vienquang2

K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,377
Điểm tương tác
1,350
Điểm
113
Bài 1.- Phàm Lệ:

Kính Bạch chư Tôn Đức và Đại chúng.

VQ chỉ là người sơ học. Chưa có khả năng làm dịch giả, Tác giả hay làm các bài tiểu Luận, Trung Luận hay Đại Luận gì cả.

VQ chỉ tập tành giảng thích, trùng tuyên các bài kinh, Luận của Phật và các Vị Tiền Bối đã có lập sẳn mà thôi.

Hôm nay.


  • Chợt Nhận thấy K. Địa Tạng là bản kinh Đại Thừa khó hiểu và Ẩn mật.
  • Lại thấy Tiền Bối Chánh Trí Mai Thọ Truyền , HT Th Chơn Thiện và nhiều Tiền Bối.- có bài Luận giải K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA.- Nên tò mò muốn tìm hiểu và trùng tuyên trình lên Quý Thiện Tri Thức.- Vì muốn tìm "Thật Nghĩa".

Kính mong được Quý Thiện Tri Thức từ bi, chỉ dạy, khai thị và góp ý cho sáng tỏ.

Rất mong chờ.

K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA _teng_10
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,377
Điểm tương tác
1,350
Điểm
113
Bài 2.- Xuất xứ k. Địa Tạng.

(Theo HT. Thích Chơn Thiện - Xuất bản 2010)

Kinh Địa Tạng được trích dịch từ kinh Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luận, cuốn một tập 13 của Hán tạng, từ trang 721 đến 726 (Bản dịch của T.T. Trí Quang, Sài Gòn, 1976).

Kinh này thuộc thời đại phát triển Đại thừa, khoảng từ đầu kỷ nguyên Tây lịch trở về sau.

Đức Thế Tôn đã nói Kinh này cho Thánh Mẫu Ma-gia ở cung trời Đao Lợi trước lúc Thế Tôn vào Niết-bàn.

Chúng đương cơ ở đây là chúng sanh của lục đạo.

Giáo lý nhấn mạnh điểm phát triển thiện tâm, từ bi tâm hầu đoạn diệt các nguyên nhân đưa chúng sanh vào ác đạo ngã quỷ, súc sanh và địa ngục.

Bên cạnh đó, có phần giáo hạnh mở rộng đi vào đại bi và đại tuệ.

Có thể hiểu Kinh Địa Tạng là một hiếu kinh mở rộng cho năm thừa giáo mà Thế Tôn muốn giới thiệu đến Thánh mẫu.

K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA K_tang10
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,377
Điểm tương tác
1,350
Điểm
113
Bài 3.- DANH HIỆU BỒ-TÁT ĐỊA TẠNG.

Lời tựa:
CHÍ TÂM QUY MẠNG LỄ:
U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát
Lạy đức từ bi đại Giáo Chủ
“Địa” là dày chắc,
“Tạng” chứa đủ (hết trích)

Lượt giải:

+ Địa là đất, mà đất thì cứng rắn, sâu dày và dung chứa muôn loài muôn vật.- Bất luận hột giống nào bỏ xuống đất là mọc. - Vì vậy lấy đất mà thí-dụ cho Tâm (có chỗ Kinh dùng danh từ "tâm địa")
Kinh Tâm Địa Quán có đoạn:
“Tam giới chi trung, dĩ tâm vi chủ. Năng quán tâm giả, cứu cánh giải thoát. Bất năng quán giả, cứu cánh trầm luân. Chúng sanh chi tâm, do như đại địa, ngũ cốc ngũ quả, tùng đại địa sanh, như thị tâm pháp sanh thế xuất thế, thiện ác ngũ thú. Hữu-học, Vô-học, Độc-giác, Bồ-tát, cập ư Như Lai. Dĩ thử nhân duyên, tam giới duy tâm, tâm danh vị địa.”

nghĩa:

Trong ba cõi (dục, sắc và vô sắc), tâm là chủ. Người quán sát được tâm, cuối cùng được giải thoát. Người không quán sát được tâm, cuối cùng chìm đắm vào biển khổ. Tâm chúng sanh giống như mặt đất, năm thứ lúa thứ trái, đều từ đất mà sanh, cũng như vậy, tất cả những lo nghĩ (tâm pháp) của chúng sanh còn kẹt trong thế-sự, hay đã vượt ra ngoài thế-sự, hoặc lành hoặc dữ, những ý niệm hướng về năm nẻo của lục đạo, những ý niệm của hạng Học, Vô học (A-la-hán), của hạng Độc giác, Bồ-tát, cho đến bậc Như-Lai, đều do tâm mà sanh. Bởi cớ, ba cõi chỉ do tâm và tâm được gọi là đất. (hết trích)

+ Địa là ý nói là Đất cứng rắn, sâu dày,

+ Tạng (cũng đọc la tàng, như nói tàng trữ) là ý nói ngậm chứa tất cả.
Quan điểm xếp loại Kinh Địa Tạng vào Quyền Giáo, xem ngôn ngữ kinh là ngôn ngữ biểu tượng, Địa Tạng là nguồn tâm thể, Địa ngục là cái ác tâm, và tà kiến ( si mê), và trời là các thiện tâm và từ tâm.
Theo ý nghĩa biểu tượng ấy, chư Tổ đã tác kệ tán rằng:
- “ Địa ngôn kiên, hậu, quảng hàm tàng”
( Địa nói lên tính cứng bền, tính không thể đo lường, và tính dung chứa tất cả).

* Kinh ví tâm thể như đất, và gọi là đất tâm (tâm địa). có thể quán tưởng tính chất của tâm qua tính chất của đất để giác tỉnh và an trú, nghĩa tên kinh là ý nghĩa của danh hiệu Bồ - tát Địa Tạng: U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát.

* Vậy vị Bồ-tát nói trong Kinh không phải là một nhân-vật lịch-sử như đức Phật Thích-Ca, mà là một nhân-vật tượng trưng (personnage symbolique) một tỷ-dụ (parabole, allégorie) để chỉ cái Bản-thể, cái "Soi" của chúng sanh. Bản-thể ấy thường được biết dưới cái tên là Tâm. (lượt phỏng theo cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền)
K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA Images14
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,377
Điểm tương tác
1,350
Điểm
113
Bài 4.- Ý nghĩa Bổn Tôn.

K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA T2_jfi10


  • Bổn Tôn: Là gốc đáng tôn quý, đáng là nơi nương tựa của chúng sanh. Gốc đây là nguồn tâm giải thoát.
  • Địa Tạng: chỉ tính dung chứa của đất nói lên tính dung chứa vô tận của tâm thể.
Như là đất là kho dinh dưỡng vô tận của sinh vật, tâm là nguồn nghiệp công đức của các loài chúng sanh. Như đất bình đẳng và bất động trước cấu, tịnh; tâm thể bình đẳng và tự tại trước các pháp. Như đất thì vô nhiễm; tâm cũng thế. Như đất tồn tại bền bỉ; cũng thế tâm thể không bị hoại diệt.
Như thế, Địa Tạng là biểu tượng của tâm, không hẳn là danh hiệu của một Bồ-tát lịch sử.
- Bồ Tát Ma Ha Tát: Chỉ bậc đại sĩ giác ngộ hàng thập địa. Cũng có thể biểu tượng khả năng giác ngộ tâm thức của chúng sanh.

- Có nhiều quan điểm cắt nghĩa danh hiệu trên, tựu trung có hai quan điểm tiêu biểu:

1- Quan điểm xếp loại Kinh Địa Tạng Thực giáo, xem lời Kinh là lời dạy cụ thể, và xem Bồ-tát Địa Tạng là nhân vật lịch sử cứu khổ chúng sanh địa ngục cho đến thời điểm đức Di Lặc ra đời. Quan điểm này thuộc tôn giáo hình thức, không nói lên được giáo lý trí tuệ, thiết thực hiện tại và giải thoát của phật giáo.
2- Quan điểm xếp loại Kinh Địa Tạng vào Quyền Giáo, xem ngôn ngữ kinh là ngôn ngữ biểu tượng, Địa Tạng là nguồn tâm thể, Địa ngục là cái ác tâm, và tà kiến ( si mê), và trời là các thiện tâm và từ tâm.
Theo ý nghĩa biểu tượng ấy, chư Tổ đã tác kệ tán rằng:
- “ Địa ngôn kiên, hậu, quảng hàm tang”
( Địa nói lên tính cứng bền, tính không thể đo lường, và tính dung chứa tất cả).
- “ Tam Thế Như Lai đồng tán ngưỡng
Thập phương Bồ tát cọng quy y” ( Kinh Địa Tạng)
( Ba đời chư Phật đều tán thán, và mười phương Bồ-tát thảy nương tựa)

Đối tượng mà Chư Phật tán thán cả chư Bồ Tát nương tựa phải là tâm thể hay pháp thể mà không phải là một nhân vật lịch sử.
- “ Khể thủ bản nhiên tịnh tâm địa vô tận phật tạng đại từ tôn.
( cúi đầu đảnh lể nguồn tâm vốn thanh tịnh và nguồn giác đại từ tôn quí).

