- Tham gia
- 18/1/13
- Bài viết
- 1,013
- Điểm tương tác
- 289
- Điểm
- 83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>CHƯƠNG THỨ MƯỜI CHÍN
<B>VƯƠNG LÃO SƯ
VÀ CÁC BÀI TỤNG VỀ TRANH CHĂN TRÂU</B>
(Nhật Bản)</I>
(Trích: Thơ Thiền Đường Tống, Đỗ Tùng Bách.
Dịch: Phước Đức
Hiệu đính: Tấn Tài
Nhà xuất bản Đồng Nai, trang 174-182)</I></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vương lão sư - Công án chăn trâu của Nam Tuyền Phổ Nguyện, đối với sự tu trì của thiền sư, phát sinh ảnh hưởng rất lớn, chẳng những hình thành thơ tụng cổ, mà còn vẽ nên tranh chăn trâu, mỗi đời đều có thơ họa lại. Hơn nữa, còn truyền sang Nhật Bản. Ý nghĩa chăn trâu chính là dưỡng tâm để ngộ đạo. Ngũ Đăng Hội Nguyên viết về lý do ra đời công án này như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nam Tuyền Phổ Nguyện thượng đường nói: Vương lão sư từ nhỏ có nuôi một con trâu đực, định đem chăn ở khe phía Đông chỉ sợ ăn nhằm cỏ nước của Quốc vương, định đem chăn ở khe phía Tây, cũng sợ ăn nhằm cỏ nước của Quốc vương, chẳng bằng tùy phận nhận chút trọn chẳng thấy được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vương lão sư đã đem thiền lý để hình tượng hóa tức là dùng hình ảnh chăn trâu đực để tỷ dụ việc hàm dưỡng tâm tánh. Khe Đông, khe Tây chính là bên này bên kia: Bên này đại biểu cho sắc giới, bên kia đại biểu cho không giới. Chấp sắc, chấp không để cầu ngộ đạo, vẫn là kẻ ở giữa đường, khởi lên tâm phân biệt cho sắc giới là huyễn tượng, không giới là chơn thật, bên này là phàm bên kia là thánh có sự nghiêng lệch, nên nói: Chỉ sợ ăn nhằm cỏ nước Quốc vương, cho nên <I>"Chẳng bằng tùy phận nhận chút chút"</I> là chẳng khởi tâm phân biệt, tâm bình thường hợp đạo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sự lãnh hội của Trường Khánh Lại An sau này hoàn toàn đắc lực là nhờ ở công án này:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Sư (Lại An) liền đến Bách Trượng (Hoài Hải), lễ bái hỏi rằng: "Người học muốn biết Phật làm sao mới đúng?" Trượng nói: "Như người cưỡi trâu về nhà". Sư hỏi: "Chưa biết trước sau bảo nhậm thế nào?" Trượng đáp: "Như người chăn trâu, cầm roi xem chừng chẳng cho nó phạm vào lúa mạ của người".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nhân đây lãnh hội ý chỉ, chẳng đi tìm đâu nữa. (Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 4)</I><P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bách Trượng và Nam Tuyền là cao đệ của Mã Tổ. Bách Trượng trả lời câu hỏi của Lại An là phát huy ý nghĩa của Nam Tuyền, và nội dung lược nói có khác nhau. Mọi người đều có Phật tánh, chẳng chịu tìm nơi mình mà đi tìm bên ngoài, đâu khác gì kẻ cỡi trâu mà đi tìm trâu? Sau khi liễu ngộ tự tâm, đạo chẳng xa người và trở về với đạo, nên sau khi biết được Phật, giống như người cỡi trâu về nhà. Thiền nhân từ khi ngộ về sau, chẳng để lạc mất cảnh ngộ, cần có thời gian dài để tu trì, gìn giữ chỗ mình lãnh ngộ gọi là <I>"Bảo nhậm"</I>. Bách Trương răn nhắc Lại An, cốt giống như người chăn trâu, cầm roi trông chừng trâu, <I>"chẳng cho nó ăn lúa mạ của người"</I>, tức chẳng chịu sự sai khiến của dục niệm, rơi vào trong sắc giới.