ÔN CỐ TRI TÂN

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
ÔN CỐ TRI TÂN:
Ôn điều cũ để biết điều mới
, đó là mục đích mà chúng con lập ra topic này, do vậy nếu quý vị có ý kiến khác xin hãy lập ra các topic để trao đổi thêm...

CÚNG DƯỜNG

Lúc Thiền sư Thành Chuyết hoằng hóa tại chùa Viên Giác, pháp duyên rất hưng thịnh. Mỗi lần giảng kinh, mọi người kéo đến nghe pháp chen chân không lọt. Do đó, các Phật tử đề nghị xây dựng một ngôi giảng đường rộng rãi hơn.

Có một Phật tử đem đến chùa năm mươi lượng vàng ròng đựng trong túi đãy cúng dường cho Thiền sư Thành Chuyết và nói hãy dùng số vàng này mà xây dựng giảng đường. Thiền sư nhận lấy, rồi tiếp tục công việc.

Thái độ của thiền sư khiến ông Phật tử không hài lòng và vô cùng bất mãn, vì năm mươi lượng vàng ròng không phải nhỏ, có thể đem cho người nghèo sống được mấy năm. Vậy mà Thiền sư nhận số tiền này với thái độ dửng dưng, lại không một lời cám ơn. Do đó, ông Phật tử vội đến sau lưng Thiền sư Thành Chuyết nhắc nhở:

- Sư phụ! Trong túi đãy của con đựng năm mươi lượng vàng ròng.
Thiền sư Thành Chuyết thản nhiên nói:
- Ông đã nói qua, tôi cũng biết rồi.
Thiền sư khoan thai tiếp tục làm việc. Ông Phật tử chịu hết nổi, cao giọng nói:
- Này sư phụ! Hôm nay con cúng năm mươi lượng vàng ròng, không phải là ít. Chẳng lẽ thầy không có lời cám ơn nào sao?

Thiền sư từ tốn đáp:
- Sao ông lại nói như thế! Ông cúng tiền cho Phật Tổ, tại sao phải bảo ta cảm ơn ông? Ông bố thí là làm công đức cho chính ông, nếu ông muốn xem công đức như là một thứ hàng hóa mua bán thì ta sẽ thay thế Phật Tổ nói lời cảm tạ cho ông. Xin ông hãy mang lời cảm ơn về đi, từ đây ông đã thanh toán tiền bạc cho Phật Tổ xong rồi đấy!
(Theo Tinh Vân thiền thoại)

BÀI HỌC ĐẠO LÝ:​
Thông thường, khi mình cho ai đó một cái gì, mình nghĩ người đó mang ơn mình. Nhưng kỳ thật, nếu quán chiếu một cách sâu sắc, người mang ơn phải là chính mình mới đúng! Bởi khi mình cho, tức là mình đang thực tập hạnh tu bố thí, xả ly, nếu không có đối tượng để bố thí, làm sao mình tu được? Cho nên, làm phước là làm giàu phước đức cho chính bản thân mình, tu phước là tu bổ phước đức cho chính bản thân mình. Có ai vì chính bản thân mình mà bắt người ta phải cảm ơn không?

Người Phật tử hộ trì Tam bảo cũng vậy. Cúng dường cho quý Tăng Ni tịnh tài tịnh vật để xây dựng Tam bảo, có công đức rất lớn. Quý thầy quý cô là người đứng ra gánh vác công việc xây dựng cho Phật tử, công bằng mà nói, người công người của, cùng nhau làm việc phước thiện, công đức như nhau.

Thế nhưng, thói thường khi bỏ ra một món tiền lớn, tâm lý “tôi dâng cúng” còn nặng, nên mình luôn muốn được quan tâm đặc biệt hơn, phải được nêu tên trên “bảng vàng”… Chung quy đều xuất phát từ ý niệm ngã và ngã sở. Vì vậy, việc làm phước thiện của mình không được viên mãn, nhất là khó đạt được kết quả tối hậu của pháp môn tu là đưa đến giác ngộ giải thoát. Luận Đại trí độ nói: “Hạng người thiếu trí bố thí mà không hiểu gì, hoặc vì cầu tài nên bố thí, vì sợ hiềm trách nên bố thí, hoặc sợ sệt nên bố thí, hoặc vì muốn cầu ý người nên bố thí, hoặc sợ chết nên bố thí, hoặc dối người làm cho họ mừng nên bố thí, hoặc tự cho mình giàu nên bố thí, hoặc kiêu ngạo tự cao nên bố thí, hoặc vì danh dự nên bố thí, hoặc vì chú nguyện nên bố thí, hoặc vì giải trừ suy hoại cầu tôt lành nên bố thí, hoặc vì quy tụ đông người nên bố thí. Cách bố thí như vậy gọi là bố thí không thanh tịnh”. Bố thí cúng dường mà không xuất phát từ tâm thanh tịnh thì khó tròn đầy công đức, phước báo. Điều này giúp ta hiểu được câu trả lời của Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi vua Lương Vũ đế hỏi ông bấy lâu xây chùa, đúc chuông, tạo tượng, bảo trợ Tăng Ni có được bao nhiêu công đức?

Cho nên, để đạt được kết quả viên mãn trong pháp tu bố thí cúng dường, người Phật tử phải vượt thoát mọi ý niệm chấp ngã và ngã sở. Như kinh Kim Cang dạy: “Không có người thí, vật thí, đối tượng nhận sự bố thí”. “Không nên trú ở sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, không trú ở đâu cả mà làm bố thí” mới đích thực là Bố thí Ba la mật.

Hạo Nhiên
(Theo GNO)​
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
BÁT CƠM CÚNG PHẬT

BÁT CƠM CÚNG PHẬT

Ngày xưa có hai vợ chồng nọ, người vợ là một thiện tín hết lòng kính tin Tam bảo, trong khi người chồng lại không tin nhân quả, tội phước.

Một hôm nhân lúc chồng đi vắng, thấy Đức Phật đi khất thực ngang qua nhà, cô vội vàng mang thức ăn ra cúng dường Đức Phật. Sau khi cúng dường, cô cung kính đảnh lễ dưới chân Đức Phật.

Trước tấm lòng thành kính của cô, Đức Phật chú nguyện:
- Ta chú nguyện cho thí chủ gieo một gặt mười, gieo mười gặt trăm, gieo trăm gặt ngàn. Nhờ công đức bố thí bát cơm này, thí chủ sẽ được vô lượng phước báu.

Vừa lúc đó người chồng về tới, nghe Đức Phật chú nguyện như thế, anh ta xẵng giọng hỏi:
- Này ông Sa môn Cù Đàm, làm gì mà được phước báu nhiều như vậy? Ông đừng nói khoác! Ông hãy đi khỏi đây đi!

Trước thái độ lỗ mãng của anh ta, Đức Phật vẫn không tỏ ra khó chịu, Ngài mỉm cười và ôn tồn hỏi:
- Này anh, anh vừa từ đâu về?
- Tôi từ thành Vương Xá về.
- Trên đường về, đi ngang qua khu rừng, anh có thấy cây Ni câu loại không?
- Thấy!
- Anh thấy nó cao bao nhiêu?
- Hàng mấy chục thước.
- Mỗi năm cây ấy có khoảng bao nhiêu trái?
- Rất nhiều, khó có thể tính đếm, chỉ có cách lấy thúng mà lường.

Bấy giờ Đức Phật mới bảo:
- Anh thấy đó, đầu tiên chỉ có một hạt bé tí mà sinh ra cây Ni câu loại cao lớn hàng mấy mươi thước, cành lá sum suê, mỗi năm trỗ hàng trăm ngàn quả. Loài thực vật vô tri còn như vậy, huống chi loài hữu tình. Nữ thí chủ vợ của anh hoan hỷ cúng dường cho Như Lai một bữa ăn, phước đức ấy không thể đo lường được.

Nghe Đức Phật nói, người chồng bừng tỉnh, lấy làm ăn năn về hành động thô lỗ của mình, anh ta đến quỳ dưới chân Phật cầu xin sám hối:
- Kính bạch Thế Tôn, kính mong Thế Tôn từ bi tha lỗi cho con, từ đây con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử.

- Lành thay!
(Theo Truyện cổ Phật giáo)

BÀI HỌC ĐẠO LÝ​

Cúng dường Tam bảo với tâm hoan hỷ, cung kính là việc làm mang đến nhiều phước báu. Như người làm vườn, tuy chỉ gieo những hạt cam bé nhỏ trên mảnh đất tốt mà về sau có được cả vườn cam với nhiều trái ngọt. Cũng vậy, khi gieo nhân tốt, ta không chỉ gặt được một quả lành mà rất nhiều, không chỉ một mình ta thừa hưởng kết quả tốt lành đó mà cả những người thân và những người xung quanh chúng ta đều được hưởng. Ví dụ, khi ta sống tốt với mọi người thì chẳng những mọi người tốt lại với ta mà còn tốt với gia đình, con cháu của chúng ta nữa. Khi chúng ta tạo ân đức cho đời thì sau này con cháu chúng ta cũng thừa hưởng ân đức đó.

Và nếu ta gieo nhân xấu thì kết quả ác không chỉ ta phải nhận lãnh một lần mà có thể nhận lãnh nhiều lần, không chỉ một mình ta mà có thể con cháu ta cũng bị liên lụy. Ví dụ một người phạm tội giết người, chẳng những anh ta phải chịu quả báo khổ não khi bị xử tử mà còn chịu nỗi sợ hãi cái chết trong lúc bị giam cầm, chịu sự giày vò ray rứt lương tâm, sự ăn năn hối hận. Sau khi anh ta chết đi, cha mẹ, vợ con và những người thân của anh cũng đau khổ biết chừng nào, phải mang tiếng xấu với đời. Hậu quả không chỉ kết thúc ở đó, mà anh ta còn bị đọa địa ngục không biết ngày nào mới thoát ra, đến khi ra khỏi địa ngục được sinh làm người lại phải chịu quả báo oan oan tương báo, oán đối chập chùng.

Khi hiểu được lý nhân quả rất công bằng, thích đáng, chúng ta càng cẩn thận hơn trong suy nghĩ, hành động của mình, không thể xem thường, khinh suất, bất cứ hành vi tạo tác nào cũng cần phải cân nhắc nghĩ suy hợp với điều lành điều thiện, có lợi ích cho mình cho người, không gây hại cho ai. Và để có một đời sống an lạc, hạnh phúc trong hiện tại và tương lai, chúng ta cần phải tích cực gieo thật nhiều nhân tốt trong hiện tại.

LAM KHÊ(Theo GNO)
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
MUA KÍNH ĐỌC CHỮ

Có một anh chàng không biết chữ, thấy người ta mang kính đọc sách báo thì ngỡ rằng mang kính có thể đọc chữ được. Anh ta bèn ra chợ đến chỗ tiệm kính để mua cho mình một cặp kính.

Đến cửa hàng bán kính, anh ta mang cặp kính nào vào cũng không đọc được chữ. Cầm quyển sách trên tay xoay đi xoay lại mãi cũng không đọc được, anh ta tức giận càu nhàu:

- Kính nào cũng không đọc được chữ.

Người chủ cửa hàng kính hỏi:

- Sao lại không đọc được? Đúng độ thì đọc được thôi.

Anh ta cáu gắt:

- Nếu kính tốt thì đã đọc sách được rồi!

Người chủ cửa hàng hỏi liều:

- Hay là anh không biết chữ?

Anh ta càng bực dọc:

- Nếu biết chữ thì tôi đâu cần phải mua kính!

