- Tham gia
- 19/10/06
- Bài viết
- 1,361
- Điểm tương tác
- 74
- Điểm
- 48
Chiến thắng ba vạn quân giặc không bằng tự chiến thắng mình".
THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Tác giả Giác Đạo - Dương Kinh Thành Kính tặng:
Những vị Tỳ Kheo trang nghiêm khả kính, đã dâng trọn đời mình cho sự nghiệp hoằng hoá chánh pháp và bền bỉ đi suốt lộ trình giải thoát bản thân, nghiệp lực.
Đồng riêng tặng Ni Sư T.N.P.T. * ***
THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Tác giả Giác Đạo - Dương Kinh Thành Kính tặng:
Những vị Tỳ Kheo trang nghiêm khả kính, đã dâng trọn đời mình cho sự nghiệp hoằng hoá chánh pháp và bền bỉ đi suốt lộ trình giải thoát bản thân, nghiệp lực.
Đồng riêng tặng Ni Sư T.N.P.T. * ***
Trong đời tôi, rất nhiều lần được ngủ lại chùa, đặc biệt là những ngôi chùa có nghi thức hành lễ theo Bắc-Tông. Theo từng giai đoạn lớn lên, tri thức Phật Pháp cũng theo đà tăng trưởng. Mỗi lần như thế, trước khi thời công phu khuya râm rang là ba hồi bê bảng như xé toạc màn đêm thanh vắng; tiếp theo đó là tiếng Đại hồng chung gióng giã (đôi khi những thời hô chuông khuya đó lại do chính vị trụ trì hô), không chần chừ, tôi phải ngồi bật dậy, dù là ngay trong mùng và cho dù xa Chánh điện hoặc có khi phải trải chiếu ngủ ngay tại chỗ đó. Ban đầu vì sợ tội; lớn hơn chút nữa vì sợ phải đoạ làm kiếp bò-sát, và sau này khi ý thức tương đối, vẫn phải như vậy, nhưng là tâm niệm “tập mình vào khuôn khổ” để phần nào cảm nhận được sự bền bỉ, đúng luật, đúng thời khoá của các vị tu hành! Cho dù ngồi một chút rồi nằm xuống trở lại cũng chẳng sao! Tuy vậy không làm sao ngủ trở lại, nhất là đến thời công phu (Lăng-Nghiêm Thập chú…) của chư Tăng. Nhờ đó, những lời xướng đảnh lễ về công ơn Thuỷ Thổ, công ơn Đất nước, Tín thí, Tây thiên Đông Độ truyền giáo truyền giới, Phụ mẫu ân; cho đến vị Pháp vong thân, vị quốc vong xu Quảng-Đức Bồ Tát.v.v…Giữa đêm khuya những điều đó đã ít thì nhiều ghi vào tâm khảm tôi biết bao suy nghĩ tốt lành. Và cũng nhờ đó tôi đã sống theo, thực hành, không biết là có trọn vẹn lắm không, nhưng dù trong hoàn cảnh nào, tôi vẫn nhớ mãi hoài những điều đó tưởng cũng “an tâm” với chính mình và không hổ thẹn mỗi khi đối diện với tượng Phật.