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại An nhờ Bách Trượng khai thị, dụng công tu hành về sau thay thế Qui Sơn Linh Hựu làm trụ trì Qui Sơn, giải thích về chỗ tâm đắc khi chăn trâu như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Sở dĩ An này ở Qui Sơn ba mươi năm, ăn cơm núi Qui, đại tiện núi Qui mà không học thiền ở núi Qui, chỉ trông chừng một con trâu đực. Nếu nó lạc đường hay vào trong cỏ liền lôi nó lại. Nếu nó phạm vào lúa mạ của người liền đánh đập điều phục nó. Đáng thương đã lâu chịu người rầy rà, hôm nay trở thành con trâu trắng đứng trước mặt, hiện sờ sờ suốt ngày dù có đuổi cũng không đi.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bây giờ không nghi là Lại An sau ba mươi năm bảo nhậm mới phát ra lời nói về cảnh giới tu trì. <I>"Con trâu trắng lộ thiên"</I> dụ cho trâu đã được điều phục, và cũng chỉ cho cảnh giới <I>"Nhất sắc"</I>, cùng đạo hợp nhất. Thường ở trước mặt đuổi cũng không đi nghĩa là không còn mê lầm, chơn tâm thường hiện hữu, đương nhiên đó là kết quả bảo nhậm của ông ta. <I>"Lạc đường hay vào trong cỏ liền kéo lại, nếu ăn lúa mạ của người liền dùng roi đánh đập điều phục"</I> là chỗ công phu bảo nhậm của Sư. Cũng giống như ví dụ chăn trâu này, chúng ta thấy được qua đối đáp giữa Mã Tổ và Thạch Cũng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Thiền sư Thạch Cũng Huệ Tạng ở Phủ Châu, một hôm đang làm việc trong bếp, Mã Tổ thấy Sư liền hỏi rằng: "Làm gì?" Cũng nói: "Chăn trâu!" Tổ nói: "Chăn ra sao?" Cũng đáp: "Một khi vào trong cỏ liền nắm dây mũi kéo lại!" Tổ nói: "Con thật là biết chăn trâu"...</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có thể thấy một công án chăn trâu này được lưu hành rộng rãi, về sau đề xướng ra nhiều thứ tán tụng, đến thiền Sư Phổ Minh mới vẽ thành tranh, chia thành mười giai đoạn điều phục, từ bức "Tìm Trâu" đến bức "Vào Chợ Duỗi Tay", mỗi bức đều được thiền sư Nhất Sơn dùng thơ tụng để giải thích ý cảnh của mỗi giai đoạn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">1. <B>TẦM NGƯU</B>:
Bổn vô hình tích khả cầu tầm
Vân thọ thương thương yên thảo thâm
Cước hạ tuy nhiên kỳ lộ biệt
Nham tiền khô mộc tự long ngâm.
(Nhất Sơn Hòa thượng<SUP><B>(8)</B></SUP>)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>TÌM TRÂU:
Vốn không dấu vết để kiếm tìm
Mây xây xanh ngắt cỏ thêm xanh
Dưới chân dẫu có nhiều lối tẻ
Cây khô trong núi tiếng rồng gầm.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">CHÚ THÍCH:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(*) Nhất Ninh (1274-1317): Thiền tăng đời Nguyên, họ Hồ, hiệu Nhất Sơn, cũng gọi "Nhất Ninh Nhất Sơn". "Ninh Nhất Sơn", người xứ Lâm Hải, Đài Châu (nay thuộc tỉnh Chiết Giang) Trung Quốc. Thuở bé xuất gia ở chùa Hồng Phước, Sư thờ ngài Vô Đẳng Dung Công tu tập theo pháp của tông Lâm Tế. Sau đó vào chùa Phổ Quang trong núi Từ Minh học kinh Pháp Hoa, lại hấp thụ giáo nghĩa Luật Tông, Thiên Thai Tông. Sư giỏi thơ văn, khéo về thư pháp, kiêm thông Nho đạo. Năm 1299, vua Thành Tông giao cho Sư trông coi tất cả giáo đồ đạo Phật ở vùng Lưỡng Chiết và ban cho hiệu "Diệu Từ Hoằng Tế Đại Sư", phụng mạng đi sứ Nhật Bản và ở lại bên đó. Sư lần lượt trụ trì các chùa: Kiến Trường, Viên Giác, Nam Thiền, truyền trao thiền pháp, môn đồ rất đông. được suy tôn làm Tông sư của phái "Nhất Ninh Nhất Sơn". Tác phẩm: Nhất Ninh Nhất Sơn Quốc Sư Ngữ Lục.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">2. <B>KIẾN TÍCH</B>:
Thảo khòa lý tẩu lộ hà đa?
