Cảm nhận từ sự im lặng
Huỳnh Ngọc Chiến
- Ai có thể im lặng được sự im lặng, một cách bình dị thuần nhiên?
- Điều đó hẳn sẽ là điệu nói chân chính…
- và là khúc khai tấu trường cửu cho cuộc song thoại chân chính về ngôn ngữ.
Martin Heidegger (1)
Trong lịch sử tư tưởng và Tôn giáo của nhân loại, Đức Phật là một trong những đấng Đạo sư có sự nghiệp hoằng pháp khó có ai bì kịp. Từ khi nhìn ánh sao Mai mà giác ngộ dưới gốc Bồ đề ở tuổi 30, cho đến khi nhập diệt ở tuổi 80, trong suốt hơn 49 năm, Ngài không ngừng vân du khắp mọi nơi để tùy cơ thuyết pháp mà hóa độ chúng sinh. Những bài thuyết pháp của Đức Phật trong vô số pháp hội đã được kết tập thành một kho tàng kinh điển đồ sộ. Hơn hai ngàn năm qua, cây Bồ đề đã phát triển thành một cây đại thụ khổng lồ, phủ bóng che rợp những chân trời tư tưởng nhân loại, đến nỗi tuệ nhãn của các bậc Bồ tát thượng trí đời sau cũng chỉ có thể nhìn thấy được từng nhánh cây, thậm chí từng chiếc lá của cây Phật pháp kia. Đó là nguyên nhân ra đời của các tông phái. Vậy mà bậc đạo sư suốt đời vân du thuyết pháp đó, đến phút cuối cùng, lại tuyên bố là mình chưa từng nói một chữ nào!
Theo Chỉ nguyệt lục, khi Đức Phật sắp nhập Niết bàn, đại sĩ Văn Thù bèn thỉnh Đức Phật chuyển pháp luân, Ngài bèn quở: "Này Văn Thù, suốt bốn mươi chín năm trụ thế ta chưa từng nói một chữ nào, ngươi thỉnh ta chuyển pháp luân lần nữa, vậy là ta đã từng chuyển pháp luân rồi ư?" (Văn Thù, ngô tứ thập cửu niên trụ thế, vị tằng thuyết nhất tự, nhữ thỉnh ngô tái chuyển pháp luân, thị ngô tằng chuyển pháp luân da?). Thiền sư Vân Phong còn nêu thêm một câu hỏi: "Nói thử xem, Thế Tôn nghe theo lời thỉnh cầu của Văn Thù hay không nghe theo lời thỉnh cầu của Văn Thù?" (Thả đạo, Thế Tôn tòng Văn Thù thỉnh, bất tòng Văn Thù thỉnh?).
Bánh xe Pháp đã chuyển động suốt 49 năm ròng, vậy mà khi nhìn lại, nó như vẫn chưa có một vòng quay!
Không biết cuộc vấn đáp trên có xuất xứ từ kinh điển Đại thừa nào, chỉ thấy trong kinh Lăng Già (bản dịch của Cầu-na-bạt-đà-la) ghi lại cuộc vấn đáp giữa Đức Phật với Bồ tát Đại Huệ có nội dung tương tự, trong đó Đức Phật nói:
"Ta từ đêm được Chánh giác tối thượng cho đến đêm nhập Niết bàn, trong khoảng thời gian ấy, chưa hề thuyết một chữ nào, cũng chưa đã thuyết hay sẽ thuyết. Không thuyết mới là Phật thuyết"(2).
Tư tưởng trên đây chắc hẳn quá quen thuộc với những ai từng đọc Cổ lục Đông phương theo tinh thần phá chấp của kinh Phật, hoặc "Đắc ngư vong thuyên" của Trang Tử. Dùng biện tài vô ngại để thuyết pháp như hải triều âm như Đức Phật, nhiếp dẫn thính chúng đi vào những chân trời tư tưởng lồng lộng, khai mở những quốc độ kỳ diệu bất khả tư nghì, thế rồi cuối cùng lại ân cần dặn dò: "Nhược nhân ngôn Như Lai hữu sở thuyết pháp tức vi báng Phật!" (Nếu có người bảo rằng Như Lai đã thuyết pháp tức là phỉ báng Phật"). Hoặc viết Nam hoa kinh làm kinh động thiên hạ như Trang Tử, để rồi thong dong ngồi câu cá, buông một câu lơ lửng mà rằng: "Chung thân ngôn, vị thường ngôn. Chung thân bất ngôn, vị thường bất ngôn" (Suốt đời nói mà có hề nói chi đâu? Suốt đời không nói mà chưa hề không nói). Hoặc như đức Khổng Tử lận đận chu du khắp nơi để hành đạo, khổ công giáo hóa vô số đệ tử, miệt mài san định kinh điển làm khuôn khổ cho ngàn đời, để rồi lại ỡm ờ: "Dư dục vô ngôn. Thiên hà ngôn tai?" (Ta không muốn nói gì cả. Trời có nói chi đâu?).
Qua phong cách đối thoại trong Chỉ nguyệt lục, ta thấy cuộc vấn đáp giữa Đức Phật và đại sĩ Văn Thù có thể do các Thiền sư ngẫu tác như một công án Thiền để tùy duyên hóa độ theo tinh thần "giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự" của Thiền tông, đúng với hai chữ "chỉ nguyệt" (ngón tay chỉ mặt trăng). Im lặng trước các câu hỏi về thực tại tối hậu hay chân lý là cách trả lời thường được Đức Phật và các Thiền sư Trung Hoa sử dụng. Trong kinh Duy Ma Cật, cư sĩ Duy Ma Cật đã im lặng trước câu hỏi của Văn Thù Bồ tát hỏi về bất nhị pháp môn, và được vị Bồ tát này hết lời ca ngợi.
Sự im lặng này được kinh điển gọi là "mặc như lôi", nghĩa là im lặng như sấm sét. Sự im lặng như sấm sét này còn gây nên chấn động cho tâm thức còn hơn cả tiếng sấm sét trong cõi im lặng!
Kinh điển chép rằng sau khi giác ngộ, Đức Phật nhận thấy cảnh giới Thánh trí tự chứng của Như Lai quá đỗi thâm huyền vi diệu, siêu quá lý luận ngữ ngôn, trong khi chúng sanh còn đắm chìm trong tham dục và vô minh luyến ái nên không có cách nào lãnh hội được; bởi vậy Ngài định im lặng nhập Niết bàn. Phạm thiên Sahampati bèn đến thỉnh cầu Đức Phật chuyển pháp luân. Sau vài lần lưỡng lự, Đức Phật vì lợi ích của chư thiên và nhân loại, đã nhận lời cầu thỉnh để rời cội Bồ đề, lên đường hóa độ.
"Muốn im lặng để nhập Niết bàn sau khi chứng ngộ", chi tiết tưởng chừng như rất nhỏ đó đã quyết định toàn bộ nội dung của kinh điển Phật giáo cùng thể cách lập ngôn để nhiếp dẫn thính chúng đi vào cảnh giới Thánh trí tự chứng về sau. Trong pháp hội Linh Sơn, một cành hoa đưa lên và thông điệp giác ngộ được đón nhận bằng nụ cười. Niêm hoa vi tiếu! Khi đọc nội điển, nếu chỉ chấp vào ngôn ngữ thì chúng ta khó lòng lắng nghe được sự im lặng của Đức Phật, là cái hàm dưỡng toàn bộ nội dung kinh điển.
Sửa lần cuối: