vienquang2

K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,367
Điểm tương tác
1,340
Điểm
113
Bài 1.- Phàm Lệ:

Kính Bạch chư Tôn Đức và Đại chúng.

VQ chỉ là người sơ học. Chưa có khả năng làm dịch giả, Tác giả hay làm các bài tiểu Luận, Trung Luận hay Đại Luận gì cả.

VQ chỉ tập tành giảng thích, trùng tuyên các bài kinh, Luận của Phật và các Vị Tiền Bối đã có lập sẳn mà thôi.

Hôm nay.


  • Chợt Nhận thấy K. Địa Tạng là bản kinh Đại Thừa khó hiểu và Ẩn mật.
  • Lại thấy Tiền Bối Chánh Trí Mai Thọ Truyền , HT Th Chơn Thiện và nhiều Tiền Bối.- có bài Luận giải K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA.- Nên tò mò muốn tìm hiểu và trùng tuyên trình lên Quý Thiện Tri Thức.- Vì muốn tìm "Thật Nghĩa".

Kính mong được Quý Thiện Tri Thức từ bi, chỉ dạy, khai thị và góp ý cho sáng tỏ.

Rất mong chờ.

K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA _teng_10
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,367
Điểm tương tác
1,340
Điểm
113
Bài 2.- Xuất xứ k. Địa Tạng.

(Theo HT. Thích Chơn Thiện - Xuất bản 2010)

Kinh Địa Tạng được trích dịch từ kinh Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luận, cuốn một tập 13 của Hán tạng, từ trang 721 đến 726 (Bản dịch của T.T. Trí Quang, Sài Gòn, 1976).

Kinh này thuộc thời đại phát triển Đại thừa, khoảng từ đầu kỷ nguyên Tây lịch trở về sau.

Đức Thế Tôn đã nói Kinh này cho Thánh Mẫu Ma-gia ở cung trời Đao Lợi trước lúc Thế Tôn vào Niết-bàn.

Chúng đương cơ ở đây là chúng sanh của lục đạo.

Giáo lý nhấn mạnh điểm phát triển thiện tâm, từ bi tâm hầu đoạn diệt các nguyên nhân đưa chúng sanh vào ác đạo ngã quỷ, súc sanh và địa ngục.

Bên cạnh đó, có phần giáo hạnh mở rộng đi vào đại bi và đại tuệ.

Có thể hiểu Kinh Địa Tạng là một hiếu kinh mở rộng cho năm thừa giáo mà Thế Tôn muốn giới thiệu đến Thánh mẫu.

K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA K_tang10
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,367
Điểm tương tác
1,340
Điểm
113
Bài 3.- DANH HIỆU BỒ-TÁT ĐỊA TẠNG.

Lời tựa:
CHÍ TÂM QUY MẠNG LỄ:
U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát
Lạy đức từ bi đại Giáo Chủ
“Địa” là dày chắc,
“Tạng” chứa đủ (hết trích)

Lượt giải:

+ Địa là đất, mà đất thì cứng rắn, sâu dày và dung chứa muôn loài muôn vật.- Bất luận hột giống nào bỏ xuống đất là mọc. - Vì vậy lấy đất mà thí-dụ cho Tâm (có chỗ Kinh dùng danh từ "tâm địa")
Kinh Tâm Địa Quán có đoạn:
“Tam giới chi trung, dĩ tâm vi chủ. Năng quán tâm giả, cứu cánh giải thoát. Bất năng quán giả, cứu cánh trầm luân. Chúng sanh chi tâm, do như đại địa, ngũ cốc ngũ quả, tùng đại địa sanh, như thị tâm pháp sanh thế xuất thế, thiện ác ngũ thú. Hữu-học, Vô-học, Độc-giác, Bồ-tát, cập ư Như Lai. Dĩ thử nhân duyên, tam giới duy tâm, tâm danh vị địa.”

nghĩa:

Trong ba cõi (dục, sắc và vô sắc), tâm là chủ. Người quán sát được tâm, cuối cùng được giải thoát. Người không quán sát được tâm, cuối cùng chìm đắm vào biển khổ. Tâm chúng sanh giống như mặt đất, năm thứ lúa thứ trái, đều từ đất mà sanh, cũng như vậy, tất cả những lo nghĩ (tâm pháp) của chúng sanh còn kẹt trong thế-sự, hay đã vượt ra ngoài thế-sự, hoặc lành hoặc dữ, những ý niệm hướng về năm nẻo của lục đạo, những ý niệm của hạng Học, Vô học (A-la-hán), của hạng Độc giác, Bồ-tát, cho đến bậc Như-Lai, đều do tâm mà sanh. Bởi cớ, ba cõi chỉ do tâm và tâm được gọi là đất. (hết trích)

+ Địa là ý nói là Đất cứng rắn, sâu dày,

+ Tạng (cũng đọc la tàng, như nói tàng trữ) là ý nói ngậm chứa tất cả.
Quan điểm xếp loại Kinh Địa Tạng vào Quyền Giáo, xem ngôn ngữ kinh là ngôn ngữ biểu tượng, Địa Tạng là nguồn tâm thể, Địa ngục là cái ác tâm, và tà kiến ( si mê), và trời là các thiện tâm và từ tâm.
Theo ý nghĩa biểu tượng ấy, chư Tổ đã tác kệ tán rằng:
- “ Địa ngôn kiên, hậu, quảng hàm tàng”
( Địa nói lên tính cứng bền, tính không thể đo lường, và tính dung chứa tất cả).

* Kinh ví tâm thể như đất, và gọi là đất tâm (tâm địa). có thể quán tưởng tính chất của tâm qua tính chất của đất để giác tỉnh và an trú, nghĩa tên kinh là ý nghĩa của danh hiệu Bồ - tát Địa Tạng: U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát.

* Vậy vị Bồ-tát nói trong Kinh không phải là một nhân-vật lịch-sử như đức Phật Thích-Ca, mà là một nhân-vật tượng trưng (personnage symbolique) một tỷ-dụ (parabole, allégorie) để chỉ cái Bản-thể, cái "Soi" của chúng sanh. Bản-thể ấy thường được biết dưới cái tên là Tâm. (lượt phỏng theo cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền)
K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA Images14
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,367
Điểm tương tác
1,340
Điểm
113
Bài 4.- Ý nghĩa Bổn Tôn.

K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA T2_jfi10


  • Bổn Tôn: Là gốc đáng tôn quý, đáng là nơi nương tựa của chúng sanh. Gốc đây là nguồn tâm giải thoát.
  • Địa Tạng: chỉ tính dung chứa của đất nói lên tính dung chứa vô tận của tâm thể.
Như là đất là kho dinh dưỡng vô tận của sinh vật, tâm là nguồn nghiệp công đức của các loài chúng sanh. Như đất bình đẳng và bất động trước cấu, tịnh; tâm thể bình đẳng và tự tại trước các pháp. Như đất thì vô nhiễm; tâm cũng thế. Như đất tồn tại bền bỉ; cũng thế tâm thể không bị hoại diệt.
Như thế, Địa Tạng là biểu tượng của tâm, không hẳn là danh hiệu của một Bồ-tát lịch sử.
- Bồ Tát Ma Ha Tát: Chỉ bậc đại sĩ giác ngộ hàng thập địa. Cũng có thể biểu tượng khả năng giác ngộ tâm thức của chúng sanh.

- Có nhiều quan điểm cắt nghĩa danh hiệu trên, tựu trung có hai quan điểm tiêu biểu:

1- Quan điểm xếp loại Kinh Địa Tạng Thực giáo, xem lời Kinh là lời dạy cụ thể, và xem Bồ-tát Địa Tạng là nhân vật lịch sử cứu khổ chúng sanh địa ngục cho đến thời điểm đức Di Lặc ra đời. Quan điểm này thuộc tôn giáo hình thức, không nói lên được giáo lý trí tuệ, thiết thực hiện tại và giải thoát của phật giáo.
2- Quan điểm xếp loại Kinh Địa Tạng vào Quyền Giáo, xem ngôn ngữ kinh là ngôn ngữ biểu tượng, Địa Tạng là nguồn tâm thể, Địa ngục là cái ác tâm, và tà kiến ( si mê), và trời là các thiện tâm và từ tâm.
Theo ý nghĩa biểu tượng ấy, chư Tổ đã tác kệ tán rằng:
- “ Địa ngôn kiên, hậu, quảng hàm tang”
( Địa nói lên tính cứng bền, tính không thể đo lường, và tính dung chứa tất cả).
- “ Tam Thế Như Lai đồng tán ngưỡng
Thập phương Bồ tát cọng quy y” ( Kinh Địa Tạng)
( Ba đời chư Phật đều tán thán, và mười phương Bồ-tát thảy nương tựa)