Chỉ thử đề sầm mạc thị ma?
Cước lực cùng biên trùng tiến bộ
Ngang ngang đầu giác yếu phùng ngã.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>THẤY DẤU:
Trong cỏ lối mòn lắm nẻo rong?
Chỉ dấu chân đây có phải là?
Sức mỏi đường cùng thêm bước nữa
Nghênh ngang sừng mũi đã hiện ra.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">3. <B>KIẾN NGƯU</B>:
Phong noãn u cầm chi thượng thinh
Vũ dư nguyên thảo sắc vu thanh
Gia hồi dĩ đổ cừ đầu giác
Đới thị hào đoan tả bất thành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>THẤY TRÂU:
Gió ấm chim kêu rộn rã cành
Thảo nguyên mưa lắm cỏ càng xanh
Lần này bắt gặp đầu sừng nó
Họ Đới mảy lông vẽ chẳng thành.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">4. <B>ĐẮC NGƯU</B>:
Tỵ khổng liêu thiên duệ chuyển cừ
Tùng kim cuồng dật tánh tu trừ
Tuyết sơn hương thảo hòa yên tế
Thả yếu khu lai hướng thử cư.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>ĐƯỢC TRÂU:
Mũi đụng mây xanh kéo được va
Từ nay bướng bỉnh phải nên trừ
Cỏ thơm núi tuyết hòa sương khói
Chỉ cốt lùa va đến ở đây.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">5. <B>MỤC NGƯU</B>:
Tùy thời thủy thảo hoạt cừ thân
Thuần tịnh hà tằng nhiễm nhất trần
Miêu giả tự nhiên hồn bất phạm
Thu lai phóng khứ khước tự do.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>CHĂN TRÂU:
Tùy thời nước có để nuôi thân
Thật sạch đâu từng nhiễm mảy trần
Lúa mạ tự nhiên đều chẳng phạm
Thả ra bắt lại cứ mặc tình.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">6. <B>KỴ NGƯU HỒI GIA</B>:
Luy ngưu dĩ thuần khước hồi gia
Thọ hạ sài môn khải mộ hà
Phóng giáo câu câu lan lý ngọa
Tĩnh khan tân nguyệt quải thiềm nha.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>CỠI TRÂU VỀ NHÀ:
Về nhà trâu ốm bước nhẹ tênh
Dưới cây cửa mở ráng chiều lên
Trong chuông nằm nghỉ phì phò thở
Lặng xem trăng mới mọc bên hiên.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">7. <B>VONG NGƯU TỒN NHÂN</B>:
Thoa lạp tùng thử bất nhập sơn
Tiên thằng phao khước nhất thân nhàn
Cánh vô học tốc lao khiên duệ
Doanh đắc âu ca thủy ái gian.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>QUÊN TRÂU CÒN NGƯỜI:
Nón áo bây chừ chẳng vào non
Dây roi ném quách một thân nhàn
Không còn run sợ lo lôi kéo
Mặc tình ca hát chốn mây xanh.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">8. <B>NHÂN NGƯU CỘNG VONG</B>:
Nhất niệm không thời vạn cảnh không
Trùng trùng quan cách khoát nhiên thông
Đông Tây Nam Bắc liễu vô tích
Chỉ thử hư huyền hạp chánh tông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>NGƯỜI TRÂU ĐỀU QUÊN:
Một niệm không thời muôn cảnh không
Muôn trùng quan ải tự nhiên thông
Bốn phương thảy bặt không dấu vết
Chỉ hư huyền này hợp chánh tông.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">9. <B>PHẢN BỔN HOÀN NGUYÊN</B>:
Ký nhiên vô tác hữu hà công?
Nhãn kiến như manh thính tợ lung
Gian thủy trạm như lam sắc bích
Sơn hoa khai tợ cẩm cơ hồng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>TRỞ VỀ CỘI NGUỒN:
Đã là vô tác có gì công?
Thấynghe như kẻ điếc đui luôn
Nước khe trong vắt màu xanh biếc
Hoa ngàn nở tựa gấm pha hồng.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">10. <B>NHẬP TRIỀN THÙY THỦ</B>:
Hoán khước bì mao chuyển bộ lai
Y hy điểu chủy dữ ngư tai
Thông thân cố thị hồn nê thủy
Ngã thử tông môn yếu đại khai.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>VÀO CHỢ DUỖI TAY:
Thay da đổi thịt bước vào đời
Mỏ chim mang cá thảy mơ hồ
Cả thân vốn lẫn cùng bùn nước
Cốt để cửa thiền mở rộng thôi.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những bài thi tụng trên đây ưa dùng cơ phong, cảnh giới mặc dù có khác nhau, mà không chia cao thấp. Các nơi họa thơ trải qua sự thu thập của người đời sau, lên đến hơn hai trăm ba mươi bài, lời hay ý đẹp khó có thể mỗi mỗi trích dẫn, nay chỉ giải thích mười bài làm đại biểu. Đây là lịch trình của mười giai đoạn từ phàm vào thánh, là cơ bản tinh thần của câu nói: <I>"Hồi mười lăm tuổi, ta để hết tâm trí vào việc học. Đến ba mươi tuổi, ta vững chí mà tiến lên đương đạo đức. Được bốn mươi tuổi tâm trí ta sáng suốt hiểu rõ việc phải trái, sự lý, chẳng còn nghi hoặc. Năm mươi tuổi ta biết mạng trời. Đến sáu mươi tuổi, bất cứ lời nói nào lọt vào tai thì ta hiểu ngay, chẳng phải suy nghĩ lâu dài. Được bảy mươi tuổi, trong tâm ta dù có muốn sự chi cũng chẳng hề trái phép"</I> của Khổng Tử có sự phù hợp và bao trùm, chẳng qua một bên là thành Phật, một bên là thành Thánh mà thôi.
</span></span>
<CENTER>CHƯƠNG THỨ MƯỜI CHÍN
<B>VƯƠNG LÃO SƯ
VÀ CÁC BÀI TỤNG VỀ TRANH CHĂN TRÂU</B>
(Nhật Bản)</I>
(Trích: Thơ Thiền Đường Tống, Đỗ Tùng Bách.
Dịch: Phước Đức
Hiệu đính: Tấn Tài
Nhà xuất bản Đồng Nai, trang 174-182)</I></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vương lão sư - Công án chăn trâu của Nam Tuyền Phổ Nguyện, đối với sự tu trì của thiền sư, phát sinh ảnh hưởng rất lớn, chẳng những hình thành thơ tụng cổ, mà còn vẽ nên tranh chăn trâu, mỗi đời đều có thơ họa lại. Hơn nữa, còn truyền sang Nhật Bản. Ý nghĩa chăn trâu chính là dưỡng tâm để ngộ đạo. Ngũ Đăng Hội Nguyên viết về lý do ra đời công án này như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nam Tuyền Phổ Nguyện thượng đường nói: Vương lão sư từ nhỏ có nuôi một con trâu đực, định đem chăn ở khe phía Đông chỉ sợ ăn nhằm cỏ nước của Quốc vương, định đem chăn ở khe phía Tây, cũng sợ ăn nhằm cỏ nước của Quốc vương, chẳng bằng tùy phận nhận chút trọn chẳng thấy được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vương lão sư đã đem thiền lý để hình tượng hóa tức là dùng hình ảnh chăn trâu đực để tỷ dụ việc hàm dưỡng tâm tánh. Khe Đông, khe Tây chính là bên này bên kia: Bên này đại biểu cho sắc giới, bên kia đại biểu cho không giới. Chấp sắc, chấp không để cầu ngộ đạo, vẫn là kẻ ở giữa đường, khởi lên tâm phân biệt cho sắc giới là huyễn tượng, không giới là chơn thật, bên này là phàm bên kia là thánh có sự nghiêng lệch, nên nói: Chỉ sợ ăn nhằm cỏ nước Quốc vương, cho nên <I>"Chẳng bằng tùy phận nhận chút chút"</I> là chẳng khởi tâm phân biệt, tâm bình thường hợp đạo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sự lãnh hội của Trường Khánh Lại An sau này hoàn toàn đắc lực là nhờ ở công án này:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Sư (Lại An) liền đến Bách Trượng (Hoài Hải), lễ bái hỏi rằng: "Người học muốn biết Phật làm sao mới đúng?" Trượng nói: "Như người cưỡi trâu về nhà". Sư hỏi: "Chưa biết trước sau bảo nhậm thế nào?" Trượng đáp: "Như người chăn trâu, cầm roi xem chừng chẳng cho nó phạm vào lúa mạ của người".