(Kể theo Truyện cười dân gian Việt Nam)


BÀI HỌC ĐẠO LÝ:​
Nếu đeo kính mà biết chữ thì người ta đâu cần phải đi học. Sự ngộ nhận của anh chàng trong câu chuyện đã khiến cho người khác tức cười. Tuy nhiên cũng tội nghiệp cho anh ta, bởi vì đó chỉ là sự ngộ nhận, hiểu lầm, mà trong cuộc đời này còn biết bao sự hiểu lầm như thế, vì hiểu sai nên đã làm sai…

Rất nhiều người trong xã hội cứ nghĩ rằng cầm tấm bằng này bằng nọ trong tay là họ có thể giải quyết được việc làm và các nhu cầu khác của bản thân và xã hội. Vì thế, họ ra sức kiếm tìm bằng mọi cách: Nếu không học tập đàng hoàng thì chạy vạy, xin xỏ hoặc đánh đổi hay bỏ tiền ra mua v.v… Nhưng khi nhập cuộc, tiếp xúc với công việc thì không có khả năng đáp ứng nhu cầu công việc, không cáng đáng nổi, không đảm nhiệm được trọng trách mà mình được giao phó. Một khi không có thực tài, thực học thì bằng cấp, chứng chỉ cũng vô dụng, chẳng giúp được gì cho mình mà trái lại còn làm hại bản thân, hại tập thể, xã hội, chẳng khác nào người không biết chữ thì dù có mang kính tốt cũng chẳng đọc được sách bao giờ.

Người tu học Phật cũng vậy, không phải có bằng cấp, học vị cử nhân, tiến sĩ là có thể giải quyết được vấn đề sinh tử, khổ đau cho mình và người khác. Người đệ tử Phật phải thực học, thực tu, thực chứng thì mới có thể giác ngộ, giải thoát làm lợi ích cho bản thân và nhân quần xã hội, giải quyết được các vấn đề cấp bách mà người đi tìm chân lý đặt ra.
Người ta nói, “chiếc áo không làm nên nhà tu” cũng không ngoài ý này.

Cũng như đeo kính giúp cho người ta đọc chữ được rõ ràng hơn chứ không phải nhờ đeo kính mà đọc được chữ. Do vậy, cần phải nhận ra điều chính yếu, cốt tủy nhất để thực hiện. Hay nói cách khác muốn đọc được chữ thì phải đi học chứ không chạy đi mua kính. Muốn đạt được giải thoát, an lạc cần nỗ lực tu học và thành tựu Giới - Định - Tuệ chứ không phải học vị cao, danh phận lớn. Chạy theo hình thức bên ngoài mà chểnh mảng sự hoàn thiện và trang nghiêm bên trong, xét cho cùng cũng lố bịch và nực cười giống như anh chàng đeo kính để mong đọc được chữ vậy
.



PHAN MINH ĐỨC (GNO)
 
Last edited by a moderator:

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
NẮM LÁ TRONG TAY

NẮM LÁ TRONG TAY
Paul Chee-Kuan, BÌNH ANSON (lược dịch)​

Khi ta hiểu rằng những gì không được Đức Phật truyền giảng khi Ngài còn tại thế là những gì không liên hệ đến mục đích giải thoát tối hậu, ta nhận ra ngay rằng không có những giáo thuyết bí mật, không có những giáo thuyết đã được giấu đi ở một thế giới nào đó để tái xuất hiện sau này, hoặc là giáo thuyết được Ngài truyền giảng ở một cõi trời nào đó, v.v...

Đức Phật đã giảng như thật, như chân. Ngài đã giảng rõ ràng và đầy đủ cho chúng ta trên địa cầu này, cho những ai đến để nghe.


Kinh LÁ RỪNG SIMSAPA (Tương Ưng 56.31)​

. . . Một thời, Đức Thế Tôn trú ở Kosambi, tại rừng Simsapà. Ngài lấy tay nhặt lên một ít lá Simsapà, rồi bảo các Tỳ khưu:

- “Này các Tỳ khưu, quý vị nghĩ thế nào, cái gì là nhiều hơn, số lá Simsapà mà Ta nắm lấy trong tay, hay số lá trong rừng Simsapà?”.

- “Bạch Thế Tôn, số lá Simsapàmà Ngài nắm lấy trong tay thật là quá ít, còn số lá trong rừng Simsapà thật là quá nhiều”.

- “Này các Tỳ khưu, cũng giống như những gì Ta đã biết rõ mà không giảng dạy cho quý vị thật là quá nhiều; còn những gì mà Ta đã giảng dạy thật là quá ít. Tại sao Ta không giảng dạy tất cả những điều ấy? Bởi vì có những điều không liên hệ đến mục đích, không phải là căn bản cho đời sống thanh cao, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn. Do vậy, Ta không giảng dạy những điều ấy.

“Này các Tỳ khưu, Ta giảng dạy những điều gì? "Ðây là Khổ", là điều Ta giảng dạy. "Ðây là Khổ tập", là điều Ta giảng dạy. "Ðây là Khổ diệt", là điều Ta giảng dạy. "Ðây là Con đường đưa đến Khổ diệt", là điều Ta giảng dạy.

“Nhưng tại sao Ta giảng dạy những điều ấy? Bởi vì những điều ấy liên hệ đến mục đích, là căn bản cho đời sống thanh cao, đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn. Do vậy, Ta giảng dạy những điều ấy.

“Vì thế, này các Tỳ khưu, quý vị cần phải nỗ lực để biết rõ: "Ðây là Khổ", cần phải nỗ lực để biết rõ: "Ðây là Khổ tập", cần phải nỗ lực để biết rõ: "Ðây là Khổ diệt", cần phải nỗ lực để biết rõ: "Ðây là Con đường đưa đến Khổ diệt"".

VÀI SUY TƯ

Trong bài kinh, Đức Phật nói rằng Ngài biết rất nhiều, về đời sống, về thế giới vũ trụ, về mọi sự việc trong thế gian, nhưng Ngài không truyền giảng tất cả những điều đó. Ngài không dạy chúng ta phải biết rõ tất cả mọi sự việc trên đời, bởi vì có những sự hiểu biết thật ra không liên hệ, không giúp ích chi cho con đường đưa đến giải thoát. Đây là điểm quan trọng mà hành giả trên con đường tu học cần phải ghi nhớ.

Những gì Ngài đã truyền giảng, như đã ghi lại trong Kinh tạng giáo điển - tạng Nikàya và tạng A-hàm - bao gồm các chủ đề quan trọng, cần thiết, quý giá để chúng ta tìm hiểu, suy tư, và áp dụng. Đây là một phước duyên to lớn cho chúng ta, khi hầu như toàn bộ giáo điển đó đã được các vị Tăng sĩ gìn giữ, lưu truyền qua nhiều thế hệ, và ngày nay chuyển dịch sang ngôn ngữ hiện đại để chúng ta học tập và ghi nhớ.
Mặc dù một số bài kinh có nội dung giống nhau, có vẻ trùng lặp, nhưng điều đó chứng tỏ rằng các chủ đề đó quả thật là số lá rừng trong nắm tay để chúng ta chuyên chú, tập trung học tập.

Còn vô số lá cây trong rừng kia là những gì Đức Phật không truyền dạy cho các đệ tử của Ngài – mà ngày nay, chúng ta thường thấy chúng được thu gom vào trong kho tàng thư văn Phật giáo. Trong kho tàng bao hàm này, chúng ta thấy có rất nhiều luận giải, bình giải, giáo thuyết hậu kỳ của mọi trường phái, tông phái đã khai triển từ khi Đức Phật nhập diệt, kể cả các luận thuyết siêu hình, các lý thuyết về nhân tính, các phân giải tỉ mỉ về tâm thức và sự vận hành tâm, các cõi trời và nhiều phân hạng Bồ tát, các dạng thức trung chuyển khi tái sinh, các câu chú niệm huyền bí, các hình thức nghi lễ phức tạp, những luận giải vượt ngoài nội dung của các bài kinh giảng, v.v.

Không có nghĩa là các tài liệu đó hoàn toàn sai lạc hay hoàn toàn không có cơ sở. Tuy nhiên, dù chúng có đúng hay sai, cũng không có ích lợi chi cho con đường giải thoát. Nếu chúng quả thật có ích lợi cho sự tu tập, ắt hẳn Đức Phật đã giảng dạy cho hàng đệ tử của Ngài - vì Đức Phật tuyên bố Ngài đã giảng Chánh pháp rõ ràng, như một vị đạo sư với bàn tay mở rộng, không bí mật, không che giấu (Kinh Đại Bát Niết bàn, Trường Bô), và từ đó được ghi nhớ và truyền tụng trong các bài kinh, và được kết tập trong Kinh tạng.

Suy gẫm về các lời dạy của Đức Phật trong bài kinh Lá rừng Simsapà giúp ta tiết kiệm được thì giờ. Chúng ta không phí thì giờ để theo đuổi những câu hỏi vô ích. Chúng ta tránh được việc dính mắc vào các kiến giải hoang vu, không tưởng. Bài kinh nhắc nhở ta tập trung vào những lời dạy chính yếu của Đức Phật, và áp dụng chúng trong công phu tu tập. Chúng ta không cần phải tranh luận nhiều lý thuyết khác nhau, không cần phí thì giờ tìm hiểu chúng. Thì giờ là quý báu, đời sống rất ngắn ngủi, sinh được làm người là điều hiếm có, và ta phải biết sử dụng thì giờ và công sức cho có lợi lạc trên con đường tâm linh.

Khi ta hiểu rằng những gì không được Đức Phật truyền giảng khi Ngài còn tại thế là những gì không liên hệ đến mục đích giải thoát tối hậu, ta nhận ra ngay rằng không có những giáo thuyết bí mật, không có những giáo thuyết đã được giấu đi ở một thế giới nào đó để tái xuất hiện sau này, hoặc là giáo thuyết được Ngài truyền giảng ở một cõi trời nào đó, v.v... Đức Phật đã giảng như thật, như chân. Ngài đã giảng rõ ràng và đầy đủ cho chúng ta trên địa cầu này, cho những ai đến để nghe.

Đã có nhiều vị đệ tử của Ngài đã ghi nhớ, thông hiểu, tu tập, và nhập dòng thánh giải thoát - và ngay cả những vị này cũng chưa hẳn đã học hết toàn bộ Kinh tạng. Quên lãng các bài kinh giảng và tầm cầu các luận thuyết khai triển vượt qua những gì Đức Phật đã truyền dạy là không nhận thức được ý nghĩa sâu sắc của những điều Ngài đã thật sự chỉ dạy cho các vị Thánh đệ tử đó.

Vì vậy, ta không cần phải vướng mắc vào các điều gì khác. Nhiệm vụ của chúng ta là thực hiện những gì đã được Đức Phật giảng rõ ràng trong bài kinh: “… Cần phải nỗ lực để biết rõ: Đây là khổ. Cần phải nỗ lực để biết rõ: Đây là nguồn gốc của khổ. Cần phải nỗ lực để biết rõ: Đây là sự diệt khổ. Cần phải nỗ lực để biết rõ: Đây là con đường tu tập để diệt khổ”. Những gì Đức Phật đã giảng dạy trong suốt 45 năm hoằng truyền Chánh pháp – từ bài kinh đầu tiên đến bài kinh cuối cùng – là liên hệ đến nhiệm vụ này, đó là thẩm thấu, thông hiểu, và thực chứng Tứ diệu đế. Những gì Ngài không truyền giảng, ta nên bỏ chúng lại trong rừng sâu.

 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
KHÔNG PHẢI TẠI CON MẮT

KHÔNG PHẢI TẠI CON MẮT

Xưa có một vị hiền nhân, cảm thấy dục vọng rất đáng sợ nên quyết chí lìa tục vào thâm sơn cùng cốc tu hành. Tu được mấy mươi năm, ông cảm thấy tự tin nên tuyên bố là mình đã đoạn trừ hết dục vọng, mọi người rất ngưỡng mộ, tôn ông là Thánh.

