Bài 4.- Tản mạn 4.- Du Già sanh Trí Tuệ Giải Thoát.
Trong giáo pháp của Đức Phật, Giới – Định – Tuệ là cốt lõi của con đường tu tập. Nhưng tại sao Ngài lại dạy rằng “có Định mới sinh Tuệ”? Nhiều người nóng vội muốn đi thẳng vào tuệ quán, chỉ dùng lý trí phân tích, mà không hiểu rằng khi tâm chưa định, tuệ chỉ dừng ở kiến thức suông, không thể đưa đến giải thoát.
Định là đất, Tuệ là cây. Đất vững thì cây mới lớn, cây lớn thì hoa trái mới trổ. Người học Phật không nên xem nhẹ định, cũng không nên chỉ tìm tuệ trong lý thuyết, mà hãy kiên nhẫn nuôi dưỡng cả hai. Chỉ khi ấy, con đường giải thoát mà Đức Phật chỉ bày mới thật sự mở ra trước mắt chúng ta.
- Cái đích mà ai cũng mong là Tuệ, Trí Tuệ giải thoát. Nhưng con đường đi tới đó phải bước qua Định. Đó chính là nền tảng để hiểu vì sao Đức Phật khẳng định có định mới sinh tuệ.
- Khi nghe đến chữ Định trong Phật pháp, phần đông chúng ta thường liên tưởng ngay đến hình ảnh một người ngồi xếp bằng, nhắm mắt, giữ thân bất động.
Nhiều người nghĩ rằng chỉ cần ngồi yên như vậy thì gọi là có định.
Nhưng sự thật định samadi mà Đức Phật dạy không đơn giản như vậy. Định không phải là trạng thái ngủ gật trong im lặng, cũng không phải là sự ép buộc thân tâm phải bất động, mà là một năng lực nội tâm sâu sắc khi tâm có khả năng an trú, nhất tâm và sáng tỏ trên một đối tượng.
Trong thanh tịnh đạo Visudimaga, ngài Phật âm Buddha định nghĩa định là sự nhất tâm trên một đối tượng Sidekaga.
Nghĩa là khi tâm không còn tán loạn bởi muôn ngàn vọng tưởng mà quy tụ về một điểm thì đó là Định.
Như vậy điều cốt lõi của định không nằm ở tư thế ngồi mà ở chỗ tâm được thuần phục, lắng trong vững trãi.
- Thực tế, nhiều người tìm đến Phật pháp vì đau khổ. Họ mong có trí tuệ để hiểu, để buông bỏ vọng tưởng.- nhưng lại không biết rằng trí tuệ ấy chỉ xuất hiện khi tâm họ lắng yên.
- Một tâm rối bời lo nghĩ giống như một chiếc ly nước bị khuấy đục, không thể soi thấy gì. Nếu để yên cho lắng xuống, cặn chìm nước trong thì mọi vật mới hiện rõ. Đó là lý do Đức Phật nói có định mới sinh tuệ.
cần lưu ý. Nhiều hành giả hiện nay hoặc đi lệch về phía lý luận, hoặc đi lệch về phía an trú.
- Người thiên về lý luận thì thiếu nền Định.- Quán pháp chỉ thành tưởng tượng.
- Người thiên về an trú thì kẹt trong hỉ lạc, Định khó chuyển thành Tuệ.
+ Trí tuệ ở đây không phải trí thông minh của sự phân tích lý luận mà là cái thấy trực tiếp không qua khái niệm hay sự can thiệp của ý thức phân biệt. Trong đời sống hằng ngày, tâm ta như một mặt hồ liên tục bị gió lay nên hình ảnh bầu trời phản chiếu luôn méo mó. Dù ta có học rộng, biết nhiều, cái thấy ấy vẫn bị nhuốm màu bởi thành kiến, cảm xúc và những dòng suy nghĩ vô thức.- Tứ thiền làm cho mặt hồ tâm ấy phẳng lặng tuyệt đối, không còn dao động thô, không còn gợn vi tế. Nhờ đó mọi sự được phản chiếu trung thực và trọn vẹn.
+ Trong con đường giác ngộ, trí tuệ không thể phát triển trên một nền tâm loạn động hoặc quá thiên lệch cảm xúc.- Nếu tâm như nước xoáy, mọi hình ảnh đều bị méo. Nếu tâm như mặt hồ đóng băng, trí tuệ cũng không thể linh hoạt.
- Thiền là trạng thái quân bình hoàn hảo, không dao động nhưng cũng không tê liệt, tạo điều kiện tối ưu cho trí tuệ hoạt động tự nhiên.
- Thiền là Sự tự do nội tâm tuyệt đối. Tự do này không phải là muốn gì cũng được, mà là không còn bị ràng buộc bởi những xung động và ảo tưởng.
- Khi tâm như kính trong, mọi cảnh sắc, âm thanh, cảm thọ, ý nghĩ đều có thể xuất hiện và tan biến mà không để lại dấu vết dính mắc.
- Trong sự tự do ấy, trí tuệ không còn là mục tiêu cần đạt mà là trạng thái tự nhiên vốn sẵn có, chỉ chờ tâm đủ trong để hiển lộ.
Trong tăng chi bộ Đức Phật từng nói, "Này các Tỳ Kheo, người có giới thì có định, người có định thì có tuệ, người có tuệ thì tâm giải thoát." Câu nói ấy gói gọn toàn bộ tiến trình giải thoát mà ngài đã chứng nghiệm và chỉ dạy.(Phỏng theo Daily)
* Đó là: Du Già sanh Trí Tuệ Giải Thoát.- Dùng Trí tuệ giải thoát này để khế hợp với Sư Địa Luận. |