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nhân đây lãnh hội ý chỉ, chẳng đi tìm đâu nữa. (Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 4)</I><P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bách Trượng và Nam Tuyền là cao đệ của Mã Tổ. Bách Trượng trả lời câu hỏi của Lại An là phát huy ý nghĩa của Nam Tuyền, và nội dung lược nói có khác nhau. Mọi người đều có Phật tánh, chẳng chịu tìm nơi mình mà đi tìm bên ngoài, đâu khác gì kẻ cỡi trâu mà đi tìm trâu? Sau khi liễu ngộ tự tâm, đạo chẳng xa người và trở về với đạo, nên sau khi biết được Phật, giống như người cỡi trâu về nhà. Thiền nhân từ khi ngộ về sau, chẳng để lạc mất cảnh ngộ, cần có thời gian dài để tu trì, gìn giữ chỗ mình lãnh ngộ gọi là <I>"Bảo nhậm"</I>. Bách Trương răn nhắc Lại An, cốt giống như người chăn trâu, cầm roi trông chừng trâu, <I>"chẳng cho nó ăn lúa mạ của người"</I>, tức chẳng chịu sự sai khiến của dục niệm, rơi vào trong sắc giới.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại An nhờ Bách Trượng khai thị, dụng công tu hành về sau thay thế Qui Sơn Linh Hựu làm trụ trì Qui Sơn, giải thích về chỗ tâm đắc khi chăn trâu như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Sở dĩ An này ở Qui Sơn ba mươi năm, ăn cơm núi Qui, đại tiện núi Qui mà không học thiền ở núi Qui, chỉ trông chừng một con trâu đực. Nếu nó lạc đường hay vào trong cỏ liền lôi nó lại. Nếu nó phạm vào lúa mạ của người liền đánh đập điều phục nó. Đáng thương đã lâu chịu người rầy rà, hôm nay trở thành con trâu trắng đứng trước mặt, hiện sờ sờ suốt ngày dù có đuổi cũng không đi.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bây giờ không nghi là Lại An sau ba mươi năm bảo nhậm mới phát ra lời nói về cảnh giới tu trì. <I>"Con trâu trắng lộ thiên"</I> dụ cho trâu đã được điều phục, và cũng chỉ cho cảnh giới <I>"Nhất sắc"</I>, cùng đạo hợp nhất. Thường ở trước mặt đuổi cũng không đi nghĩa là không còn mê lầm, chơn tâm thường hiện hữu, đương nhiên đó là kết quả bảo nhậm của ông ta. <I>"Lạc đường hay vào trong cỏ liền kéo lại, nếu ăn lúa mạ của người liền dùng roi đánh đập điều phục"</I> là chỗ công phu bảo nhậm của Sư. Cũng giống như ví dụ chăn trâu này, chúng ta thấy được qua đối đáp giữa Mã Tổ và Thạch Cũng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Thiền sư Thạch Cũng Huệ Tạng ở Phủ Châu, một hôm đang làm việc trong bếp, Mã Tổ thấy Sư liền hỏi rằng: "Làm gì?" Cũng nói: "Chăn trâu!" Tổ nói: "Chăn ra sao?" Cũng đáp: "Một khi vào trong cỏ liền nắm dây mũi kéo lại!" Tổ nói: "Con thật là biết chăn trâu"...</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có thể thấy một công án chăn trâu này được lưu hành rộng rãi, về sau đề xướng ra nhiều thứ tán tụng, đến thiền Sư Phổ Minh mới vẽ thành tranh, chia thành mười giai đoạn điều phục, từ bức "Tìm Trâu" đến bức "Vào Chợ Duỗi Tay", mỗi bức đều được thiền sư Nhất Sơn dùng thơ tụng để giải thích ý cảnh của mỗi giai đoạn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">1. <B>TẦM NGƯU</B>:
Bổn vô hình tích khả cầu tầm
Vân thọ thương thương yên thảo thâm
Cước hạ tuy nhiên kỳ lộ biệt
Nham tiền khô mộc tự long ngâm.