Hai câu kệ đó nói lời tán dương nguồn tâm thanh tịnh, nguồn trí tuệ giải thoát và tâm đại bi. Tương tự một lời phát biểu khác “ Tâm địa nhược thông, huệ nhật tự chiếu”.

* Các kinh Thượng tọa bộ và Nhất thiết hữu bộ thường dạy quán tâm qua tứ đại hay lục đại như ý nghĩa Địa Tạng.

- Quan điểm thứ 2 nói lên được nhiều hơn các nét giáo lý thiết thực, sinh động và trí tuệ của Phật giáo.

* Trong tập sách này, chúng tôi trình bày nghĩa kinh nghiêng về quan điểm thứ hai, nhưng không vì thế mà không xác nhận các cảnh giới địa ngục, và có các bậc đại sĩ cứu khổ chúng sinh. Thực sự, chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến phần giáo lý căn bản của Phật giáo được chuyên chở trong kinh, đến hiếu hạnh như là cơ sở để xây dựng tâm Bồ-tát và tâm giải thoát. Thời Kinh Địa Tạng, chúng tôi hiểu, là thời kinh giảng dạy con đường ra khỏi ác thú, đọa xứ, địa ngục để vào hạnh phúc và giải thoát, dù câu chuyện dựng lên là thực hay do thần lực thể hiện. Tên Kinh và tên của Địa Tạng đại sĩ được lồng vào ý nghĩa đó: hạnh nguyện độ sinh trong mười phương đọa lạc không phải chỉ là sứ mệnh của một mình Địa tạng đại sĩ, mà là sứ mạng của chư Bồ-tát. Bồ-tát Địa tạng là một mẫu điển hình của sứ độ khổ ấy.

(HT. Thích Chơn Thiện - Xuất bản 2010)
 
Sửa bởi Amin:

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,487
Điểm tương tác
1,115
Điểm
113
Hề hề,

U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn
U nghĩa tăm tối. Minh (bộ Mịch) niệm tưởng cùng cực ngu si, hung ác. Vậy nên U Minh (幽冥) là cảnh giới tăm tối do niệm tưởng cùng cực ngu si, hung ác (Tịnh thì li ti nhỏ nhiệm; Nhiễm thì tăng, khổ đau chồng chất khổ đau).
Giáo chủ, Đấng giáo hóa
Bổn tôn, Bổn là gốc, nền tảng (nương tựa); Tôn, tôn quý. Bổn tôn là nơi tôn quý đáng nương tựa.

Vậy U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn nghĩa là Đấng giáo hóa tôn quý đáng nương tựa của cõi tăm tối vì có niệm tưởng cùng cực ngu si và hung ác.


Trừng Hải
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,377
Điểm tương tác
1,350
Điểm
113
Bài 5.- Niềm Tin vào Địa Tạng .

Đối với Địa-Tạng Bồ-Tát cũng có hai luồn tư tưởng khác nhau:

- Một hạng tin rằng đã có ngài ĐịaTạng phát nguyện cứu độ tội vong ra khỏi U-minh địa- ngục, thì ta cứ "làm ăn" như ai, rũi ro có bề nào sẽ có ngài đùm bọc.

- Ngài lại còn nguyện "Địa ngục chưa trống không, ta quyết không thành Phật", thì dầu ta còn phải đọa địa-ngục lâu xa thế mấy đi nữa, cũng còn có ngài cứu thoát, không đến nỗi nào mà sợ.

- Hạng này còn tin đức Địa-Tạng có quyền lực dẫn vong vào cảnh Tây-phương tự tại, vô ngại. Hễ có ngài dẫn, thì không có một quỉ sứ nào dám bắt đem nạp cho Diêm-vương phán xét. Hơn nữa, ngài lại còn có quyền lực phá ngục thả tội mà chẳn có ông Diêm-vương nào dám cản trở. Do những tin tưởng này, mới có việc mướn làm chay với cảnh thầy cả đội lốt Địa-Tạng phá ngục giải phóng tội vong.

Ôi thôi! Kể sao cho xiết những quan niệm sai lầm như thế về Bồ-tát Địa-Tạng và về quyền năng của ngài! Ròng rã là những sự tin tưởng thần quyền, ỷ lại tha lực, làm hoen ố Phật giáo nước nhà!

- Một hạng khác lại suy nghĩ: không lẽ lại có một ông Bồ-tát "cải Trời" cho đến bỏ luật nhơn quả, dàm vì cảm tình với người sống mà làm việc bất công là thả tội hộ vong. Vì suy nghĩ như thế, họ mất lòng chánh tín đối với vị Bổn-tôn Bồ-tát và thối bộ, không bước được vào cửa Phật tu hành, để thâu hoạch lợi ích cho mình.

Thật đáng phàn nàn cho hạng này, vì họ là bậc có trí, biết suy nghĩ và có đạo tâm, chỉ vì không ai chỉ bảo thành ra hiểu lầm, nghi sái...

Vô đầu, đạo-hữu Chánh-Trí thanh minh rằng kinh Địa-Tạng thuộc về quyền giáo, khác với những bộ kinh thuộc về Thực giáo, trực chỉ Chơn-lý. Có thể xem kinh Địa-Tạng như một bài ngụ-ngôn trường thiên, trong đó Phật dùng ngụ-ý (paraboles) để ám chỉ một chơn-lý đáng phát minh, như những bài ngụ ngôn của các hiền-triết Đông Tây mà cốt yếu là để dạy những nguyên tắc luân lý, hoặc những truyện đời xưa, những truyện giải buồn, do văn-nhơn, hiền-sĩ đặt ra vì thiết tha với thế sự, muốn hoán cải nhơn tâm.

(Viên-Pháp.- Trích Tạp-chí TỪ-QUANG số 70, tháng 11 năm 1957)
K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA U_minh11
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,377
Điểm tương tác
1,350
Điểm
113
Bài 6.- Diêm Vương.

K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA Dim_la10

mấy câu:
Diêm vương điện thượng
Nghiệp cảnh đài tiền
Vị Nam-phù-đề chúng-sanh
Tác đại chứng-minh công-đức chủ.

thì theo đạo-hữu Chánh-Trí, là tả những cái dụng khác của Chơn Tâm, cái dụng hồi quang phản chiếu, quay cái sáng, rọi trở lại đời sống hằng ngày, từ ngoài cho đến trong, như người Pháp nói "xét lòng" (examen de conscience). "Thật vậy, diễn giả nói, ai xét ta và luận ta cho bằng lương-tâm ta, vì biết bao nhiêu tội lỗi ta đã tạo mà Công-lý nào biết được! Do đây, bài tán mới vì Địa-Tạng (Chơn Tâm)là ông vua cõi Diêm-la, ngồi trên điện cao để phán xét tội trạng của ta. Còn tự ta muốn biết nghiệp lành, nghiệp ác của ta ư? Thì cứ ngó trở lại vào lòng, cái "gương lòng" sẽ phản chiếu cho ta thấy tất cả.

Gương ấy là Chơn Tâm Địa-Tạng đó, nên gọi là Nghiệp cảnh (cái kiếng soi nghiệp). Chơn Tâm ta đã là ông Tòa, ông Diêm vương xét tội, thỉ Chơn Tâm ấy cũng là người chứng kiến và ghi chép những công đức của ta. Thế nên nói ĐịaTạng làm người chứng minh các công đức (mérites) của chúng sanh cõi Nam-diêm phù-đề, tức là cõi thế-gian này vậy.

"Tóm lại, diễn-giả chỉ rằng: Địa-Tạng là Chơn Tâm hay Như-Lai Tạng-tâm, đủ cá Tánh-thể, Tánh-cụ và Tánh-dụng.
Tánh-thể là Bổn tôn, nên "Tam thế Như Lai đồng tán ngưỡng, thập phương Bồ tát cộng quy y".

Về Tánh-cụ (có sẵn) thì "kiên, hậu, quảng hàm tàng, từ nhơn, tích thiện, thệ cứu chúng sanh" sẵn đủ cả Đại nguyện (grande volonté), Đại-hạnh (grande activité), Đại-thệ (grandedétermination).