Một ngày nọ, ông dẫn đồ đệ hạ sơn vào phố thị. Trên đường, tình cờ hai thầy trò gặp một giai nhân có dung mạo khả ái như tiên giáng trần. Nàng đẹp đến nỗi trong phút giây tương ngộ đó thánh nhân bỗng… đâm ra mụ mẫm cả người, sóng tình trong lòng trào dâng cuồn cuộn, ồ ạt như giông tố, hồn phách xiêu giạt ngả nghiêng, tâm tư xao xuyến muốn hóa điên hóa dại, lửa tình trong ông đang hừng hực cháy, thiêu đốt tâm can…

Song trong giây phút khuynh đảo đó, ông đã cố hết sức để cảnh tỉnh mình, ráng thu hồi... hồn phách, quýnh quáng lôi tuột đệ tử đi, dù đã chấn chỉnh oai nghi song ông vẫn bước loạng choạng trên đường về núi.

Ðệ tử nhìn thấy sư phụ mặt mày thất sắc, lúc xanh lét lúc đỏ hồng, bộ dạng kỳ quái, lòng rất là thắc mắc.

Thánh nhân dẫn đệ tử về tới thảo am rồi, sau một hồi thở dốc, ông nghiêm trang bảo đệ tử:

- Ðường tu lắm nỗi gian nan, nếu thấy cái gì nhiễu loạn sự thành đạo của chúng ta, thì phải lo mà hủy diệt nó cho lẹ. Hôm nay, con mắt ta suýt chút nữa hại ta rơi vào nẻo tà, bởi vậy ta sẽ hủy nó đi!

Nói xong, thánh nhân dùng tay móc bỏ đôi mắt mình.

(Kể theo Truyện ngụ ngôn của Lâm Thanh Huyền)

BÀI HỌC ĐẠO LÝ:

Con mắt làm sao có thể khiến chúng ta rơi vào nẻo tà được? Dẫn chúng ta vào nẻo tà, chính là vọng tâm của chúng ta!

Khi chúng ta bị khuynh đảo, bị xao xuyến, đắm trước… điều cần làm không phải là phá hủy hay bịt các giác quan lại mà phải nhìn thấu triệt cơn mê của mình, nếu biết nhìn, theo dõi được những niệm vi tế đang diễn hành trong tâm, thì mình hóa thành chủ của những vọng niệm đó (không còn bị nó sai khiến nữa), khi là kẻ đang nhìn (vọng niệm) thì ta sẽ thoát ra ngoài sự đồng hóa của nó.

Khi cơn giận hay niệm yêu trổi lên, tên gọi tuy khác nhưng năng lượng chỉ một. Khi sân, ta lao theo, thì ta là niệm sân đó, ta đồng hóa mình với niệm sân tất nhiên sẽ bị kích động, bị mệt mỏi và hung hãn theo lửa sân đang bốc cao, nó bốc tới đâu, tự ngã ta bốc lên tới đó. Lửa sân hay lửa tình đều là lửa, có thể giúp người nhưng cũng có thể… hại chết người.

Như dòng điện chuyền vào quạt, gọi là quạt điện, vào bàn ủi gọi là ủi điện v.v... tên gọi tuy khác, dòng điện chỉ là một. Người có năng lượng hay “dòng điện” mạnh không phải là cái lỗi, mà lỗi là để điện hại chết mình và người.

Những người tài ba thường có “dòng điện” rất mạnh, vì vậy mà họ dễ nóng tính, dễ xao lòng… và cũng dễ thành đạo một khi dòng điện được chuyền vào nẻo tốt.

Các bậc Thánh tu đạo là người có “dòng điện” cực mạnh, song các ngài biết điều khiển nó vào công cuộc phụng hiến vĩ đại, đem hết khả năng phục vụ khắp thế nhân.

Bởi vậy, kinh Pháp Cú nói “Tâm làm chủ, tâm dẫn đầu”. Biết nhìn vọng niệm diễn hành trong tâm, không lao theo, không đuổi, không nhận… ta mới có được niềm bình an, mới hiểu câu “tâm bình thường là đạo”! Như một người bị vật giữa muôn ngàn cơn sóng cuồng (khi biển động) rồi sau đó trèo được lên bờ và thanh thản đứng nhìn những đợt sóng hung hãn đuổi nhau. Cảm giác bình an cũng giống vậy, khi ta lao theo dục vọng thì ta giống như kẻ trầm mình trong biển động bị sóng nhồi, khi ta nhìn được những dục niệm đang khởi ồ ạt đó, nhìn lặng lẽ không lao theo, thì ta giống như kẻ bàng quan, không còn là người trong cuộc, ta hóa thành kẻ bình thản đứng bên lề nhìn sóng cuộn, không còn bị nó tác động, chi phối, nhồi, vật...

Cho nên, không cần phải hủy giác quan, không phải tại cơ quan nào hết, mà chỉ cần biết nhìn thấu đáo, tức khắc ta sẽ thấy mình thoát ra, đứng bên lề dục vọng, tận hưởng cảm giác tĩnh lặng, bình an.

Song kinh nghiệm này không thể nói hay để đọc qua loa, mà phải có tu tập, trải nghiệm và thân chứng. (Mà nếu ta đã “thử nhìn” mà vẫn chưa nếm cảm giác bình an là do nhìn chưa đúng cách thôi).


Hạnh Đoan (GNO)
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
ĐẠI SƯ TRẦM MẶC

ĐẠI SƯ TRẦM MẶC

Xưa có một Hòa thượng, nghe nói người chứng ngộ sẽ được người khác tôn kính trọng vọng, ngày nọ ông bèn tuyên bố với mọi người là mình đã chứng đạo.

Nhiều Tăng sĩ lặn lội đường xa tìm đến tham bái, cầu ông chỉ dạy.

Ông lo lắng sẽ bị lộ tính phàm phu của mình nên ra vẻ im lặng không nói một lời, trang bị cho mình một dáng vẻ trầm mặc huyền bí, tự xưng là Trầm Mặc đại sư và khôn khéo giao phó mọi việc cho hai đệ tử ưu tú có tài hùng biện tiếp khách.

Ngày nọ hai đệ tử có việc phải ra ngoài, đúng vào lúc đó có một vị Tăng du phương tìm đến xin học đạo, bất đắc dĩ đại sư Trầm Mặc phải “thân chinh” tiếp khách.

Vị Tăng hỏi: - Phật là gì?

- Đại sư Trầm Mặc chẳng biết trả lời làm sao, đành giữ im lặng, vừa ngó đông nhìn tây ngong ngóng mong tìm bóng dáng hai đệ tử về cứu khổ.
Vị Tăng thấy đại sư im lặng nhìn quanh quất đầy khí phách thiền cơ nên hỏi tiếp: - Pháp là gì?

Lần này đại sư Trầm Mặc tuyệt vọng vì không tìm thấy đệ tử, đành né tránh tia nhìn sắc bén của vị Tăng, vờ ngẩng đầu nhìn trời, rồi cúi xuống dán mắt vào đất, sau đó im thin thít, không hó hé nửa lời.

Vị Tăng cảm thấy mình được khai thị sâu sắc, hỏi tiếp:- Tăng là gì?

Đến lúc này đại sư Trầm Mặc đành nhắm tịt mắt lại chẳng thèm biểu hiện gì nữa.

Du Tăng lòng đầy hỷ lạc, hỏi thêm: - Đại sư, hạnh phúc, an lạc là gì?

- Giờ thì ông đã chịu hết nổi, cảm thấy đau đầu, giơ hai tay phẩy một cái, tỏ vẻ bất lực, không thể ứng tiếp gì nữa.

Du Tăng cực kỳ cung kính, vui vẻ cáo từ, lòng cảm thấy đại sư Trầm Mặc sao mà cao thâm, uyên bác quá! Đúng là danh bất hư truyền, thâm thúy khó lường!

Ông từ giã đại sư đi không lâu thì gặp hai đồ đệ của ông đang trên đường về, không hề biết quan hệ thầy trò của họ, du Tăng sung sướng bày tỏ niềm tâm đắc mãn nguyện của mình:

- Thật lời đồn không sai! - Nhà sư Trầm Mặc trên núi quả là bậc chân tu chứng ngộ đấy! Tôi hỏi: Thế nào là Phật? Thì đại sư xoay đầu nhìn bốn phương tứ hướng, như ngầm bảo người người đi tìm Phật khắp nơi, kỳ thật Phật ở trong lòng, chẳng cần phải chạy đông rảo tây tìm kiếm...

Tôi hỏi: Thế nào là Pháp? Thì ngài trước nhìn lên trời, rồi lại ngó xuống, ngụ ý rằng Pháp hoàn toàn bình đẳng, tuyệt không phân cao thấp.

Tôi hỏi: Thế nào là Tăng? - Thì ngài nhắm hai mắt lại liền, ý muốn dạy phải bế môn khổ tu mới là Tăng!

Sau đó tôi nghĩ không ra điều gì nữa liền hỏi: - Thế nào là hạnh phúc hỷ lạc? Thì ngài đưa hai tay ra, ý nói phải buông bỏ hết mới là hạnh phúc, khéo giúp đỡ người khác mới là hỷ lạc…

Chà! Đại sư Trầm Mặc chứng ngộ thâm áo, chỉ dạy cao siêu biết dường nào! Hai huynh hãy tới đó mà xin ngài chỉ giáo cho!

Vị Tăng hành cước nói xong lộ vẻ cực kỳ mãn nguyện, vái chào và tiếp tục cuộc vân du học đạo của mình.

Hai vị đồ đệ vừa mục kích những gì mình nghe thấy chỉ có nước há hốc mồm trợn tròn mắt… nghĩ thầm: Sao sư phụ mình trong nháy mắt đã biến thành bậc ngộ đạo cao thâm đáng nể thế? Phải mau về hỏi cho rõ thực hư…

Đại sư Trầm Mặc vừa thấy hai đệ tử về đến, không kiềm được thịnh nộ, liền mắng xối xả:

- Bọn ngươi đi lâu như quỷ, vừa rồi có một du Tăng đến cầu đạo, hỏi lung tung, báo hại ta suýt nữa thì té nhào, may nhờ ta biết làm thinh tới cùng, mới thoát nạn đó!
(Kể theo Truyện cổ Phật giáo)

BÀI HỌC ĐẠO LÝ:

Một vị thầy đạt đạo, tiềm ẩn phẩm chất cao quý không bao giờ cao giọng xưng mình đã chứng ngộ hay khoe khoang với mọi người về những thành tựu của mình. Không phải cứ làm thinh là đã chứng, không phải cứ thuyết pháp liên miên bất tận không đợi mời thỉnh là đã chứng. Rất khó đo lường mức độ chứng ngộ của một người. Ta chỉ có thể nhìn cách ứng xử, cách đón bát phong (lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ và lạc), sự thành thật, lòng từ và trí tuệ của thầy được thể hiện như thế nào.

Có những vị thầy được xem như bậc Thánh, song lời tâm sự của các ngài rất dung dị dễ thương, các ngài tự nhận rằng cũng có lúc nội tâm mình rơi vào trạng thái nguy hiểm - vì đã để mất lòng từ đối với những kẻ muốn làm hại mình. Có nghĩa là lòng từ bi, nhân cách trong sáng thánh thiện luôn được các ngài đặt lên hàng đầu.

Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã cho một lời khuyên rất minh triết rằng: “Đừng hấp tấp tôn ai là thầy vì mối liên hệ này ảnh hưởng đời sống tinh thần của ta rất sâu sắc. Dù phải đợi, một năm, mười năm hay mấy mươi năm, trước tiên ta hãy coi người đó là thiện tri thức, hãy quan sát cách cư xử dạy bảo của người đó cho đến bao giờ ta hoàn toàn phát khởi đại tín tâm thì hãy tôn người đó làm thầy”.


Hạnh Đoan
(Theo Giác Ngộ online)​
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
KHÔNG THỂ ƯỚC LƯỢNG

KHÔNG THỂ ƯỚC LƯỢNG

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Thế Tôn gọi các Tỷ kheo:

Này các Tỷ kheo, có ba hạng người này có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Dễ ước lượng, khó ước lượng và không thể ước lượng.

