nguyenvanhoc2006

THỦ-LĂNG-NGHIÊM KINH TÔNG THÔNG _ Quyển IV

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Người dịch : THUBTEN OSALL LAMA - NHẪN TẾ THIỀN SƯ

(TÂY TẠNG TỰ - BÌNH DƯƠNG)

--- o - O - o ---​


QUYỂN IV

Mục Tám : Chỉ Rõ Căn Nguyên Hư Vọng Và Tánh Giác Toàn Vẹn:

_ Ông Mãn Từ trình bày chỗ nghi
_ Vô minh đầu tiên
_ Nguyên nhân vọng thấy có thế giới
_ Chỉ rõ giác chẳng sanh mê
_ Chỉ các đại có thể tương dung
_ Chỉ tánh Diệu Minh là Như Lai Tạng, rời cả hai nghĩa "Phi" và "Tức"
_ Chỉ mê vọng không có nhân, hết mê là bồ đề
_ Lại phá xích nhân duyên, tự nhiên (A). Xưa nay không vọng (B). Đưa vào bồ đề

Mục Chín : Chỉ Nghĩa Quyết Định

_ Các phép tu hành sau khi đốn ngộ, phát bồ đề tâm
_ Tâm nhân địa

A. Xét rõ gốc rễ phiền não
B. Đánh chuông để thể hiện tính thường

1. Nghi căn tánh không có tự thể
2. Chỉ bày tánh nghe là thường trụ
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
MỤC TÁM :

CHỈ RÕ CĂN NGUYÊN HƯ VỌNG VÀ TÁNH GIÁC TOÀN VẸN

1. ÔNG MÃN TỪ TRÌNH BÀY CHỖ NGHI

KINH :

Lúc bấy giờ, Ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo phải, gối phải chấm dất, chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng : “Thế Tôn oai đức lớn, khéo vì chúng sanh diễn bày Đệ Nhất Nghĩa Đế của Như Lai. Đức Thế Tôn thường cho rằng trong những người thuyết pháp, tôi là thứ nhất. Nay tôi nghe pháp âm vi diệu của Như Lai, cũng như người điếc, cách ngoài trăm thước, nghe tiếng muỗi mòng vốn đã không thấy, huống là được nghe. Phật tuy tuyên bố rõ ràng, muốn khiến tôi trừ mê lầm, nhưng tôi còn chưa rõ nghĩa rốt ráo, vào chỗ không còn nghi hoặc.

“Bạch Thế Tôn, như các Ông Anan, tuy nghe mà ngộ, nhưng tập khí hữu lậu chưa trừ hết, còn bọn chúng tôi, là những người lên bậc Vô Lậu, tuy sạch hết các lậu, nay nghe pháp âm của Như Lai diễn nói, vẫn còn mắc những điều nghi hối.

“Bạch Thế Tôn, nếu như tất cả Căn, Trần, Xứ, Giới... của thế gian, đều là Như Lai Tạng, thanh tịnh bản nhiên sao bỗng dưng sanh ra có núi sông, đất đai, các tướng hữu vi theo nhau dời đổi, hết rồi lại có ?

“Lại Đức Như Lai còn nói rằng đất nước, lửa gió, tánh vốn viên dung, toàn khắp pháp giới, lặng trong thường trụ. Bạch Thế Tôn, như tánh của Địa Đại là khắp cả, làm sao mà dung được Thủy Đại ? Tánh nước là toàn khắp, thì Hỏa Đại chắc chẳng sanh, làm sao lại phát minh hai tánh Thủy Đại và Hỏa Đại đều khắp cả Hư Không, không xâm lấn tiêu diệt lẫn nhau? Bạch Thế Tôn, tánh của Địa Đại là ngăn ngại, tánh của Hư Không là rỗng suốt, làm sao cả hai Đại ấy đều toàn khắp pháp giới ?

“Nay tôi không biết nghĩa ấy do đâu, xin Đức Như Lai ban bố lòng đại từ, vén mây mê lầm cho tôi cùng hết thảy trong đại chúng”.

Ông Mãn Từ nói thế xong, năm vóc gieo xuống đất, kính mong lời dạy từ bi vô thượng của Như Lai.


THÔNG rằng :

Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh là Đệ Nhất Nghĩa Đế, viên dung vi diệu, cốt yếu ở chỗ Tâm Ngộ. Người ngộ rồi, đưa ra không gì là chẳng phải, chỗ chỗ dùng chẳng có nghi nan, một phen vượt lên liền đứng vào, nào mượn công lao huân tập ? Như nhóm các Ông Anan, tập khí hữu lậu chưa trừ hết, đã phá các điều mê lầm thô, mà mê lầm vi tế hãy còn. Các vị đã lên hàng Vô Lậu ở trong hội chúng, thì tuy đoạn hết Phiền Não Chướng, mà Sở Tri Chướng vẫn còn, mắc ở trong địa vị có tu tập, làm sao lãnh ngộ cái Đệ Nhất Nghĩa Đế Tối Thượng ?

Các tướng kia là hư vọng, vốn tự chẳng sanh mà nay nghi là có sanh. Bốn đại trong sạch như ngọc Ma Ni, tùy phương mà hiện sắc, tựa hồ có xanh vàng đỏ trắng mà vốn là không có. Thế mà nay nghi rằng chúng xâm lấn nhau ! Chẳng phải là Ông Phú Lầu Na chấp lấy tướng để vấn nạn cái Tánh, mà thật ra, ông ở trong Bản Tánh viên dung lặng trong thường trụ mà sanh nghi. Cái “Nghiệp” của ông là đã lên bậc vô lậu, ở trong vô lậu ấy mới chỉ thấy cái Lặng Trong (Trạm) mà chưa thấy cái Lặng Trong Nhiệm Mầu (Diệu Trạm) của nó, mới chỉ thấy cái Trụ, mà chưa thấy được cái Vô Trụ của nó.

Tổ Triệu Châu nói : “Người ta thì khó thấy mà dễ biết, ta ở trong ấy thì dễ thấy mà khó biết”. Đây là chỗ kinh nói “Cũng như người điếc, cách ngoài trăm thước, nghe tiếng muỗi mòng”, đâu phải là lời hư dối ư ?

Pháp Sư Trường Thủy Tuyền hỏi Hòa Thượng Lang Nha Giác : “Thanh tịnh bổn nhiên sao bỗng dưng sanh núi sông đại địa ?”

Tổ Giác nói : “Thanh tịnh bỗng nhiên sao bỗng dưng sanh núi sông đại địa ?”

Thầy Tuyền ở nơi đó tỉnh ngộ.

Hãy nói, như thế là có trả lời câu ấy hay không trả lời câu ấy ? Nếu bảo là có trả lời, thì hiểu đạo lý ấy làm sao ? Nếu bảo không trả lời, thì sao lại tỉnh ngộ ?
Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Thấy có, chẳng có
Ngửa tay, úp tay
Cái người trong núi Lang Nha ấy
Chẳng có rớt sau Đức Cù Đàm”.


Lại có nhà sư hỏi Tổ Thiều Quốc Sư : “Hết thảy núi sông đại địa từ đâu mà dấy ra ?
Tổ Thiều nói : “Câu hỏi này từ đâu mà tới ?”
Thật là mổ bụng khoét tim !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

2. VÔ MINH ĐẦU TIÊN


KINH :

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Ông Phú Lâu Na và các vị A La Hán Vô Học hết lậu trong hội này rằng : “Ngày nay Như Lai vì khắp hội này, ở trong thắng nghĩa, hiển bày cái Tánh Chân Thắng Nghĩa. Khiến cho ở trong hội, những hàng định tánh Thanh Văn cùng hết thảy các vị A La Hán, chưa đắc hai pháp Ngã Không và Pháp Không, phát tâm hướng về Thượng Thừa đều được chỗ tu hành chân thật là Nhất Thừa Tịch Diệt, một vị thuần chân. Ông nay nghe kỹ, Ta hiện vì ông mà nói”.

Các Ông Phú Lâu Na kính vâng pháp âm Phật, yên lặng lắng nghe.

Phật dạy : “Phú Lầu Na ! Theo như ông nói, thanh tịnh bổn nhiên sao bỗng dưng sanh núi sông, đại địa ? Ông chẳng thường nghe Như Lai tuyên thuyết “Tánh Giác diệu minh, Bản Giác minh diệu” sao ?”

Ông Phú Lầu Na thưa : “Bạch Thế Tôn, thế đấy, tôi thường nghe Phật tuyên thuyết nghĩa ấy.”


THÔNG rằng :

Như Lai Tạng là Thắng Đế Đệ Nhất Nghĩa, ở đây nói là Tánh Chân Thắng Nghĩa. Tức là chỉ thẳng cái nguồn gốc sanh khởi ra núi sông, đất đai, khiến cho người ở ngay nơi nguyên đầu mà thấu suốt, lập tức liền tự thấy Tánh.

Hàng định tánh Thanh Văn tuy không còn rộn tạp, nhưng đó là cái tịch diệt chưa chân thật, vì chưa chứng các pháp vốn tự tịch diệt. Bậc A La Hán, tuy đắc Ngã Không mà chưa đắc Pháp Không, mê đắm vào Không Tịch, chưa thể hướng về Thượng Thừa. Thế nên, đến đây đều được Nhất Thừa, chẳng còn Thừa nào khác, nhập Phật Tri Kiến, mới là chỗ chánh tu hành vậy.

Nơi Tánh Giác thì nói Diệu Minh, vì cái Thể ấy vốn tự nhiệm mầu (Diệu) mà hằng sáng (Minh), chẳng do cái nào khác mà sáng. Nơi Bản Giác thì nói là Minh Diệu, vì do lực huân tu bất tư nghì mà rõ biết Tánh Giác nhiệm mầu vậy. Tức là Diệu mà Minh, chẳng có chút Vô Minh nào. Tức là Minh mà Diệu, thì chẳng ngừng trụ nơi cái Minh. Chính đó là chỗ Tâm Vương bày lộ rõ ràng. Còn như cái Giác Minh (A Lại Da) bèn rơi vào Tình Thức, lìa Giác liền là Vô Minh, làm sao nói rằng Diệu ? Nên ở sau, kinh nói : “Cái Giác Minh là lầm lỗi”.

Tổ Triệu Châu thượng đường nói : “Đạo lớn không khó. Chỉ lìa chọn lựa. Vừa có lời nói là rơi vào chọn lựa, là minh bạch ! Lão tăng chẳng ở trong minh bạch, vậy các ông có che chở, thương tiếc cho không ?”

Khi ấy có nhà sư hỏi : “Đã chẳng ở trong minh bạch, thì che chở thương tiếc cái gì ?”
Tổ Châu nói : “Ta cũng không biết”.

Nhà sư nói : “Hòa Thượng đã không biết, sao lại nói chẳng ở trong minh bạch ?”
Tổ Châu nói : “Chỗ hỏi được đó, lễ bái mà lui đi !”

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng :

“Tột Đạo không khó, mối đầu ngôn ngữ
Một : có nhiều thứ; hai : không riêng khác
Giữa không, mặt trời lên mặt trăng lặn
Trước vách, nước lạnh, núi sâu.
Sọ khô Thức tận, vui đâu lập ?
Cây khô rồng ngâm, chưa hết khô
Khó, khó !
Chọn lựa minh bạch ông tự xem !””.

Ngài Triệu Châu nói “Chẳng ở trong minh bạch”, đó là cái cảnh giới thuần túy Diệu Minh của Ngài. Lại dạy người che chở thương xót là thông cho biết chút ít tin tức của cái Minh Diệu đó.
Nhà sư trộm thấy lối đường của Ngài Triệu Châu, muốn cùng Ngài trùng trùng mở rõ, bèn hỏi “Đã không ở trong minh bạch, thì che chở thương tiếc cái gì ?” Tổ Châu nói “Ta cũng không biết”, lộ bày cái Minh Diệu rỡ ràng !

Lại hỏi, “Hòa thượng đã không biết, sao lại nói chẳng có ở trong minh bạch ?”, thật là cái Diệu Minh rành rành vậy.

Tổ Triệu Châu rất ưng ý vị tăng có ít nhiều thấy biết, chỗ hỏi đều thông suốt, nên dạy “Lễ bái rồi lui”.

Trước sau, vị tăng đều không ở trong minh bạch, thì còn nói chọn lựa gì !

Ngài Tuyết Đậu muốn cùng Ngài Triệu Châu đổi vấn đề, tức là cần chọn lựa, cần minh bạch !
Tín Tâm Minh của Tam Tổ Tăng Xán có nói “Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch”.

Tổ Triệu Châu bèn nói : “Vừa có ngữ ngôn, đã là chọn lựa, đã là minh bạch, chính là sợ người ta rơi vào ngôn thuyết mà thành nghĩa thứ hai”.

Nếu là người thấy rõ suốt thì lời nói cũng không trở ngại, nên Ngài Tuyết Đậu nói “Đầu mối của ngôn, đầu mối của ngữ”. Còn nếu lìa ngôn ngữ, mà về ở một nơi, thì thật là “Cây khô trước hang núi có nhiều lối lạc, nên có nhiều thứ”. Như thấy được mỗi mỗi đều là đạo, thì tuy ngôn ngữ chi ly cũng không có hai thứ. Nên nói “Trên trời mặt trời, mặt trăng, trước hiên nước lạnh”, đều là một Cái Ấy, dao búa chẻ không ra. Đến chỗ này thì phân biệt, trò vui của Ýù Thức đều hết sạch, đó là rồng ngâm trong cây khô, hồn nhiên là một cái Diệu Minh Chân Tế. Há dễ đến được ư, nên nói “Khó, khó !”. Nếu còn chút vui mừng, còn chút Ý Thức, thì gọi là “Chưa khô ráo hết”, đó còn là cái dụng sự của Giác Minh. Bởi thế mới nói : “Ánh sáng chiếu mắt tợ người mê. Minh bạch chuyển thân địa vị thối đọa”. Như thế thì không có chọn lựa, không minh bạch sao ? Nói “Ông tự xem”, chính là muốn xét định cái chọn lựa này, cái minh bạch này có cùng với cái Chí Đạo tương đương hay không ?