Phải chăng, dù có ba vạn tám ngàn Pháp môn để đến được với Đạo, với Phật, chỉ ngần ấy ân (Tứ Ân) tiêu biểu đã làm nên nét đẹp, đẹp tuyệt vời nơi công hạnh của các bậc xuất gia, từ đó tô điểm thêm màu Đạo vàng rực rỡ đầy vẹn nghĩa ân mà không phải tôn giáo nào cũng có được? Tôi “thương” Đức Phật và kính trọng chư Tăng từ đó. Nhờ đó tôi luôn hãnh tiến là người con Phật, cũng nguyện trọn đời làm theo những điều Phật dạy. Sau này lớn lên, có chức phận nghề nghiệp an ổn, tôi lại đem những lợi lạc bản thân trở về phục vụ cho Chánh pháp. Với tư cách người cư sĩ Phật tử, cộng vào nghề nghiệp bản thân, tôi có rất nhiều thuận duyên tiếp xúc với rất nhiều giới tu sĩ và đến được rất nhiều nơi. Dĩ nhiên là không phải đến chùa cầu phúc rồi! Do đó tôi tự đề ra phong cách tu cho mình là “Báo đáp Hồng ân Thầy Tổ để cúng dường Tam Bảo”. Bạn bè có người cho rằng tôi hơi tự cường điệu. Cũng chẳng sao, bởi Phước báu và nghiệp lực mỗi người đâu ai cũng giống ai, làm sao nắm bắt, rờ mó được mà trưng ra bằng cớ để xác tín. Thôi thì đành vậy, thời gian sẽ được mời làm chứng nhân vậy.
Hồi đó, tôi những tưởng gặp đạo đức là biết tu, biết tin Phật và cái lòng phái quy y là điểm cuối cùng xác minh cho sự “gặp” đó. Vậy mà, hởi ơi! Làm sao cảm thấu hết những lời dạy của đức Phật, cho dù Ngài cho rằng những lời Ngài chỉ dạy là…nắm lá trong tay? Có người rẽ ngoặc giữa đường; có người ngã gục đau thương do vấp ngã, mặc dù riêng các vị Tỳ Kheo có “diễm phúc” hơn Tỳ Kheo Ni là sau mỗi lần vấp ngã ấy có quyền đứng dậy…những 3 lần! Vậy mà nghiệp lực con người quá nặng hay sao ấy, vẫn có kẻ ngã, ngã và ngã liên tục. Thậm chí có vị đi gần trọn tuổi đời tu hành, sắp trút hơi tàn lại bỗng hoá tiêu tan! Hoá ra gặp Phật khó lắm thay!
Cũng…hồi đó! Bọn chúng tôi gồm có bốn đứa, chơi với nhau rất thân trong tình Đạo bạn. Thường hay tự nhủ rằng: Mình không có được cái diễm phúc sanh nhằm thời có Phật, nhưng được nghe Pháp Phật; được gặp người bạn đồng tu và được làm thân người. Như vậy so với kẻ khác mình đã vượt trội hơn họ ba điều khó (được làm thân người, được nghe Pháp Phật và được gặp bạn đồng tu) chỉ còn một điều khó là không sanh nhằm thời có Phật. Còn họ, chỉ có một điều là làm thân người mà thôi! Ấy vậy cái điều duy nhất đó muốn trọn vẹn ý nghĩa cũng đâu là điều đơn giản. Khi mà: Phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, xiểm, hại, kiêu, vô tàm, vô quí, hôn trầm, giải đãi, vô ký, trạo cử, bất tín, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri, vẫn còn thì chưa thể gọi là con người thật sự. Khó khăn vô vàn! Con người đây có 100 pháp, nhưng trong đó chỉ có 11 tâm sở thôi. Chia ra 26 tâm sở xấu, 4 tâm sở bất định, ngoài ra các tâm sở còn lại hoàn toàn vô ký! Ôi! Xét ra tường tận như vậy mới thấy phần nào để gọi là nghiệp lực nặng nề, cũng như cách gọi “biển khổ sông mê” rõ ràng được hiểu theo nghĩa chính xác nhất. Ngược lại làm sao tin được khi mọi thứ vui, lạc dục, hưởng thụ.v.v…là mục đích sống của không biết bao người. Nhưng nó lại chính là nguồn cội sinh ra luân hồi sinh tử không dừng. Còn những người tu đây, phạm trù “giải thoát” là điều căn bản nhất. Người tu sĩ thì hạnh nguyện xa rộng, dứt lìa sanh tử, tạo quả giải thoát. Phật tử cư sĩ như mình thì thấp hơn; ít ra tu để giải thoát một giai đoạn, một kiếp thọ nghiệp. Cả hai, Tu sĩ và Cư sĩ đều có mỗi trách nhiệm và luôn luôn là mắc xích hỗ tương lẫn nhau theo công thức Trên-Dưới Bên phải-Bên trái-Trong ngoài và chính giữa. Đó là nhận thức chính yếu bọn chúng tôi cảm nhận được trong quá trình tu học. Từ đó, những thâm ân nơi nguồn sáng Đạo vàng luôn luôn bọn chúng tôi khắc ghi vào tâm khảm, hằng mong sẽ đền đáp bằng bất cứ giá nào.