Thế nào là hạng người dễ ước lượng? Ở đây, này các Tỷ kheo, có hạng người tháo động, kiêu căng, lắm mồm lắm miệng, thất niệm, không tỉnh giác, tâm tán loạn, các căn buông thả. Này các Tỷ kheo, đây gọi là người dễ ước lượng.

Thế nào là hạng người khó ước lượng? Ở đây, này các Tỷ kheo, có hạng người không tháo động, không kiêu căng, không lắm mồm lắm miệng, trú niệm, tỉnh giác, nhất tâm, các căn được bảo vệ. Này các Tỷ kheo, đây gọi là người khó ước lượng.

Và này các Tỷ kheo, thế nào là hạng người không thể ước lượng? Ở đây, này các Tỷ kheo, bậc A la hán các lậu hoặc đã được đoạn tận. Này các Tỷ kheo, đây gọi là hạng người không thể ước lượng.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ I, chương 3, phẩm Đọa xứ, phần Không thể ước lượng, VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.483)

LỜI BÀN:

Tất cả mọi biểu hiện qua hành vi, ngôn ngữ trong đời sống của con người đều được điều động, sắp xếp và chi phối từ trong tâm ý. Đức Phật từng chỉ rõ "Ý dẫn đầu các pháp” (Pháp Cú) hay "Tất cả do tâm tạo” (Hoa Nghiêm) để nói lên hoạt dụng vô cùng tận của tâm ý.

Khi một người chưa thiết lập được chánh niệm thì tâm ý họ luôn rong ruổi theo trần, vọng động không ngừng khi đối duyên xúc cảnh. Với một đời sống hướng ngoại hoàn toàn, những người này rất dễ dàng bị ngoại cảnh cuốn hút, chi phối, vui buồn với những điều mắt thấy, tai nghe. Cũng vì thiếu hướng nội nên đời sống của họ dần dần trở nên hời hợt, đánh mất sự vững chãi, sâu lắng và nhất là đánh mất cơ hội quán sát sâu sắc vào bên trong những biểu hiện bình thường của cuộc sống để hiểu nhau hơn. Do vậy, Thế Tôn gọi những người này là dễ ước lượng, dễ đo lường vì tâm họ theo cảnh mà phơi bày hết ra ngoài qua tham vọng, tật đố, si mê và tất cả phiền não nói chung.

Đối với người biết trú niệm, luôn chánh niệm tỉnh giác và hộ trì các căn thì họ không giao động theo hoàn cảnh bên ngoài. Mặc dù tiếp xúc đầy đủ với mọi biến động của ngoại cảnh nhưng tâm họ vẫn bình an, bất động. Hạng người này luôn sống trong ung dung, tỉnh lặng mà sáng suốt tinh tường mọi sự. Không biểu hiện cảm xúc thái quá, an nhiên với mọi biến động nên khó mà biết được tâm ý của hạng người này.

Hạng người thứ ba, bậc A la hán đã diệt tận mọi lậu hoặc an trụ tâm siêu thế của các bậc Thánh nên không thể lấy suy xét phàm tình để đo lường, đánh giá hay "hiểu” được các ngài. Không chỉ loài người mà tất cả các loài khác như chư thiên, quỷ thần cũng không tìm ra dấu vết của những bậc đã an trụ tâm nơi vô sở trụ, thể nhập tánh Không, tuệ giác vô ngã. Do vậy, Thế Tôn mới gọi các bậc A la hán là không thể ước lượng.

(Quảng Tánh)
(GNO)
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
KHÔNG THỐI ĐỌA

KHÔNG THỐI ĐỌA

Một thời, Thế Tôn trú giữa dân chúng Sakka, dạy các Tỷ kheo: Này các Tỷ kheo, có sáu pháp không thối đọa này, Ta sẽ thuyết, hãy lắng nghe.

Và này các Tỷ kheo, thế nào là sáu pháp không thối đọa? Không ưa công việc, không ưa nói chuyện, không ưa ngủ nghỉ, không ưa hội chúng, thiện ngôn, thiện bạn hữu.
Này các Tỷ kheo, có sáu pháp không thối đọa này.

Này các Tỷ kheo, những ai trong thời quá khứ không bị thối đọa trong các thiện pháp, tất cả đều nhờ sáu pháp này. Này các Tỷ kheo, những ai trong thời vị lai sẽ không bị thối đọa trong các thiện pháp, tất cả đều nhờ sáu pháp này. Này các Tỷ kheo, những ai trong thời hiện tại không bị thối đọa trong các thiện pháp, tất cả đều nhờ sáu pháp này.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ III, chương 6, phẩm Trên tất cả, phần Không thối đọa, VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.56)

LỜI BÀN:

Việc tu tập, hướng thiện như bơi thuyền ngược nước, nếu không gắng sức chống chèo sẽ bị cuốn xuôi. Vì thế, biết bao người một thời hăm hở tu hành, tưởng chừng như sắp thành chánh quả, rồi chẳng bao lâu sau thì lối cũ ta về, an phận theo thế thường.

Thối thất, thụt lùi trên đường đạo về cả hai phương diện nội tâm bên trong và hình thức bên ngoài vốn có nhiều nguyên nhân, tùy thuộc nghiệp duyên của mỗi người. Theo kinh nghiệm của Thế Tôn, để giữ vững chí nguyện xuất trần, trước phải biết buông bỏ những buộc ràng về công việc. Có một điều gần như nghịch lý rằng, những tưởng xuất gia là vô sự, thanh bần và thong dong nhưng rồi thực tế thì công việc lại nhiều hơn. Việc càng nhiều thì thời gian tu tập càng ít lại và phiền não có cơ hội thêm lên. Cho nên, càng ôm đồm thì càng khổ mà hầu như chúng ta lại thích ôm đồm.

Kế đến, một hành giả phải trau dồi thân tâm, tích cực hướng nội bằng cách thực tập các phương pháp thiền định. Không ưa nói chuyện, vì hí luận sẽ khiến tâm phan duyên, hướng ngoại. Hạn chế ngủ nghỉ để thần trí tỉnh táo, tâm không bị mê mờ. Quan trọng hơn là tránh xa những hội chúng ồn ào để giữ tâm định tĩnh. Đời sống tịnh cư hay độc cư sẽ là thắng duyên cho những ai chuyên tâm thiền định. Đặc biệt là được thân cận các bậc thiện hữu tri thức để luôn được sách tấn, trợ duyên và nâng đở mỗi khi lạc bước, yếu lòng.

Nếu những ai hội đủ các duyên lành này trong quá khứ, hiện tại và mai sau thì chắc chắn rằng những người ấy sẽ thẳng tiến trên đạo lộ giải thoát. Thực ra, những duyên lành này vốn sẵn trong đời sống hàng ngày. Có điều, chúng ta có khai thác và tận dụng chúng để nuôi dưỡng và giữ vững chí nguyện xuất trần của mình hay không mà thôi.

(QUẢNG TÁNH - GNO)
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
RÙA VÀ CÁ

RÙA VÀ CÁ

Thuở xưa có con cá sống dưới hồ nước cùng với con rùa. Một hôm rùa dạo chơi trên mặt đất trở về, gặp cá liền kể:

- Mấy hôm rày tôi đi một vòng trên đất khô.
- Đất khô à, cá lấy làm ngạc nhiên. Bạn nói đất khô, vậy đất khô là gì? Đất mà làm sao khô được? Tôi chưa khi nào thấy bùn đất mà khô cả.
Bẩm tánh ôn hòa, rùa nhỏ nhẹ đáp:
- Bạn nghĩ như vậy cũng tốt. Nhưng kỳ thực, những nơi mà tôi đi qua mấy hôm rày là mặt đất khô khan.
- Này bạn rùa, bạn nói rõ lại coi. Đất khô mà bạn nói ra làm sao, giống như cái gì? Nó có ẩm ướt không?
- Không.
- Đất khô có mát mẻ, êm dịu và dễ chịu không?
- Không.
- Đất khô có trong suốt và ánh sáng có rọi xuyên qua được không?
- Không.
- Đất khô có mềm mại để mình bơi lội trong ấy không?
- Không.
- Đất có di chuyển và trôi chảy thành dòng không?
- Không.

Cá rất bực mình với loạt trả lời không, không của rùa nhưng vẫn gặng hỏi.
- Đất có nổi sóng và tan ra thành bọt không?
- Không. Rùa thành thật trả lời.

Cá bỗng nhiên cười lớn, lộ vẻ hân hoan của người thắng cuộc.

- Tôi đã bảo rằng đất khô của bạn chỉ là hư vô, không có gì hết. Tôi hỏi và bạn đã xác nhận rằng đất khô là không. Không phải là gì hết thì là hư vô chứ còn gì.

- Được, rùa đáp, tốt lắm. Này bạn cá, nếu bạn quả quyết rằng đất khô là hư vô, không có gì hết thì cứ tiếp tục nghĩ như thế. Thực ra, ai đã biết nước và đất liền rồi thì chắc chắn sẽ chê bạn là con cá dại dột, vì quả quyết rằng những gì mà mình không biết là hư vô, là không có gì hết.
(Theo Truyện cổ Phật giáo)


BÀI HỌC ĐẠO LÝ:

Tri thức thì vô cùng mà hiểu biết của chúng ta thì hạn hẹp. Trí tuệ vô ngã của bậc giác ngộ thì vô hạn mà tư duy hữu ngã của phàm phu thì giới hạn. Vì thế để hiểu, cảm thông và chia sẻ kinh nghiệm cũng như truyền trao tuệ giác cho nhau cũng không phải dễ dàng. Đó cũng là lý do vì sao trong một vài trường hợp Thế Tôn im lặng không trả lời và Lão Tử, bậc Thánh triết Trung Hoa cũng lạnh lùng "tri giả bất ngôn”.

Người biết thì không nói. Vì sao? Vì nói ra chắc cũng trớ trêu như chuyện rùa với cá. Toàn bộ tri thức và kinh nghiệm của cá chỉ từ mặt nước trở xuống đáy hồ thì làm sao cá có thể khái niệm được chuyện trên hồ. Cái thấy biết của cá cũng không hơn ếch ngồi đáy giếng là bao, ấy vậy mà cá còn dương dương tự đắc chế giễu rùa là khoác lác, thậm chí là “mê tín dị đoan” nữa cũng không chừng.

Khoa học hiện đại đã vén lên rất nhiều bức màn bí mật của thế giới tự nhiên. Nhân loại ngày nay sẽ không ngạc nhiên khi nghe kinh Phật nói "trong một bát nước có vô số vi trùng” hoặc "có vô số tinh cầu và thế giới trong vũ trụ bao la này”. Lại nữa, trạng thái vừa sóng vừa hạt của hạt quark mà ngành Vật lý Lượng tử phát hiện gần đây phải chăng là một cách trình bày khác của "sắc tức thị không” trong tuệ giác Bát Nhã. Thế nhưng những tuệ giác này được mấy ai thấu hiểu và sẻ chia khi Phật Thích Ca tuyên bố từ rất xa xưa.

Đó là chưa đề cập đến vấn đề tâm linh khi buông xuống gánh nặng tri thức, lắng đọng tất cả suy tư, xả ly tất cả tham ái để tham thiền nhập định thâm sâu đến khai ngộ, tuệ giác bùng vỡ siêu việt tất cả các phạm trù tương đãi nhị nguyên. Với tâm thái của bậc giác ngộ, vượt lên tất cả sự thấy biết thông thường thì chúng ta không thể nào đem cái "tình phàm” hạn hẹp của mình để "lượng Thánh”. Và nhất là, càng không nên dựa vào uy quyền hay sự đồng thuận của số đông hoặc trong khi chờ kết quả đong đếm của khoa học mà vội vàng lên án, phủ nhận, kết tội những gì mình không thấy, không biết là không có, hư vô.