(Nhất Sơn Hòa thượng<SUP><B>(8)</B></SUP>)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>TÌM TRÂU:
Vốn không dấu vết để kiếm tìm
Mây xây xanh ngắt cỏ thêm xanh
Dưới chân dẫu có nhiều lối tẻ
Cây khô trong núi tiếng rồng gầm.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">CHÚ THÍCH:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(*) Nhất Ninh (1274-1317): Thiền tăng đời Nguyên, họ Hồ, hiệu Nhất Sơn, cũng gọi "Nhất Ninh Nhất Sơn". "Ninh Nhất Sơn", người xứ Lâm Hải, Đài Châu (nay thuộc tỉnh Chiết Giang) Trung Quốc. Thuở bé xuất gia ở chùa Hồng Phước, Sư thờ ngài Vô Đẳng Dung Công tu tập theo pháp của tông Lâm Tế. Sau đó vào chùa Phổ Quang trong núi Từ Minh học kinh Pháp Hoa, lại hấp thụ giáo nghĩa Luật Tông, Thiên Thai Tông. Sư giỏi thơ văn, khéo về thư pháp, kiêm thông Nho đạo. Năm 1299, vua Thành Tông giao cho Sư trông coi tất cả giáo đồ đạo Phật ở vùng Lưỡng Chiết và ban cho hiệu "Diệu Từ Hoằng Tế Đại Sư", phụng mạng đi sứ Nhật Bản và ở lại bên đó. Sư lần lượt trụ trì các chùa: Kiến Trường, Viên Giác, Nam Thiền, truyền trao thiền pháp, môn đồ rất đông. được suy tôn làm Tông sư của phái "Nhất Ninh Nhất Sơn". Tác phẩm: Nhất Ninh Nhất Sơn Quốc Sư Ngữ Lục.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">2. <B>KIẾN TÍCH</B>:
Thảo khòa lý tẩu lộ hà đa?
Chỉ thử đề sầm mạc thị ma?
Cước lực cùng biên trùng tiến bộ
Ngang ngang đầu giác yếu phùng ngã.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>THẤY DẤU:
Trong cỏ lối mòn lắm nẻo rong?
Chỉ dấu chân đây có phải là?
Sức mỏi đường cùng thêm bước nữa
Nghênh ngang sừng mũi đã hiện ra.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">3. <B>KIẾN NGƯU</B>:
Phong noãn u cầm chi thượng thinh
Vũ dư nguyên thảo sắc vu thanh
Gia hồi dĩ đổ cừ đầu giác
Đới thị hào đoan tả bất thành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>THẤY TRÂU:
Gió ấm chim kêu rộn rã cành
Thảo nguyên mưa lắm cỏ càng xanh
Lần này bắt gặp đầu sừng nó
Họ Đới mảy lông vẽ chẳng thành.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">4. <B>ĐẮC NGƯU</B>:
Tỵ khổng liêu thiên duệ chuyển cừ
Tùng kim cuồng dật tánh tu trừ
Tuyết sơn hương thảo hòa yên tế
Thả yếu khu lai hướng thử cư.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>ĐƯỢC TRÂU:
Mũi đụng mây xanh kéo được va
Từ nay bướng bỉnh phải nên trừ
Cỏ thơm núi tuyết hòa sương khói
Chỉ cốt lùa va đến ở đây.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">5. <B>MỤC NGƯU</B>:
Tùy thời thủy thảo hoạt cừ thân
Thuần tịnh hà tằng nhiễm nhất trần
Miêu giả tự nhiên hồn bất phạm
Thu lai phóng khứ khước tự do.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>CHĂN TRÂU:
Tùy thời nước có để nuôi thân
Thật sạch đâu từng nhiễm mảy trần
Lúa mạ tự nhiên đều chẳng phạm
Thả ra bắt lại cứ mặc tình.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">6. <B>KỴ NGƯU HỒI GIA</B>:
Luy ngưu dĩ thuần khước hồi gia
Thọ hạ sài môn khải mộ hà
Phóng giáo câu câu lan lý ngọa
Tĩnh khan tân nguyệt quải thiềm nha.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>CỠI TRÂU VỀ NHÀ:
Về nhà trâu ốm bước nhẹ tênh
Dưới cây cửa mở ráng chiều lên
Trong chuông nằm nghỉ phì phò thở
Lặng xem trăng mới mọc bên hiên.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">7. <B>VONG NGƯU TỒN NHÂN</B>:
Thoa lạp tùng thử bất nhập sơn
Tiên thằng phao khước nhất thân nhàn
Cánh vô học tốc lao khiên duệ
Doanh đắc âu ca thủy ái gian.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>QUÊN TRÂU CÒN NGƯỜI:
Nón áo bây chừ chẳng vào non
Dây roi ném quách một thân nhàn
Không còn run sợ lo lôi kéo
Mặc tình ca hát chốn mây xanh.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">8. <B>NHÂN NGƯU CỘNG VONG</B>:
Nhất niệm không thời vạn cảnh không
Trùng trùng quan cách khoát nhiên thông
Đông Tây Nam Bắc liễu vô tích
Chỉ thử hư huyền hạp chánh tông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>NGƯỜI TRÂU ĐỀU QUÊN:
Một niệm không thời muôn cảnh không
Muôn trùng quan ải tự nhiên thông
Bốn phương thảy bặt không dấu vết
Chỉ hư huyền này hợp chánh tông.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">9. <B>PHẢN BỔN HOÀN NGUYÊN</B>:
Ký nhiên vô tác hữu hà công?
Nhãn kiến như manh thính tợ lung
Gian thủy trạm như lam sắc bích
Sơn hoa khai tợ cẩm cơ hồng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>TRỞ VỀ CỘI NGUỒN:
Đã là vô tác có gì công?
Thấynghe như kẻ điếc đui luôn
Nước khe trong vắt màu xanh biếc
Hoa ngàn nở tựa gấm pha hồng.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phiên âm:
<p style="padding-left: 56px;">10. <B>NHẬP TRIỀN THÙY THỦ</B>:
Hoán khước bì mao chuyển bộ lai
Y hy điểu chủy dữ ngư tai
Thông thân cố thị hồn nê thủy
Ngã thử tông môn yếu đại khai.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch thơ:
<p style="padding-left: 56px;"><I>VÀO CHỢ DUỖI TAY:
Thay da đổi thịt bước vào đời
Mỏ chim mang cá thảy mơ hồ
Cả thân vốn lẫn cùng bùn nước
Cốt để cửa thiền mở rộng thôi.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những bài thi tụng trên đây ưa dùng cơ phong, cảnh giới mặc dù có khác nhau, mà không chia cao thấp. Các nơi họa thơ trải qua sự thu thập của người đời sau, lên đến hơn hai trăm ba mươi bài, lời hay ý đẹp khó có thể mỗi mỗi trích dẫn, nay chỉ giải thích mười bài làm đại biểu. Đây là lịch trình của mười giai đoạn từ phàm vào thánh, là cơ bản tinh thần của câu nói: <I>"Hồi mười lăm tuổi, ta để hết tâm trí vào việc học. Đến ba mươi tuổi, ta vững chí mà tiến lên đương đạo đức. Được bốn mươi tuổi tâm trí ta sáng suốt hiểu rõ việc phải trái, sự lý, chẳng còn nghi hoặc. Năm mươi tuổi ta biết mạng trời. Đến sáu mươi tuổi, bất cứ lời nói nào lọt vào tai thì ta hiểu ngay, chẳng phải suy nghĩ lâu dài. Được bảy mươi tuổi, trong tâm ta dù có muốn sự chi cũng chẳng hề trái phép"</I> của Khổng Tử có sự phù hợp và bao trùm, chẳng qua một bên là thành Phật, một bên là thành Thánh mà thôi.
</span></span>