Bốn người bạn, rất may là trong chúng tôi không đứa nào dưới trình độ tú tài đôi (tương đương lớp 12/12 hiện nay). Do vậy, con đường của mỗi đứa được vạch ra khá mạch lạc. Tuy vậy, diễm phúc sống với tình Đạo bạn phải đâu ai cũng vẹn toàn, hai đứa đã xuất cảnh, hiện đang ở nước ngoài, đang là những ông chủ chễm chệ, đường bệ. Bặt giao. Còn lại với quê hương này chỉ có tôi và Hoà. Hoà thì sau khi tan đàn rẽ nghé, nó may mắn được xuất gia với một vị thầy có đầy đủ điều kiện để tiến thủ. Còn lại một mình tôi và là người lận đận nhất trong cuộc sống đời thường với biết bao nhiêu lớp sóng trào đến nghiệt ngã. Hai kẻ còn lại này từ ấy cũng bặt tin nhau. Một mất mát rất to lớn, càng thấy nó to lớn hơn khi chen chúc giữa xã hội với rất nhiều vai tuồng, vỏ bọc khác nhau, tôi đã chạm phải, gặp phải, thậm chí phải giao kết phải những thứ tình người có điều kiện và có gian ngoa xảo trá. Do lòng tự trọng quá mức đã biến con người tôi trở thành kẻ luôn mặc cảm và…tự ái. Thế nên, manh áo chén cơm tôi kiếm được để tự nuôi sống mình, nuôi sống tâm Đạo rất là gian khổ, cơ hàn. Cùng thời gian này Hoà đang là một vị Tỳ Kheo đang được sủng ái nhất nhờ khả năng Phật học và tri thức sẳn có, lại gặp môi trường thuận duyên tác động nên tiếng tăm của Hoà thêm vang dội, tôi thầm mừng cho Hoà, dù có không biết bao nhiêu lần tìm tôi, nhưng tôi lánh mặt…
Những đoản khúc “Hồi Đó” này bây giờ đã trở nên xa xưa, mà nếu có lặp lặp nữa phải gọi là “Hồi Xưa”, để nhường cái “Hồi Đó” để nói về giai đoạn cách trở giữa hai chúng tôi. Và như vậy, chuyện bọn chúng tôi bây giờ chỉ còn là chuyện…hai chúng tôi. Câu chuyện sẽ được kết thúc nơi đây nếu ngay thơ cho rằng tình bạn, kỷ niệm và đặc biệt nhất là những tinh hoa Phật Đà sẽ cũ mòn theo thời gian. Vâng! Mãi mãi vẫn luôn ngời sáng. Và như thế, cái “Hồi Đó” này lại được kéo sang giai đoạn hôm qua của tôi và Hoà. Hoà là điểm tựa cuối cùng, hy vọng cuối cùng qua cuộc đời tôi, của tình bạn “rớt lại” của chúng tôi mà những trang đời qua đầy nước mắt, gian khổ giữa trường đời của tôi không đáng phải đưa vào câu chuyện này. Tôi đang muốn nói về niềm tự hào cho Hoà.
“Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu…” Vâng, gặp Đạo khó lắm thay, những lúc trôi lênh đênh giữa dòng đời nghiệt ngã, lúc đói lòng, khi thiếu áo mà tôi vẫn bền bỉ giữ gìn tâm không xa Đạo như thế, bởi mất thân này, thoát kiếp nghiệp trần hay mất bất cứ vật báu nào cũng có thể tìm lại được không sớm thì chầy. Nhưng còn để mất Đạo, xa tâm thì liệu kiếp sau mình có còn đủ nhân duyên để gặp được? Mà dẫu ai đó có đặt mình vào hoàn cảnh mất Đạo như thế thì cho là đã đành, thế nhưng còn những nguồn thâm ân (Tứ ân) ơn Thầy Tổ, ơn Tam Bảo và đặc biệt là ơn Đàn na tín thí, mình mang đến tận bao lâu. Đó chính là lực cản to tát để kiếp sau dù tái sanh trở lại thân người vì mang những ân nợ ấy làm sao gặp được Đạo! Do đó, dù mang danh nghĩa bạn bè nhưng tôi làm sao không kính phục Hoà cho được.
Hiện giờ, ngồi đối diện với tôi là một thanh niên chưa ngoài ba mươi nhưng nét phong trần đã biểu lộ trên khuôn mặt khắc khổ. Căn nhà lá, nói đúng hơn là cái chòi lá, chưa đầy sáu mét vuông, nhưng nắng mưa có thể lọt vào một cách dễ dàng. Không có lấy một chỗ ngồi, có chăng chỉ là phiến đá ong đỏ nằm sát vách, chứng tỏ nó được dựng lên ngay trên ngôi mộ lâu đời nào đó, vật dụng trong nhà không có gì ngoài hai cái nồi và soong nhỏ móp méo cộng với đôi cái chén mẻ… Sau lưng có lẻ là ba đứa con của anh, trông nhớp nhúa đến tội nghiệp. Cái nghèo khổ đã được báo trước bằng những cảm quan đó của tôi đối với gia đình anh. Và cái nghèo khổ đã mua đi nét trẻ trung, sự bặt thiệp xả giao và ngay cả sự giáo dục đối với những đứa trẻ vô tội kia! Bất giác tôi thở dài ngao ngán. Anh nhìn tôi ái ngại không kém. Điều đó chứng tỏ anh có suy nghĩ và có thể trong anh còn một nỗi ưu uất nào đó. Anh tiếp tôi miễn cưỡng, với tôi chỉ là giây lát dừng chân trú nắng, chờ tài xế xe khách thay lốp xe ngoài đường cái. Tôi gợi chuyện và mời thuốc nhưng anh không biết hút.
-Nhà anh cách thị trấn không xa nhưng anh đào chi cái ao lớn như thế này? Tôi hỏi.
-Nuôi cá trắm cỏ, ba trăm con và để thả đàn vịt hơn hai trăm con cho nó mau lớn…
Anh trả lời hờ hửng như thế và tầm mắt nhìn ra trước mặt cái ao hơn 50 mét vuông đầy nước. Tôi hỏi tiếp:
-Chà! Đất đỏ ba dan liệu có phèn không anh, và cá trám cỏ sống phát triển chứ?
Anh lắc đầu ngao ngán.
-Tôi nào có biết kinh nghiệm nuôi trồng gì đâu. Mọi việc đều do vợ tôi quyết định cả.
Tôi móc trong túi ra 20 ngàn xin phép anh cho ba đứa nhỏ. Cả ba đứa đều lắm lét nhìn anh, anh hiểu ý gật đầu, thế nhưng chúng cũng không dám đưa tay ra cầm tờ giấy bạc. Một kiểu xác minh lời anh vừa nói ban nảy. Tôi vội đứng lên tiến đến gần chúng ngồi xuống đưa và nói: - Chú cho các con! Cứ lấy đi, mẹ về chú nói lại cho!