Đức Tam Tổ nói : “Chỉ không thương ghét, suốt nhiên minh bạch !”
Tổ Triệu Châu nói : “Chẳng ở trong minh bạch”.
Ngài Tuyết Đậu nói : “Chọn lựa, minh bạch, ông tự xem !”
Lời nói mỗi người mỗi khác, mà thật là đồng. Tham !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
KINH :

Phật bảo : “Ông gọi là Giác Minh, vì Bản Tánh của nó là Minh, nên gọi là Giác. Hay vì cái Giác ấy chẳng Minh, mà gọi là Minh Giác ?”

Phú Lâu Na thưa : “Nếu cái ấy mà chẳng có Minh, mà gọi là Giác, thì không Minh chỗ nào cả (Vô Sở Minh)”.

Phật dạy : “Nếu không có chỗ nào để Minh, thì cũng không có cái Minh Giác. Có chỗ thì không phải là cái Giác, không có chỗ thì cũng không có cái Minh. Không có Minh lại chẳng phải là cái Tánh Giác trong lặng sáng suốt. Vậy Tánh Giác vốn là Minh, vọng tưởng mà cho là cái Minh Giác.


THÔNG rằng :

Một chữ Diệu là chỗ tự bí nhiệm của Phật. Ngắt bỏ ra chữ Diệu, mà chỉ luận cái Giác Minh, thì dù cho có mười năm phân giải cũng chẳng xong ! Vì Tánh Thể vốn là Minh, tức là rỡ rỡ ràng ràng thế, mà gọi là Giác, thì lọt vào giới hạn của Minh, hóa ra Giác Thể có mờ tối, có chỗ chẳng Minh! Còn nếu thêm vào một chữ Minh, gọi đó là Minh Giác, thì lọt vào giới hạn của chẳng Minh ! Hai bên đều là chông gai, vậy thế nào là con đường thoát thân?

Ông Phú Lâu Na dù có giỏi thuyết pháp đi chăng nữa cũng đâu có thể lấy cái không có chỗ để Minh (Vô Sở Minh) mà gọi là Giác được. Thế nên ông mới nói cái thể chẳng Minh ấy mà gọi là Giác, thì đã không có cái Năng Minh, tức cũng không có cái Sở Minh. Rõ ràng là Tánh Thể vốn là Minh mới có thể gọi là Giác. Cái Minh mà đã có chỗ (Sở), bèn là bỏ Giác mà hiệp trần, thì quá cách xa với cái Diệu của Tánh Giác vốn lìa thoát khỏi trần rồi vậy. Nếu thấy được cái Diệu của nó, thì hiểu rõ Như Lai nói “Tánh Giác Diệu Minh”, tức là Diệu mà Minh, chứ chẳng phải chẳng Minh ! Còn Bổn Giác Minh Diệu, tức là Minh mà Diệu, thì đâu cần phải có Minh nữa ! Chẳng phải Minh chẳng phải bất Minh, lìa hai lối phải và chẳng phải ấy, mới gọi là Tánh Giác.

Đức Thế Tôn vì thấy Ông Phú Lâu Na chưa hiểu thấu chỗ này, nên dạy : “Nếu theo lời ông, thì có chỗ Minh (Sở Minh), mới gọi là Minh Giác, nếu không có chỗ nào để Minh (Vô Sở Minh) thì không có Minh Giác, thì hóa ra Tánh Giác do Minh hay chẳng Minh mà còn hay mất ư ? Ông há không biết Chân Giác là độc lập, lìa xa Năng, Sở đó sao ?” Nếu cái Minh mà có chỗ, thì đã lìa ngoài địa vị Giác, không thể gọi là Giác nữa. Nếu cho cái Giác không có chỗ, rồi bày ra đèn đuốc mà soi, thì không thể gọi là Minh được nữa. Nếu tất cả chẳng Minh, thì đó là vô ký, chẳng phải là Tánh Chân Giác Trạm Minh. Tánh Giác Trạm Minh không cần có Minh mà không đâu chẳng là Minh. Cái ngoan không kia làm sao sánh được ! Cái Tánh Giác nhậm vận biết khắp, tất nhiên là Minh. Nhưng nếu chấp chặt phải là Minh, liền vọng sanh phân biệt, tính toán bám níu không dứt, bèn trở thành cái Minh Giác. Cái Giác mà còn phải Minh, thì chẳng phải là Diệu Minh vậy. Có sở hay không có sở, rốt vẫn chưa lìa sở. Không có Minh hay phải có Minh, toàn chẳng có lìa năng. Cái Diệu của Tánh Giác, há có thể như vậy sao ?

Ngài Triệu Châu hỏi Tổ Nam Tuyền : “Thế nào là đạo ?”
Tổ Nam Tuyền nói : “Bình thường tâm, đó là đạo”
Ngài Triệu Châu hỏi : “Lại có thể noi theo chăng?”
Tổ Tuyền nói : “Định hướng về là đã sai !”
Hỏi : “Không nghĩ suy được thì sao biết đó là đạo?”
Đáp : “Đạo chẳng phải biết, chẳng phải không biết. Biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu tỏ suốt cái đạo vốn chẳng có sự nghi ngờ, thì tròn khắp như thái hư, rỗng nhiên trống trải, sao còn có chuyện phải trái ư ?”
Ngài Triệu Châu ngay dưới lời nói mà khế ngộ.
Như hai Ngài Nam Tuyền, Triệu Châu mới có diệu giải được như vậy. Tiếc cho Ngài Phú Lâu Na, còn nằm trong lý chướng, chưa khỏi chuyện hướng về đầu thứ hai (nghĩa thứ hai) mà phân giải !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

3. NGUYÊN NHÂN VỌNG THẤY CÓ THẾ GIỚI


KINH :

“Cái Giác không có gì là Sở Minh, thế mà nhân Minh lập nên cái sở. Cái Sở đã vọng lập nên, thì sanh khởi ra cái Vọng Năng(01) của ông. Trong cái vốn không đồng, không khác bỗng khởi dậy thành có cái khác. Khác với cái khác đã có, nhân cái khác ấy mà lập nên cái đồng. Cái Đồng, cái Khác đã phát minh ra, thì nhân đó mới lập ra lại cái không đồng không khác !

“Như thế mà rối loạn, đối đãi với nhau mà sanh lao nhọc. Lao lự kéo dài sanh ra trần tướng mà làm vẩn đục nhau, do đó mà dẫn khởi ra những trần lao, phiền não. Khởi lên thì có ra thế giới, yên lặng thì thành hư không. Hư không là Đồng, thế giới là Khác. Dầu là không đồng, không khác cũng vẫn là pháp hữu vi.


THÔNG rằng :

Tánh Giác Trạm Minh, bất động toàn khắp, nào có chốn nơi. Đã chẳng sa vào nơi, chốn tức là không Đồng-Khác. Cái không Đồng-Khác này, chính là Pháp Vô Vi Chân Thật vậy.
Đức Mã Minh nói : “Nếu nói Tâm có động, thì chẳng phải là hiểu biết rốt ráo”.

Động còn không có, huống là có cái Sở ư ? Vừa một niệm vọng động, liền nhận lấy cái Minh mà lập nên cái Sở. Sở lập thì Chân Giác ẩn mất. Cái Sở vọng lập nên, là do phân biệt mà gọi là Sở. Cái phân biệt đó là Năng. Cái bị phân biệt là Sở, thì cái hay phân biệt là Năng. Năng, Sở đã lập nên, thì cái Đồng, cái Khác bèn hiện hình, vì Năng tức là khác Sở, Sở tức là khác Năng. Vốn là một Chân Giác, vốn không Đồng-Khác, mà hốt nhiên thành Khác. Như thế đó, chỉ vì nhân cái Minh mà lập cái Sở vậy. Mà đâu chỉ có thành ra cái Khác mà thôi đâu ! Muốn khác với tướng Khác ấy, lại lập nên cái tên Đồng. Ở trong động, thì có cái Khác, còn tịnh thì chỉ cho là Đồng.
Khác ấy, là Khác với cái Giác không đồng, không khác. Đồng ấy, là Đồng với cái Giác không đồng, không khác. Ở trong đó mà phát minh ra, thì cho là Khác mà lại có Đồng, cho là Đồng mà lại có Khác. Bèn nhân đó mà lập thêm cái không Đồng, không Khác. Do cái Chẳng Sanh, Chẳng Diệt hòa hiệp cùng cái Sanh Diệt, mà thành Thức A Lại Da.

Vốn chẳng phải là một, chẳng phải khác. Thế mà cho là Đồng, thì năm Thức liền nắm quyền đối Cảnh, Thức Thứ Sáu hay phân biệt, Thức Thứ Bảy nhiễm ô. Cho là Khác, thì năm Thức bèn là Tướng Phần, Thức Thứ Sáu không có Tướng Phần nên chẳng lập được, Thức Thứ Bảy không có phân biệt nên chẳng có. Cái không Đồng không Khác này cũng toàn là Thức, so với cái không Đồng-Khác trước kia không do lập mà có, đó là Chân Tánh chẳng sanh chẳng diệt. Cái không Đồng, không Khác sau này là do lập ra, bèn là chủng tử sanh diệt. Trong ấy độc chỉ có cái bóng dáng của Năng-Sở, Đồng-Khác, mà thành cái phôi thai của nghiệp quả thế giới và chúng sanh. Thế nên có tướng Đồng, có tướng Khác, có tướng không Đồng, không Khác. Rối loạn lên như vậy, Năng Sở đối nhau, Đồng và Khác cùng thành hình, chẳng được thanh tịnh, mà có ra tướng Lao Nhọc. Tướng lao nhọc là Vô Minh. Lao nhọc kéo dài phát ra Trần Tướng, tự làm vẩn đục nhau.

Trộn lẫn lầm lộn Chân Tánh, gọi là “vẩn”, làm nhiễm cái thể thanh tịnh, gọi là “đục”. Từ đó mà dẫn khởi ra phiền não, trần lao, hai cái Kiến Hoặc và Tư Hoặc.

Do phiền não biến ra hai thứ Y Báo, Chánh Báo. Động là thế giới, tĩnh thành hư không. Hư Không là chỗ ở, trước đã nói “Nhân cái Khác lập nên cái Đồng”, tuy không có Năng và Sở, cũng là ngoan không. Thế giới là chỗ trên nói “Khởi lên mà thành cái Khác”. Động là Thể của “Thế”, Khác là Thể của “Giới”, có Năng có Sở thuần là cảnh động. Cái có Đồng có Khác là chỉ thế giới Y Báo, là dấu vết thô phù hữu vi. Còn chúng sinh Chánh Báo, vì có Tâm Tánh nên chẳng phải như cái “Khác” của thế giới, và vì có Sắc Tướng, nên chẳng phải như cái “Đồng” của hư không. Nhưng cái Sở thì có Sanh Diệt, cái Năng thì không Sanh Diệt. Rốt ráo thì cái Năng cũng là Sanh Diệt. Dù lìa cả Năng và Sở để đến chỗ không Sanh Diệt, không Đồng, không Khác, thì cũng đều là pháp hữu vi.

Cái Thức, vì có phân biệt nên là hữu vi. Cái Trí, không phân biệt nên là vô vi. Hữu vi, nên có các tướng hữu vi là nghiệp quả. Vô vi, tức là không có các tướng hữu vi nên không có nghiệp quả. Núi sông, đất đai vốn chẳng tự sanh, chỉ nhân Minh lập nên Sở, theo Vọng mà thấy có vậy.

Có nhà sư hỏi thiền sư Vân Cư Ứng : “Núi sông đại địa do đâu mà có ?”
Tổ Ứng nói : “Do vọng tưởng có”.
Nhà sư nói : “Thầy tưởng ra cho tôi một nén vàng được không ?”
Tổ Ứng bèn im lặng bỏ đi. Nhà sư không chịu.

Sau này, Tổ Vân Môn nói rằng : “Đã là dây leo chùm gởi, chẳng có thể chặt đứt nối lại được. Hãy đợi y nói “Tưởng ra một nén vàng được không ?”, thì cầm gậy mà đánh !”

Đây là cỡ tác dụng nào ?

Nên Tổ Vân Môn lấy cây trụ trượng dạy chúng rằng : “Cây gậy hóa thành con rồng, nuốt hết càn khôn. Núi sông đất đai còn chỗ nào được nữa ?”

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng :

“Cây trụ trượng, nuốt càn khôn
Nói gì chuyện bôn ba ở lãng Đào Hoa(02)
Thành rồng (đốt đuôi(03)) đâu phải kéo mây,
làm mù !
Thi rớt nào phải vỡ mật kinh hồn
Nêu ra rồi, nghe chẳng nghe !
Ngay đây sừng sững lỗi lạc
Thôi đi trăm mối phân vân
Bảy mươi hai gậy nhẹ tha cho
Trăm năm mươi gậy khó tha ông
Sư vội chụp cây gậy xuống tòa
Đại chúng đồng nhau chạy tứ tán !”.