Do vậy, thận trọng với những gì mình chưa hiểu biết trọn vẹn để tránh sự quy kết vội vàng là một thái độ khoa học và văn minh cần có trong các ứng xử hàng ngày. Nhất là trong lĩnh vực tâm linh thì càng nên thận trọng hơn. Bởi khi chưa giác ngộ hoàn toàn thì chúng ta chỉ là những "người mù sờ voi” hay như con cá tội nghiệp kia chỉ biết từ mặt nước trở xuống mà thôi.


(THƯỜNG TÂM - (GNO))
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
THUYẾT PHÁP NHƯ TỲ KHEO NI SUKKA

THUYẾT PHÁP NHƯ TỲ KHEO NI SUKKA

Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Veluvana, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, Tỷ kheo ni Sukkà đang thuyết pháp với đại chúng đoanh vây. Rồi một Dạ xoa có lòng tịnh tín đối với Tỷ kheo ni Sukkà, đi từ đường này đến đường khác, từ ngã tư này đến ngã tư khác ở Ràjagaha, và ngay lúc ấy, nói lên những bài kệ này:
[align=justify:438bffb4f0]Này người Vương Xá thành
Các người đã làm gì
Mà nay lại nằm dài
Như say vì rượu ngọt
Không hầu hạ Sukkà
Đang thuyết pháp bất tử
Pháp ấy không trở lui
Cam lồ không lưng vơi
Ta nghĩ người trí tuệ
Uống nước cam lồ ấy
Chẳng khác một trận mưa
Với kẻ khát lữ hành.[/align:438bffb4f0]
(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ I, chương 10, phần Sukkà, VNCPHVN ấn hành, 1993, tr.468)

LỜI BÀN:
Thuyết pháp là nhiệm vụ căn bản (chỉ sau tu tập) của các Tỷ kheo. Các bậc Thánh tăng thời xưa thường tuyên thuyết giáo pháp: trong khi đi khất thực, sau khi thọ trai, những lúc người khác tìm đến hỏi đạo, trong lúc cần phải tranh luận và phần lớn là thuyết pháp tại các tinh xá, giảng đường v.v… Ngoài Thế Tôn, các Tỷ kheo thì những Tỷ kheo ni và hàng cư sĩ cũng góp phần quan trọng vào sự nghiệp hoằng pháp. Những Thánh nữ A la hán thông tuệ như Khema (Trí tuệ đệ nhất), biện tài như Dhammadinnà (Thuyết pháp đệ nhất) đã làm rạng danh giáo pháp Như Lai. Tỷ kheo ni Sukkà tuy không được tôn vinh vao hàng đại đệ tử nhưng tài trí và đức độ hơn người đã thuyết pháp khiến cho quỷ thần quy phục, phát nguyện hộ trì.
Chúng ta phải thấy rằng, không hẳn là phải có bằng cấp chuyên ngành giảng sư hay có học vị cao mới thuyết pháp thành công. Tỷ kheo ni Sukkà chỉ với tâm thành, nhiệt huyết hoằng pháp cùng với khả năng thiền định thâm nhập và thể nghiệm giáo pháp của tự thân mà cảm hóa được hội chúng trời người. Một pháp sư tuyên thuyết giáo pháp mà nhiếp phục được hội chúng đông đảo, ồn ào trở nên thanh tịnh vắng lặng đã là điều khó nhưng chuyển hóa được các loài khác (chư thiên, ma quỷ…) bỏ tà quy chánh lại càng khó hơn. Ngay đây năng lượng giác ngộ và giải thoát hay nói cách khác phạm hạnh, đức độ, sự thực tu, thực chứng của vị pháp sư trở nên vô cùng quan trọng, nền tảng cho sự hoằng pháp thành công.
Pháp thoại này cũng cho thấy vai trò hộ pháp của chư thiên và quỷ thần. Chúng ta thử tưởng tượng, một pháp sư đăng đàn thuyết pháp mà trong đạo tràng không chỉ hàng Phật tử mà có cả chư thiên và quỷ thần vì kính trọng pháp sư mà động viên, nhắc nhở mọi người đến nghe pháp thì đạo tràng ấy sẽ trang nghiêm và hưng thịnh đến mức nào. Ngoài ra, thuyết pháp không nhất thiết là phải đăng đàn với hội chúng đông đảo và thao thao vô ngại biện tài mà chỉ cần thành tâm đọc tụng kinh điển một cách rõ ràng hay im lặng trong tư duy thiền quán các đề mục Chánh pháp cũng có thể giáo hóa chúng sanh.
QUẢNG TÁNH
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
VẾT THƯƠNG

VẾT THƯƠNG​

Một cậu bé có tính xấu rất hay nổi nóng. Một hôm người cha đưa một túi đinh và nói với cậu bé rằng mỗi khi con nổi nóng thì hãy chạy ra đằng sau nhà đóng một cái đinh lên hàng rào gỗ.

Ngày đầu tiên cậu bé đã đóng rất nhiều đinh lên hàng rào. Nhưng sau vài tuần cậu bé đã tập kiềm chế cơn giận của mình và số đinh đóng lên hàng rào mỗi ngày một ít đi. Rồi cậu nhận thấy rằng kiềm chế cơn giận của mình thì dễ hơn là phải đóng cây đinh lên hàng rào. Một ngày kia, cậu đã không nổi giận một lần nào suốt cả ngày. Cậu nói với cha và ông bảo cậu hãy nhổ một cái đinh ra khỏi hàng rào nếu một ngày cậu không hề nổi giận với ai dù chỉ một lần.

Ngày lại ngày trôi qua, rồi cũng đến một hôm cậu bé tìm cha mình báo rằng không còn một cái đinh nào trên hàng rào nữa. Cha cậu đã cùng cậu đứng bên hàng rào và ông nói với cậu rằng: “Con đã làm rất tốt! Nhưng hãy nhìn những lỗ đinh trên hàng rào. Hàng rào đã không giống như xưa nữa rồi. Nếu con nói điều gì trong cơn giận dữ, những lời nói đó cũng giống như những lỗ đinh này, để lại những vết thương trong lòng người khác. Dù sau đó con có nói bao nhiêu lần xin lỗi đi nữa, vết thương đó vẫn còn ở lại. Vết thương tinh thần cũng đau đớn như vết thương thể xác vậy…”.

Lời cha dạy thật là thâm thúy, cậu bé chừng như đã hiểu ra được tai hại của cơn giận. Từ đó về sau cậu bé trở nên hiền lành dễ thương khiến mọi người vô cùng ngạc nhiên về sự thay đổi tâm tính của cậu.

(Kể theo Học làm người)


BÀI HỌC ĐẠO LÝ

Chuyện xưa kể về ông Trình Tử tu thân sửa mình bằng cách mỗi ngày nếu ông làm được một điều tốt thì bỏ vào hũ một hạt đậu trắng; còn ngược lại thì bỏ vào hũ một hạt đậu đen. Hết một ngày ông đổ hũ đậu ấy ra kiểm tra. Ông bắt đầu một cuộc sống tỉnh thức, biết cân nhắc trước những việc sắp làm. Cho nên số lượng đậu đen ngày càng ít đi, cho đến lúc đậu đen không còn xuất hiện trong hũ nữa. Ông vui mừng dạy cho con cháu tu thân bằng cách thực tập này. Đây là cách kiểm điểm bản thân từng ngày, giúp cho ta thực tập chánh niệm biết những gì đang xảy ra và kịp thời ngăn chặn những quyết định sai lầm.

Cũng như ông Trình Tử, người cha trong câu chuyện trên đã dạy con sửa cái tính nóng giận bằng cách mỗi khi nổi nóng thì chạy ra đằng sau nhà đóng một cái đinh lên hàng rào gỗ và ngày nào không hề nóng giận thì nhổ bớt một cây đinh. Cậu thực tập rất tốt và đã thành công khi không còn một cái đinh nào trên hàng rào nữa nhưng vẫn còn để lại những lỗ đinh nham nhở. Từ những dấu vết này, cha cậu đã chỉ dạy cho cậu một bài học rất quý giá về cái giá phải trả của sự nóng giận: “Dù sau đó con có nói bao nhiêu lần xin lỗi đi nữa, vết thương đó vẫn còn ở lại. Vết thương tinh thần cũng đau đớn như vết thương thể xác vậy…”.

Ông bà ta có dạy: “Lời nói như đinh đóng cột”. Đó chỉ là lời nói thôi, chưa phải là việc làm. Một lời ta nói, một việc ta làm trong cơn nóng giận giống như ta đóng đinh vào cột không chỉ làm đau người khác trong giây phút đó rồi thôi, mà còn để lại vết thương lòng, có những vết thương lòng quá lớn đến mãi về sau khi chợt nhớ vẫn còn nhức nhối.

Người học Phật đều biết rõ tham sân si là ba con quỷ dữ. Nhưng khi ta ý thức được "một điều nhịn bằng chín điều lành” và hậu quả của cơn giận là để lại vết thương trong thân tâm người khác và cả chính mình, tiêu hao nhiều năng lượng, ảnh hưởng đến tim mạch, thì ta không dại gì mà sân si cho cực nhọc thân xác vốn dĩ đã quá mệt mỏi với việc áo cơm mưu sinh.

Vậy thì, nếu còn ai đó có đôi khi chưa thể chế ngự được cơn giận thì hãy mau thực tập ngay đừng để cơn giận làm hại ta. Nếu cách bỏ đậu vào hũ hoặc cách đóng đinh vào hàng rào rườm rà quá thì ta hãy thực tập theo cách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Khi cơn giận đến, ta ngồi yên quán chiếu đọc thầm bài kệ theo hơi thở vào ra: "Thở vào, con thấy con đang giận. Thở ra, con thấy cái giận đang ở trong con…”. Cái giận trong ta nghe vỗ về êm tai quá, nó chẳng nỡ lòng nào… giận hóa thành thương. Chỉ vài ba hơi thở thôi, ta đã điều phục được cơn giận rồi đó, rất dễ dàng! Không tốn kém gì cả! Từ nay, ta không còn phải sợ để lại vết thương lòng cho những người yêu quý quanh ta.


Lê Đàn
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Ở ĐÂU CŨNG ĐƯỢC KÍNH QUÝ

Ở ĐÂU CŨNG ĐƯỢC KÍNH QUÝ

Một thời, Thế Tôn trú ở Kimbilà, tại Veluvana, dạy các Tỷ kheo: Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ kheo, Tỷ kheo trú tại chỗ giúp đỡ rất nhiều cho trú xứ ấy. Thế nào là năm?

Có giới và học tập các học pháp. Nghe nhiều và khéo thành tựu nhờ chánh kiến. Vị ấy sửa chữa những gì bị gãy, bị hư hại. Khi đại chúng Tỷ kheo đi đến từ nhiều địa phương khác nhau, vị ấy nói với các gia chủ đi đến như sau: “Nay đại chúng Tỷ kheo đã đến từ nhiều địa phương khác nhau. Các vị hãy làm phước đức. Nay là thời điểm làm các phước đức”. Chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được bốn thiền không phí sức và hiện tại lạc trú.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ kheo, Tỷ kheo trú tại chỗ giúp đỡ rất nhiều cho trú xứ ấy.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Trú tại chỗ, phần Giúp đỡ nhiều, NCPHVN ấn hành, 1996, tr.735)


LỜI BÀN:

Theo truyền thống thiền môn, chư vị Tỷ kheo khi du hành và lưu trú trong bất cứ các tự viện hay chùa chiền nào cho đến ba ngày sau thì xem như không còn là khách mà phải thực hành trách nhiệm và bổn phận như Tăng chúng thường trụ ở trụ xứ ấy. Để cho sự có mặt của mình không trở thành gánh nặng và đến đâu cũng được kính quý, mỗi vị Tỷ kheo phải luôn phấn đấu tu học đồng thời góp sức cùng chư Tăng nơi trụ xứ ấy bảo vệ và xây dựng chùa chiền ngày càng phát triển vững mạnh.