Chúng cầm tờ giấy bạc lật qua lật lại rồi bỗng chạy ùa ra cửa mất hút. Thông thường với số bạc như thế so với hoàn cảnh gia đình như anh, là cha mẹ ai chẳng dặn dò con cái đừng ăn hàng bậy bạ hoặc là để dành đó… Nhưng ở anh hình như có một sự chai cứng đến thảm hại. Tôi hiểu điều đó và để phá bớt hàng rào ái ngại tội tiến lại gần vỗ vai anh:
-Bây giờ phần mình, xin phép được mời anh ra quán nước…
Anh vừa trả lời vừa gỡ tay tôi ra:
-Cảm ơn anh, tôi còn phải…hơn nữa tôi không biết nhậu…
-Nhậu nhẹt gì, mình chỉ uống nước thôi. – Tôi cười xoà trả lời.
-Nhưng anh còn phải đi, xe chắc họ đã chữa xong…
Tôi khoát tay dứt khoát:
-Không cần, Tôi sẵn sàng bỏ nó, đón chuyến khác. Hơn nữa nơi tôi đến chắc không cần nữa đâu.
Anh miễn cưỡng đi theo tôi. Anh chọn cái quán nước nơi đầu hẻm. Khi ngồi nơi một góc bàn rồi vẫn ngó quanh quẩn chi đó, chỉ một đoạn đường ngắn từ trong nhà ra đến quán này anh vẫn luôn có thái độ như vậy cho đến khi tiếng ông chủ quán cất lên mới giựt mình bối rối:
-Chà, dữ ác hôn, quán tôi hôm nay mới được chú Hoà ghé vô. Bảy tám năm trời dìa đây sống với cô Lành…
Ông chủ còn nói gì nữa đó nhưng tai tôi lùng bùng khi nghe nói tên Hoà, nếu không kềm chế có lẽ tôi đã giật thót người. Chả lẽ người bạn tôi đây sao? Chả lẽ tôi đã quen nhìn mọi thứ tốt đẹp đến nỗi không còn khả năng nhận ra dù nét khắc khổ nào ngự trị đi nữa? Không! Nhất định đây không phải là Hoà của tôi, Hoà của tôi hiện nay là một vị Tăng sĩ có đầy đủ đức hạnh lẫn tri thức, được mọi người biết đến và cũng có lẽ đang trụ trì một ngôi chùa nào đó… Sao lại là anh chàng này? Không! Khốn khổ thay, khi ly cà phê được chủ quán bưng ra chưa kịp đặt xuống bàn và nỗi xao động trong tôi chưa dứt thì anh ta vụt đứng dậy với tiếng la hét của người phụ nữ đứng ngoài cửa:
-Mẹ bà nó, nhà cửa, heo, vịt, ruộng rẫy, con cái không lo, bữa nay bày đặt la cà quán xá! gối rơm không lo phận gối rơm. May nhà cửa chui rúc trong xó xỉnh, xập xệ, vậy mà bữa “Ông thầy chùa này” kiếm, mai “ông thầy chùa kia” khác tới tìm… Anh liệu không ở được với mẹ con tui thì đi dìa nhà anh đi, hay đi trở lại nơi đã ra đi ấy…tưởng…là…
Tai tôi không còn muốn nghe những lời đay nghiến đó nữa. Anh ta ngoan ngoãn bước ra khỏi quán lầm lũi đi theo cô ta trở lại nhà. Tôi đoán không sai và hiểu vì sao tự nảy giờ anh hay nhìn ngoáy về phía sau…
-Tội nghiệp! - Vị chủ quán buồn bã ngồi xuống cạnh tôi, cắt đứt lòng suy tư – Chú ấy về đây được bên vợ cho mảnh đất để trồng tỉa và dựng căn nhà nhỏ để hai vợ chồng sinh sống. Nhưng nghề nghiệp và tiền bạc không có nên cứ đào đất lên bán cho những lò làm gạch, lu, chén, riết rồi thành cái ao tành hoành đó đó, sâu lắm!
Ông chủ quán nói đến đó kèm theo hơi thở ra dại thượt. Tôi nhân đó hỏi thêm:
-Ông à, ảnh là người như thế nào mà hồi nảy nghe vợ ảnh nói “thầy chùa” tới tìm hoài là sao ạ?