Ở chỗ này mà thấu triệt thì không chỉ là núi sông vẫn như xưa, mà cái Giác Minh cũng chẳng có chỗ ló đầu ra !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
KINH :

“Cái Giác Minh và cái Hư Không vô tri đối đãi nhau thành ra có lay động, cho nên hóa ra phong luân nắm giữ thế giới. Do cái Hư Không mà sanh lay động, phát minh ra tánh cứng thì thành sự ngăn ngại, các thứ Kim quý đều từ Minh Giác lập nên tính cứng, cho nên có Kim luân mang giử cõi nước. Giác Minh thành tính cứng, thì thành có Kim quý, rồi lay động mà thành ra Gió. Gió và Kim cọ xát nhau, nên có Hỏa đại làm tánh biến hoá. Lửa bốc lên, Kim quý sanh ra tánh ướt, mà có Thủy luân trùm khắp mười phương cõi. Lửa bốc lên, Nước sa xuống, giao nhau phát nên tính cứng, chỗ ướt là biển lớn, chỗ khô là gò nổi. Do nghĩa ấy, trong biển lớn kia, hơi nóng thường bốc lên, trong gò nổi kia, sông ngòi thường chảy xuống. Thế Nước kém thế Lửa, thì kết thành núi cao, bởi thế đá núi, đập vào thì xẹt Lửa, nung thì chảy ra Nước. Thế Đất kém thế Nước, nẩy ra làm cỏ cây, cho nên rừng rú đốt thì thành Đất, vắt ra thành Nước.

“Các thứ hư vọng đó giao nhau mà phát sanh, thay đổi làm chủng tử cho nhau. Do nhân duyên ấy, thế giới tiếp tục lẫn nhau.


THÔNG rằng :

Thanh tịnh bổn nhiên, sao bỗng dưng sanh núi sông đại địa ? Trước kia, năm Đại : Đất, Nước, Lửa, Gió và Không đều là Như Lai Tạng, thanh tịnh bổn nhiên, toàn khắp pháp giới, theo nghiệp mà phát hiện, nào có nơi chốn ? Sự có ra của chúng là do nghiệp lực của chúng sanh. Nghiệp lực của chúng sanh là do Vô Minh từ lúc ban đầu, mất đi cái Tánh Giác Diệu Trạm Tổng Trì, một niệm bỗng khởi động. Cái Giác đã lìa cái Không mà sanh ra Minh, thì Không cũng lìa Giác mà sanh Muội(04). Cái Giác Minh phát sanh ra Thức. Thức Tinh ở cái chỗ trong lặng chẳng động lay là Nước. Cái Không Muội kết thành Sắc, là Đất vậy. Đối đãi nhau thành ra lay động, thành Gió, thành Nước, do Đất khắc Nước mà sanh ra Mộc. Do Thổ của Không Muội lay động mà sanh ra Mộc, thì cái Giác Minh không lay động bèn thành cứng ngại, tức là Mộc khắc Thổ mà sanh Kim. Kim cùng Mộc hợp sanh Hỏa, nên nói : “Phong và Kim chà xát nhau mà có ra Hỏa”. Hỏa cùng Kim hợp sanh Thủy, nên nói : “Ngọn lửa bốc lên, nên có ra Thủy luân”. Thủy và Hỏa hợp sanh Thổ, Hỏa bốc lên, Thủy chảy xuống mà sanh ra biển cả, đất liền. Thổ cùng Thủy hợp, lại sanh ra Mộc; Thổ yếu Thủy mạnh, nên thảo mộc tươi tốt. Tốn là Gió, là Mộc; Phong là tánh của Mộc. Trước đã nói là đối đãi thành ra lay động nên có Phong Luân, thì mới có tánh của Mộc. Đến khi “nảy ra làm cây cỏ” thì Mộc mới rõ ràng có hình tướng.

Ngũ hành lấy sự sinh khắc làm vợ chồng, lấy tương sanh làm cha con. Con do mẹ sanh, ấy là cha yếu; sau đó âm dương hòa, sinh ra con. Con sanh mà khí của cha mẹ vẫn còn, nên đá núi có thể xẹt ra lửa, có thể chảy ra nước. Ấy là do Thủy khắc Hỏa mà thành. Cây cỏ có thể thành Đất, có thể thành Nước, là do Thổ khắc Thủy mà thành vậy. Suy theo đó thì vạn vật đều là như vậy cả. Tôi thường lấy Kinh Dịch so sánh : như hợp với các chi tiết. Mới tin rằng Thánh đời trước với đời sau, cái Đạo là một thôi vậy.

Cái Giác Minh phát sinh ra cái Thức, là nguồn gốc lặng lẽ tối sơ, đó là nghĩa Trời sanh Thủy trước hết vậy. Thủy sanh ra Mộc của Chấn, Tốn ở phương Đông. Mộc sanh ra Ly Hỏa ở phương Nam. Hỏa sanh Khôn Thổ ở Tây Nam. Thổ sanh Đoài Kim ở phương Tây. Mà Càn Kim ở Tây Bắc lại sanh Khảm Thủy ở phương Bắc. Như chiếc vòng không đầu mối, tiếp nối làm chủng tử cho nhau, nên Kinh Dịch nói : Đế xuất ra ở Chấn, tề ở Tốn. Chấn là Động, Tốn là Gió, chẳng phải là cái ý chỉ đối đãi nhau mà sanh động lay ư ? Chấn là Mộc, Đoài là Kim, Đông Tây đối nhau mà làm vợ chồng, Hỏa ở nơi đó mà sanh ra, thế chẳng phải là ý chỉ Phong Kim cọ xát nhau ư ? Ly là Hỏa, Khảm là Thủy, Nam Bắc đối nhau mà làm vợ chồng, Thổ ở nơi đó sanh ra, chẳng phải là ý chỉ “Lửa nước giao nhau mà thành tính cứng” ư ? Khôn là Đất, Cấn là Núi, đều thuộc Thổ, đây là chỗ bắt đầu và chấm dứt của vạn vật vậy. Thế nên, mùa Xuân, mùa Hạ vạn vật phát sanh, ở trên mặt đất, nên dễ thấy. Thu Đông vạn vật thâu góp lại, ở dưới mặt đất, nên không thể thấy.

Bức Hà Đồ, sở dĩ thành biến hóa ngũ hành và quỷ thần, không chỉ hợp với cái dụng lưu hành, mà cũng hợp với nguồn gốc sanh khởi. Chỗ tột đáy của thế giới này, y Phong luân mà trụ, tột đáy của đại địa, thì y Kim luân mà trụ. Thổ và Kim đồng là tính cứng, đều thuộc Địa Đại. Hỏa thì không nói chữ luân vì tánh nó là biến hoá, hay chảy tan và làm chín thành muôn vật.

Câu Xá Luận nói “Cái nghiệp lực của chúng sanh, trước hết ở dưới cùng nơi hư không, mà có Phong luân sanh. Trên Phong luân là Thủy luân. Trên Thủy luân mới có Kim luân”. Đối với đây có khác chút ít. Luận Câu Xá nói về sự an lập, từ dưới lên trên theo thứ tự. Ở đây nói về sự sanh khởi. Chẳng sợ lẫn lộn trở ngại nhau.

Tổ Ngưỡng Sơn Dũng dạy chúng rằng : “Một lời nói trọn hết non sông !”
Có vị tăng hỏi : “Như thế nào là một lời ấy ?”
Tổ Sơn lấy đũa gắp lửa cắm vào phía bên lò, rồi để lại chỗ cũ.
Tổ Đầu Tử tụng rằng :

“Một câu nêu ra trùm muôn tượng
Ma Kiệt thành(05) không, tự đóng cửa
Đương sơ thiền tăng mở hé mắt
Cắm đũa bếp bên lò lửa đỏ”.


Nếu là người đại triệt ngộ, thì xem ba cõi khởi diệt trong biển Đại Giác cũng đồng như bọt sanh diệt trong biển cả vậy. Huống là vốn tự vô sanh, tìm tướng của ba cõi, có chỗ nào được !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
KINH :

“Lại nữa, Phú Lâu Na, cái Minh Vọng đó, chẳng phải là cái gì khác, lỗi là cái Giác Minh. Cái Sở Minh hư vọng đã lập, thì phạm vi của cái Năng Minh không vượt qua được. Do nhân duyên đó, mà nghe không ra ngoài tiếng, thấy chẳng vượt ngoài sắc. Sáu cái vọng : Sắc, Hương, Vị, Xúc... thành lập, do đó mà phân ra có Thấy, Nghe, Hay, Biết.

“Đồng nghiệp ràng buộc lẫn nhau mà có hiệp, có lìa, có thành, có hóa. Cái Thấy mà làm năng minh thì Sắc phát ra, rồi cái năng minh cho cái Thấy thì thành ra có Tư Tưởng. Thấy khác thì thành ra ghét, cùng cái Tư Tưởng thì thành thương. Chảy tràn cái thương yêu làm hạt giống, thu vào Tưởng Niệm làm ra thai. Giao cấu phát sanh, hấp dẫn cái cùng một nghiệp, nên có nhân duyên sanh ra Yết La Lam(06), Át Bồ Đàm... Thai sinh, nỗn sinh, thấp sinh hay hóa sinh tùy theo chỗ mà ứng : nỗn chỉ do Tưởng Niệm mà sanh, thai thì do Ái Tình mà có, thấp sanh thì do Cảm mà hợp, hóa sanh thì do Phân Lìa mà ứng ra. Tình và Tưởng, Hợp và Lìa thay đổi lẫn nhau, do đó mà chịu lấy Nghiệp, theo đuổi sự nổi chìm. Do nhân duyên ấy, chúng sanh nối tiếp nhau.


THÔNG rằng :

Thế giới lấy cái Hư Không mê muội làm thể, nên có câu “Cái Tưởng lắng xuống thành quốc độ”. Chúng sanh lấy cái Giác Minh làm tánh, nên có câu “Tri giác là chúng sanh”.

Hư Không mê muội nhân Giác Minh mà hiện bày, cho nên thế giới do nghiệp lực của chúng sanh mà thành. Hai cái nối tiếp nhau, đều là lỗi lầm hư vọng nhân Minh mà lập cái Sở vậy. Chẳng phải tứ Đại kia có sanh ra. Chỉ vì nhân nhận cái Giác làm cái Minh, mới có cái Sở Minh. Sở thì thuộc Tướng Phần, Năng thì thuộc Kiến Phần. Tứ đại ở ngoài thế giới là Sơ Tướng Phần, tứ Đại ở thân thể là Thân Tướng Phần. Cái Sở đã vọng lập nên, bèn khiến cho sáu Căn cách ngại, nên trong Kiến Phần, phạm vi của cái Sáng không thể vượt qua khỏi sáu Căn.

Vốn chỉ là cái Giác Vô Thượng, viên dung, nay lại chia thành Thấy, Nghe, Hay, Biết thành ra ba thứ Căn, Trần, Thức dẫn khởi lên cái Nghiệp hư vọng. Từ đó cùng một Nghiệp ràng buộc nhau, có cha, mẹ và mình là ba thứ cùng Nghiệp, mà thành thai, nỗn là vật hữu tình. Còn thấp sanh và hóa sanh, không do cha mẹ, chỉ do Nghiệp của mình mà thành vật. Lý do hấp dẫn đồng nghiệp, đều là do Thấy có mình mà ra.

Lấy vọng tâm mà thấy vọng cảnh, thì sắc do cái thấy mà phát sanh, không có cái thấy tức là không có sắc vậy. Lấy cái vọng thấy mà đuổi theo đám vọng sắc, thì cái Tưởng Niệm bèn do cái thấy mà thành, không có cái thấy thì không có Tưởng vậy. Cái thấy kết nhóm thành cái Tưởng, biết có mình thì tự thành Tình. Đó là sự kết hợp của đồng nghiệp, hấp dẫn nhau. Thấy khác thì thành thương, nên mẹ là chỗ mà mình thương. Con gái ở trong thai thì ngược lại. Tưởng chảy tràn thì thành sự thương, thương thì chẳng rời, mầm mống chủng tử sinh ra ở đó vậy. Nên thương yêu là gốc rễ của luân hồi. Mẹ đã thu nạp cái Tưởng, Tưởng kết lại thành khí huyết, thai thành ở đó vậy. Cho nên, cái Tưởng là môi giới của sự nối truyền sinh mạng, từ giao cấu mà phát sanh hình thể. Tinh huyết hòa hợp, một tuần chất lỏng đông lại, hai tuần là cái bọc, ba tuần là thịt mềm, bốn tuần là thịt chắc, năm tuần có hình thể, thai hay trứng đều như thế. Thấp sanh, hóa sanh thì cũng chẳng qua tiến trình đông đặc và bao bọc.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Noãn sanh vì sao để ở trước tiên ? Vì Tưởng Niệm khởi động trước, sau mới có Tình Ái. Hơn nữa, nỗn lại gồm cả thai, thấp hóa vậy. Loài người cũng có đủ bốn thứ sanh. Như bà Tỳ Xá Khê Nhĩ La có ba mươi hai người con dều là nỗn sanh (Luận Câu Xá). Bà Yểm Thước La Bà Lợi Đảnh sanh một vị Chuyển Luân Thánh Vương(07), gọi là thấp sanh. Đời Đức Phật, trong tứ chúng có một Tỳ kheo ni tên A La Bà, từ trong đất hóa sanh ra. Do đó mà biết rằng Tình biến ra Tưởng, hợp biến ra lìa, vốn chẳng có Nghiệp nhất định. Nỗn đổi thành thai, thấp đổi ra hóa, cũng không có định chất. Chỉ theo nghiệp mà lên xuống, tùy theo chỗ mà ứng hiện ra, không có nẻo đường nhất dịnh. Chỉ do Tưởng Ái làm nhân, cha mẹ làm duyên, mà chúng sanh tiếp nối, như vậy đến vô cùng.

Ngài Đại Đồng Tế đến thăm Bàng cư sĩ.

Bàng Cư sĩ nói : “Nhớ lúc trong thai mẹ, có một tắc ngữ, xin đưa ra với thầy, cốt chẳng được làm đạo lý”.

Ngài Tế nói : “Giống như cách đời vậy”.
Cư sĩ nói : “Đã nói chẳng được làm ra đạo lý.
Ngài Tế nói : “Câu nói kinh người, há chẳng sợ sao ?”
Cư sĩ nói : “Như kiến giải của thầy, có thể nói là kinh người !”
Ngài Tế nói : “Chẳng làm ra đạo lý, lại làm ra đạo lý !”
Cư sĩ nói : “Không chỉ cách một đời, hai đời !”
Ngài Tế nói : “Ông thầy cơm cháo này, cứ việc tra xét lỗi lầm !”
Cư sĩ búng tay ba tiếng.

Lại có thiền sư Quy Tông Khả Tuyên, nhân ông Quận Thú tức giận chẳng đúng theo lễ cửa quan, bức bách Ngài quá lắm. Ngài bèn viết thơ cho Ông Quách Công Phủ rằng : “Duyên đời của tôi còn sáu năm, nay Ông Quận Thú bức bách phải chết, sắp phó thác cái sanh ra sự bực tức còn dư lại ấy, mà thác sanh nhà ông, xin ông đừng lấy làm ngại.”.

Ông Phủ xem thơ vừa sợ vừa mừng. Nửa đêm, bà vợ nằm mộng thấy sư vào chỗ ngủ, la lên rằng : “Đây chẳng phải là chỗ để Hòa Thượng đến !” Ông Phủ lay bà vợ hỏi, bà liền thuật lại rõ ràng. Gọi lấy đèn đọc thơ, cùng nhau vui mừng không dứt. Bèn mang thai, đến khi sanh ra, đặt tên là Tuyên Lão. Đúng năm như đã báo trước.

Năm ba tuổi, có Ông Bạch Vân Đoan đến nhà, Tuyên Lão mới thấy thì bảo : “Cháu tôi đến vậy”.
Ông Đoan hỏi : “Xa Hòa Thượng mấy năm rồi ?”

Tuyên Lão đếm ngón tay nói : “Bốn năm rồi.”
Ông Đoan hỏi : “Xa nhau ở chỗ nào ?”
Đáp : “Ở trại Bạch Liên.”
Ông Đoan nói : “Lấy gì để nghiệm.”
Đáp : “Ba má ngày mai mời Hòa Thượng độ trai.”
Bỗng nghe tiếng xe đẩy tới.
Ông Đoan hỏi : “Ngoài cửa đó là tiếng gì ?”
Tuyên Lão dùng tay làm bộ đẩy xe. Ông Đoan hỏi : “Về sau như thế nào ?”
Đáp : “Bình địa lưỡng đầu câu(08)”.

Quả nhiên, sáu năm sau không bệnh mà mất. Đó là do Tuyên Lão thường ngày chẳng có cốt làm đạo lý, nên tuy cách dời, mà vẫn tỉnh thức như vậy. Nếu còn chút tơ hào tình tưởng Giác Minh treo trong ngực, thì đã bị Ông Bạch Vân Đoan khám phá ra rồi !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
KINH :

“Ông Phú Lâu Na, các Tưởng Ái cùng nối kết, lòng thương chẳng thể rời, thì cha mẹ, con cháu trong thế gian sanh nhau không dứt, họ lấy Dục, Tham làm gốc. Tham và Ái cùng nuôi nhau, tham muốn chẳng ngừng thì các loài thai sanh, nỗn sanh, thấp sanh, hóa sanh trong thế gian, tùy theo sức mạnh yếu, lần lượt ăn nuốt lẫn nhau, chúng lấy Sát, Tham làm gốc. Người ăn dê, dê chết làm người, người chết làm dê, như vậy cho đến mười loài chúng sanh chết sống, sống chết, ăn nuốt lẫn nhau, Nghiệp dữ cùng sanh, đến hết đời vị lai, loại này thì lấy đạo Tham làm gốc.

“Người này mắc nợ mạng người kia, người kia trả nợ cũ cho người này, do nhân duyên ấy, trải qua trăm ngàn kiếp, thường ở trong sanh tử. Người này yêu cái Tâm của người kia, người kia thích cái Sắc của người này, do nhân duyên ấy, trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong trói buộc. Chỉ ba thứ Sát, Đạo, Dâm làm gốc rễ, mà do nhân duyên đó, nghiệp quả cứ tiếp tục.

“Phú Lâu Na, ba thứ tiếp nối nhau điên đảo ấy, đều là cái thấy biết của Giác Minh. Nhân biết mà phát ra có hình tướng, từ cái vọng thấy sanh ra có núi sông đất đai, các tướng hữu vi, thứ lớp đổi dời, đều nhân cái hư vọng đó mà hết rồi lại bắt đầu.


THÔNG rằng :

Thế giới thuộc về Y Báo, Y Báo thì vô tình, do đó chẳng kết Nghiệp. Chúng sanh thuộïc Chánh Báo, Chánh Báo thì hữu tình, tức là có Nghiệp. Nghiệp không gì lớn hơn Sát, Đạo, Dâm, mà gốc bắt đầu từ Dâm. Cùng tư tưởng thì thương, thấy khác thì ghét, chỉ là cái thương ghét này, ngay đó là căn nguyên gây Nghiệp. Tưởng, Ái không kết hợp thì còn có thể lìa, chứ cả hai bên đã kết nối, thì đời đời, kiếp kiếp, chẳng thể tự rời nhau. Cha mẹ, con cháu sanh nhau ra chẳng dứt, đều do Dâm làm gốc.

Tham và Ái cùng nuôi dưỡng nhau, nên cảm thấy vui thích mùi vị mà Sát từ đó sanh ra. Tham mùi vị không ngừng, thì cầu cho được, Đạo (trộm cắp) từ đó sanh ra. Kỳ thật, chỉ bắt đầu từ một cái ưa thích : Ái. Yêu thích chẳng được thì ép uổng mà sát hại. Âm thầm lấy là đạo (trộm cắp), đều để thành tựu sự Ái cả. Cớ nên, trong cái Dâm, có đủ Sát, Đạo hai Nghiệp. Ghét mà kết tụ thì đền nợ, đền mạng, thường ở trong sanh tử. Thương mà kết tụ, thì thích tâm, thích sắc, thường ở trong trói buộc. Đó là thương ghét là nguyên nhân của Nghiệp, mà sanh tử trói buộc là quả của Nghiệp. Hết thảy ba loại điên đảo của chúng sanh trong thế giới đều là do trái với Chân mà hợp với Vọng, đều là do Giác Minh sanh ra. Cái Giác Minh hư vọng, vọng lập nên có Năng, có Sở, nên có ra núi sông, đất đai, thế giới tiếp nối, nghiệp quảû chúng sanh, các tướng hữu vi, sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, tiếp tục chẳng ngừng. Nếu liền ngộ Vọng vốn không tự tánh, hiện tại tức là Vô Sanh, thì còn cái gì thứ lớp đổi dời, cái gì hết rồi lại bắt đầu sanh ? Thế là Căn, Trần, Xứ, Giới rõ ràng là một cái Thanh Tịnh bổn nhiên, Như Lai Tạng Tánh vậy.

Tổ Vĩnh Gia nói : “Ngộ tức nghiệp chướng bổn lai Không. Chưa ngộ đành trả hoàn nợ cũ”. Lời nói có ý vị biết bao !

Ngài Vân Cư Ứng, tham học tại Tổ Động Sơn, khi làm việc vô ý cuốc chết con trùn.

Tổ Động Sơn nói : “Đồ quỷ ấy.”
Ngài Ứng nói : “Nó chẳng chết”.
Tổ Sơn nói : “Nhị Tổ đi qua Nghiệp Đô, lại làm sao ?”
Ngài Ứng chẳng trả lời.
Sau có vị tăng hỏi Ngài : “Lúc Hòa Thượng ở Tổ Động Sơn, về nhân duyên giết chết con trùn, phải chăng Hòa Thượng không có lời đáp ?”
Ngài Ứng nói : “Lúc ấy có lời chứ, chỉ là không có người để chứùng minh !”
Xem Ngài Vân Cư Ứng, thật là người ở ngoài ba cõi. Nên cái chỗ Tình và Tưởng không tới được, thì nói gì đến tướng nghiệp quả, chúng sanh !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
IV. CHỈ RÕ GIÁC CHẲNG SANH MÊ

KINH :

Ông Phú Lâu Na thưa : “Nếu cái Diệu Giác đó, bản tánh là Diệu Minh, cùng với Tâm Như Lai, không tăng không giảm, mà không cớ gì bỗng sanh các tướng hữu vi núi, sông, đất đai. Vậy nay Như Lai đã đắc Diệu Giác Minh Không đó, thì lúc nào lại sanh ra núi, sông, đất đai và các tập lậu hữu vi ?”

Phật bảo Ông Phú Lâu Na : “Ví như người mê, nơi một xóm làng, lầm phương Nam làm phương Bắc, thì cái mê ấy nhân do Mê mà có hay nhân Ngộ mà sinh ra ?”

Ông Phú Lâu Na thưa : “Người mê như vậy, cũng chẳng nhân Mê, cũng chẳng nhân Ngộ. Vì sao thế ? Cái Mê vốn không có gốc gác, làm sao mà nhân Mê ? Ngộ chẳng sanh ra Mê, làm sao mà nhân Ngộ ?”

Đức Phật nói : “Cái người mê kia, ngay trong lúc mê, bỗng có người ngộ chỉ bày cho khiến tỏ ngộ. Này Phú Lâu Na, ý ông thế nào ? Người ấy đã thả cái Mê ra rồi, thì đối nơi xóm làng đó, có còn sanh mê lại không ?”

- Bạch Thế Tôn, không”.

- Phú Lâu Na, mười phương Như Lai lại cũng như thế. Cái Mê ấy không có gốc gác, tánh nó rốt ráo không. Xưa vốn chẳng có Mê, chỉ hình như có Mê, có Giác. Giác được cái Mê, thì Mê diệt mà cái Giác vốn chẳng sanh Mê. Cũng như người lòa mắt, thấy hoa đốm giữa hư không. Bệnh lòa nếu hết, thì hoa đốm ở hư không diệt mất. Bỗng có người ngu, ở chỗ hư không mà hoa đốm kia đã diệt, đợi chờ hoa đốm sanh ra trở lại. Ông xét người đó là ngu hay là trí huệ ?”

Ông Phú Lâu Na thưa : “Hư không vốn không có hoa đốm, mà vọng thấy có sanh có diệt. Thấy có hoa diệt mất giữa hư không đã là điên đảo rồi. Lại còn muốn bảo nó sanh ra lại thì thật là điên dại, làm sao mà gọi người điên như vậy là ngu hay là trí.”
Phật dạy : “Ông hiểu như thế, sao lại còn hỏi : “Tánh Diệu Giác Minh Không của Chư Phật Như Lai khi nào lại sanh ra núi, sông, đất đai ?” Cũng như quặng vàng lẫn lộn với vàng ròng, một khi vàng đã thành ròng, chẳng trở lại thành dơ tạp. Như cây đã đốt thành tro, không trở lại thành cây nữa. Bồ Đề, Niết Bàn của chư Phật Như Lai cũng lại như thế.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
THÔNG rằng :

Kinh Viên Giác, Bồ Tát Kim Cang Tạng hỏi Đức Thế Tôn rằng : “Nếu chúng sanh xưa nay thành Phật, thì tại sao có hết thảy Vô Minh ? Nếu chúng sanh vốn có Vô Minh, thì vì nhân duyên gì Như Lai lại nói bổn lai thành Phật ? Các loài dị sanh trong mười phương, vốn thành Phật Đạo, sau lại khởi Vô Minh, thì tất cả Như Lai khi nào lại sanh ra tất cả phiền não ?”
Thế Tôn đáp rằng : “Này trai lành ! Hết thảy thế giới thủy chung sanh diệt, trước sau Có, Không, Tụ, Tán, Khởi, Dừng niệm niệm nối nhau, xoay vòng đi lại, đủ thứ nắm bỏ, đều là luân hồi. Chưa ra khỏi luân hồi mà tìm hiểu Viên Giác thì tánh Viên Giác kia cũng đồng trôi chuyển. Nếu thoát khỏi luân hồi, thì làm gì có chuyện đó !”

Nay chỗ nghi của Ông Phú Lâu Na không khác với Bồ Tát Kim Cang Tạng mà Thế Tôn chỉ tùy theo cái thấy sanh diệt của ông mà phá. Đưa tiếp nhau bốn thí dụ : Thứ nhất là Giác chẳng trở lại Mê; hai là Diệt rồi chẳng sanh trở lại; ba là vàng ròng chẳng trở lại quặng ; bốn là tro chẳng thành lại cây. Hai ý sau diễn lại hai ý chánh trước. Giác chẳng trở lại Mê, tức là Bồ Đề. Diệt chẳng trở lại sanh, tứùc là Niết Bàn. Đây là đã ra khỏi luân hồi mà biện hiểu Viên Giác. Tánh Viên Giác ấy tức chẳng có luân hồi, nên nói Bồ Đề, Niết Bàn của Chư Phật Như Lai cũng lại như thế.

Chúng sanh ở trong Mê, chỗ cần yếu là phải Giác. Nhưng từ xưa vốn không có sự Mê, cái Mê từ vô thủy, chỉ tương tự như Mê. Bởi vì ngay khi Mê cũng chưa từng bỏ mất, nên nói chỉ tựa hồ như Mê. Nay cũng không phải là không có Giác. Từ Mê mà Giác, thì cũng tựa hồ có Giác, vì ngay khi Giác, thì có đắc gì đâu, nên gọi là tợ hồ như Giác. Giác cái Mê, thì Mê diệt, đó là Thủy Giác. Giác cho đến chỗ Thủy Giác và Bổn Giác không khác, thì chỉ là một Diệu Giác. Thế là chẳng trở lại sanh Mê, chỉ tự chẳng Mê, Giác cũng thành vô dụng.

Quốc Sư Huệ Trung hỏi quan Cung Phụng Tử Lân rằng : “Phật là nghĩa gì ?”
Lân đáp : “Là nghĩa Giác.”
Ngài nói : “Phật có từng mê không ?”
Lân đáp : “Chẳng từng mê.”
Ngài nói : “Thế dùng Giác làm gì ?”
Ông Lân không đáp được.

Lại Hòa Thượng Mễ Hồ, khiến nhà sư đến hỏi Tổ Ngưỡng Sơn : “Người đời nay có mượn sự Ngộ không ?”

Tổ Ngưỡng nói : “Ngộ thì chẳng phải là không, ngặt vì sợ lạc vào đệ nhị đầu !”

Thầy Mễ Hồ rất chịu đó.

Tổ Đầu Tử nêu ra rằng : “Ngưỡng Sơn nói với người thì được, nhưng tự mình có khỏi lạc chăng ? Nếu khỏi được, lại có người nhất định chẳng chịu đấy. Nếu không khỏi được, thì cũng lạc vào đệ nhị đầu. Mễ Hồ tuy là chấp nhận đó, nhưng tự mình lại có đường xuất thân hay không ? Các ông thử xét xem coi ! Nếu xét ra được, thì cả hai người ngói vỡ, băng tan ! Nếu xét không được, hãy chớ gấp gáp !”
Rồi tụng rằng :

“Chót núi cao xanh mượn hỏi người
Chỉ nơi tột núi chữa yên thân
Tuy là khỏi được (tiết) Trùng Dương khiến
Cũng tợ linh miêu chẳng phạm xuân”.


Về sau, Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Đệ nhị đầu : phân Ngộ phá Mê
Mau hãy buông tay bỏ lưới, nôm
Công chưa xong hết, thành trói buộc
Trăng già mặt tuyết sương thu khóc
Chim hàn cây ngọc, gió thê lương
Đem đến Ngưỡng Sơn phân chân giả
Tỳ vết tuyệt không, ngọc trắng trong”.


Tóm lại, chẳng có được gió Xuân thì hoa không nở, đến khi hoa nở lại thổi rụng ! Dầu có Diệu Ngộ, cũng cần mửa bỏ !
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

V. CHỈ CÁC ĐẠI CÓ THỂ TƯƠNG DUNG


KINH :

“Phú Lâu Na, lại chỗ ông hỏi : “Địa, Thủy, Hỏa, Phong, bản tánh viên dung, toàn khắp thế giới mà nghi sao tánh Nước, tánh Lửa lại không diệt lại nhau. Ông lại nêu ra Hư Không và Đất Đai đều cùng khắp pháp giới, lẽ ra chẳng tương dung.

“Phú Lâu Na, ví như Hư Không, bản thể chẳng phải là các tướng, nhưng không chống lại các tướng phát huy. Tại sao như thế ? Phú Lâu Na, trong hư không kia, mặt trời soi thì sáng, mây tụ thì tối, gió lay thì động, tạnh ráo thì trong, mù đọïng thì đục, bụi nổi thì mịt mùø, nước lắng thì óng ánh. Ý ông thế nào ? Các thứ tướng hữu vi khác nhau như vậy, là nhân các thứ kia mà sanh, hay nhân Hư Không mà có ? Phú Lâu Na, nếu nhân các thứ kia sanh, thì khi mặt trời chiếu soi, đã là mặt trời sáng, mười phương thế giới dều thành sắc của mặt trời, làm sao ở giữa Hư Không, lại còn thấy mặt trời tròn ? Nếu là Hư Không sáng, thì Hư Không phải tự chiếu soi lấy; thế sao giữa đêm hay lúc mây mù, lại chẳng có sáng chiếu ? Vậy, nên biết rằng cái sáng đó, chẳng phải là mặt trời, chẳng phải là Hư Không mà cũng chẳng khác mặt trời và Hư Không. Xét kỹ các tướng, vốn là hư vọng, không thể chỉ bày, cũng như mong hoa đốm giữa Hư Không kết thành quả của Hư Không ! Sao lại còn hỏi nghĩa lấn diệt lẫn nhau ? Xét kỹ cái tánh, vốn là chân thật, chỉ là Tánh Giác Diệu Minh, Tâm Tánh Diệu Minh đó vốn chẳng phải là lửa hay nước, thế sao lại còn hỏi chẳng có tương dung ?
“Tánh Giác Diệu Minh chân thật thì cũng như vậy. Ông phát minh cái Hư Không, thì có Hư Không hiện; phát minh ra mỗi mỗi Đất, Nước, Lửa, Gió thì mỗi mỗi thứ hiện. Nếu cùng phát minh thì cùng có hiện.

“Thế nào là cùng có hiện ra ? Phú Lâu Na, như trong một chỗ có nước hiện ra bóng mặt trời, hai người cùng xem mặt trời trong nước. Rồi một người đi về phương Đông, một người đi về phương Tây, thì mỗi bên đều có mặt trời đi theo, một cái về phương Đông, một cái về phương Tây, không có mẫu mực nhất định. Chẳng nên hỏi rằng : Mặt trời chỉ có một, tại sao mỗi cái đi theo mỗi người ? Mặt trời đã thành hai, vì sao hiện ra chỉ có một ? Quanh quẩn hư vọng như vậy, không có gì có thể làm bằng cứ.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
THÔNG rằng :

Ở trước, đáp câu hỏi “Thanh tịnh bổn nhiên sao bỗng dưng sanh núi sông, đại địa ?” Lấy Tướng mà luận, thì có sanh là từ vọng thấy mà sanh. Trong Tánh mà luận, thì tức là Vô Sanh, Giác chẳng trở lại Mê vậy. Tướng nguyên là Vọng, có gì mà lấn diệt ? Tánh vốn Vô Sanh, cái gì mà chẳng tương dung ? Cho nên bảy Đại là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh. Như Lai Tạng vốn chẳng phải là bảy Đại, nhưng chẳng ngăn bảy Đại kia phát hiện. Ví như Hư Không, bản thể của nó chẳng phải là các tướng mà chẳng ngăn ngạïi các tướng kia phát huy. Chỉ một Hư Không mà Đất tích tụ thì Tướng của Đất hiện ra, Nước lắng thì Tướng Nước hiện ra, mặt trời chiếu thì Tướng Lửa hiện ra, Gió thổi thì Tướng Gió hiện ra, trong tạnh thì Tướng Hư Không hiện ra. Sáng, Tối là thuộc về cái Thấy, khí đục nên thuộc về cái Thức. Bảy ví dụ trên để ví dụï cho bảy Đại vậy.

Bảy Đại không tự sanh, cũng chẳng phải do cái khác sanh. Chẳng phải cái khác sanh, nên chẳng phải là không hay là có. Chẳng do mặt trời, chẳng do Hư Không, nên chẳng phải là cọng sanh. Chẳng khác mặt trời và Hư Không, nên chẳng phải là không nguyên nhân mà sanh. Do đó, nói : vốn Vô Sanh vậy. Đã vốn Vô Sanh, thì tùy theo nghiệp mà có hiện, cũng là hoa đốm. Hoa-không nào kết thành trái-không, thì làm sao có chuyện lấn diệt cho đến sự chẳng tương dung ? Tướng tuy là hư vọng mà Tánh vốn là Chân, thanh tịnh toàn khắp, vốn chẳng phải là hình tướng nước, lửa gì đâu. Không hình thì có gì mà ngăn ngại nhau, há lại có sự chẳng tương dung cho đến sự hại diệt lẫn nhau sao ? Tướng của bảy Đại đã như hoa không, tánh của bảy Đại cũng như Hư Không, thì Như Lai Tạng, Diệu Giác Minh Tâm cũng giống như thế vậy.

Như phát minh ra Hư Không, thì có Hư Không hiện. Lấy Sự mà nói, thì như đào giếng. Lấy Nghiệp mà nói, thì đó là vọng khởi lên cái thấy có Hư Không. Do cái Thấy mà có Hư Không, Đất, Nước, Lửa, Gió cũng là như thế. Mỗi mỗi phát minh, thì mỗi mỗi hiện ra. Nếu cùng phát minh, thì cùng có hiện. Chẳng kể núi Nam nổi mây mà núi Bắc mưa xuống, đều là trong Hư Không vô ngại. Bèn như mặt trời trong nước, mỗi người đi về mỗi hướng Đông, Tây, đều có mặt trời cùng theo. Chẳng tin vào mặt trời trên không, mà lại nghi ngờ mặt trời trong nước, cũng như mây bay mà tưởng mặt trăng chạy; thuyền đi mà cứ tưởng là bờ trôi ! Đã từ vọng thấy mà có sanh ra, thì há có thể ở nơi chỗ thấy hư vọng đó mà biện luận là một hay chẳng phải một, thế chẳng phải là cái lầm quá cỡ sao ?

Hoặc hỏi rằng : “Đất, nước, lửa, gió hiện có thật trước mắt, sao gọi là hư vọng ?”

Đáp rằng : “Người vô trí gọi là thật có. Người có con mắt Trí Huệ xem thì chẳng phải thế ! Ví như đứa trẻ con xem thấy bóng trong gương vui mừng muốn chụp lấy. Người lớn hiểu biết, đâu có bị lầm theo. Phàm phu thấy vi trần hòa hợp gọi là đất thực, bậc có thiên nhãn có thể thấy ra sự phân tán của đất này, ở nơi chỗ bắt đầu, vốn bất khả đắc, nên biết hình tướng nguyên là hư vọng”.

Tổ Pháp Nhãn hỏi Trưởng Lão Bảo Tư rằng : “Người xưa nói : Núi sông không cách trở, quang minh chốn chốn thấu suốt. Vậy làm sao là cái quang minh chốn chốn thấu suốt ?”

Ngài Bảo Tư nói : “Bờ Đông tiếng đánh lưới !”

Tổ Quy Tông Nhu riêng nói rằng : “Hòa Thượng định cách trở !”

Như chỗ hỏi đáp của hai vị tôn túc, chẳng có rỉ giọt, mà còn bị Quy Tông xét ra !

Thầy Tam Tạng Đại Nhĩ ở Ấn Độ đến kinh đô, tự nói là có tha tâm thông. Vua Túc Tông mời Quốc Sư Huệ Trung xét thử.

Quốc Sư nói : “Ông hãy nói lão tăng bây giờ ở tại đâu ?”

Vị kia đáp : “Hòa Thượng là thầy của một nước, sao lại đi Tây Xuyên xem đua thuyền !”

Chặp lâu, lại hỏi : “Ông hãy nói lão tăng bây giờ ở tại nơi đâu ?”

Vị Tam Tạng đáp : “Hòa Thượng là thầy của một nước, sao có thể đến cầu Thiên Tân xem hát khỉ !”

Chặp lâu, lại hỏi : “Ông nói lão tăng ngay bây giờ ở tại nơi đâu ?”
Thầy Tam Tạng chịu, không biết được.
Tổ sư quát rằng : “Con cáo đồng, tha tâm thông ở tại chốn nào ?”
Vị kia không đáp được.

Có nhà sư hỏi Tổ Ngưỡng Sơn : “Thầy Đại Nhĩ Tam Tạng vì sao trong lần thứ ba chẳng thấy được Quốc Sư ?”

Tổ Ngưỡng nói : “Hai lần trước là cái tâm giao thiệp với cảnh, còn lần sau thì vào Tam muội Tự thọ dụng, nên chẳng thấy !”

Vị tăng thuật lại, và hỏi Tổ Huyền Sa.

Tổ Huyền Sa nói : “Ông nói hai lần trước thấy cái gì ?”

Lại có vị tăng hỏi Tổ Triệu Châu : “Trong lần thứ ba, vị Tam Tạng chẳng thấy Quốc Sư, chưa rõ Quốc Sư ở tại chỗ nào ?”

Tổ châu nói : “Ở trên lỗ mũi Tam Tạng !”

Vị tăng sau lại hỏi Tổ Huyền Sa : “Đã ở trên lỗ mũi, tại sao mà chẳng thấy ?”

Tổ Huyền Sa nói : “Chỉ vì quá gần !”

Tổ Thiên Đồng nêu ra rằng : “Tam Tạng không thấy Quốc Sư hãy để đó. Ông hãy nói xem Quốc Sư có tự biết chỗ không ? Nếu nói là tự biết, thì trăm chim ngậm hoa, Chư Thiên cúng dường, chưa có ngày thôi ! Hãy nói chính ngay lúc ấy, ở tại chốn nào ?”

Thế, có thể biết Quốc Sư hai lần tâm giao thiệp với cảnh, chẳng ngăn ngạïi mỗi mỗi phát minh thì mỗi mỗi hiện ra. Huống như Diệu Giác Minh Tâm là cái Tam Muội Tự thọ dụng thì chỗ ở làm sao mà biết, sao còn gạn hỏi chuyện lấn diệt hay chẳng tương dung ?
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

VI. CHỈ TÁNH DIỆU MINH LÀ NHƯ LAI TẠNG,
RỜI CẢ HAI NGHĨA “PHI” VÀ “TỨC”


KINH :

“Phú Lâu Na, ông lấy cái Sắc, cái Không mà lấn cướp lẫn nhau ở nơi Như Lai Tạng, thì Như Lai Tạng theo ông làm Sắc làm Không, toàn khắp pháp giới. Vậy nên ở trong đó, Gió thì động, Hư Không thì yên lặng, mặt trời thì sáng, mây thì tối. Chúng sanh mê muội, trái với Giác, hợp với Trần, nên phát ra trần lao mà có các tướng thế gian.

“Ta thì lấy Tánh Diệu Minh, bất sanh bất diệt, hợp với Như Lai Tạng. Như Lai Tạng đó chính là Tánh Giác Diệu Minh, tròn vẹn chiếu soi pháp giới. Thế nên, ở trong ấy, một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, đạo tràng bất động, cùng khắp mười phương thế giới. Thân trùm cả mười phương hư không vô tận, nơi đầu một mảy lông, hiện ra cõi Phật, ngồi trong vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn. Diệt trần hợp Giác, nên Chân Như Diệu Giác Minh Tánh hiện bày.


THÔNG rằng :

“Chưa ra khỏi luân hồi mà bàn luận Viên Giác, thì Tánh Viên Giác cũng cùng trôi lăn. Nếu hết khỏi luân hồi thì làm gì có chuyện đó.” Tức ở đoạn này nói : “Lấy cái tướng của Sắc, của Không, mà lấn cướp lẫn nhau để luận Như Lai Tạng thì Tánh Như Lai Tạng cũng theo Sắc Không mà thành tam giới lưu chuyển; như vậy mà muốn khỏi thế gian nhọc mệt thì không thể có. Chúng sanh mê muội, không thấu suốt được rằng Sắùc Không cùng với ta vốn là một Thể. Vì hình tướng trói buộc nên đụng đâu cũng thành ra trở ngại, chính là vì trái với Tánh Giác, nên vốn là Minh mà chẳng được Diệu, bèn gọi đó là Mê. Trần tướng thuộc về sanh diệt, nguyên chẳng phải vốn có. Tánh Giác tuyệt không sanh diệt, chẳng nhờ ngoài đến. Chẳng phải vốn có, thì có thể diệt; chẳng ở ngoài đến, nên có thể hợp cùng. Đó là Chân Như Diệu Giác, tròn đủ chiếu soi pháp giới, một tức tất cả, tất cả tức một, ngang dọc tự do, sự sự vô ngại. Đây là diệu dụng không thể nghĩ bàn, chẳng phải do tu mà thành, nên tạm nói là hiện bày ra mà thôi vậy.

Luận An Tâm Pháp Môn của Sơ Tổ Đạt Ma nói : Khi mê thì người đuổi theo pháp, khi ngộ thì pháp đuổi theo người. Ngộ thì thức thu nhiếp sắc, mê thì sắc thu nhiếp thức. Hễ có tâm phân biệt so đo trong hiện lượng của Tự Tâm, bèn đều là mộng. Nếu thức tâm tịch diệt, không có một chỗ nào cho động niệm, đó gọi là Chánh Giác.
Ngài Thần Tú làm bài kệ :

“Thân là cây Bồ Đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng chùi lau
Chớ để bám bụi trần”.


Chỉ một cái “Siêng chùi lau” đó, bèn là lấy Tâm Sanh Diệt mà hợp với Như Lai Tạng, nên mới ở ngoài cửa.
Bài kệ của Đức Lục Tổ là :

“Bồ Đề vốn không cây
Gương sáng chẳng phải đài
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính bụi đời ?”.


Chỉ cái “Không một vật” này, bèn là lấy Chẳng Sanh Chẳng Diệt hợp cùng Như Lai Tạng, hợp nối địa vị Tổ vậy.

Tổ Triệu Châu thượng đường nói : “Như ngọc sáng trong tay, người Hồ đến thì người Hồ hiện, kẻ Hán đến thì kẻ Hán hiện. Lão tăng cầm một cọng cỏ dùng làm thân vàng trượng sáu(09). Lấy thân vàng trượng sáu dùng làm một cọng cỏ. Phật là phiền não, phiền não là Phật”.

Có nhà sư hỏi : “Phật là phiền não của nhà nào?”
Tổ đáp : “Là phiền não đối với tất cả mọi người.”
Hỏi : “Làm sao được khỏi ?”
Tổ Triệu Châu nói : “Dùng cái khỏi để làm gì?”
Ở đây, Tổ Triệu Châu không dùng cái Diệt Trần, không dùng sự Hiệp Giác, lại hay ở trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, đủ để cùng Lục Tổ nắm tay cùng đi !

Tổ Viên Chiếu thượng đường nói : “Nơi đầu một mảy lông, hiện quốc độ Phật, ngồi trong vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn”.

Cầm đứng cây gậy lên mà nói : “Cái này đây là Trần, làm sao nói là cái đạo lý chuyển pháp luân ? Hôm nay sơn tăng chẳng tiếc lông mày, mà nói rõ với các ông : Đưa lên thì nước biển nổi sóng, núi Tu Di chập chùng ! Bỏ xuống thì bốn biển lặng trong, đất trời nghiêm tĩnh. Xin hỏi các ông : Đưa lên là phải ? Bỏ xuống là phải ? Nên đoạn hay chẳng đoạn, lưỡng trùng công án !”
Rồi gõ thiền sàng mà xuống toà.

Lại nữa, Ni Sư Diệu Tổng thượng đường nói : “Tông thừa một phen xướng lên, thì Ba Tạng hết đường dẫn giải. Tổ lệnh thi hành ra, mười phương yên dứt. Hàng Nhị Thừa nghe đến hoảng hồn chạy mất, Thập Địa đến chỗ này vẫn còn như nghi. Nếu là bậc tuấn kiệt, thì chưa nói đã rõ. Giả sử có thủ đoạn dời sao, đổi Bắc Đẩu, bày bố trương cờ gióùng trống thì cũng bỏ công, nào có thật nghĩa ! Một đường hướng thượng, ngàn Thánh chẳng truyền, người học nhọc công, như vượn bắt bóng ! Linh Sơn phó chúc, rủ lòng thuận với thời cơ mà diễn nói ba Thừa, mỗi tùy theo căn khí. Bắt đầu ở vườn Lộc Uyển, chuyển pháp luân Tứ Đế, độ trăm ngàn vạn chúng.

“Ngày nay, sơn tăng cùng với địa phương nơi này, cũng Phật cũng Tổ, sông núi, đất đai, cỏ cây rừng bụi, bốn chúng ngay đây, mỗi mỗi đều chuyển đại pháp luân, ánh sáng giao nhau thành lưới báu. Nếu mỗi một cọng cỏ, mỗi một cội cây không chuyển đại pháp luân thì chẳng gọi được là chuyển pháp luân lớn. Bởi thế mà nói nơi đầu một mảy lông hiện ra cõi nước Chư Phật, ngồi nơi một vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn. Ở trong thời gian không gian ấy mà làm ra vô lượng vô biên Phật sự rộng lớn, khắp cùng pháp giới, một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ. Chẳng động bước mà dạo chơi lầu các Di Lặc. Chẳng xoay lại cái Nghe mà nhập vào cửa mở khắp của Quan Âm. Tình với vô tình, Tánh Tướng bình đẳng, chẳng phải là Thần thông diệu dụng, cũng chẳng phải Pháp vốn như thế”.

Ở chỗ này mà tự do rành rẻ thì ơn vua, ơn Phật tức thời trả hết ! Hãy nói như thế nào là một câu trả ơn ?

Trời cao muôn trượng ở,
Biển rộng trăm sông về.


Các vị tôn túc khế hợp sâu xa với cảnh giới Diệu Minh, cực lực tuyên dương, lời lời đều có đạo vị.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
A
KINH :

AAAA“Nhưng Như Lai Tạng Bản Diệu Viên Tâm không phải là Tâm, không phải là Địa, Thủy, Phong, Hỏa; không phải là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý; không phải Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; không phải Nhãn Thức Giới cho đến không phải là Ý Thức Giớùi; không phải là Minh hay Vô Minh, không phải hết Minh hay hết Vô Minh, như vậy cho đến không phải là Lão, không phải Tử, không phải hết Lão, Tử; không phải là Khổ, Tập, Diệt, Đạo; không phải Trí, không phải Đắc; không phải là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ; không phải là Ba La Mật Đa, như vậy cho đến cũng không phải là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, không phải Đại Niết Bàn, không phải Thường, không phải Lạc, không phải Ngã, không phải Tịnh; tất cả đều chẳng phải, chẳng phải là pháp thế gian hay xuất thế gian.

“Tức Như Lai Tạng Diệu Minh Tâm Nguyên, tức là Tâm, tức là Không, tức là Địa, Thủy, Phong, Hỏa tức là Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân, Ý; tức là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; tùức là Nhãn Thức Giới cho đến tức là Ý Thức Giới; tức là Minh, tức là Vô Minh, tức là Minh và Vô Minh tận, như thế cho đến tức là Lão, tức là Tử, tức Lão Tử tận; tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo; tùức là Trí, tức là Đắc; tức là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ, tùức là Ba La Mật Đa. Như thế cho đến tức là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri; tức là Đại Niết Bàn, tức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, tất cả đều tức là, tức là pháp thế gian và xuất thế gian vậy.

“Tức cái Như Lai Tạng Diệu Minh Tâm Nguyên, lìa Tức là, lìa Chẳng phải, cũng Tức là cũng Chẳng phải. Làm sao chúng sanh trong ba cõi và các hàng Thanh Văn, Duyên Giác xuất thế gian, lấy cái tâm có chỗ biết mà đo lường Bồ Đề Vô Thượng của Như Lai, hay dùng ngôn ngữ thế gian mà vào Tri Kiến Phật.


THÔNG rằng :

AAAAĐoạn kinh này chỉ có Ngài Trường Thủy là xếp lại có thứ tự.

Nói rằng : Bản Diệu Viên Tâm không phải là Tâm, không phải là Không, hết thảy đó, là tóm về Chẳng phải Tướng để hiển bày Chân Đế.

Nói rằng : Nguyên Minh Diệu Tâm tức là Tâm, tức là Không, hết thảy đó, là tóm về Tức là Tướng để hiển rõ Tục Đế.

Nói rằng : Diệu Minh Tâm Nguyên lìa Tức Là, lìa Chẳng Phải cũng Tức Là cũng Chẳng Phải, là tóm về phủ che và soi chiếu để hiển bày Trung Đạo. Phủ che cả chân lẫn tục, nên nói lìa Tức là, lìa Chẳng phải. Chiếu soi cả chân và tục, nên nói cũng Tức là cũng Chẳng phải.

Ba Đế là một Thể, nên đều nói tức là Như Lai Tạng.

Ban đầu, lấy cái chẳng phải để dẹp tướng, kế đó lấy chỗ Tức là để dẹp cái Chẳng phải, cuối cùng nói rằng còn mang vác danh từ, lời nói thì chưa cùng tột ý chỉ của Nhất Chân. Lìa Tức là lìa Chẳng phải, không cả Chẳng phải và Không chẳng phải, ngôn ngữ hết đường, tâm hành tuyệt dấu, mới hiển lộ Nhất Chân pháp giới Như Lai Tạng Tâm. Cho nên, trong kinh Duy Ma Cật, ba mươi mốt vị Bồ Tát thuyết pháp môn Bất Nhị đều dùng lời nói để dẹp hình tướng, còn Ngài Văn Thù lấy lời nói để dẹp lời nói. Đức Duy Ma Cật lấy không lời nói mà dẹp lời nói, mới là rốt ráo.
Tất cả pháp thế gian không ra ngoài năm Ấm, bảy Đại, Căn, Trần, Xứù, Giới. Pháp xuất thế gian không ra ngoài Thanh Văn, Duyên Giác nhị thừa. Chỉ có Bồ Tát với Phật, ở nơi thế mà xuất thế, chẳng có chuyên về xuất thế vậy. Tâm thuộïc về Thức, nên thu nhiếp năm Ấm, Nhãn Thức Giới v.v... thì thu nhiếp mười hai Xứ. Đó là sáu cõi phàm phu vậy. Hàng Duyên Giác quán mười hai nhân duyên, có tướng sanh khởi, có tướng tu trừ, đó là cảnh giới Duyên Giác. Biết cái Khổ, đoạn cái Tập, chứng Diệt, tu Đạo, là cảnh giới Thanh Văn. Có Trí, có Đắc, cho đến sáu Ba La Mật, là cảnh giới của Bồ Tát. Ba hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri và bốn Đức Niết Bàn, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh đều là Phật Giới. Thế gian và xuất thế gian không ngoài những cảnh giới trên. Nếu nơi mỗi Giới mà chấp trước vào cái Tức là thì chẳng có tròn vẹn, nên phải ở nơi Chẳng phải mà thấy tròn vẹn. Một khi chấp trước lấy cái Chẳng phải, thì chẳng diệu, nên phải ở nơi Tức là để thấy cái Diệu. Diệu mà Minh, Minh mà Diệu, chẳng phải Tức, chẳng phải Phi, cũng là Tức, cũng là Phi, Năng Sở đều lìa, không còn chút bóng dáng vang vọng nào khá được, đó là Bồ Đề Vô thượng chân thật vậy.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
A
AAAANgài Mã Minh nói : “Cái Chân-Thật-Không ấy là từ xưa đến nay không tương ưng với tất cả nhiễm pháp, lìa tất cả pháp và tướng sai biệt, không có một chút tâm phân biệt hư vọng vậy. Nên biết Chân Như chẳng phải là có tướng, chẳng phải là không có tướng, chẳng phải là Hữu-Vô-Tướng, chẳng không phải Hữu-Vô-Tướng, chẳng phải tướng khác, chẳng tướng Một hay Khác, chẳng phải không tướng Một, Khác. Nói tóm lại, vì hết thảy chúng sanh có phân biệt hư vọng, nên không thể tiếp xúc được Chân Như. Thế nên, chúng sanh ba cõi thì thấy cái Giả của Chân Như; Thanh Văn, Duyên Giác thì thấy cái Không của Chân Như, nên đối với Trung Đạo Đế của Bồ Tát còn không thể đo lường nổi, huống là Đệ Nhất Nghĩa Đế. Chỉ có Phật cùng với Phật mới có thể thấu suốt rốt ráo. Ngay hàng Đăng Địa Bồ Tát, còn có chỗ chẳng thấy, thì há ngôn ngữ thế gian mà có thể suy đoán tăm hơi ư ? Vô Thượng Bồ Đề không thể lấy tâm trí mà biết, không thể lấy lời lẽ nói năng mà nhập, càng thâm nhập thì càng thấy chỗ nhiệm mầu của nó vậy”.

Có nhà sư hỏi Tổ Mã Tổ(10) : “Hòa Thượng vì sao nói “Tức Tâm tức Phật” ?”
Đáp : “Để dỗ trẻ con nín khóc”.
Hỏi : “Nín rồi thì như thế nào ?”
Đáp : “Chẳng phải Tâm, chẳng Phật”.
Hỏi : “Người ngoài hai loại ấy đến chỉ dạy làm sao ?”
Đáp : “Vì y mà nói chẳng phải vật”.
Hỏi : “Bỗng gặp người trong ấy đến thì như thế nào ?”
Đáp : “Liền dạy y thể hội đạo lớn”.

Ngài Mã Tổ đã ở trong Niết Bàn Diệu Tâm nên xuất lời, hà hơi đều hợp với Tâm đó.

Lại nữa, Đức Mã Tổ nghe Ngài Đại Mai trụ sơn, mới bảo nhà sư đến hỏi : “Hòa Thượng ra mắt Mã đại sư, được cái gì mà trụ núi này ?”

Ngài Đại Mai nói : “Đại sư nói với tôi “Tức Tâm, tức Phật”. Tôi bèn ở trong ấy mà trụ”.

Nhà sư nói : “Gần đây, Phật Pháp của đại sư lại khác”.

Ngài Mai nói : “Ra sao ?”

Đáp : “Đại sư lại nói “Chẳng phải Tâm, chẳng phải Phật””.

Ngài Đại Mai nói : “Cái ông già ấy làm mê loạn người chưa có ngày thôi ! Mặc kệ ông ta chẳng phải Tâm, chẳng phải Phật. Tôi vẫn tức Tâm, tức Phật !”

Nhà sư ấy về thưa lại với Đức Mã Tổ, Ngài nói : “Trái mơ (Đại Mai) chín rồi vậy”.

Thiền sư Đông Tự Hội thường sợ đệ tử lấy câu “Tức Tâm, tức Phật” mà đàm luận, ghi nhớ, đọc tụng không ngừng. Ngài bảo : “Phật trụ chỗ nào mà nói tức Tâm ? Tâm như ông thầy vẽ, sao nói tức Phật ?” Bèn khai thị cho chúng rằng : “Tâm chẳng phải Phật, Trí chẳng phải Đạo. Gươm mất đã xa rồi, mới khắc dấu vào ghe !”

Tổ Nam Tuyền có lần nói : “Giang Tây Mã Tổ dạy tức Tâm tức Phật, Vương Lão sư (là Nam Tuyền) chẳng nói thế ! Chẳng phải Tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải Vật, nói như thế thì có lỗi gì chăng ?”

Ngài Triệu Châu lễ bái rồi bỏ đi ra.
Khi ấy có nhà sư hỏi Tổ Triệu Châu : “Thượng Tọa lễ bái rồi bỏ đi ra, là ý gì thế ?”
Ngài nói : “Ông hãy trở lại hỏi lấy Hòa Thượng”.
Nhà sư bèn hỏi Tổ Nam Tuyền : “Vừa rồi ý của Triệu Thượng Tọa là thế nào ?”
Tổ Truyền nói : “Ông ấy lãnh hội được ý chỉ Lão tăng”.

Ở nơi chỗ dụng xứ của các vị lão túc mà chẳng có nghi, mới có thể nhập Phật Tri Kiến.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
A
AAAA
KINH :

“Ví như đàn cầm, sắt, không hầu, tỳ bà tuy là có diệu âm, mà không có ngón tay diệu thì rốt cuộc chẳng phát ra được. Ông và chúng sanh cũng như thế đó. Cái Chân Tâm hằng giác quý báu, mỗi mỗi đều tròn đủ. Như ta ấn ngón tay thì Hải Ấn phát ra ánh sáng. Còn các ông vừa tạm khởi tâm, thì trần lao đã nổi dậy. Do chẳng siêng năng cầu đạo Vô Thượng Giác, ưa nhớ Tiểu Thừa được chút ít đã cho là đủ”.

THÔNG rằng :

Diệu Minh, Minh Diệu chính là Diệu Âm này, với cái diệu của ngón tay đều chẳng phải là chỗ nghĩ bàn có thể đến được. Tức là như ta ấn ngón tay, tiếng nhiệm mầu theo đó phát ra, như Hải Ấn phát sáng, sắc sắc tròn đầy, có gì tạo tác đâu ?

Kinh Đại Tập nói : “Toàn thể sắc tượng của cõi Diêm Phù Đề đều là ấn văn của đại hải, nên gọi là Hải Ấn”.

Các ông thì vừa mới móng tâm, cũng như đàn với tay chẳng có rập nhau, đã chẳng nghe được nhiệm mầu, mà trần lao nổi lên loạn xạ. Chỉ vì dùng cái tâm sanh diệt tương ưng với Như Lai Tạng, không tùy thuận Định Huệ chiếu soi, mà tùy với vô minh phiền não, nên có trần lao. Trần lao che khuất thì tuy có Chân Tâm Bảo Giác, mỗi mỗi tròn đầy, cũng không thể phát ra được.

Thiền sư Đông Minh Thiên, một hôm đang đọc kinh Lăng Nghiêm, có vị đạo giả tên Trung hỏi : ““Như Ta ấn ngón tay thì Hải Ấn phát quang”, ý Phật như thế nào ?”

Ngài nói : “Cái lão Thích Ca, đáng cho hai mươi gậy !”

Hỏi : “Vì sao như thế ?”
Đáp : “Dùng ấn ngón tay làm gì ?”
Hỏi : “ “Ông vừa móng tâm, trần lao đã nổi”, lại là sao ?”
Đáp : “Đó cũng là Hải Ấn phát quang !”

Kỳ diệu thay, kỳ diệu thay ! Phải thấy được như thế mới gọi là chuyển Lăng Nghiêm.

Thiền sư Tiến Phúc Ngộ Bổn thượng đường nói : “Vua Càn Thát Bà vừa tấu nhạc, thì núi sông, đất đai đều nhảy múa. Có đâu như lão què Vân Môn, thoát đạo Hai Mươi Lăm tháng Chạp ! Bác Sơn này ngày nay, có Điều thì chụp Điều, không có Điều thì chụp lấy Lệ, chỉ cần ứng với thời tiết”.

Bỗng cầm lên cây gậy, gác ngang đầu gối, làm thế gãy đàn, rồi nói : “Có nghe thưởng thức tiếng đàn chăng ?”

Chặp lâu nói rằng : “Dầu cho làm tiếng phụng hoàng kêu. Rốt cuộc có ai hay Chỉ Pháp(11) !”. Đánh vào bàn một cái, rồi xuống tòa.

Than ôi, Chỉ Pháp há thật chẳng truyền sao ? Siêng năng cầu đạo Vô Thượng Giác, tự mình hiện được đó.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

VII. CHỈ MÊ VỌNG KHÔNG CÓ NHÂN, HẾT MÊ LÀ BỒ ĐỀ

KINH :

Ông Phú Lâu Na thưa : “Chân Tâm tròn sáng, trong sạch nhiệm mầu của tôi và của Như Lai, đều tròn đầy không hai, thế mà tôi từ xưa mắc lấy Vọng Tưởng, ở lâu trong luân hồi nay được Thánh Thừa, còn chưa rốt ráo. Thế Tôn thì các Vọng đều diệt sạch, độc chỉ một Chân Thường mầu nhiệm. Xin hỏi Như Lai, tất cả chúng sanh nhân gì mà có Vọng, tự mình che lấp tánh Diệu Minh, phải chịu sự trôi chìm này?”

Phật bảo ông Phú Lâu Na : “Ông tuy trừ được nghi ngờ, mà các điều lầm còn sót lại chưa dứt hết. Nay ta lại lấy những việc thế gian trước mắt mà hỏi ông. Ông há chẳng có nghe trong thành Thất La Phiệt, có anh Diễn Nhã Đạt Đa vào buổi sáng lấy cái gương soi mặt, bỗng ưa cái đầu trong gương và mày mắt có thể thấy được, rồi nổi giận trách cái đầu của mình sao không thấy mặt mày, cho là loài yêu quái, rồi không vì cớ gì phát điên lên bỏ chạy. Ý ông thế nào ? Người ấy vì nguyên nhân nào mà khi không phát điên bỏ chạy ?”.

Ông Phú Lâu Na thưa : “Tâm người ấy điên cuồng, chứ không có lý do nào khác”.

Đức Phật nói : “Tánh Diệu Giác tròn đầy vốn sáng suốt, nhiệm mầu tròn khắp. Đã gọi là Vọng thì làm sao có nhân, nếu có nguyên nhân thì sao gọi là Vọng ? Chỉ tự các Vọng Tưởng xoay vần làm nhân cho nhau, từ cái Mê mà tích chứa thêm Mê, trải qua vô số kiếp nhiều như bụi. Tuy Phật chỉ rõ ra, còn chưa thể trở lại. Như thế, nguyên nhân của Mê chỉ là nhân Mê mà tự có. Tỉnh ngộ cái Mê ấy vốn không có nguyên nhân, Vọng nào còn có chỗ nương dựa ? Còn không có chỗ sanh ra, muốn diệt cái gì ?

“Người được Bồ Đề như người tỉnh giấc, kể lại chuyện trong chiêm bao, tâm dù rõ ràng nhưng đâu còn nhân duyên nào nữa để cầm được vật trong mộng ? Huống là cái Mê thấy mọi sự hiện giờ chẳng có nguyên nhân ở đâu cả, vốn không chỗ có ! Như anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa(12) trong thành kia nào có nhân duyên gì, bỗng tự sợ cái đầu mình rồi bỏ chạy. Tự nhiên hết điên, thì cái đầu đâu phải từ ở ngoài mà có được. Dầu chưa hết cuồng, cái đầu kia cũng có khi nào mất.

“Phú Lâu Na, bản tánh của Vọng là như vậy đó, đâu có nguyên nhân gì mà có ?

“Ông chỉ không tùy theo phân biệt các thế gian, nghiệp quả và chúng sanh, ba thứ tương tục đó. Ba Duyên ấy đã đoạn, thì ba nhân cũng chẳng sanh, liền trong tâm ông cái điên cuồng của chàng Diễn Nhã Đạt Đa tự hết. Hết đó tức là Bồ Đề, cái Tâm tuyệt vời trong sạch sáng suốt, vốn khắp cùng pháp giới, không do đâu mà được, nào phải nhọc nhằn khẩn thiết tu chứng gì đâu”.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
A
THÔNG rằng :

Ông Phú Lâu Na đã chứng Hết Lậu, đã được Thánh Quả, sao lại còn các điều mê lầm còn sót chưa hết dứt ? Chỉ vì trước kia có dụng công diệt trừ vọng tưởng, nghĩa là cái Tâm diệt trừ vọng tưởng này chính là cái Giác Minh Phân Biệt sợ cái đầu của mình mà phát điên bỏ chạy ! Diệt Vọng cầu Chân, có cái Chân để đắc thì cũng như nhìn cái đầu trong gương, mày mắt thấy được. Chân nào có mất bao giờ, nhưng khó nổi đo lường, cũng như cái đầu vốn chẳng hề mất mà mặt mày khó thấy. Một khi sanh phân biệt đây là chúng sanh, đây là nghiệp quả rồi cho là khác với Chân Như của ta. Thế dầu có được Chân Như, do đoạn trừ Vọng mà chứng đắc, cũng chẳng phải là Tự Tánh Thiên Chân Phật xưa nay vậy. Ông Phú Lâu Na chưa thấu rõ chỗ này, nên cho rằng Vọng đã có thể diệt, thì vọng sanh ắt phải có nguyên nhân, cần biết cái nguyên nhân của nó, mới đoạn trừ được.

Ở đoạn trước đã nói : nhân Minh mà lập Sở, chính bởi vì thế mà Vọng sanh ra. Thế ấy cũng là phân biệt, chính thật là Vọng !

Đức Thế Tôn chỉ thẳng Đốn Môn, chẳng cần diệt Vọng, chỉ ngưng đi phân biệt, thì Bồ Đề tự sẵn đủ. Chỉ thôi chạy điên, thì cái đầu xưa vẫn y nguyên ra đó !

Sở dĩ vọng phân biệt, Vọng chạy điên, là vì tích chứa mê lầm mà có. Cái Mê vốn chẳng nhân đâu mà có, không từ Mê mà sanh ra, không từ Ngộ đến. Mê đã không gốc gác gì, thì Vọng nương đâu mà có ? Vọng thật không chỗ nương, Vọng vốn chẳng sanh vậy. Vọng nguyên là chẳng sanh, không đâu mà có thể diệt. Diệt mà không đâu có thể diệt, đó là Tịch Diệt Hiện Tiền.
Tánh Diệu Giác tròn sáng, vốn sáng suốt nhiệm mầu tròn khắp, nguyên là không có chuyện sanh diệt, tuyệt không có mảy mún vọng nào cả. Trong Bồ Đề, tìm cái Chân còn không thể được, thì từ chỗ nào kiếm được cái vọng ư ?

Cho nên, không tùy thuận theo phân biệt nơi chỗ sanh ra của ba thứ tương tục cùng cái nhân duyên đoạn trừ để cho khỏi sanh ra, tức thì một tâm niệm chẳng sanh, vạn pháp nào có lỗi ? Đó là cái Bồ Đề tuyệt trần trong sạch, nào mượn sức người tu chứng để được ư ? Ba Duyên tịch diệt, ba Nhân chẳng sanh, ở ngay trong đó mà tự thành Diệt Tận Định.

Ông Phú Lâu Na đều thường khởi ra các sự phân biệt, cho là Bồ Đề do tu chứng mà được. Chỉ cần đừng phân biệt rối rắm như vậy, thì không có Vọng nào để khá diệt, không có Chân nào khá đắc, bèn là thanh tịnh bổn nhiên, toàn khắp pháp giới. Nếu nói Như Lai Độc Diệu Chân Thường, là do cả thảy đều trọn dứt diệt mà chứng được, thì chưa thấy chỗ diệu kỳ của Như Lai vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá : “Như nay hiện có đủ thứ vọng niệm, vì sao lại nói không ?”

Tổ Hoàng Bá nói : “Vọng vốn không có tự thể, chỉ là nơi Tâm của ông khởi lên. Như ông biết Tâm nguyên là Phật, Tâm vốn chẳng có vọng, thì Tâm nào có khởi, luống lại đi nhận vọng ư ?
Như ông chẳng sanh tâm động niệm, thì tự nhiên chẳng có vọng nào cả. Do đó mới nói : Tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh, tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt.”

Nhà sư hỏi : “Nay ngay lúc vọng niệm khởi, thì Phật tại chỗ nào ?”

Tổ Bá nói : “Nay ngay khi ông tỏ ra biết vọng niệm khởi lên, thì cái tỏ biết đó chính là Phật. Còn trong ấy mà không có vọng niệm, thì Phật cũng không. Vì sao như thế ? Vì ông khởi tâm làm nên cái thấy Phật, bèn là có Phật để thành. Làm nên cái thấy có chúng sanh, bèn là có chúng sanh để độ. Khởi tâm động niệm đều là chỗ thấy của ông. Nếu không có tất cả mọi cái thấy thì Phật có ở chốn nào ? Như Ngài Văn Thù vừa khởi lên cái Phật Kiến, liền bị hai ngọn núi Thiết Vi đè !
Nhà sư hỏi : “Nay chính lúc tỏ ngộ, Phật ở tại chốn nào ?”

Tổ Bá đáp : “Cái hỏi đó từ đâu mà lại ? Cái Giác đó từ đâu mà khởi lên ? Nói, nín, động, tịnh, cả thảy thanh sắc, toàn là Phật sự, chỗ nào tìm Phật ? Chẳng thể trên đầu lại chồng thêm cái đầu, trên miệng để thêm cái miệng ! Chỉ đừng sanh dị kiến, thì núi là núi, nước là nước, tăng là tăng, tục là tục. Núi sông đại địa, nhật nguyệt tinh tú đều chẳng ra ngoài Tâm ông. Tam thiên thế giới đều là tự kỷ của ông. Chỗ nào mà có lắm thứ ? Ngoài Tâm không pháp, ngập mắt núi xanh, thế giới, hư không, xứ xứ sáng rỡ, không một mảy tơ để ông chen vào kiến giải. Thế nên, tất cả thanh sắc là con mắt huệ của Phật. Pháp chẳng khởi lên một mình, nương cảnh mới có sanh, vì có vật mà có nên nhiều trí. Suốt ngày nói mà nào từng nói. Suốt ngày nghe mà nào từng nghe. Như thế nên Đức Thích Ca bốn mươi chín năm thuyết pháp mà chưa hề nói ra một chữ”.
Nhà sư hỏi : “Nếu như thế, chỗ nào là Bồ Đề ?”

Tổ Bá nói : “Bồ Đề không là chỗ nào hết. Phật cũng chẳng đắc Bồ Đề, chúng sanh chẳng mất Bồ Đề. Không thể lấy thân mà được đó, không thể lấy Tâm mà cầu đó. Tất cả chúng sanh tức là tướng Bồ Đề”.

Nhà sư hỏi : “Như thế nào phát Bồ Đề Tâm ?”

Tổ Bá nói : “Bồ Đề là không chỗ đắc. Nay ông chỉ phát tâm Vô Sở Đắc, quyết định không có một pháp nào để đắc, tức là Bồ Đề Tâm. Bồ Đề không có chỗ sanh ra, cho nên không có chuyện đắc. Thế nên nói rằng : “Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng, không có chút pháp nào có thể đắc, Phật bèn thọ ký cho Ta”. Phải rõ rằng, tất cả chúng sanh vốn là Bồ Đề, không lẽ trở lại đắc ư ? Giờ đây ông hỏi phát Bồ Đề Tâm, muốn đem một cái tâm mà học lấy Phật Đạo. Chỉ nghĩ định làm Phật Đạo thôi, thì mặc cho ông tu ba a tăng tỳ kiếp cũng chỉ định được cái Báo Thân, Hóa Thân Phật. Thế thì đối với cái Chân Tánh Phật bổn nguyên của ông có giao thiệp gì ? Nên nói : Cầu bên ngoài ông Phật có hình tướng, thì có giống gì ông đâu ?”

Lại Tổ Lâm Tế nói rằng : “Chư vị học Đạo ở các nơi nói có Đạo để tu, có Pháp để chứng. Các ông thử nói xem chứng Pháp gì, tu Đạo gì ? Hiện giờ đây chỗ dùng của các ông có thiếu hụt cái gì đâu ? Sửa sang thêm thắt chỗ nào ? Các ông thầy trẻ tuổi hậu sinh không hiểu, liền tin ngay đám cáo chồn tinh mị đó, để cho họ bày chuyện trói buộc người khác.
“Họ nói : Hình tướng đạo lý là do giữ gìn, mến tiếc ba nghiệp mới được thành Phật.
“Nói như vậy thì chỉ như mưa bụi mùa Xuân.
“Cổ nhân nói : “Trên đường gặp người đạt đạo, thứ nhất là chẳng hướng về đạo” !
“Do đó mà nói :

“Nếu người tu đạo, đạo chẳng hành
Muôn ngàn tà cảnh lại đua sanh
Gươm Trí đưa ra không một vật
Cái sáng chưa bày, tối đã minh !”.


“Bởi thế, cổ nhân nói “Bình thường tâm là Đạo”. Đại Đức tìm kiếm cái gì ? Ngay bây giờ đây, cái trước mắt nghe Pháp là đạo nhân không chỗ nương(13), khắp chốn rõ ràng phân minh, chưa từng thiếu hụt. Các ông như muốn cùng Phật, Tổ chẳng khác, chỉ như thế mà thấy, chẳng khởi nghi lầm. Như các ông tâm tâm chẳng khác, thì gọi là Tổ. Tâm mà có chút sai khác đi: Tánh, Tướng liền khác nhau. Tâm như như chẳng khác, thì Tâm và Tướng không hai”.

Lại có nhà sư hỏi thiền sư Tiến Phúc Tư rằng : “Điện xưa không có Phật thì như thế nào ?”

Tổ Tư nói : “Phạm âm ở đâu tới ?”
Lại hỏi : “Chẳng mượn tu chứng, làm sao đắc thành ?”
Tổ Tư nói : “Tu chứng tức chẳng thành”.
Chỗ Thấy của các vị tôn túc, mỗi mỗi đều suốt hợp với ý chỉ “Nào phải nhọc nhằn, ráo riết tu chứng gì đâu ?” Đây tức là Niết Bàn Diệu Tâm, Chánh Pháp Nhãn Tạng, nào phải chờ đến chuyện Linh Sơn đưa lên cành hoa, Ngài Ca Diếp mỉm cười, rồi sau mới gọi là “Biệt truyền Tâm Ấn” ư ?
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
A
KINH :

“Ví như có người ở trong áo mình buộc một hạt Châu Như Ý mà không hay biết; nên phải xin ăn lưu lạc phương xa, nghèo nàn gầy ốm. Tuy bần cùng hết sức nhưng hạt châu không hề mất. Bỗng dưng có người Trí chỉ bày cho hạt châu, liền muốn gì có nấy, thành giàu có lớn, mới hay hạt Thần Châu chẳng phải do ở ngoài mà được.

THÔNG rằng :

Kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm chỉ thẳng tâm người, thấy Tánh thành Phật đều lấy hạt châu trong áo làm ví dụ. Như Lai Tạng Tánh, bị năm Ấm che đậy, như hạt châu buộc trong áo, nên không dễ thấy được. Hướng ra ngoài chạy kiếm thì mỗi ngày đều thấy chẳng đủ, nghèo ốm ở phương xa, chạy cuồng chín cõi. Cầu cái vui của trời, người, giữ riêng cái lợi ích nhỏ nhen, thì cũng còn là rong ruổi ăn xin. Còn như được Bổn Tâm, thì đầy đủ dư dật. Hạt châu tên Như Ý, muốn gì được nấy. Nào ngờ tự tánh vốn tự sẵn đủ ! Nào ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp (Lục Tổ khi ngộ đạo) ! Nên diệu dụng chẳng hề thiếu hụt, thành giàu có vô biên. Một hạt Thần Châu này, mê cũng chưa từng mất, ngộ cũng chẳng từng được. Chỉ được người Trí chỉ cho, bèn tự thọ dụng không cùng, nào mượn chỗ tu chứng ư ?

Một hôm, Đức Thế Tôn đưa ra một viên ngọc ma ni tùy sắc, rồi hỏi các vị Thiên Vương của năm phương rằng : “Viên ngọc này màu gì ?”

Các vị Thiên Vương mỗi người nói mỗi màu khác nhau. Thế Tôn cất viên ngọc vào tay áo, rồi đưa tay lên hỏi : “Viên ngọc này có màu gì ?”

Các vị Thiên Vương thưa : “Trong tay Phật không có châu, lấy chỗ nào có màu ?”

Đức Thế Tôn than rằng : “Các ông sao mê mờ điên đảo lắm thế ! Ta lấy hạt châu của thế gian đưa ra thì mỗi ông đều tranh nhau nói màu xanh, vàng, trắng, đỏ... Còn ta đưa hạt châu thật ra chỉ cho, lại rốt cuộc chẳng hay biết !”

Khi ấy, các vị Thiên Vương năm phương đều ngộ đạo.

Ngài Đại Châu, ban đầu ra mắt Đức Mã Tổ.

Tổ hỏi: “Từ đâu đến ?”

Đáp rằng : “Ở chùa Đại Vân tại Việt Châu đến”.

Tổ nói : “Đến đây định có chuyện gì ?”

Đáp : “Thưa, đến cầu Phật Pháp”.

Tổ đáp : “Kho báu nhà mình thì chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy rông làm chi ? Ta, trong ấy một vật cũng không, ông cầu Phật Pháp nào ?”

Ngài bèn làm lễ rồi hỏi : “Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải (Đại Châu) ?”

Đức Mã Tổ nói : “Tức nay đang hỏi ta là cái đó. Kho báu của ông, hết thảy hiện thành, tuyệt không thiếu hụt, liền dùng tự tại, nào phải hướng ngoài tìm kiếm”.

Ngài Đại Châu ngay dưới lời nói tự rõ Bổn Tâm, chẳng do hiểu biết, vui mừng lễ tạ, hầu Tổ trong sáu năm. Về sau, viết cuốn “Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn Luận”. Tổ xem rồi bảo với đại chúng :
“Ở Việt Châu có viên ngọc lớn (Đại Châu), tròn sáng trong suốt, tự tại không gì ngăn ngại”.
Ngài Ngưỡng Sơn tham lễ thiền sư Đông Tự Hội.

Thiền sư hỏi : “Ông là người xứ nào ?”
Ngài Ngưỡng đáp : “Người Quảng Nam”.
Thiền sư Hội nói : “Tôi nghe ở Quảng Nam có viên minh châu trấn biển, có đúng không ?”
Ngài Ngưỡng đáp : “Thưa, phải”.
Tổ Hội nói : “Châu ấy như thế nào ?”
Ngài Ngưỡng nói : “Không trăng thì ẩn, có trăng thì hiện”.
Tổ Hội : “Có đem đến được không ?”
Ngài Ngưỡng : “Đem đến được”.
Tổ Hội : “Sao chẳng trình ra với lão tăng ?”
Ngài Ngưỡng Sơn khoanh tay bước tới, nói : “Hôm qua đến Qui Sơn cũng bị đòi hạt châu ấy ! Ngay ấy không có lời để đối đáp, chẳng có lý lẽ nào để đưa ra !”
Tổ Hội nói : “Thật là sư tử con khéo hay gầm rống !”

Trăm, ngàn năm về sau, nhờ có các vị tôn túc hộ trì được hạt thần châu, chẳng do ngoài mà được, thì càng tin lời Phật chẳng có sai lầm.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

TOP 5 Tài Thí

Bên trên