Theo kinh nghiệm của Thế Tôn, khi gia nhập hội chúng mới, trước hết vị Tỷ kheo cần phải nỗ lực tu tập, giới hạnh tinh nghiêm. Kế đến là thường xuyên học hỏi, nghe pháp để có nhận thức và quan niệm đúng Chánh pháp. Đồng thời vị ấy tự giác tham gia vào công việc như chấp tác, dọn dẹp, sửa chữa những gì bị hư hại làm cho chùa viện sạch đẹp, khang trang hơn. Đối với các Tỷ kheo mới du hành đến trụ xứ, Tỷ kheo ấy phải sanh tâm hoan hỷ, kêu gọi các gia chủ cư sĩ cúng dường để gieo trồng phước báo và trợ duyên cho các ngài đầy đủ phương tiện tu hành. Quan trọng nhất là vị Tỷ kheo trong thời gian ở tại trụ xứ ấy đạt được các quả chứng và sống thảnh thơi an lạc.

Nếu hội đủ năm yếu tố trên, một vị Tỷ kheo đi đến nơi đâu sẽ giúp ích cho nơi ấy rất nhiều. Và tất nhiên, vị ấy ở đâu cũng không trở thành gánh nặng, được mọi người thương mến, kính trọng và mong mỏi ở lại lâu dài.

Tuy nhiên trong thực tế hiện nay, một số Tỷ kheo trẻ cũng khá vất vả trong việc tìm cho mình một trụ xứ để nương tựa tu học. Thực trạng này hẳn có nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết mỗi chúng ta cần phải tự xem lại mình đã làm được những gì để đóng góp cho trụ xứ như lời Phật đã dạy. Thay vì yêu cầu trụ xứ ấy trợ duyên cho mình, hãy hết lòng vì sự phát triển chung, tất yếu mình sẽ được an ổn.


QUẢNG TÁNH
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
BẦY RÙA

BẦY RÙA

Lúc còn bé bị trong nhà quản thúc ta thường bất bình "Sao mà người lớn nghiêm khắc vô lý thế?”. Ở cái tuổi 14-15, ta đã cảm thấy mình thông minh ghê lắm, dường như hiểu biết vượt trội hơn người (?), chỉ là ta im ỉm không khoe, không nói ra, bởi "Cao nhân bất lộ tướng” mà!


Có một bầy rùa đen ngụ tại hang núi hoang dã xa xôi.Cạnh đấy không xa có một đồng cỏ xanh mượt bao quanh hồ nước trong vắt.

Rùa đen thắc mắc, hỏi mẹ: - Vì sao chúng ta không ở tại đồng cỏ trù phú phì nhiêu, có nước ngọt thức ngon, ngụ chi ở nơi heo hút buồn tẻ này?

Rùa mẹ đáp:- Không! Ngàn vạn lần các con chớ đi đến gần hồ, ngay cả trong mơ cũng không được nghĩ tới, biết chưa?

- Vì sao thế?

- Bởi vì cạnh hồ có thợ săn rình rập đợi sẵn, họ mà bắt được các con thì sẽ thịt ngay, còn lấy vỏ làm quà lưu niệm nữa.

Rùa đen càng lớn, rùa mẹ càng cấm tuyệt không cho chúng bén mảng đến gần hồ.

Nhưng đám rùa con thèm tới đó lắm.

Chúng bảo nhau:- Chắc là không có thợ săn đáng sợ như mẹ mình nói đâu.

- Chúng mình lớn cả rồi, nếu như phát hiện là có thợ săn thì ta nhảy ngay xuống hồ trốn, họ làm sao mà bắt được?

- Đúng vậy! Đúng vậy! Vì sợ chút nguy hiểm cỏn con mà bỏ qua thú vui trước mắt, thế có uổng phí cuộc đời không chứ? Phải ra đấy mà ngắm cỏ xanh nước biếc chiêm ngưỡng cảnh đẹp chung quanh!

Bầy rùa con bàn bạc cả buổi, cuối cùng đồng quyết định ra hồ chơi. Chúng bò xuống khe núi, đi tới cạnh bờ hồ, lòng vô cùng thích thú. Nhớ lời mẹ, chúng cũng nhìn quanh quan sát, nhưng chẳng thấy có bóng dáng của mãnh thú hay kẻ thợ săn nào, thế là không cần cảnh giác, chúng vô tư đùa nghịch với nhau.

Đột nhiên từ trên không trung có một tấm lưới to chụp xuống, chúng lật đật bò ra, ai ngờ lưới bủa nhanh, nhốt cứng lũ rùa, càng lúc càng siết chặt, chỉ có một con trong lúc hoảng loạn đã nhanh chân lủi vào kẹt đất may mắn trốn thoát, về được tới hang.

Mẹ chúng nhìn thấy chỉ có con trai cả về, cuống quýt hỏi:- Các con lén ra hồ chơi phải không? Sao chỉ có mình mày về thôi?

Rùa anh vừa thở hổn hển vừa nói:- Mẹ ơi, chúng con lén ra hồ chơi, không thấy thợ săn, chỉ thấy mảng lưới to chụp xuống, các em con bị bắt đem đi hết rồi.

Rùa mẹ khóc rống lên:- Chính thợ săn ra tay đấy, họ núp trên cây rình bắt các con mà. Chuyện này không phải là hôm nay mới xảy ra mà tận ngày xưa, từ đời ông sơ, ông cố, ông nội của các con kia. Do vậy mà tổ tiên giòng rùa nhà ta từng dặn nhau: phải trốn trong hẻm hóc hoang vu sinh sống, chớ có ham chỗ đẹp đẽ mà thiệt thân. Các con là đồ nhãi nhép ngốc nghếch, không chịu nghe lời mẹ dạy nên mới tự hại mình!

(Kể theo Truyện cổ dân gian)

BÀI HỌC ĐẠO LÝ:

Lúc còn bé bị trong nhà quản thúc ta thường bất bình "Sao mà người lớn nghiêm khắc vô lý thế?”. Ở cái tuổi 14-15, ta đã cảm thấy mình thông minh ghê lắm, dường như hiểu biết vượt trội hơn người (?), chỉ là ta im ỉm không khoe, không nói ra, bởi "Cao nhân bất lộ tướng” mà!

Song, người lớn phải thầm hiểu điều này chứ! Vậy mà họ không biết, lại coi thường nhắc nhở ta mãi đến phát bực, họ không lường được sự thông thái tuyệt vời của ta.

Những răn đe lo lắng của họ thật cổ lỗ sĩ, lạc hậu và hoàn toàn không phù hợp với thời đại của ta, một trào lưu văn minh, tiên tiến. Há chẳng nghe câu: "Con nít bây giờ khôn hơn ngày xưa sao?”…

Ta quên một điều, người lớn có tuổi đời cao hơn, có kinh nghiệm sống sâu hơn. Thậm chí có những con đường ta chưa đặt chân tới thì họ đã đi đến mòn lối. Họ biết nơi nào có vực thẳm, chỗ nào có ổ gà, họ mỏi miệng nhắc nhở cốt chỉ cho ta tránh, hòng thoát những tai nạn trong đời. Nhưng ta không hiểu và không biết được tầm quý giá của kinh nghiệm mà họ phải bỏ cả đời mới có được nó.

Vì vậy mà khi họ truyền trao bằng tất cả lòng yêu thương, ta đã thờ ơ ngoảnh mặt. Phật, Thánh răn dạy, lắm lúc ta còn hoài nghi thì huống nữa là con người? Rồi hôm nao ta nhận lãnh hậu quả của sự cãi lời: Ta bị nạn vì lái xe tốc độ cao, ta chấn thương nặng vì không đội nón bảo hiểm, ta bị người xem thường vì giao du phóng túng chẳng biết giữ mình nên chuốc lấy kết cục tủi nhục làm u ám tương lai…

Lúc này thì ta đúng là những chú rùa đen ngốc nghếch đã tự hại mình. Có hối thì đã muộn.

Vì thế, tốt nhất là ta nên trân trọng tiếp thu những lời dạy, những lời khuyên, những nhắc nhở xuất phát từ lòng thương vô bờ của các bậc trưởng thượng dành cho ta, những người đã yêu thương ta hết lòng, không muốn nhìn ta khổ, không muốn thấy ta bị nạn như họ đã từng nếm qua.

Nếu ta chịu nghe, chịu dùng trí phán đoán và áp dụng, ta sẽ cứu được mình và thoát khỏi những tai ương không đáng có.


(Hạnh Đoan - GNO)
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
GỐC RỄ CỦA ĐẤU TRANH

GỐC RỄ CỦA ĐẤU TRANH

Một thời, Thế Tôn trú giữa dân chúng Sakka, tại Sàmagàma dạy các Tỷ kheo: Có sáu gốc rễ đấu tranh này, này các Tỷ kheo. Thế nào là sáu?

Ở đây, này các Tỷ kheo, phẫn nộ và hiềm hận, giả dối và não hại, tật đố và xan tham, lừa đảo và man trá, ác dục và tà kiến, chấp trước sở kiến và rất khó rời bỏ.

Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo nào phẫn nộ và hiềm hận, giả dối và não hại, tật đố và xan tham, lừa đảo và man trá, ác dục và tà kiến, chấp trước sở kiến và rất khó rời bỏ, vị ấy sống không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo sư; sống không cung kính, không tùy thuận Pháp; sống không cung kính, không tùy thuận Tăng; không thành tựu đầy đủ các học pháp, vị ấy khởi lên tranh luận giữa chư Tăng. Tranh luận như vậy khiến nhiều người không hạnh phúc, khiến nhiều người không an lạc, khiến nhiều người không lợi ích.

Này các Tỷ kheo, nếu các Thầy thấy những ác tránh căn ấy, các Thầy phải cố gắng đoạn trừ, phải tác động đừng cho nó có cơ hội làm hại trong tương lai. Như vậy là đoạn tận ác tránh căn ấy, như vậy là ngăn chặn ác tránh căn ấy trong tương lai.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ III, chương 6, phẩm Chư thiên, phần Gốc rễ của đấu tranh, VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.88)

LỜI BÀN:

Ác tránh căn nghĩa là gốc rễ của đấu tranh, tranh chấp và xung đột khiến cho tổn hại. Nó là bản chất của chúng sanh, nói cách khác sự tranh đấu lẫn nhau trong một loài hay giữa các loài chúng sanh với nhau là một trong những bản năng sinh tồn. Loài người có ý thức, được xem là văn minh cũng đấu tranh và xung đột giết chóc lẫn nhau triền miên từ ngày khai thiên lập địa cho đến hiện nay, thậm chí ngày càng tinh vi và khốc liệt hơn.

Đời sống của người xuất gia, trong chừng mực nào đó vốn vượt ra ngoài những toan tính thế thường nên nhẹ nhàng và ít tranh chấp hơn. Tuy nhiên, nếu không nỗ lực để chuyển hóa thân tâm thì việc vượt thoát sự tranh đấu lẫn nhau chẳng phải là điều dễ dàng.

Biểu hiện của tranh chấp trong những hội chúng xuất gia bắt đầu từ sự không cung kính và tùy thuận Phật Pháp Tăng, nhất là khởi lên tranh luận với chư Tăng. Những sự tranh cãi thiếu thiện chí là cội nguồn cho tranh đấu và chắc chắn sẽ mang đến sự khó chịu, bất an và hoàn toàn bất lợi cho bản thân cùng hội chúng.