Đối tượng mà Chư Phật tán thán cả chư Bồ Tát nương tựa phải là tâm thể hay pháp thể mà không phải là một nhân vật lịch sử.
- “ Khể thủ bản nhiên tịnh tâm địa vô tận phật tạng đại từ tôn.
( cúi đầu đảnh lể nguồn tâm vốn thanh tịnh và nguồn giác đại từ tôn quí).

Hai câu kệ đó nói lời tán dương nguồn tâm thanh tịnh, nguồn trí tuệ giải thoát và tâm đại bi. Tương tự một lời phát biểu khác “ Tâm địa nhược thông, huệ nhật tự chiếu”.

* Các kinh Thượng tọa bộ và Nhất thiết hữu bộ thường dạy quán tâm qua tứ đại hay lục đại như ý nghĩa Địa Tạng.

- Quan điểm thứ 2 nói lên được nhiều hơn các nét giáo lý thiết thực, sinh động và trí tuệ của Phật giáo.

* Trong tập sách này, chúng tôi trình bày nghĩa kinh nghiêng về quan điểm thứ hai, nhưng không vì thế mà không xác nhận các cảnh giới địa ngục, và có các bậc đại sĩ cứu khổ chúng sinh. Thực sự, chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến phần giáo lý căn bản của Phật giáo được chuyên chở trong kinh, đến hiếu hạnh như là cơ sở để xây dựng tâm Bồ-tát và tâm giải thoát. Thời Kinh Địa Tạng, chúng tôi hiểu, là thời kinh giảng dạy con đường ra khỏi ác thú, đọa xứ, địa ngục để vào hạnh phúc và giải thoát, dù câu chuyện dựng lên là thực hay do thần lực thể hiện. Tên Kinh và tên của Địa Tạng đại sĩ được lồng vào ý nghĩa đó: hạnh nguyện độ sinh trong mười phương đọa lạc không phải chỉ là sứ mệnh của một mình Địa tạng đại sĩ, mà là sứ mạng của chư Bồ-tát. Bồ-tát Địa tạng là một mẫu điển hình của sứ độ khổ ấy.

(HT. Thích Chơn Thiện - Xuất bản 2010)
 
Sửa bởi Amin:

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,485
Điểm tương tác
1,111
Điểm
113
Hề hề,

U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn
U nghĩa tăm tối. Minh (bộ Mịch) niệm tưởng cùng cực ngu si, hung ác. Vậy nên U Minh (幽冥) là cảnh giới tăm tối do niệm tưởng cùng cực ngu si, hung ác (Tịnh thì li ti nhỏ nhiệm; Nhiễm thì tăng, khổ đau chồng chất khổ đau).
Giáo chủ, Đấng giáo hóa
Bổn tôn, Bổn là gốc, nền tảng (nương tựa); Tôn, tôn quý. Bổn tôn là nơi tôn quý đáng nương tựa.

Vậy U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn nghĩa là Đấng giáo hóa tôn quý đáng nương tựa của cõi tăm tối vì có niệm tưởng cùng cực ngu si và hung ác.


Trừng Hải
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,367
Điểm tương tác
1,340
Điểm
113
Bài 5.- Niềm Tin vào Địa Tạng .

Đối với Địa-Tạng Bồ-Tát cũng có hai luồn tư tưởng khác nhau:

- Một hạng tin rằng đã có ngài ĐịaTạng phát nguyện cứu độ tội vong ra khỏi U-minh địa- ngục, thì ta cứ "làm ăn" như ai, rũi ro có bề nào sẽ có ngài đùm bọc.