-Tui cũng hổng rành lai lịch lắm. Chú ấy sống sao coi có vẻ khép kín qua thành khó mà biết được. Có điều chú ấy ít nói, lại hiền lành, bảy tám năm trời dìa đây chưa bao giờ thấy la cà quán xá hay làm mếch lòng ai. Cho nên tôi nghĩ người hiền lành vậy thầy bà người ta thương, tìm hoài. Mình đây còn thương nữa huống là mấy ông thầy, phải không chú? Mà con Lành, vợ chú ấy chanh chua lắm, ăn nói bất kể quân thần. Nghĩ ông trời sao bất công quá xa, thương chi vậy mà thương…
Tôi tin những lời ông cụ chủ quán ấy nói, bởi ông cụ trông có vẻ thật thà. Những thông tin ít ỏi đó chứng tỏ ông cụ không phải hạng thài lai, chuyên dòm ngó chuyện người. Cộng vào đó, tôi thấy căn nhà phía trong nơi phòng khách, ông có thờ bàn Phật rất trang nghiêm. Chi tiết này khiến tôi càng tin và quý trọng ông chủ quán hơn và cũng nhờ đó tôi mạnh dạn hỏi thêm:
-Cụ à, cụ có nghĩ ảnh trước đây là một thầy tu không?
Ông cụ nhanh nhẹn trả lời:
-Hông à! Tui hổng nghĩ vậy đâu, làm gì có chuyện một vị thầy tu mà ra đời dễ dàng, lại còn ăn ở với bà vợ trời thần đất lở như vậy. Mà nếu có vậy thiệt đi nữa chắc tui cũng chẳng thèm dòm mặt chú ấy nữa.
Như để cũng cố thêm lời khẳng định ấy, ông cụ nói tiếp:
-Đây nè, có một vài lần, có một vài vị thầy đến tìm chú ấy, cũng bị miệng con Lành làm như vậy đó, nên hết hồn nhanh nhẹn trở ra. Tui có thỉnh thoảng vô phòng khách ngồi nghỉ và tiếp chuyện. Chú biết hôn, mấy thầy ấy hay tìm đến là để cho tiền bạc, giúp đỡ kẻ nghèo khó. Lòng từ bi của người ta chớ…có phải…
Thì ra là vậy, đến lúc này thì tôi quả quyết đúng anh ta là một vị thầy đã hoàn tục, còn việc có phải là Hoà bạn tôi hay không để hạ hồi phân giải. Còn hiện tại, hãy để cho ông cụ chủ quán này giữ vẹn những điều suy nghĩ tốt lành ấy, cũng như giúp cho anh này hoàn thành mục đích “khép kín” với chung quanh. Trong tôi chỉ còn sự thỉnh cầu với cô Lành, với các vị Tăng nào đó hay đến tìm anh, tiếp tục giúp cho anh bằng thái độ cũng khép kín ấy. Có những quan niệm ấy, bởi trong tôi vẫn còn một thắc mắc chưa có lời giải.
Tôi trả tiền và cúi đầu chào vị chủ quán ra đi. Ông chủ quán tiễn tôi ra vệ đường cái, bỗng chợt vỗ vai tôi nói:
Nếu tôi đoán không nhầm thì chú đây cũng là một Phật tử?
Tôi vội không chế:
- Dạ điều đó đâu có gì liên quan đến chuyện anh Hoà ạ. Tình cờ bị ban xe cháu ghé vô chồi anh ấy, vì thấy hồ nước lớn, gió mát…
Vậy hả? Tưởng chú là Phật tử mà còn dùng từ gọi quý Thầy là “Thầy chùa” là không ổn.
-Dạ cái đó cháu dựa theo, lặp lại của cô Lành đó mà.
- Không được, cô Lành khác. Còn mình, đó là những cụm từ nghe chói tai. Chỉ dành cho hạng vô Đạo thôi.