Vì vậy Kinh chia ra ba phần hay ba quyển: Địa-tạng bổn nguyện, Địa-tạng bổn hạnh, Địa-tạng bổn thệ. Rốt hết là Tánh-dụng. Hai Tánh trước đã lớn lao và đầu đủ vô cùng thì cái Dụng của Chơn Tâm cũng vô cùng, do đó mà chúng-sanh trong quá khứ, hiện tại, vị lai, nếu biết quy-y Tâm thì được ra khỏi địa-ngục vô-minh, tức là được cứu độ như Kinh nói

Đạo hữu Chánh-Trí giảng đúng với giáo nghĩa của Đại-thừa. Theo lý tuyệt-đối (đệ-nhất nghĩa đế), ngoài Tâm không pháp, cho nên sự sự đếu là Tâm, vật vật đếu là Tâm. Tâm tác Thiên đường, Tâm tạo địa ngục, ba cõi chỉ đều do Tâm, mười cõi chỉ đều do Tâm, tất cả đều do Một Tâm (duy Nhứt Tâm), không gì ngoài Nó. Cho nên, có chúng sanh thọ khổ địa ngục nơi Tự Tâm (en Soi), thì Địa-Tạng Bồ-tát cũng cứu độ trong Tự Tâm. Ngoài Tâm, không có địa ngục, chúng sanh nào khác; ngoài Tâm, không có Địa-Tạng phá ngục dẫn vong nào khác. - Đây là cái lý bí ẩn của kinh Đại-thừa mà chúng ta cần khám phá và khai thác để tự lợi, lợi tha.

Dùng ông Bồ-tát Tự-Tánh mà cứu độ chúng sanh của Tự Tâm, lửa đó, nước đó, thật là muôn phần linh tiệp và diệu dụng.
( Viên-Pháp.- Trích Tạp-chí TỪ-QUANG số 70, tháng 11 năm 1957)
 

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,487
Điểm tương tác
1,115
Điểm
113
Hề hề,

Diêm vương điện thượng
Nghiệp cảnh đài tiền
Vị Nam phù đề chúng sanh
Tác đại chứng minh công đức chủ.

Đoạn kinh trên thuộc bộ Thí dụ gọi là Biến dụ, dùng những hình ảnh thô thiển trong đời sống thực tế (quan xử án) để minh họa cho nội dung vi tế của giáo pháp tương ứng.
Gọi là thô thiển vì quá trình xử án tại thế gian đều dựa trên những bằng chứng gián tiếp như động cơ, chứng cứ, lời khai...thu thập được qua điều tra cái đã xảy ra trước đó (lại nữa, nếu không điều tra ra thì...chịu). Không phải là Nhân, Quả trực tiếp hiện tiền như giáo pháp vi tế về Cảnh nghiệp, xác quyết rõ nhân duyên hành vi tạo nghiệp sanh quả.

Diêm vương nơi cung điện cõi u minh
Xem xét nhân duyên nghiệp quả thiện ác một đời
Của chúng sanh cõi Nam phù đề
Một cách sáng rõ toàn thể không dư, thiếu...


Trừng Hải
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,377
Điểm tương tác
1,350
Điểm
113
Bài 7.- ph1.THẦN THÔNG TẠI CUNG TRỜI ĐAO LỢI

Cái nhìn tổng quát về hình thức xây dựng của phẩm 1.- kinh ĐT:

K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA Ao_loi10


1- Thời pháp này Thế Tôn nói cho Thánh Mẫu Ma-gia nghe, dù thích chúng vân tập gồm đủ các hàng phàm thánh, trước khi Thế Tôn vào Niết bàn. Đây là thời pháp độ Thánh Mẫu, vừa giáo hóa chúng sanh như là thời kinh hiếu.

2- Xác định mục đích Thế Tôn thuyết pháp chỉ nhằm: “ Chiết phục chúng sanh ương ngạnh, làm cho họ biết được cái gì là thống khổ và cái gì là hạnh phúc”.

3- Khi tâm của bà Duyệt Đế Lợi giác tỉnh, hướng về chân tánh, thì tất cả các vọng niệm, ác niệm đều được chuyển thành chánh niệm thiện niệm, thoát ly hẳn ác đạo. Đây là ý nghĩa của Kinh Địa Tạng dạy.

4- Khi tâm đã hướng thiện thì các ác niệm, vọng niệm cũ dứt, do đó kinh nói: Tất cả tội nhân cũng được ra khỏi địa ngục và sinh Thiên giới một lượt với Bà Duyệt Đế Lợi.tại đây, nếu hiểu rằng chính Địa Tạng Đại sĩ đã cứu mẹ và các tội nhân địa ngục thì trái với luật nhân quả. Vả lại kinh Địa Tạng chẳng đã dạy: “ chí thân như tình phụ tử đi nữa, cũng đường ai nấy đi”. ( trang 184).

5- Thế Tôn Giác Hoa Định Tự Tại đã không chỉ liền cảnh giới thác sinh của Bà Duyệt Đế Lợi mà bảo thiếu nữ nhiếp tâm niệm danh hiệu Ngài: Đây là cách bảo thiếu nữ tập trung tâm thức để tu thiền định; do nhờ có định mà thiếu nữ mới biết được cảnh khổ đọa của mẹ, biết rõ kết quả của ác niệm và con đường đi ra khỏi ác niệm. Định lực ấy là cần thiết, như kinh xác nhận: “ Phi thần lực thì nghiệp lực, ngoài hai năng lực ấy không thể nào đến đây được” ( trang 146).

6- Sau khi chết, Bà Duyệt Đế Lợi sa vào bể khổ thứ nhất của địa ngục. Tại đây, sau 49 ngày nếu không có thiện nhân bà đã tạo từ trước, hoặc nếu không nhờ công đức hồi hướng của thân nhân, thì bà sẽ rơi vào bể khổ thứ hai, thứ ba, thực sự thọ báo địa ngục. (Trang 146-147).
Thế là, truyền thống của thât thất trai tuần có thể được xem là xuất phát từ Kinh Địa Tạng. Thân thọ khổ trong bể thứ nhất là thân trước của địa ngục mà không phải là thân trung ấm. Phật giáo không chủ trương có thân trung ấm. Chết liền thác sanh (theo Nikaya, A-hàm, luận A-tỳ-đàm và Kinh Địa Tạng), như Cảnh Sách Văn viết: “ Chuyển tức tức thị lai sanh” dứt hơi thở liền sanh kiếp khác.

7- Cảnh giới địa ngục được kinh mở ra như một tấm gương soi cho người thấy rõ tâm mình mà cảnh giác xa rời các ác niệm và ác hạnh. Nó không hoàn toàn là một cảnh giới, mà là các tâm tà kiến, độc hại có thể thiêu cháy bởi các hiếu tâm, từ tâm và thiện tâm. Ý nghĩa Địa Tạng Đại sĩ cứu thoát chúng sanh địa ngục là thế.

Tóm lượt ý Phẩm kinh:

Hiếu tâm, từ tâm chẳng những xóa sạch được các ác tâm, mà còn khai nguồn cho đại bi tâm của một Bồ-tát.

( lượt trích .- HT. Thích Chơn Thiện - Xuất bản 2010)
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,377
Điểm tương tác
1,350
Điểm
113
Bài 8.- ph1.- Mật nghĩa cung trời Đao lợi:

Điểm đặc biệt ở đây là Phật không thuyết pháp ở thế-gian, cho người thế gian nghe, mà trên trời Đao-lợi, cho mẹ đã chết nghe và trước vô số chư Phật, Bồ tát, Thiên, Long, Quỉ, Thần.

Vậy phải "không là phàm" mới nghe được lời Phật dạy trong kinh này.

Vào đoạn đầu đã thấy ý hướng của Kinh, trong lời khen đức Thế-Tôn.

Ở thế gian, chúng sanh cứng đầu (cang cường) rất nhiều, ngoài Phật là bậc đại trí-huệ có nhiều phương-tiện chế phục họ, thì không ai làm được.

Đem đạo lý nhân-quả ra nói họ không nghe, thì nay Phật dùng phương"Bồ-tát Địa-Tạng".

Mật nghĩa "Địa-Tạng là Tâm" được chứng minh trong đọan Kinh nói chư Phật, Bồ-tát, Thiên, Long, Quỉ, Thần,đông vô số kể, đều hoặc đã, hoặc đang, hoặc sẽ chịu ơn hóa độ của Địa-Tạng.

Chư Phật đã, chư Bồ-tát đang, còn Thiên, Long.., sẽ chịu ơn ấy. Và nhất định ĐịaTạng thành công, vì tất cả là Phật sẽ thành, thì tự nhiên tất cả phải quày về với Tâm và nghe Tâm dạy dỗ.

Nói oai thần thệ nguyện của Địa-Tạng, là nói oai thần thệ nguyện của Tâm. Tâm mà cương quyết thì có đủ quyền năng, thần-thông (pouvoirs surnaturels).

Ai biết quày về với Tâm, chiêm ngưỡng Tâm, kính trọng Tâm, hy-sinh (cúng dường) cho Tâm, thì người ấy sống trong đường thiện (sanh thiên).
 

Đính kèm

  • phgioi10.webp
    phgioi10.webp
    19.4 KB · Lượt xem: 5
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,377
Điểm tương tác
1,350
Điểm
113
Bài 9.- Thánh Nữ Bà la môn.- Tiền Thân Địa Tạng.

K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA Thanh_15

Tiền thân Địa-Tạng là một cô gái Bà-la-môn đạo đức (Thánh Nữ BLM).

Trong câu truyện này, Phật dạy:
- Muốn biết hướng dắt dẫn của tội nghiệp thì nên nhập định, tư duy. Cô gái hỏi Phật Giác-Hoa, Phật không chỉ mà bảo về nhập định tư duy, là nghĩa này.

- Tin xằng, không Chánh-kiến, không Chánh-tín, không biết quy-y Tam-bảo, nghĩa là không biết kính quí Ánh-sáng nơi Tâm (Phật), Luật-pháp trong trời đất (Pháp) và niềm Hòa lạc của muôn loài (Tăng), lại không tin Nhân-quả, thì phải vào ngục "Vô-gián" nghĩa là sống mãi trong Vô-minh triền-miên.

- Ba biển thí dụ những nghiệp của thân, khẩu và ý. Chúng-sanh trồi hụp trong ba biển ấy, nóng bức như bị nước sôi nung nấu, đau khổ như bị thú dữ cắn xé.

- Thiết vi là rào sắt. Con người bị giam trong nghiệp chồng chất như núi, khó thoát nên ví như núi có rào sắt bao quanh.

- Ai vào địa-ngục? Hạng oai thần và hạng bị nghiệp ác dắt dẫn. Hạng oai thần là những bậc đã giải thoát nhưng vì lòng từ muốn cứu độ nên vào địa ngục để hóa độ.

- Địa-ngục ở đâu? Ở ngay trong những biển nghiệp ấy nghĩa là ai còn nghiệp ác là ở trong địa-ngục.

* Ý của phẩm 1 này là: Muốn đầy đủ muôn hạnh phải biết hễ còn nghiệp là còn trong địa-ngục đau khổ, vậy phải tự giác (Giác Hoa) bằng cách thiền-định (Định Tự-tại).
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,377
Điểm tương tác
1,350
Điểm
113
Bài 10.- Ph2.- Phân-Thân Tập Hội

K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA Phan_t10


Phân-thân nghĩa là một thân mà chia ra làm trăm, làm ngàn, v.v.. Mỗi phần gọi là một phân-thân. Đã nói Địa-Tạng tiêu biểu cho Tâm, vậy phân-thân Địa-Tạng là một phần của Tâm.
Tâm chỉ có một như mặt trời chỉ có một.- Những giọt sương đọng trên ngọn cỏ buổi sáng đều phản chiếu toàn ánh mặt trời. Mỗi ánh sáng lóng lánh trên mỗi ngọn cỏ là một phân-thân của mặt trời, và mỗi phân-thân ấy có đầy đủ những đặc tánh của mặt trời.
Mỗi chúng sanh là mỗi giọt sương và tâm của mỗi chúng sanh là phản chiếu toàn ánh sáng của mặt trời Tâm duy nhất.
Lúc còn giọt sương thì thấy có một Mặt trời to trên cao và vô số mặt trời nhỏ dưới đất, nhưng khi sương tan rồi, những mặt trời nhỏ đó đi đâu? Không đi đâu hết.
Sương hình-tướng không còn nhưng ánh sáng giác của mỗi giọt thì nguyên vẹn đầy đủ ở Mặt trời bất di bất dịch, bất sinh bất diệt.
Vậy ra, vô số mặt trời sương kia thật chỉ có một mà thôi. Do đây Kinh nói các phân-thân Địa-Tạng hợp trở lại thành một hình.
 

An Long

Registered

Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
3/11/21
Bài viết
1,902
Điểm tương tác
266
Điểm
83
Nơi ở
Nam Định .Việt Nam
Kính Thầy Viên Quang 2 Cùng Các Đạo hữu. An Long Cũng Mạnh Dạn Xin Chia Xẻ Thiển Kiến Qua Trải Nghiệm Tu Học Phật Pháp Của Mình Về Vấn Đề Gọi Là : ĐỊA NGỤC .
@1- Có Thể Tạm Phân Chia Làm 2 Phần: ĐỊA NGỤC HỮU VI...Và BIẾN DẠNG VÔ VI .
#1- ĐỊA NGỤC HỮU VI :
Là Cảnh Giới Được Thành Tựu Theo " TỰ TÁNH " Theo Đúng Với Quy Luật Vận Hành Của VÔ MINH HÀNH ( Chúng Sanh Tánh ) Nơi Thế Gian Pháp Như Có Kinh(An Long Không Nhớ Cụ Thể Tên Kinh Nhưng Đã Đọc( Hình Như Trong Kinh Trường A Hàm )) Mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Đã Thuyết Giảng ..." Có người Ghi Sổ Bộ, Rồi Lại Có Người Coi Ngục...)... Như Trong Thế Giới Hữu Vi Hiện Tại Có Các Tổ Chức Công Quyền Để Đảm Bảo Trật Tự Xã Hội .
...Và Trong Thế Giới Tâm Linh ( Thọ Mệnh Mới Của Các Chúng Sanh Đã Hết Thọ Mệnh Nghiệp Lực Chuyển Biến Tương Ưng ) Với Nhận Thức Và Tư Tưởng Tương Ưng Được Biến Chuyển Tương Đồng , Tương Phản Với Các Hành Vi Qua Tư Tưởng Nhận Thức Của Tùy Cá Thể .Được Hiện Hữu , Hiện Hành Với Các Trường Phái TÂM LINH Mà THẾ GIAN PHÁP LƯU TRUYỀN = Ví Như : Thế Giới DIÊM PHỦ , DIÊM VƯƠNG...Cùng Hệ Thống Quản Lý Tương Ưng, Trong Thế Giới Loài Quỷ Thần .
# 2 -BIẾN DẠNG VÔ VI :
=-Là Do Các HÀNH VI ỨNG SỬ Do KIẾN CHẤP NHẬN THỨC =TÁC ĐỘNG TƯƠNG ƯNG , TƯƠNG TÁC Hoặc TƯƠNG PHẢN .
@- Ví Như : HÀNH VI =GIẾT MỔ Và THU NHẬP TIÊU HÓA Sản Phẩm ĐỘNG VẬT :
#-Về VẬT LÝ : NĂNG LƯỢNG SINH HỌC ( Hữu Tình ) Của HỮU TÌNH BỊ GIẾT=>PHÓNG XUẤT NĂNG LƯỢNG LỖI NHỊP Với NĂNG LƯỢNG MÔI TRƯỜNG TƯƠNG TÁC TỔNG QUAN Với =TỐ CHẤT NĂNG LƯỢNG TƯƠNG ƯNG với ĐẶC THÙ " TỰ TÍNH CHÍNH TÍNH "+ CÁC NĂNG LƯỢNG VI TẾ GÂY PHẢN ỨNG CHUYỂN TỐ CHẤT NĂNG LƯỢNG SINH HỌC ĐỔI DO CÁC CẢM XÚC , CẢM GIÁC Có " TỰ TÍNH "=ĐAU , SỢ HÃI ...THÙ HẬN... Của THÂN & CĂN( Theo Quy Luật Vận Hành Nghiêm Ngặt Tổng Thể Của Pháp Giới Tánh )
#- Khoa Học Hiện Đại Cũng Đã Có Những Nghiên Cứu Về Vấn Đề Này ... Như Thông Tin Về Chất Aderenarin...Và "Tự Tính " (Tính Chất) Của Nhièu Vi Chất Khác... (An Long Dốt Ngoại Ngữ Nên Có Thể Gõ Nhầm Mọi Người Thông Cảm)
#2- CẢNH GIỚI HIỆN TRẠNG NÀY =TƯƠNG TÁC VÀ TIÊM NHIỄM HUÂN TẬP Vào ĐỐI TƯỢNG =>THAM GIA BIẾN ĐỔI =TỐ CHẤT & CẤU TRÚC Của ĐỐI TƯỢNG Và TÍCH TẬP TRONG=CHỦNG TỬ NGHIỆP Nơi THÂN & CĂN VI TẾ =VÀ LÀM ĐỘNG CƠ PHÁT ĐỘNG : HÀNH NGHIỆP( Nghiệp Lực)...VÀ ĐƯỢC MÔI TRƯỜNG TƯƠNG ƯNG , TƯƠNG TÁC (" TỰ TÍNH " LỰC KHÍ GIỚI )=> TÁC ĐỘNG ĐIỀU CHỈNH Để TƯƠNG ƯNG VỚI VẬN HÀNH CHÂN THẬT CỦA PHÁP GIỚI TÍNH LÀM BIẾN CHUYỂN ĐỐI TƯỢNG Và TÁC ĐỘNG ĐỐI TƯỢNG VỚI CÁC " CẢM NHẬN" TƯƠNG ƯNG Hay TƯƠNG PHẢN ( Các Sự Rắc Rối Bất Như Ý )...Cho Đến Khi MÃN BÁO THỌ MỆNH THEO QUY LUẬT VẬN HÀNH " TỰ TÍNH " CỦA PHÁP GIỚI TÍNH
=THÂN VẬT LÝ TƯƠNG ƯNG ( Thân Tứ Đại )= TAN HOẠI...Thì=> THÂN & CĂN VI TẾ (Chứa Chủng Tử Nghiêp )=> TÙY THEO CẤU TRÚC& TỐ CHẤT VI TẾ => ĐƯỢC CHUYỂN ĐỔI =TƯƠNG ƯNG ĐÚNG NHƯ...QUY LUẬT VẬN HÀNH ( Tự Tánh) CỦA PHÁP GIỚI TÁNH =HIỆN HỮU , HIỆN HÀNH =>HIỆN DIỆN ,HIỆN TRẠNG VỚI CHỦNG LOÀI TƯƠNG ƯNG .
@-CÁC HÀNH GIẢ THIỀN HÀNH = CÓ THỂ QUÁN SÉT RÕ RÀNG Và TỰ TRỰC NHẬN , TỰ TRỰC GIÁC QUA CÁC BIỂU HIỆN CỦA THÂN & TÂM (Các Giác Quan )Vầ TIẾN TRÌNH VẬN HÀNH NÀY:
... Ví Như : CẢM NHẬN , CẢM GIÁC= CẮN PHẢI LƯỠI Hay LƯỠI BỊ BỎNG RÁT , CO NỨI TỰ NHIÊN KHÓ PHÁT ÂM.vv...= TĨNH TÂM TẬP TRUNG THEO DÕI SÁT CÁC BIẾN CHUYỂN VI TẾ HIỆN HÀNH TRONG THÂN & TÂM = CHO THUẦN THỤC : SẼ =TỰ TRỰC GIÁC,TỰ TRỰC NHẬN , TỰ TRỰC KIẾN =QUY LUẬT NÀY ĐÚNG ...NHƯ LÀ...="TỰ TÍNH CHÂN TÍNH "=HÌNH TƯỚNG , TỰ TÍNH ,HIỆN HÀNH...=CÁC GIỚI LOÀI , GIỚI ĐỊA ...
* Nên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Đã Thuyết Giảng : MỌI PHÁP DUY TÂM TẠO .
-#- NHƯNG : TÂM = Nếu CHẠY THEO NGOẠI CẢNH : ..Các Triết Thuyết ,Tư Tưởng Nhận Thức Truyền Thừa Truyền Thống Theo QUY ƯỚC Thì CẢNH GIỚI TƯƠNG ƯNG DO THỨC BIẾN ĐƯỢC THÀNH TỰU :
...Ví Như : MUỐN TU TẬP Để THÀNH DIÊM VƯƠNG Nơi DIÊM PHỦ ( Chính Thống ) Thì Cũng Phải Tuân Thủ Nghiêm Ngặt Các Pháp Phương Tiện Theo GIÒNG TRUYỀN THỪA Của Môn Phái Đó Mới Được Thành Tựu=VÀ CŨNG ĐÚNG NHƯ " TỰ TÁNH " ( Ví Như Các TRƯỞNG TRẠI GIAM= Phải Phụ Thuộc Vào ĐỊA LÝ , THỰC CẢNH =TƯƠNG QUAN ( Nơi Giam Giữ Phạm Nhân ) : TÙY THEO PHƯỚC NGHIỆP HÀNH TRÌ )
...Càn Các QUỶ GIÁO ( Quỷ Sứ)= Thì Cũng Tùy Dư Nghiệp Mà Hành Sử... Và Lại=TÍCH TẬP Nghiệp Lực Mới Để RỒI LẠI CHUYỂN ĐỔI TƯƠNG ƯNG KHI MÃN BÁO (Ví Như Chúng Hữu Tình Có Tính Cách: Căm Ghét Hành Vi " Sai Trái " Thích Trừng Phạt "Kẻ Ác" ...Khà Khà... Như Ý Niệm : Mày Có Xuống Địa Ngục Tao Cũng Không Tha ...)
**- CÒN : PHÁP MÔN TU HỌC ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT ,,=LÀ MỘT TRONG NHỮNG PHÁP MÔN TU HỌC CHÂN THẬT NHƯ PHÁP TU CỦA QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT...VÀ CÁC PHÁP MÔN PHỔ TRUYỀN TRONG KINH , GIÁO CHÍNH THỐNG PHẬT PHÁP LƯU HÀNH.( Xin Tự Tham Cứu KINH GIÁO CHÍNH THỐNG PHẬT HỌC )
@- Theo Trải Nghiệm Của An Long Xin Chia Sẻ :
*- Để LOẠI TRỪ CÁC " BIẾN THỂ"... Theo TƯ TƯỞNG TRUYỀN THỪA Của PHÁP MÔN NÀY . Hành Giả Nào MUỐN TỰ NGUYỆN PHÁT TÂM TU HỌC THEO GƯƠNG ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT Nên :
** - THEO PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ =NIỆM HỒNG DANH CHƯ PHẬT VA HỒNG DANH CHƯ ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT...CHUYÊN NIỆM CHO THUẦN THỤC...Để TỰ TRỰC NHẬP , TỰ TRỰC GIÁC , TỰ TRỰC KIẾN , TƯ TRỰC NHẬN : BỔN TÔN ĐỊA TẠNG VƯƠNG CHÂN THẬT .

NAM MÔ ĐỨC TỲ LÔ GIÁ NA BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM MÔ U MINH GIÁO CHỦ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,377
Điểm tương tác
1,350
Điểm
113
Bài 11.- ph3.- Đường dẫn & Thoát Địa Ngục.

K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA T3_jfi10


Phẩm thứ ba nói về nghiệp-duyên.- Nghĩa là những duyên cớ khiến chúng sanh tạo nghiệp mà vào Địa Ngục.- Lượt như sau:

1- Đường vào các thống khổ của địa ngục là tà kiến, si mê, bất tín nhân quả, phỉ báng tam bảo ( Bà Duyệt Đế Lợi).

2- Bà Duyệt Đế Lợi là mẹ của thiếu nữ Bà-la-môn ( tiền thân của Địa Tạng đại sĩ) là ý nghĩa tất cả đều có một chân tâm, chỉ vì không nghe tiếng nói của chân tâm, đi theo tà kiến bà mới bị khổ đọa.

3- Khi tâm của bà Duyệt Đế Lợi giác tỉnh, hướng về chân tánh, thì tất cả các vọng niệm, ác niệm đều được chuyển thành chánh niệm thiện niệm, thoát ly hẳn ác đạo. Đây là ý nghĩa của Kinh Địa Tạng dạy: Địa Tạng Đại sĩ đã cầu Thế Tôn Giác Hoa Định Tự Tại chỉ cảnh giới mẹ thác sinh để tìm phương cứu độ bằng bố thí và cúng dường.

4- Khi tâm đã hướng thiện thì các ác niệm, vọng niệm cũ dứt, do đó kinh nói: Tất cả tội nhân cũng được ra khỏi địa ngục và sinh Thiên giới một lượt với Bà Duyệt Đế Lợi.

Tại đây, nếu hiểu rằng chính Địa Tạng Đại sĩ đã cứu mẹ và các tội nhân địa ngục thì trái với luật nhân quả. Vả lại, ba đời chư Phật và Bồ-tát đều hồi hướng công đức cho hết thảy chúng sanh, nếu tha lực đã cứu độ, thì hóa ra không có chúng sanh sa vào địa ngục; hoặc nếu sa vào thì cũng lại được thoát ra mà không cần tu niệm. Kinh Địa Tạng chẳng đã dạy: “ chí thân như tình phụ tử đi nữa, cũng đường ai nấy đi”. ( trang 184).

5- Thế Tôn Giác Hoa Định Tự Tại đã không lập tức chỉ cảnh giới thác sinh của Bà Duyệt Đế Lợi mà bảo thiếu nữ nhiếp tâm niệm danh hiệu Ngài: Đây là cách bảo thiếu nữ tập trung tâm thức để tu thiền định; do nhờ có định mà thiếu nữ mới biết được cảnh khổ đọa của mẹ, biết rõ kết quả của ác niệm và con đường đi ra khỏi ác niệm. Định lực ấy là cần thiết, như kinh xác nhận: “ Phi thần lực thì nghiệp lực, ngoài hai năng lực ấy không thể nào đến đây được” ( trang 146).

6- Sau khi chết, Bà Duyệt Đế Lợi sa vào bể khổ thứ nhất của địa ngục. Tại đây, sau 49 ngày nếu không có thiện nhân bà đã tạo từ trước, hoặc nếu không nhờ công đức hồi hướng của thân nhân, thì bàsẽ rơi vào bể khổ thứ hai, thứ ba, thực sự thọ báo địa ngục. (Trang 146-147).

7- Thế là, truyền thống của thât thất trai tuần có thể được xem là xuất phát từ Kinh Địa Tạng. Thân thọ khổ trong bể thứ nhất là thân trước của địa ngục mà không phải là thân trung ấm. Phật giáo không chủ trương có thân trung ấm. Chết liền thác sanh (theo Nikaya, A-hàm, luận A-tỳ-đàm và Kinh Địa Tạng), như Cảnh Sách Văn viết: “ Chuyển tức tức thị lai sanh” dứt hơi thở liền sanh kiếp khác.

Một số Phật tử ở Việt Nam tin tưởng Kinh Địa Tạng có năng lực cứu thoát địa ngục nên trì tụng để cầu nguyện cho thân nhân khi chết hoặc trong các ngày lễ kỵ. Đây là một tin tưởng đã rời xa Kinh Địa Tạng.

Lẽ đáng, xem Kinh Địa Tạng như một Hiếu Kinh cần được giới thiệu ý nghĩa cho những người đang sống hiểu rõ để xây dựng chánh kiến và chánh tín, hầu có một tập quán nghiệp và một cận tử nghiệp tốt mở đường đi vào thiện thú, Thiên giới sau khi chết.

Trì tụng chỉ là bước đầu sửa soạn cho mình phát khởi thiện tâm để hành các thiện hạnh. Với công đức tu tập này, nếu hồi hướng, cha mẹ qua đời chỉ hướng một phần bảy (1/7) – tr.204

– Công đức đó chỉ là trợ duyên tốt, ví như một là gió mát xoa dịu khách bộ hành dưới trời nắng cháy. Nhân tố chuyển nghiệp chính vẫn là ở thiện tâm của mỗi người tự cứu.

Cảnh giới địa ngục được kinh mở ra như một tấm gương soi cho người thấy rõ tâm mình mà cảnh giác xa rời các ác niệm và ác hạnh. Nó không hoàn toàn là một cảnh giới, mà là các tâm tà kiến, độc hại có thể thiêu cháy bởi các hiếu tâm, từ tâm và thiện tâm.

Ý nghĩa Địa Tạng Đại sĩ cứu thoát chúng sanh địa ngục là thế.- Hiếu tâm, từ tâm chẳng những xóa sạch được các ác tâm, mà còn khai nguồn cho đại bi tâm của một Bồ-tát.
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,377
Điểm tương tác
1,350
Điểm
113
Bài 12.- Ph4.- Quang Mục, Liên-Hoa-Mục Như-lai & Vô Tận Ý BT.

Phẩm thứ tư này nói về nghiệp-cảm, nghĩa là những cảm ứng hay báo ứng của nghiệp, tức là của những hành-động của miệng, của thân.

Chúng-sanh sống trong vô-minh hắc ám. Phật ra đời như mặt trời mọc, như đèn đốt sáng. Nhưng từ thời của đức Phật Thích-Ca cho đến thời của Phật A-Dật-Đa (Di-Lặc) trong tương lai, lấy ai soi sáng cho chúng sanh tội lỗi?
K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA Di_lac10

Phẩm kinh thứ ba và thứ tư giới thiệu luật nhân quả. Phẩm thứ ba thì nhấn mạnh đến nghiệp nhân, phẩm thứ tư thì nói nhiều đến nghiệp quả.

Hai phẩm kinh đầu đã nói rõ: Tà kiến đưa đến ác đạo và khổ đau; chánh kiến và tư bi đưa về giải thoát.

Chánh kiến là nội dung của thấy rõ và sâu Vô ngã, Tứ đế và Nhân quả. - Tà kiến chỉ ngược lại, chấp ngã, chấp thường, không tin nhân quả, không thấy con đường dẫn đến đau khổ hay hạnh phúc.

Phẩm này chỉ rõ do tà kiến mà sa vào các hành vi tội lỗi dẫn đến khổ báo ở địa ngục; và chỉ rõ tất cả sai biệt của chúng sanh là do nghiệp lực (nghiệp thiện, nghiệp ác).

Kinh bảo: Đức Thích-Ca giao sứ-mệnh này cho Bồ-tát Địa-Tạng. Nên hiểu: nhằm lúc không có Phật ra đời, thì phải nương vào Tâm, quy-y với Bồ-tát ĐịaTạng của mình, mới mong giải thoát. Với hai điều-kiện: Nguyện và Thệ.

  • Nguyện là mong mỏi trong lòng, là muốn (forme le voeu)
  • Thệ là thề, là cả quyết (jurer, faire le serment de...)

Muốn giải thoát mà không cả quyết, không tự thề với mình, không thành công được.

Tu theo Phật-giáo, có thể có hai thứ nguyện:

1. Nguyện thành Phật trước, sau mới độ chúng-sanh. Đây là con đường tu của La hán.
2. Nguyện trước độ chúng-sanh, sau mới thành Phật. Đây là con đường tu của Bồ-tát.

Nhất-thế-trí hay Trí-huệ bát nhã mà thành-tựu rồi nơi chúng-sanh nào đó, thì chúng-sanh ấy được độ thoát. Đèn huệ đã đốt thì hắc ám đâu còn, hắc ám không còn thì đâu còn nghiệp ác, cho nên gọi là được độ thoát.

Không tu La-hán thì phải tu Bồ-tát bằng cách lần hồi diệt nghiệp, đời này sang đời khác (vĩnh độ chúng-sanh), khi diệt hết rồi thì Tâm trở thành thanh tịnh hoàn toàn.

Tâm ấy là Tâm Phật, là Phật. Vì vậy, Kinh nói độ hết rồi sau mới thành Phật.

Để chứng minh, Kinh đưa ra một thí dụ:
câu truyện Quang-Mục.- Chúng-sanh nào phạm tội sát hại thú vật để làm ngon miệng và như thế là phạm luôn tội "hủy mạ" luật nhân-quả nghiệp báo mà muốn thoát khổ thì phải "chí thành niệm Thanh-Tịnh Liên-Hoa-Mục Như-lai", nghĩa là giữ mắt trong sạch, thấy mon ngon vật lạ đừng thèm. Giữ được như vậy sẽ có cái kết-quả là đôi mắt sẽ sáng suốt Quang-Mục), thấy tội thấy lỗi, thấy thiện thấy ác, và tự mình sẽ nói với mình rằng: Sanh tử nghiệp duyên, quả báo tự thọ (trong vòng sanh tử, tự mình để cho cảnh duyên thúc đẩy mà tạo nghiệp, thì tự mình phải thọ lấy quả báo, không một quyền lực nào xen vào để làm tội hay tha thứ mình được).

  • Quang Mục: Là con mắt của ánh sáng, ý chỉ trí tuệ, chánh kiến.
  • Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai: Biểu tượng cho tịnh giới, không cấu nhiễm.
Mẹ của Quang Mục do sống ác giới mà khổ đọa. Khi giác tỉnh (được kinh biểu tượng bằng hình ảnh Quang Mục hướng cầu Thế Tôn Thanh Tịnh Liên Hoa Mục) thì bà tu tập thiện giới và liền thoát khỏi địa ngục, sanh làm người yểu mệnh.

Đoạn kinh từ trang 167 đến trang 172 giới thiệu một khía cạnh rất tế nhị về lý nhân quả:
  • Với kẻ ác tâm, ác hạnh thì dù phạm tội nhẹ như ăn trứng cá và mắng chửi (trường hợp mẹ của Quang Mục) cũng bị đọa địa ngục.
  • Nhưng với kẻ có chánh kiến và từ bi rộng lớn (kinh biểu tượng bằng hình ảnh Quang Mục phát tâm đại bi để cứu khổ mẹ) trì cùng tôi nghiệp trên vẫn không rơi vào địa ngục, còn được sinh thiên giới và đi về giải thoát (Kinh biểu tượng bằng hình ảnh mẹ Quang Mục thoát khỏi địa ngục và yểu mệnh). Ví như cùng một nắm muối, để trong tô nước thì mặn; để trong song hồ thì chẳng ảnh hưởng gì.

Tâm bà mẹ trú chánh kiến và từ bi (được kinh biểu tượng bằng hình ảnh Quang Mục khởi tâm cứu khổ chúng sanh) thì bà mẹ thoát khỏi kiếp sống yểu mệnh sẽ không tái đọa địa ngục (nghĩa là được an trú trên thiện đạo) và sinh làm phạm chí hướng thẳng về giải thoát
Đây là ý nghĩ của trang kinh 169 (tr.167-192).

Biết như vậy rồi, ai là người không thệ nguyện giải thoát các tội lỗi khác? Giải thoát được là trở về con đường Thiện,sanh Thiên (làm Phạm-Chí), rồi tiến tu cho đến chỗ thanh tịnh (Vô ưu) và rốt phải thành Phật.

Câu "Phật nói với Định-Tự-Tại-Vương: Lúc bấy giờ, vị La-hán làm phước độ Quang-Mục là Bồ-tát Vô-Tận-Ý, mẹ của Quang-Mục là Bồ-tát Giải-Thoát, còn Quang-Mục là Bồ-tát Địa-Tạng" có thể có nghĩa như thế này:
Muốn được giải thoát (như mẹ của Quang-Mục), tâm phải sáng mắt (Quang Mục) và áp dụng những phương pháp tu sửa vô tận của Phật dạy, vì Vô-tận-Ý có nghĩa là Bát thập vô tận pháp-môn (Phật Học Từ-điển).
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,377
Điểm tương tác
1,350
Điểm
113
Bài 13.- ph5.- Phẩm V: Danh-Hiệu Địa-Ngục

Tuy nhan đề " Địa-ngục danh hiệu",Phẩm thứ V thật ra hàm chứa hai phần:
1. Tên các địa ngục
2. Sự báo ứng hay hình phạt của các tội lỗi và ác nghiệp ở địa ngục.

Tất cả các địa ngục kể không xiết ấy ở đâu?

- Ở trong quả núi tên là Thiết-vi. Thiết là sắt, Vi là rào. Vậy thiết-vi có nghĩa là rào sắt. Núi ấy lại tối thẩm, không một ánh sáng mặt trời mặt trăng. Vậy là ám-chỉ sự tối-tăm (ténèbres) hay Vô-minh.

K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA Vo_min10


Tâm vô-minh hay ngu dốt đạo lý, không được một tia Chân-lý soi sáng, chất chứa tội lỗi như núi, do đây Kinh ví dụ mà nói là núi. Người mà tâm bị vô minh, khó mà ra khỏi vô-minh để chường mình trước ánh-sáng đạo-lý, cho nên ví như bị giam hảm trong chỗ bị rào sắt bao bọc, không thể thoát khỏi.

Cứ như trên thì ai sống trong vô-minh là sống trong địa ngục tối tăm, đau khổ.

Chúng-sanh vô số lượng, địa ngục hay vô-minh của chúng-sanh cũng vô số lượng. Giả kể tên các địa ngục lớn, thực ra là kể những cái ngu dốt, những cái tối tăm của con người.

Có cái vô-minh hết sức lớn lao và triền miên gọi là Cực Vô-gián; có cái vô-minh khó ra khỏi, gọi là A-tỳ; có cái vô-minh quay quần trong bốn thứ dục (Tình-dục, sắc dục, thực dục, dâm dục) gọi là Tứ giác; có cái vô-minh đưa người vào chổ chém giết, dao gươm gọi là Phi-đao; có cái vô-minh làm cho con người đau nhức như bị tên lửa (hỏa tiển), như bị dồn ép (giáp sơn), như bị giáo đâm thủng (thông thương), như bị xe sắt cán (thiết xa), như nằm trên giường sắt vừa lạnh vừa không êm (thiết sàng), như mặc áp sắt ép ngực bó mình (thiết y), như bị ngàn mũi nhọn châm chích (thiên nhẫn), như bị bò sắt kéo cày vày thân (thiết ngưu), như bị lừa sắt dẫm lên mình (thiết lư), như bị bắt uống nước đồng sôi dương đồng), như bị bặt ôm trụ đồng đốt đỏ (bảo trụ), như bị lửa táp (lưu hỏa), như bị rạch lưỡi (canh thiệt), như bị chặt đầu (tỏa thủ), như bị đốt chân (thiêu cước), như bị móc mắt vì quá xốn xang (đạm nhãn), như bị bắt nuốt những hòn sắt (thiết hoàn) - Tranh luận,xâu xé với nhau là một địa ngục, giận nóng lại là một địa ngục khác.Vô-minh địa ngục là như thế đã nhiều rồi, mà chưa hết đâu. Kêu la hốt hoảng là địa ngục; nói ác, đâm thọc, chưởi rủa (bạt thiệt) là địa ngục; tâm hồn dơ bẩn như chứa cứt đái (phẩn niệu) là địa ngục; tâm trí bị kềm thúc như bị khóa (bồng tỏa) là địa ngục; trong lòng bị lửa tham giận, si-mê nung đốt hay đè nặng, bức bách, cắn xé, châm chích, cưa sắt, là địa ngục, v.v..

Đó là sơ lược những vô-minh lớn, ngoài ra còn biết bao nhiêu cái ngu muội nhỏ nửa, do đây Kinh nói "trong những ngục lớn đó, còn có những ngục nhỏ, hoặc một, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, cho đến trăm ngàn...
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,377
Điểm tương tác
1,350
Điểm
113
Bài 14.- ph5.- "hình-phạt"

K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA Dngujc10


những đau khổ của người sống trong địa ngục vô-minh.
Hoặc đau rát ở lưỡi như lưỡi bị cày,hoặc đau lói ở tim như tim bị moi, hoặc toàn thân nóng bức như bị bỏ vào vạc dầu
sôi, hoặc ôm ấp những cái khổ mà không hay không biết, chẳng khác người ôm cột đồng cháy đỏ, hoặc nóng bừng cả mặt như lửa cháy cả mày, hoặc toàn thân cảmthấy cô đơn lạnh lẽo như nằm trên băng giá, hoặc cảm thấy mình thối tha dơ bẩn,như ở chỗ đầy cứt đái, hoặc như bị gai đâm phải nhảy nhổm, hoặc như bị nhiều ngọn giáo lửa thích vào thân, hoặc cảm thấy đôi vai nặng trĩu tội lỗi, hoặc tay làm không ngớt, chân chẳng đứng dừng, như bị thiêu đốt, hoặc bị người rình hảm hại như rắn cắn, hoặc bị kẻ dữ làm hại như bị chó cắn, hoặc gánh chịu những hậu quả nặng nề của nghiệp mình, ví như lừa bị đóng ách.

Nói tóm, ai hành động tối tăm ngu dốt (địa ngục), ai quá tham lam ích kỷ (ngạ quỉ), ai cư xử quá thấp hèn, để cho thú
tánh sai sử (súc sanh), đều chịu những bức rức, nặng nề, đau khổ, nóng bức, như tự thân bị lửa đốt, đá đè, khí giới bằng đồng bằng sắt đâm chém.

Đó là do nghiệp chẳng lành mà con người cảm thọ những khổ ấy. Vậy địa ngục tự ta tạo và khổ não cũng tự ta dành
cho ta. Và tất cả đều bắt nguồn từ tâm.

- Đoạn kinh từ trang 167 đến trang 172 giới thiệu một khía cạnh rất tế nhị về lý nhân quả:

  • Với kẻ ác tâm, ác hạnh thì dù phạm tội nhẹ như ăn trứng cá và mắng chửi (trường hợp mẹ của Quang Mục) cũng bị đọa địa ngục.
  • Nhưng với kẻ có chánh kiến và từ bi rộng lớn (kinh biểu tượng bằng hình ảnh Quang Mục phát tâm đại bi để cứu khổ mẹ) trì cùng tôi nghiệp trên vẫn không rơi vào địa ngục, còn được sinh thiên giới và đi về giải thoát (Kinh biểu tượng bằng hình ảnh mẹ Quang Mục thoát khỏi địa ngục và yểu mệnh). Ví như cùng một nắm muối, để trong tô nước thì mặn; để trong song hồ thì chẳng ảnh hưởng gì.

- Do vì long từ bi (đại từ đại bi) có năng lực giải thoát nghiệp như thế nên kinh Địa tạng giới thiệu các hiện thân cứu khổ của Địa Tạng đại sĩ đều là thân nữ, cái thân sắc biểu tượng của tình thương.

- Chánh kiến và từ bi chỉ được nuôi dưỡng tốt, phát triển mạnh nhờ có thiền định. Do đó, kinh dạy một cách biểu tượng rằng: Bồ-tát Định Tự Tại Vương phát tâm truyền bá sâu rộng Địa Tạng kinh trên cõi đời (trang 173).

- tâm lý thiện, ác của chúng sanh có tính bất định có thể thay đổi theo điều kiện sống. Thiện, ác đều có nhân duyên hội họp mà khởi. Do đó, con người muốn thoát khổ cần hưng khởi chánh kiến và từ nhiều lần. Cụ thể, để hưng khởi và phát triển chánh kiến thì cần nghe nhiều và tư duy nhiều về chánh pháp; Để hưng khởi và phát triển từ tâm cần hành bố thí và cúng dường. Kiên trì tu tập như vầy mới chiến thắng được cái ác tâm.- Đó là ý nghĩa Thế Tôn dạy: Bồ-tát Địa tạng còn lập lại nhiều lần đại nguyện cứu khổ.

- Dù tu tập phát môn nào của Phật giáo, nỗ lực giải thoát chỉ tập trung vào giải thoát ba nghiệp; thân, khẩu, và ý nghiệp.

Nói rõ là tu mười thiện nghiệp cho đến cấp độ thanh tinh, loại hẳn sân, si đoạn trừ được nhân tố chính của chúng ta là vô minh.

Cấp độ thanh tịnh giải thoát thì vượt ra khỏi thiện nghiệp và ác nghiệp. Cho nên Kinh Địa Tạng dạy bằng biểu tượng: vua trời Tứ Thiên Vương (vua của các thiện chúng sanh) hộ trì thế gian tu tập (cuối phẩm Kinh này).
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,377
Điểm tương tác
1,350
Điểm
113
Bài 15. ph6.- Như Lai tán thán.

Phẩm thứ sáu ghi những lời Phật khen ngợi Địa-Tạng.
K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA Tan2_j10

Đáp lại lời bạch của Bồ-tát Phổ-Quảng,đức Thế-Tôn đã nói về sự phước-đức làm lợi ích hàng trời, người của Địa-Tạng.
Phổ là khắp cùng (như nói phổ-biến);Quảng là rộng.- Vậy Phổ-Quảng hỏi có nghĩa là: để phổ biến sâu rộng nguyênnhân và kết quả của Tâm làm lợi ích trời người, phải nói như thế nào?

Đức Phật đã trả lời câu hỏi ấy bằng cách vạch ra những kết-quả lợi ích của sự chiêm lễ, tán thán, niệm danh, cúng dường Địa-Tạng.

Các hành động này là nguyên nhân của những lợi ích nói trong Kinh, như:

1. Tán thán, lễ bái, luyến mộ danh hiệu của Địa-Tạng thì vượt khỏi ba mươi tội lỗi.
2. Chiêm ngưỡng lễ bái hình tượng thì được về cõi Thiên, không sa trở lại nẻo ác.
3. Nếu là đàn bà mà nhàm chán thân nữ nhân, những xấu xa, tật bệnh của nữ nhi, muốn thoát khỏi cảnh ấy, thì phải biết chí tâm chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường hình tượng Địa-Tạng.
4. Muốn được quỉ thần vệ hộ, tiếng ác không lọt vào tai, nên tán thán, cúng dường hình tượng Địa-Tạng.
5. Ai thấy người khác tán thán cúng dường hình tượng Địa-Tạng mà hủy báng,chê cười, người ấy sẽ đọa vào ngục A-tỳ, chịu nhiều cực khổ, có thọ sanh, thì sẽsanh vào ngạ quỉ, súc sanh, hay người hèn hạ, khổ sở.
6. Ai đau ốm mà nghe hay tự đọc kinh Địa-Tạng thì sau khi chết, được giải thoát các trọng tội của kiếp trước.
7. Ai muốn đừng còn thấy vong linh cha mẹ, anh em, bà con hiện về trong giấc mộng kêu khóc thê thảm vì đang bị tội khổ, thì nên vì những vong linh ấy mà tụng từ ba đến bảy biến Kinh Địa-Tạng.-Người chết sẽ được giải thoát còn người đọc sẽ hết chiêm bao.
8. Ai lâm vào cảnh hạ tiện, tôi đòi, mất tự-do (như ở tù, bị giam chẳng hạn) mà biết sám hối tội lỗi thì sẽ thoát ly hạ tiện,về sau được sanh trong cảnh tôn quí.
9. Ai có con mới sanh mà biết đọc Kinh và niệm danh hiệu Địa-Tạng thì đứa nhỏ được giải thoát nghiệp báo đời trước, an lạc, dễ nuôi, sống lâu.
10. Toàn gia đình sẽ xa lìa nẻo ác,không tai nạn, bệnh hoạn, cơm áo đầy đủ,nếu người trong nhà biết, trong mười ngày chay mỗi tháng, đọc tụng Kinh ĐịaTạng.

Nói tóm, biết chiêm ngưỡng, lễ bái,niệm danh hiệu Địa-Tạng, cúng dườngĐịa-Tạng, đọc Kinh Địa-Tạng thì được những lợi ích như vừa kể. - Được các lợi ích như thế là vì Địa-Tạng có oai thần,nghĩa là có khả năng huyền diệu, làm cho người tin tưởng, kính trọng, dám hy sinh cho Địa-Tạng (cúng dường) và nghe được tiếng răn lời dạy của Địa-Tạng (tụng Kinh) được lìa khổ hưởng vui, từ thấp lên cao, hết ác thành thiện.

Đã nói Địa-Tạng là Tâm, vậy oai thần vừa nói là oai thần của Tâm. Ai biết quay về với Tâm, tôn trọng Tâm, nhớ tưởng đến Tâm, hy sinh tất cả cho Tâm, cố nghe cho được lời khuyên bảo, dạy dỗ của Tâm,người ấy nhất định sẽ thu hoạch được những lợi ích tinh thần luôn cả vật chất.

Muốn trở về Tâm, phải làm thế nào?

1) Phải có cái muốn cương quyết: đó là nghĩa của "Địa-Tạng bổn nguyện" (Lòng tự nguyện với lòng)
2) Phải thực hành lời nguyện của mình ngay trong Tâm: đó là nghĩa của "ĐịaTạng bổn hạnh".
3) Nhưng sợ nguyện, hành không đầy đủ cương quyết và dẽo dai, cho nên phải tự mình thề với mình, thề một cách trọng đại để cho lời thề ấy trở thành một sức mạnh thúc đẩy mình, khi mình dãi đãi lười biếng. Đó là "Địa-Tạng bổn thệ"
Cái sự thật, cái chân-lý trong lời Phật dạy xuyên qua câu chuyện Bồ-tát ĐịaTạng , với Địa-ngục thiết vi là như vậy.

Do đây, Bồ-tát Phổ Quảng mới hỏi: Kinh này tên gì, với nghĩa: sự thật trong câu chuyện này là như thế nào?
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,377
Điểm tương tác
1,350
Điểm
113
Bài 17.Ph7.- Bổn phận của người sống đối với thân nhân mệnh chung

1. Các Phật sự sửa soạn để hộ trì một người sắp chết là để tạo một cận tử nghiệp tốt, như đã được trình bày.

Cúng “ thất thất trai tuần” là nhằm vào các thời điểm mà nghiệp thức của người chết có thể cảm giao với trần thế, cũng là một trợ duyên (tr.201).

Nếu trước giờ chết mà người sắp chết chứng kiến các cảnh buồn rầu, khóc lóc, tham ái hay sân hận thì sẽ khởi lên cái ác niệm tạo nên một cận tử nghiệp xấu, quyết định dễ sa vào ác đạo (tr.201).

2. Bồ Tát Địa Tạng bảo: Phước đức của tất cả việc thiện mà thân nhân làm để hồi hướng cho người đã chết chỉ có thể chuyển đến cho người chết được 1/7 (tr.204).

Lời dạy này đã hàm ý khuyên chúng sanh nên tự mình hành thiện đương khi còn sống, tạo một tập quán nghiệp và cận tử nghiệp tốt cho mình theo mong ước của chính mình; không nên chờ đợi ở thân nhân, nhất là việc thiện và tâm thiện mà thân nhân làm rất là giới hạn. Huống nữa người chết sẽ chờ đợi được gì ở tha nhân, khi mỗi người phải chịu trách nhiệm sinh tử cho chính tự thân mình? Người chết há đã không được thân nhân của vô lượng kiếp quá khứ hồi hướng các công đức mà vẫn rơi rớt vào ác hạnh, ác nghiệp đó sao?

3. Trong bảy tuần lễ ở bể khổ thứ nhất của địa ngục, người chết phải đối chất về nghiệp báo (tr.204-205) là ý nghĩa của cuộc đối chất, dằn co của chính tâm thức tội nhân, của thiện tâm và ác tâm, của tâm hiện tại đối với các tâm niệm cũ.

Trong cuộc đối chất, vật lộn này nhờ có thêm trợ duyên lành nếu tâm thức ngã về thiện, thì sẽ thác sanh về nhơn, thiên: nếu tâm thức ngã về ác, thì sa hẳn vào địa ngục để thọ khổ báo. Nhân tố quyết định là chính tội nhân.

. Đại Biện Trưởng giả đã đặt nghi vấn về việc người chết có được hưởng phước đức hồi hướng không (tr.203) là một vấn đề khác cần phân tích kỹ.

Đại Biện Trưởng giả là người đã đắc được Tuệ giác vô sanh, nên câu hỏi của Trưởng giả vừa có nghĩa là câu trả lời – câu trả lời hẳn là “đường ai nấy đi”.

Nhưng câu trả lời của Địa Tạng đại sĩ thì khác hơn: Đại sĩ vừa nói tiếng nói của trí tuệ là “Đường ai nấy đi” nhưng vừa phải nói tiếng nói phương tiện để khích lệ các căn cơ thấp phát khởi tầm từ và không thất vọng trước tình thương người đã qua. Vừa kết hợp tự lực với tha lực.

Đại sĩ cũng đã chỉ hướng cho chúng sanh ngã về tự lực, nghĩa là cũng đã chỉ “đường ai nấy đi”, khi nói người chết chỉ hưởng được một phần bảy công đức hồi hướng.- Tế nhị hiểu đoạn kinh trên là thế.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm
Top