- Ngài lại còn nguyện "Địa ngục chưa trống không, ta quyết không thành Phật", thì dầu ta còn phải đọa địa-ngục lâu xa thế mấy đi nữa, cũng còn có ngài cứu thoát, không đến nỗi nào mà sợ.

- Hạng này còn tin đức Địa-Tạng có quyền lực dẫn vong vào cảnh Tây-phương tự tại, vô ngại. Hễ có ngài dẫn, thì không có một quỉ sứ nào dám bắt đem nạp cho Diêm-vương phán xét. Hơn nữa, ngài lại còn có quyền lực phá ngục thả tội mà chẳn có ông Diêm-vương nào dám cản trở. Do những tin tưởng này, mới có việc mướn làm chay với cảnh thầy cả đội lốt Địa-Tạng phá ngục giải phóng tội vong.

Ôi thôi! Kể sao cho xiết những quan niệm sai lầm như thế về Bồ-tát Địa-Tạng và về quyền năng của ngài! Ròng rã là những sự tin tưởng thần quyền, ỷ lại tha lực, làm hoen ố Phật giáo nước nhà!

- Một hạng khác lại suy nghĩ: không lẽ lại có một ông Bồ-tát "cải Trời" cho đến bỏ luật nhơn quả, dàm vì cảm tình với người sống mà làm việc bất công là thả tội hộ vong. Vì suy nghĩ như thế, họ mất lòng chánh tín đối với vị Bổn-tôn Bồ-tát và thối bộ, không bước được vào cửa Phật tu hành, để thâu hoạch lợi ích cho mình.

Thật đáng phàn nàn cho hạng này, vì họ là bậc có trí, biết suy nghĩ và có đạo tâm, chỉ vì không ai chỉ bảo thành ra hiểu lầm, nghi sái...

Vô đầu, đạo-hữu Chánh-Trí thanh minh rằng kinh Địa-Tạng thuộc về quyền giáo, khác với những bộ kinh thuộc về Thực giáo, trực chỉ Chơn-lý. Có thể xem kinh Địa-Tạng như một bài ngụ-ngôn trường thiên, trong đó Phật dùng ngụ-ý (paraboles) để ám chỉ một chơn-lý đáng phát minh, như những bài ngụ ngôn của các hiền-triết Đông Tây mà cốt yếu là để dạy những nguyên tắc luân lý, hoặc những truyện đời xưa, những truyện giải buồn, do văn-nhơn, hiền-sĩ đặt ra vì thiết tha với thế sự, muốn hoán cải nhơn tâm.

(Viên-Pháp.- Trích Tạp-chí TỪ-QUANG số 70, tháng 11 năm 1957)
K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA U_minh11
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,367
Điểm tương tác
1,340
Điểm
113
Bài 6.- Diêm Vương.

K. ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA Dim_la10

mấy câu:
Diêm vương điện thượng
Nghiệp cảnh đài tiền
Vị Nam-phù-đề chúng-sanh
Tác đại chứng-minh công-đức chủ.

thì theo đạo-hữu Chánh-Trí, là tả những cái dụng khác của Chơn Tâm, cái dụng hồi quang phản chiếu, quay cái sáng, rọi trở lại đời sống hằng ngày, từ ngoài cho đến trong, như người Pháp nói "xét lòng" (examen de conscience). "Thật vậy, diễn giả nói, ai xét ta và luận ta cho bằng lương-tâm ta, vì biết bao nhiêu tội lỗi ta đã tạo mà Công-lý nào biết được! Do đây, bài tán mới vì Địa-Tạng (Chơn Tâm)là ông vua cõi Diêm-la, ngồi trên điện cao để phán xét tội trạng của ta. Còn tự ta muốn biết nghiệp lành, nghiệp ác của ta ư? Thì cứ ngó trở lại vào lòng, cái "gương lòng" sẽ phản chiếu cho ta thấy tất cả.

Gương ấy là Chơn Tâm Địa-Tạng đó, nên gọi là Nghiệp cảnh (cái kiếng soi nghiệp). Chơn Tâm ta đã là ông Tòa, ông Diêm vương xét tội, thỉ Chơn Tâm ấy cũng là người chứng kiến và ghi chép những công đức của ta. Thế nên nói ĐịaTạng làm người chứng minh các công đức (mérites) của chúng sanh cõi Nam-diêm phù-đề, tức là cõi thế-gian này vậy.

"Tóm lại, diễn-giả chỉ rằng: Địa-Tạng là Chơn Tâm hay Như-Lai Tạng-tâm, đủ cá Tánh-thể, Tánh-cụ và Tánh-dụng.
Tánh-thể là Bổn tôn, nên "Tam thế Như Lai đồng tán ngưỡng, thập phương Bồ tát cộng quy y".

Về Tánh-cụ (có sẵn) thì "kiên, hậu, quảng hàm tàng, từ nhơn, tích thiện, thệ cứu chúng sanh" sẵn đủ cả Đại nguyện (grande volonté), Đại-hạnh (grande activité), Đại-thệ (grandedétermination).

Vì vậy Kinh chia ra ba phần hay ba quyển: Địa-tạng bổn nguyện, Địa-tạng bổn hạnh, Địa-tạng bổn thệ. Rốt hết là Tánh-dụng. Hai Tánh trước đã lớn lao và đầu đủ vô cùng thì cái Dụng của Chơn Tâm cũng vô cùng, do đó mà chúng-sanh trong quá khứ, hiện tại, vị lai, nếu biết quy-y Tâm thì được ra khỏi địa-ngục vô-minh, tức là được cứu độ như Kinh nói

Đạo hữu Chánh-Trí giảng đúng với giáo nghĩa của Đại-thừa. Theo lý tuyệt-đối (đệ-nhất nghĩa đế), ngoài Tâm không pháp, cho nên sự sự đếu là Tâm, vật vật đếu là Tâm. Tâm tác Thiên đường, Tâm tạo địa ngục, ba cõi chỉ đều do Tâm, mười cõi chỉ đều do Tâm, tất cả đều do Một Tâm (duy Nhứt Tâm), không gì ngoài Nó. Cho nên, có chúng sanh thọ khổ địa ngục nơi Tự Tâm (en Soi), thì Địa-Tạng Bồ-tát cũng cứu độ trong Tự Tâm. Ngoài Tâm, không có địa ngục, chúng sanh nào khác; ngoài Tâm, không có Địa-Tạng phá ngục dẫn vong nào khác. - Đây là cái lý bí ẩn của kinh Đại-thừa mà chúng ta cần khám phá và khai thác để tự lợi, lợi tha.

Dùng ông Bồ-tát Tự-Tánh mà cứu độ chúng sanh của Tự Tâm, lửa đó, nước đó, thật là muôn phần linh tiệp và diệu dụng.
( Viên-Pháp.- Trích Tạp-chí TỪ-QUANG số 70, tháng 11 năm 1957)
 

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,485
Điểm tương tác
1,111
Điểm
113
Hề hề,

Diêm vương điện thượng
Nghiệp cảnh đài tiền
Vị Nam phù đề chúng sanh
Tác đại chứng minh công đức chủ.

Đoạn kinh trên thuộc bộ Thí dụ gọi là Biến dụ, dùng những hình ảnh thô thiển trong đời sống thực tế (quan xử án) để minh họa cho nội dung vi tế của giáo pháp tương ứng.
Gọi là thô thiển vì quá trình xử án tại thế gian đều dựa trên những bằng chứng gián tiếp như động cơ, chứng cứ, lời khai...thu thập được qua điều tra cái đã xảy ra trước đó (lại nữa, nếu không điều tra ra thì...chịu). Không phải là Nhân, Quả trực tiếp hiện tiền như giáo pháp vi tế về Cảnh nghiệp, xác quyết rõ nhân duyên hành vi tạo nghiệp sanh quả.

Diêm vương nơi cung điện cõi u minh
Xem xét nhân duyên nghiệp quả thiện ác một đời
Của chúng sanh cõi Nam phù đề
Một cách sáng rõ toàn thể không dư, thiếu...


Trừng Hải
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm
Top