Theo tuệ giác Thế Tôn, những ai chưa chuyển hóa được những phiền não như “phẫn nộ và hiềm hận, giả dối và não hại, tật đố và xan tham, lừa đảo và man trá, ác dục và tà kiến, chấp trước sở kiến và rất khó rời bỏ” thì gốc rễ tranh chấp (ác tránh căn) vẫn tồn tại và tranh đấu, não hại lẫn nhau là nguy cơ có thể diễn ra bất cứ lúc nào, ngay cả những hội chúng xuất gia vẫn không là ngoại lệ.

Vì thế, tu tập để chuyển hóa thân tâm, đoạn trừ phiền não là phương cách tối thắng nhằm dập tắt và đoạn tận mọi tranh chấp, xung đột.


( Quảng Tánh - GNO)
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
KHÔNG THỂ NGHĨ ĐẾN ĐƯỢC

KHÔNG THỂ NGHĨ ĐẾN ĐƯỢC

Một thời Thế Tôn trú ở Kosambi, Ngài dạy các Tỷ kheo: Có 4 điều này không thể nghĩ đến được, này các Tỷ kheo, nếu nghĩ đến thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ. Thế nào là bốn?

- Phật giới của các Đức Phật, này các Tỷ kheo không thể nghĩ đến được
- Thiền giới của người ngồi thiền,này các Tỷ kheo, nếu nghĩ đến thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.
- Quả dị thục của nghiệp,này các Tỷ kheo, nếu nghĩ đến thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.
- Tâm tư thế giới,này các Tỷ kheo, nếu nghĩ đến thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.
Bốn điều này không thể nghĩ được, này các Tỷ kheo, nếu nghĩ đến thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ I, chương IV, phẩm Không hý luận,
phần Không thể nghĩ đến được, VNCPHVN ấn hành 1996, tr706)


LỜI BÀN:

Con người dùng giác quan và vô số công cụ hỗ trợ khác để nhận thức, khám phá thế giới khách quan cũng như ngay chính thân tâm của mình. Dù nhân loại ngày nay đã hiểu biết tường tận rất nhiều lãnh vực nhưng không thể biết được tất cả. Còn vô số công trình nghiên cứu đang bỏ ngỏ, hy vọng sẽ hoàn tất trong tương lai. Quan trọng hơn có 4 điều mà một người bình thường(với nghiệp lực của loài người)vĩnh viễn không bao giờ nhận thức đầy đủ được.

Trước hết, cảnh giới của chư Phật. cảnh giới chân như thực tướng của Chư Phật vượt ra ngoài ngã chấp hữu hạn của phàm phu nên mọi cố gắng của chúng ta để nhận thức về chân như đều không thể, như một người ngồi trong cái thùng, rồi tìm cách nhấc cái thùng lên, vĩnh viễn không thể được.

Cảnh giới thiền định của các thiền giả cũng không thể nghĩ đến được. Từ sơ thiền cho đến tứ thiền hoặc cao hơn n ữa là cảnh giới của sắc giới và vô sắc giới hoàn toàn khác biệt với tâm thức của con người(dục giới), nên chúng ta cũng không thể nhận thức được. Đó là chưa kể việc thiền giả an trụ tâm nơi vô trụ, vô tâm thì không chỉ con người mà ngay cả chư Thiên cũng không thể biết được.

Kế đến quả nghiệp dị thục của chúng sanh, tức là quá trình từ nghiệp nhân đến nghiệp quả với tác động và chi phối bởi vô vàn các mối tương hệ "trùng trùng duyên khởi". Nhân - duyê - quả là một chu trình rất phức tạp và không đơn thuần là nhân nào quả nấy. Do vậy quả nghiệp dị thục là diều mà phàm phu không thể biết và nghĩ đến được

Sau hết là những suy nghĩ về thế giới. Thế giới hữu biên hay vô biên, hữu hạn hay vô hạn, tồn tại hay không tồn tại .v.v. đều là những vấn đề khi được hỏi Thế Tôn đều im lặng, không trả lời. Đơn giản là Ngài không muốn cho người hỏi "có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ" trước những vấn đề không thể


Chỉ khi nào tâm đạt đến thanh tịnh h oàn toàn, thành tựu tuệ giác vô ngã thì thực tướng các pháp sẽ tự hiển bày

(Quảng Tánh )
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
CAI TRỊ

CAI TRỊ

Một thời Thế Tôn ở Kosala, dưới chân núi Tuyết Sơn, tại một am thất nhỏ trong rừng. Trong khi Thế Tôn thiền tịnh độc cư, tư tưởng sau đây được khởi lên: Có thể chăng cai trị mà không giết hại, không để người giết hại; không chinh phục, không khiến người chinh phục; không sầu muộn, không khiến người sầu muộn một cách đúng pháp?

Rồi Ác ma, biết được tâm tư Thế Tôn như vậy, liền đi đến nói với Thế Tôn:

- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy cai trị. Thiện Thệ hãy cai trị.

- Này Ác ma, ông thấy gì mà ông nói với Ta như vậy?

- Bạch Thế Tôn, bốn như ý túc đã được Thế Tôn tu tập, làm cho sung mãn, khéo áp dụng. Và bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn muốn núi Tuyết Sơn, vua các loài núi trở thành vàng, Thế Tôn có thể quyết định như vậy, và ngọn núi có thể trở thành vàng.

Thế Tôn (nói kệ):

Dầu cho cả ngọn núi
Trở thành toàn vàng ròng
Cho đến hóa gấp đôi
Cũng không thỏa mãn được
Tham vọng của một người
Biết vậy để hành trì
Ai thấy rõ đau khổ
Và nguyên nhân đau khổ
Làm sao người như vậy
Có khuynh hướng ái dục?
Sau khi biết sanh y
Là ràng buộc ở đời
Người biết vậy nên học
Giải trừ mọi buộc ràng.


Rồi Ác ma biết được: “Thế Tôn đã biết ta, Thiện Thệ đã biết ta”, sầu khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.

(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ I, chương 4, phẩm 2, phần Thống trị, VNCPHVN ấn hành, 1993, tr.257)

LỜI BÀN:

Pháp thoại này cho thấy Thế Tôn đã từng nghĩ đến việc thiết lập một xã hội đức trị lý tưởng trong đó có cai trị mà “không giết hại, không để người giết hại; không chinh phục, không khiến người chinh phục; không sầu muộn, không khiến người sầu muộn”.

Quả đây là một ý tưởng tuyệt vời, tâm nguyện vì chúng sanh cao cả. Nhưng khi Thế Tôn vừa khởi lên tư tưởng này thì ác ma liền nắm bắt đồng thời cất lời xưng tán và động viên Ngài hãy thiết lập sự cai trị. Ngay lập tức, Thế Tôn biết được ác ma đang lợi dụng lòng tốt của Ngài nên liền xả niệm, an trụ vào vô tâm, tịch tịnh.

Với trí tuệ của bậc Giác ngộ, Ngài thấy rằng dù cho làm được điều khó làm nhất như biến ngọn Tuyết Sơn thành một khối vàng ròng nhưng nếu tâm tham chưa điều phục thì việc ấy chỉ tăng trưởng tham vọng, chấp thủ và buộc ràng mà thôi. Điều này thật đáng để cho những đệ tử Phật suy gẫm trước những hoài bão độ sanh to lớn, những Phật sự bộn bề và nhất là nỗ lực để cải thiện và kiện toàn các hình thái tổ chức xã hội cũng như Giáo hội… trong khi thân tâm còn nhiều ràng buộc và giới hạn của tập khí, phiền não.

Ác ma luôn ca ngợi và khuyến khích hành giả (chưa giải thoát) tham gia quản trị xã hội nhưng thực chất là đánh lạc hướng chúng ta lệch khỏi mục tiêu giải thoát và tăng trưởng tham ái quyền lực. Do đó, tùy duyên mà làm lợi ích cho đời, làm tất cả những hạnh lành nhưng phải buông xả tất cả, vô chấp để vượt thoát mọi kềm tỏa và lợi dụng của ác ma.


QUẢNG TÁNH
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
LIÊN HỆ QUÁ NHIỀU VỚI CƯ SĨ

LIÊN HỆ QUÁ NHIỀU VỚI CƯ SĨ

Một thời, Tôn giả Ananda trú giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng. Lúc bấy giờ, Tôn giả Ananda sống quá bận rộn bởi nhiều liên hệ với cư sĩ.

Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy thương xót Tôn giả Ananda, muốn hạnh, muốn cảnh giác, liền đi đến Tôn giả Ananda. Sau khi đi đến, vị ấy nói lên bài kệ với Tôn giả Ananda:

Ông đã quyết lựa chọn
Đời sống dưới gốc cây
Tâm ông quyết nhập một
Với mục đích Niết bàn
Cù-đàm, hãy thiền tư
Và sống chớ phóng dật
Đối với ông, ích gì
Tạp thoại vô vị ấy.


Tôn giả Ananda được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.

(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ I, chương 9, phần Ananda, VNCPHVN ấn hành, 1993, tr.438)

LỜI BÀN:

Đành rằng mối liên hệ giữa bốn chúng đệ tử Phật vốn hòa hợp như nước với sữa, luôn khắng khít và không thể tách rời. Thế nhưng, quá bận rộn bởi các liên hệ với cư sĩ chưa phải là điều hay đối với người xuất gia, vì duyên trần sẽ quấy đảo an tịnh nội tâm, làm chướng ngại thiền định.
Như Tôn giả Ananda, thị giả của Thế Tôn, bẩm tính thông minh, có trí nhớ phi thường lại rất dễ thương và hòa ái nên được hàng cư sĩ đặc biệt mến mộ. Và do đặc điểm của công việc thị giả cho Đức Phật nên phải xử lý vô số công việc đồng thời phải tiếp xúc, gặp gỡ rất nhiều hạng người. Từ đó, Tôn giả Ananda còn rất ít thời gian cho thiền định nhằm thanh lọc và thăng hoa tâm.

Vì thế, một vị Trời ở trong trụ xứ của Tôn giả Ananda đã trợ duyên, cảnh tỉnh với Tôn giả rằng sự bận rộn ấy tuy là Phật sự (có phước báo) nhưng đối với mục tiêu giải thoát Niết bàn thì chỉ là “phóng dật, tạp thoại vô vị”. Đây cũng là một bài học cho chúng ta suy gẫm, nhằm tránh bỏ gốc để chạy theo ngọn, nhận ra những việc cốt tủy mà hàng xuất gia cần phải làm. Đồng thời, điều này giải thích lý do tại sao mỗi năm, vào mùa kiết hạ chư Tăng phải tạm gác tất cả Phật sự để nhập chúng thực hiện phận sự an cư.

Đối với người xuất gia, hai mục tiêu tự lợi và lợi tha cần phải thực hiện song hành. Tuy vậy, khi nội tâm chưa thực sự vững chãi trước những thách thức và cám dỗ của ngoại cảnh thì tự lợi, tức sự tu học cá nhân cần được ưu tiên hơn. Khi nội tâm chưa thực sự an tịnh và vững vàng mà chuyên lo lợi tha và quên mất phần tự lợi thì có khi mất cả chì lẫn chài. Tôn giả Ananda thông tuệ đến thế mà đến khi Thế Tôn nhập Niết bàn vẫn chưa chứng đắc Thánh quả A la hán là điều đáng suy ngẫm cho tất cả chúng ta.


QUẢNG TÁNH
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
ẤT KHÓ THỰC HIỆN Ở ĐỜI

RẤT KHÓ THỰC HIỆN Ở ĐỜI

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại khu vườn ông Anàthapindika, dạy các Tỷ kheo:

Này các Tỷ kheo, có hai sự tinh cần này rất khó thực hiện ở đời. Thế nào là hai?
- Sự tinh cần của các gia chủ ở nhà với mục đích bố thí các vật dụng như y phục, đồ ăn, sàng tọa và các dược phẩm trị bệnh.
- Và sự tinh cần của các người xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình, với mục đích từ bỏ tất cả các sanh y.

Hai sự tinh cần này, này các Tỷ kheo, rất khó thực hiện ở đời.

Trong hai sự tinh cần này, này các Tỷ kheo, tối thắng là tinh cần với mục đích từ bỏ tất cả sanh y. Do vậy, này các Tỷ kheo, các thầy cần phải học tập như sau: “Ta sẽ cố gắng tinh cần để từ bỏ tất cả các sanh y”. Như vậy, này các Tỷ kheo, các thầy cần phải học tập.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ I, chương 2, phẩm Hình phạt, phần Hai loại tội (trích), VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.96)

LỜI BÀN:
Ở đời, tất nhiên có rất nhiều việc khó làm hoặc không thể làm. Điều đáng nói ở đây là có những việc trong tầm tay, không khó mấy để thực hành nhưng vì tập khí tham ái sâu dày che lấp nên thành ra không làm được. Đó là mở rộng vòng tay, sẻ chia trong tinh thần lá lành đùm lá rách và quan trọng hơn là thanh tịnh cúng dường.

Cho đi là điều khó, vì nắm giữ là tập khí cố hữu của con người. Mới sinh ra trẻ sơ sinh đã nắm chặt hai bàn tay. Đến khi lớn lên, hai bàn tay ấy mới buông ra từ từ, tuy vậy có người vẫn nắm chặt tất cả những gì mình có cho đến tận cuối đời.

Cho đã khó như thế nhưng siêng năng, cần mẫn thực hành việc đem cho quả là “rất khó thực hiện ở đời”. Thường thì người ta vẫn cho nhau nhiều thứ với những mục đích khác nhau (vì xót thương, vì danh, vì lợi…). Đa phần họ chỉ cho bớt khi dư thừa và có sự kêu gọi hoặc là chỉ cho một đôi lần, hiếm khi cho nhiều lần. Chỉ có những người nhận thức rõ ràng về vô thường đồng thời an vui và hạnh phúc tràn ngập khi đem cho mới siêng năng và bền bỉ trong việc bố thí, làm được việc khó làm.

Đối với người xuất gia, việc khó làm nhất là tinh cần từ bỏ tất cả các sanh y. Nghĩa là việc xây dựng chùa to Phật lớn, lập nên đạo tràng đông đảo, làm nhiều điều phước thiện… đối với người xuất gia đã khó nhưng khó hơn và cần kíp hơn là thường xuyên nỗ lực, tinh cần tu tập để đoạn trừ phiền não, thành tựu giải thoát, Niết bàn. Thiết nghĩ, đây cũng là một tiêu chí quan trọng cho người xuất gia xác lập tôn chỉ, mục đích tu học của mình theo lời Phật dạy trong bối cảnh tu tập hiện nay.


QUẢNG TÁNH
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Cánh cửa không bao giờ khóa​

Ở thành phố Glasgow nước Scotland, có một cô gái trẻ đua đòi ăn chơi, sống theo trào lưu của một số ít thanh thiếu niên ngày nay thường làm. Chán sống chung trong một gia đình nề nếp có lối sống khuôn phép, cô bảo với mẹ: “Con không muốn tin vào ông trời của ba mẹ, con mặc kệ, con đi đây!”.

Thế là cô gái bỏ nhà ra đi, quyết định sống tự do, lấy thế giới bao la làm nhà mình. Tuy nhiên chẳng bao lâu thì cô bị ruồng bỏ; mất việc làm, cô đành phải làm gái đứng đường. Năm tháng cứ thế trôi qua, cha cô qua đời, mẹ cô già đi; còn cô gái ấy ngày càng sa đọa theo lối sống của mình.

Không còn chút liên lạc nào với con, bà mẹ nghe đồn về lối sống của con gái mình và bà đã đi tìm con khắp trong thành phố. Bà đến từng nhóm cứu trợ với lời thỉnh cầu đơn giản: “Làm ơn cho tôi trưng ở đây tấm hình này”. Đó là tấm hình bà mẹ tóc đã hoa râm mỉm cười với hàng chữ: “Mẹ vẫn yêu con! Con hãy về nhà đi!”.

Rồi một ngày nọ, cô gái tìm đến nhóm cứu trợ nhận bữa ăn cứu đói, cô đã nhìn thấy tấm hình mẹ, đọc hàng chữ ấy nước mắt cô bỗng tuôn trào. Cô quyết định trở về nhà. Về tới nhà thấy cửa không khóa, cô nghĩ chắc có trộm vào nhà, lo lắng cho sự an toàn của mẹ, cô gái chạy vội đến buồng ngủ và thấy mẹ vẫn còn đang ngủ yên, cô đánh thức mẹ dậy và thưa:

- Mẹ ơi! Con đây! Con đã về nhà rồi!

Bà mẹ như không tin vào đôi mắt mình, bà lau nước mắt rồi hai mẹ con ôm chầm lấy nhau. Cô gái nói với mẹ:

- Mẹ à, con lo quá! Cửa không khóa nên con tưởng nhà có trộm.

Bà mẹ dịu dàng trả lời:

- Không phải vậy đâu con à! Từ ngày con ra đi, cửa nhà mình không hề khóa.(Theo Học làm người)

BÀI HỌC ĐẠO LÝ:

Thuở nhỏ, nhà ông Mạnh Tử ở gần lò mổ heo, cậu bé Mạnh Tử bắt chước mổ những con heo cậu nặn bằng đất sét. Mẹ thấy vậy hoảng quá, vội dời nhà về gần trường học. Nhờ vậy, sau này ông Mạnh Tử trở nên một bậc thánh hiền.

Không phải người mẹ nào cũng có đứa con nên người như bà mẹ của ông Mạnh Tử. Mới đây thôi, bản tin thời sự VTV1(29-11), đưa tin em học sinh Phạm Đình Cử, 14 tuổi, vì cần tiền chơi games "Thiên Long Bát Bộ” trên mạng internet, hai em Cử và Trọng đã bắt cóc bé Tuấn Anh 5 tuổi, đòi 30 triệu tiền chuộc. Sau đó Cử đã giết chết bé Tuấn Anh. Vụ việc này đã làm cho mẹ của Cử là bà Phạm Thị Kim Thanh đau đớn thốt lên trước ống kính truyền hình: “Tôi đi cứu người, tại sao tôi lại đẻ ra một đứa giết người?”.

Lỗi này tại ai? Xin chớ vội đổ lỗi cho vi tính, internet. Ai sẽ chịu trách nhiệm về hành vi của em Cử, em Trọng và của cô gái trẻ Scotland trong câu chuyện trên? Quan niệm xưa “Thương cho roi cho vọt” dù roi vọt chỉ là giơ cao đánh khẽ đã không còn phù hợp với hôm nay. Nhưng thay vào đó là cái gì? Sự nâng niu chìu chuộng và buông lỏng quá mức cho con cái, chưa phải là điều hay.

"Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Gia đình đã dành cho các em nhiều ưu ái, nhưng không vì thế mà bỏ quên trách nhiệm khi để cho các em bước vào cạm bẫy cuộc đời. Như trường hợp em Cử, người ta rất ngạc nhiên vì trước đó em là một học sinh giỏi, chưa hề nghỉ học một tiết nào, gia đình chỉ lơ đễnh một chút thôi, vậy là em đã bị cuốn sâu vào trò chơi games. Chơi quá độ thành nghiện, nghiện quá làm cho em sống trong ảo giác trầm cảm; bàn tay em thường xuyên click chuột, gõ phím; thực hiện những màn bắn giết, cướp nhà băng… chỉ ở trong thế giới ảo thôi, nhưng đến một lúc nào đó em đã lẫn lộn giữa thế giới ảo và thế giới thực. Bàn tay non nớt của em Cử đã vấy máu lúc nào không hay. Thật là nguy hiểm!

Các em còn quá trẻ, chưa đủ kinh nghiệm, các em đang rất cần gia đình và xã hội, giáo dục và giám sát hành vi đạo đức. Các em nên cảnh giác, dè chừng cái gọi là lối sống hiện đại vượt ra ngoài khuôn phép gia đình và thận trọng khi chọn những trò chơi games, giải trí trên internet. Xin các em đừng có làm khổ các bà mẹ nữa. Mẹ cô gái trẻ Scotland, mẹ Phạm Thị Kim Thanh, mẹ của ngài Mạnh Tử và tất cả những bà mẹ hiền trên thế giới này luôn sẵn lòng thứ lỗi cho con, mẹ vẫn nguyện cầu cho con, cửa nhà mẹ không bao giờ khóa để ngõ chờ con hối lỗi trở về.


LÊ ĐÀN
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
HƯỚNG ĐẾN ÁNH SÁNG​

Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi. Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi đến đảnh lễ Thế Tôn. Thế Tôn nói với vua Pasenadi đang ngồi xuống một bên: Thưa đại vương, có bốn hạng người này có mặt, hiện diện ở đời.

Thế nào là bốn?
- Hạng người sống trong bóng tối và hướng đến bóng tối.
- Hạng người sống trong bóng tối và hướng đến ánh sáng.
- Hạng người sống trong ánh sáng và hướng đến bóng tối.
- Hạng người sống trong ánh sáng và hướng đến ánh sáng.
(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ I, chương 3, phẩm 3, phần Người [trích], VNCPHVN ấn hành, 1993, tr.209)

LỜI BÀN:

Mỗi người được sinh ra ở trên đời với một thân phận, hoàn cảnh khác nhau. Họ không có quyền chọn lựa cho mình nơi để sinh ra vì đó là nghiệp dĩ. Tuy nhiên, con người hoàn toàn có thể phấn đấu cải tạo nghiệp lực, chuyển hóa thân tâm và hoàn cảnh theo hướng tích cực, tốt đẹp hơn. Cuộc sống là một quá trình đấu tranh giữa cái thiện và cái ác. Và tất nhiên không phải ai cũng đạt đến thành công trong việc tự hoàn thiện mình. Do đó, mỗi người cần nỗ lực hướng thiện bền bỉ và liên tục.

Theo tuệ giác Thế Tôn, có hạng người thiếu phước “sống trong bóng tối và hướng đến bóng tối” sinh ra trong đói khổ, thất học, thiếu vắng tình thương và từ đó không tìm ra lối đi sáng sủa cho cuộc đời mình. Nếu không phải là tội phạm thì họ cũng không đoan chánh, không có niềm tin và chẳng tạo ra được chút phước lành nào trong đời. Hạng người này thật đáng thương và rất cần sự trợ duyên, đùm bọc của xã hội.

Hạng người thứ hai “sống trong bóng tối và hướng đến ánh sáng” cũng xuất thân từ đói khổ, bất hạnh nhưng nhờ còn chút phước duyên nên gặp được thiện tri thức và biết phấn đấu vươn lên từ đói nghèo để đi đến thành công. Chuyện những cô Tấm và nàng Lọ Lem thời hiện đại cùng những tấm gương vượt khó của họ thật đáng cho chúng ta suy gẫm để học tập, noi theo.

Thế nhưng lại có hạng người “sống trong ánh sáng và hướng đến bóng tối”. Tuy xuất thân trong môi trường tốt, gia đình danh giá nhưng vì lười biếng và ỷ lại cùng với thói quen hưởng thụ, một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên rơi vào sa đọa, nghiện ngập và trở thành tội phạm. Họ không làm được gì giúp cho bản thân và gia đình mà còn trở thành gánh nặng cho xã hội.

Hạng người sau cùng “sống trong ánh sáng và hướng đến ánh sáng” vốn đầy đủ phước duyên. Họ nhờ những thuận duyên nên ngay từ nhỏ đã biết phấn đấu học tập, tu dưỡng đạo đức và trở thành người tài đức vẹn toàn.

Một xã hội, đất nước mà tích tụ được nhân tài từ hai hạng người hướng đến ánh sáng như lời Phật dạy thì chắc chắn đất nước ấy đang thực sự phát triển, đi lên trong sự thịnh vượng bền vững, dài lâu.
_


QUẢNG TÁNH
________________
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.
Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên