng sớm càng tốt.



Bên cạnh Pháp Vương, Nhiếp Chính Vương Drukpa Choegon Chokyi Sengye Rinpoche, Nhiếp Chính Vương Dorzong Rinpoche, Nhiếp Chính Vương Adeu Rinpoche, Nhiếp Chính Vương Dugu Choegyal Rinpoche, Nhiếp Chính Vương Tsoknyi Rinpoche, Khandro Thrinlay Chodon là minh phi của Pháp Vương Shabdrung Rinpoche và rất nhiều các bậc thượng sư trong dòng truyền thừa Drukpa của chúng ta rất ủng hộ việc đào tạo những nữ hành giả và giành cho họ những điều kiện tốt để thành tựu giác ngộ. Nếu chúng ta có cùng đại nguyện nâng đỡ cho phái nữ đạt đến giác ngộ thì tôi thấy rằng việc khôi phục dòng Yogi không phải là sứ mệnh bất khả thi.



Tôi cầu nguyện cho lợi ích của vô lượng hữu tình rằng, sự khao khát giác ngộ của nữ giới sẽ được viên mãn thông qua việc phục hưng dòng Yogini của chúng ta, dưới sự hướng dẫn, chỉ dạy của những bậc thượng sư tôn quý của dòng truyền thừa Drukpa.

D: Xin cảm niệm ân đức Ni sư Tenzin Palmo tôn kính! Chúng con ngưỡng nguyện Ngài sẽ thành tựu trong việc hoằng dương và phục hưng dòng Yogini cho nữ hành giả dòng truyền thừa Drukpa.


 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên