KINH DỊCH có gì hay ?

KINH DỊCH có gì hay ?

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
Ngày 20/05/2025, Hiếu hữu duyên đọc bản Kinh Dịch, Hán Việt thuần khiết chưa chú giải, lấy chỗ Tâm Phật để hội chiếu thấy ý nghĩa rất hay, hỗ trợ người sơ cơ tu học tại Đời được nhiều lợi ích, nay vận dụng chỗ thấy của mình mà bình giải. Kính dâng lên quý Thầy cùng quý Đạo hữu thưởng lãm và góp ý. Do trình độ Hán Văn còn hạn chế, có thể dẫn tới chữ sai nghĩa trật, chỗ nào chưa phải mọi người cứ chỉ ra thẳng thắn thì sẽ được lợi ích lớn lắm.

Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả.
Đệ tử và chúng sanh,
Đều chóng thành Phật Đạo.

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
  • Phật giáo nói: Vạn pháp vô thường.
  • Triết học Tây phương: Vật chất luôn vận động, tinh thần cũng là một dạng vật chất.

Thế thì "vô thường" hay "vận động" cũng chỉ là tên gọi khác của Dịch mà thôi, vậy nghĩa đơn sơ trần trụi tức là sự biến đổi, sự biến hóa. Theo định luật bảo toàn, thì chẳng có cái gì thực sự mất đi, nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác thôi. Khoa học hiện nay, nghiên cứu các trạng thái tồn tại của vật chất thì chia ra thành rắn, lỏng, plasma, khí. Thế thì hai Khí Âm Dương trong Dịch tức là đại biểu cho vật chất vậy, hay nói chính xác hơn, nó là nguyên tố cơ bản cấu thành mọi loại vật chất, bao gồm cả Trời Đất. Cho nên, Kinh dịch chỉ cần có vạch liền (dương), vạch đứt (âm) là biến hóa vô cùng vô tận.

Âm Dương biến hóa, gia giảm sinh sôi, như tế bào tự nhân đôi, mà thai trứng tạo hình, người vật tạo sinh. Cái này với khoa học vi tính hiện thời thì càng tỏ rõ, khi mà chỉ với hai bit 0, 1, hệ nhị phân có thể truyền tải đủ dạng âm thanh, hình ảnh, chữ nghĩa, văn tự v...v nó lại tạo thành câu lệnh để điều khiển các thứ vật chất vô tri v...v "âm dương" lại chẳng thần diệu , thì còn gì thần diệu hơn nữa ư ?

- - âm (0) __ dương (1)

Vậy từ dưới lên trên, thì số nhị phân lại thành thứ tự thập phân, đó là trật tự của Quái dịch: 00 (Thái âm), 01(Thiếu Dương), 10 (Thiếu Âm), 11(Thái Dương) là tứ tượng, 000, 001, 010, 011, 100, 101, 110, 111 là bát quái, theo đó mà gọi tên là Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn. Tương tự với 64 quẻ từ 0 tới 63 lần lượt gọi tên là: Khôn 0, Bác 1, Tỷ 2, Quán 3, Dự 4, Tấn 5, Tụng 6, Bĩ 7, Khiêm 8, Cấn 9, Kiển 10, Tiệm 11, Tiểu quá 12, Lữ 13, Hàm 14, Độn 15, Sư 16, Mông 17, Khảm 18, Hoán 19, Giải 20, Vị tế 21, Khốn 22, Tụng 23, Thăng 24, Cổ 25, Tỉnh 26, Tốn 27, Hằng 28, Đỉnh 29, Đại quá 30, Cấu 31, Phục 32, Di 33, Truân 34, Ích 35, Chấn 36, Phệ Hạp 37, Tùy 38, Vô vọng 39, Minh di 40, Bí 41, Kí tế 42, Gia nhân 43, Phong 44, Ly 45, Cách 46, Đồng nhân 47, Lâm 48, Tổn 49, Tiết 50, Trung phu 51, Quy muội 52, Khuê 53, Đoài 54, Lý 55, Thái 56, Đại súc 57, Nhu 58, Tiểu súc 59, Đại tráng 60, Đại hữu 61, Quải 62, Càn 63.

Từ Lý lập Số, tự Số lập Tượng, rồi xét Tượng mà biết số, xét số mà tỏ Lý; đại khái là Trời Đất an lập, Thánh nhân xét định mà lập quẻ để tỏ lẽ Trời.

Vd: Ích 35 hợp với Tỉnh 26 thì thành 61 Đại hữu, duy trì sự lợi ích lâu dài, lẽ nào lại không "Đại hữu" ?...số thành Lý cũng có sự thú vị của nó.
 

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
Sơ lược Kinh Dịch.

Kinh Dịch ban đầu là "Vô tự chân Kinh" - Kinh không chữ, do ai làm ra thì chưa rõ, tương truyền là do Vua Phục Hy thời Thượng cổ làm ra. Toàn bộ Kinh Dịch chỉ được tạo thành từ hai vạch liền ( __ ) và đứt ( - - ), gọi là lưỡng nghi, không hề có một chữ. Sau này, Vua Văn Vương mới thêm lời vào từng biểu tượng, tạo thành cái gọi là Thoán Từ ( Lời Quẻ) để giảng nghĩa cho từng biểu tượng, mà thành Sách chữ. Hai vạch liền đứt xoay chuyển hòa hợp tạo thành Tứ tượng, mỗi tượng được biểu đạt bằng hai vạch xếp chồng lên nhau. Cứ mỗi lần thêm vạch, thì lại hình thành thêm một lớp ý nghĩa và tên gọi. Khi mà hòa hợp thành ba vạch thì nó lại được gọi tên là Bát Quái v...v cho tới khi thành 6 vạch thì nó gọi là Quẻ, gồm 64 biểu tượng, tạo thành từ hai vạch liền đứt, mỗi biểu tượng có 6 vạch, mỗi vạch gọi là Hào, từ dưới lên trên gọi là Sơ, nhị, tam, tứ, ngũ, thượng (tương ứng với 1, 2, 3, 4, 5, 6). Nếu là vạch liền ở vị trí nào thì lấy chữ Cửu thêm nào, vạch đứt ở vị trí nào thì lấy chữ Lục thêm vào. Ví dụ: Hào 3 là vạch âm gọi lục tam, dương gọi là cửu tam. Hào 1 là vạch âm thì gọi là sơ lục, là dương thì gọi là sơ cửu, v..v đây là cách gọi để phân biệt cho tiện nhân biết, khi không có hình tượng.

Về nguyên lý cơ bản thì Âm (vạch liền) trước, Dương (vạch đứt) sau, từ trái sang phải, sau đó lấy vạch âm đội từ dưới lên đủ 2 vach rồi thì tiếp tục lấy vạch dương đội từ dưới lên , thế là tạo thành 4 hình tượng mới, mỗi tượng gồm 2 vạch gọi là Tứ Tượng, sau đó tiếp tục lấy vạch âm đội từ dưới lên với tứ tượng, hết 4 tượng thì lấy dương đội lên, thì thành ra 8 biểu tượng mới gọi là Bát Quái v...v đây là quy luật tạo thành biểu tượng của Dịch, nếu ta cứ làm như thế thì sẽ tới lúc thành 64 quẻ, và hơn thế nữa.

Người xưa thì cho rằng 64 quẻ là do 8 quái chồng lên nhau, vì thế đặt tên 8 quái tương ứng là Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn. Rồi chia quẻ có 6 vạch ra làm 2 phần, 3 hào dưới gọi là Hạ quái, 3 hào trên gọi là Thượng quái, mỗi quái ứng với tên kia, thế là có tên gọi định danh cho 64 biểu tượng, như Thiên Lôi, Địa Hỏa, Thiên Trạch, v...v tới đây thì sự phân biệt ý nghĩa vẫn chưa sáng tỏ. Cho tới khi Vua Văn Vương, đặt tên cho từng Quái, và thêm lời văn vào mới thành ra rõ ràng nghĩa hơn. Nói là rõ ràng ý nghĩa, nhưng tới nay vẫn mỗi người hiểu một kiểu và sự giảng giải ( kể cả của Không Tử) vẫn có phần gượng ép và tối nghĩa, khiến cho Kinh Dịch vẫn là một thứ gì đó thiếu phần thực dụng.

Kinh Dịch là một trong ngũ Kinh của Nho Giáo, đứng đầu trong ngũ Kinh vì nó khó hiểu khó hành bậc nhất. Khổng Tử lúc cuối đời mới nghiên cứu Kinh Dịch, cụ thể là nghiên cứu lời do Vua Văn Vương thêm vào Dịch phần Thoán từ, Chu Công thêm vào Dich phần Hào từ. Chính ông còn than rằng, nếu có thêm thời gian thì sự giảng nghĩa Kinh Dịch của ông (Thập dực) sẽ có phần trọn vẹn hơn: "Gia ngã sổ niên, ngũ thập dĩ học Dịch, khả dĩ vô đại quá hĩ." - Giá như cho ta thêm vài năm, năm mươi tuổi mà học Dịch thì có thể không phạm lỗi lớn. <Học Nhi, Luận Ngữ>

Ấy là nhân duyên mà chủ đề này được lập ra, đưa ý nghĩa của Kinh Dịch ra ánh sáng, để ai ai cũng có thể hiểu, ai ai cũng có thể hành và ai ai cũng được lợi ích vậy.
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1748917459475.webp

Bát Thuần Càn

乾 : 元, 亨, 利, 貞.
Càn: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.

Nguyên sơ chi đạo - 元初之道
Hanh thông bất ngại - 亨通不礙
Phổ lợi quần sinh - 普利群生
Trinh chí bất du - 貞志不渝

Em dịch nôm na lại là : Càn là cái đạo nguyên sơ thủa đầu, thường giữ lòng trong sáng chẳng đổi dời mà làm lợi ích khắp cả muôn loài nên nhìn đâu cũng thông suốt, tới đâu cũng thuận lợi, chẳng có gì chướng ngại.

Cái Đức này của Trời có lớn chăng ? Rất lớn, nó xứng với "vô ngã vị tha" "bác ái", nên cao tột và khó hành, chỉ nhìn vào mà noi gương sửa dần sự hẹp hòi ích kỷ nơi mình, chớ chẳng thể nhất thời làm được y lời, vì thế Thánh nhân ngước lên Trời mà tự thẹn lòng chưa trọn mà hằng luyện gắng tâm, bởi thế đứng giữa nhân loại, tuy cử chỉ khiêm cung, mà hạnh đức phi phàm, xứng đáng làm Thầy của người, là gương cho đời noi theo vậy.

Người xưa tôn vinh Khổng Phu Tử là "vạn thế sư biểu", quả thật không ngoa.
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1748917991323.webp

Bát Thuần Khôn

坤 : 元, 亨, 利, 牝 馬 之 貞 .
Khôn: Nguyên, hanh, lợi, tẫn mã chi trinh.
君 子 有 攸 往 . 先 迷 後 得. 主 利 .
Quân tử hữu du vãng, tiền mê hậu đắc, chủ lợi.
西 南 得 朋 . 東 北 喪 朋 . 安 貞 吉 .
Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc táng bằng. An trinh, cát.

Kinh nói: Nguyên, hanh, lợi, tẫn mã chi trinh. Quân tử hữu du vãng, tiền mê hậu đắc, chủ lợi.

Đức Trinh của Càn có khác với Khôn, mã là vật mạnh mẽ, tốc độ, người ta hay gọi mã lực chỉ cho sức mạnh của động cơ. Một thứ mạnh mẽ như vậy lại biết chịu đựng, lại có thể chịu đựng "người cưỡi" "roi quất" một cách bền bỉ như thế thì đúng là xứng đáng để tượng trưng cho sự cao mà dày của Đất. Ai chà ai đạp lên cũng được, phẩn uế đồ dơ đổ lên cũng xong, Đất vẫn nhẫn chịu tất cả. Thế thì Tẫn mã là sức chịu đựng bền bỉ của ngựa cái (ngựa cái thì có thể sinh sản, như đất có thể sinh sôi vạn loại), là tượng cho sự nhẫn chịu đầy mạnh mẽ, là đức Trinh của Khôn. Nó tức là "bản lĩnh" của người ôm chí lớn, mà sau này Kinh gọi là Quân tử, tuy hình dung thì có vẻ là nhún nhường thấp yếu, mà khí chất nội tại lại cao tột, như hình dưới đây:

1748919136579.webp

( Bác Hồ khi còn trẻ, ngồi dưới đất, đây chính là biểu tượng con người có đức Trinh của Khôn. )
Quả nhiên sau này thành bậc xuất cách tên gọi Hồ Chí Minh, làm nên những điều vĩ đại cho dân tộc và nhân loại. Bác từng nói: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn đến tột bậc: là làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập,dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". "Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, để câu cá trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính líu gì tới vòng danh lợi".

Người quân tử - lòng ôm trí lớn, hiền lương, mưu lược, muốn khởi dựng cơ nghiệp ắt phải "tầm sư học Đạo", "búi tóc đọc Thi thư, tu thân tu đức hạnh", người xưa nói: Đi một ngày đường, học một sàng khôn, thế thì Quân tử ắt phải "du vãng" để trau dồi trí tuệ, rèn luyện đức hạnh, thực hiện hoài bão của mình, Kinh nói: Quân tử hữu du vãng, là ý này vậy.

Mới ra đời "lăn lộn, bươn trải", kinh nghiệm tri thức còn non nớt ấy là "tiền mê", trước còn mê muội, sau nhờ đức "tẫn mã" mà đạt được tài trí nên gọi là "hậu đắc". Có câu "tài năng trí tuệ nên sự nghiệp", thế thì tài trí là gốc rể của của cải, lại có tài thì mới làm được việc, giúp được người, nên cái tài do "hậu đắc, chủ lợi" là lẽ tất nhiên.

Kinh nói: Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc táng bằng. An trinh, cát.

Người ta sống ở đời, "thành công giàu sang là nhờ bạn hữu", "làm nên là nhờ Thầy", có Thầy có bạn mới có Trí có Tài, lúc mà tài năng tới độ chín muồi thì của cải theo đó sinh sôi, cái sự được và mất cũng theo đó nảy nở, sống đúng thì được bạn (đắc bằng), sống sai thì mất bạn (táng bằng).

Tây Nam thì từ xa lạ biến thành gần gũi, Đông Bắc thì từ thân quen lại hóa người dưng. Mình có lòng biết ơn, thương tưởng tới người thì người không xa mình, còn ngược lại vô tâm thờ ơ lạnh nhạt thì người ắt xa mình. Có câu: đường không đi đường thành cỏ dại, người không qua lại ắt thành người dưng, cùng là ý này đây.

Tứ phương ứng với bốn mùa: Đông ứng Xuân, Nam ứng Hạ, Tây ứng Thu, Bắc ứng Đông, xuân thì tươi tốt, hạ thì ấm áp, thu thì khô hanh, Đông thì lạnh lẽo. Tây hướng Nam thì khô hanh lại thành ấm áp, như lạ thành quen; Đông hướng Bắc thì tươi tốt lại thành lạnh lẽo tàn phai, như quen thành lạ, một bên tượng cho đắc bằng (được bạn), một bên tượng cho (táng bằng) là mất bạn. Rõ là "cách sống" ở đời như phương hướng bốn mùa trong Trời Đất vậy, sai một ly đi một dặm, tuy là ý Trời, cũng lại ở nơi người tạo ra.

Nếu sống với người trước sau như một, một ngày làm bạn cả đời là bạn, một ngày là Thầy cả đời làm Thầy, giữ vững chẳng đổi dời thì tức là An trinh. Đã An trinh không đổi thì lại chẳng phải là Cát Hỷ hay sao.
 

Đính kèm

  • 1748918110425.webp
    1748918110425.webp
    18 KB · Lượt xem: 7
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1748920086656.webp

Thiên Địa Bĩ


否 之匪人, 不利君子貞, 大往小來.
Bĩ chi phỉ nhân, bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai.

Kinh nói: Bĩ chi phỉ nhân, bất lợi quân tử trinh.

Chữ "chi" là nhấn mạnh cho tính nhân quả, ở đây Bĩ là quả, còn "phỉ nhân" là nhân. Do người làm điều "phỉ" - tức xấu xa, trái đạo đức, nên gọi là "phỉ nhân", người làm điều trái Đạo Đức thì cái việc gặp cảnh "bế tắc, trắc trở" là chuyện tất yếu rồi, không có gì lạ cả, ấy thế thì làm sao mà lại "bất lợi" đối với đức Trinh của người Quân tử cơ chứ ? Bởi người Quân tử, lòng ôm trí lớn, hiển dương Đạo Nghĩa, nay gặp cảnh trái Đạo Đức ắt theo lẽ thường thì chống trái, lên án; do có sự lên án ấy nên khiến bị thù ghét, hãm hại mà gặp cảnh "bất lợi", chứ chẳng phải do hành cái Đạo chánh chân mà khiến bị "bất lợi" đâu.

Như Nguyễn Trãi là bậc chánh nhân Quân tử nhưng lại phải chịu chu di tam tộc, bởi vụ án Lệ Chi Viên; bậc công thần nghĩa sỹ vang danh thiên cổ, lập quốc an bang, phò Vua giúp nước, còn chẳng thoát khỏi hàm oan, thì phải biết hành đức Trinh này nơi đời thực là khó thay. Vì vậy, Quân tử ở nơi đời, hành Đạo Đức thì cần "khéo léo", biết "ẩn mình" tùy thời cơ, có câu: kẻ thức thời mới là tuấn kiệt; biết lúc đương thịnh thì nhường cái danh lợi cho người, biết lúc đương suy thì nhận cái khổ cực về mình, ấy là "khéo" giữ Đạo vậy. Mạnh mà không tranh, hạnh cái đức Tẫn mã của Khôn mà vượt qua lúc suy vi trược thế.

Kinh nói: Đại vãng, tiểu lai.

"Vãng" tức là ẩn khuất, "Lai" tức là hiển lộ ra ngoài; ấy là khuyên người Quân tử thức thời, biết ẩn bớt tài năng đức hạnh, mà để chỗ cho cái kém yếu thiếu khuyết của mình nó lộ ra ngoài, khi ấy thì sự tranh, sự ganh ghét đố kỵ cũng sẽ giảm bớt theo, ấy là Thánh nhân dạy cho cái đạo "khéo" thuận thời thế để bảo toàn tính mệnh, thật là chu đáo lắm thay.

Than ôi ! Nguyễn Trãi có thấu hết ý này chăng ?

Giả như ông đã thấu hết, thì có lẽ ông tự nguyện vui vẻ chấp nhận nhân duyên nghiệp báo, giống như Phật Thích Ca chấp nhận nhìn cả tộc Thích Ca phải bị tàn sát, thế thì quả là xưa cũng như nay, Đông cũng như Tây, đều luôn luôn có các vị Hiền nhân Thánh Minh xuất hiện thế gian mà giúp Đời cứu Nước cứu Dân.
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1748921866188.webp

Địa Thiên Thái

泰: 小 往 大 來 , 吉, 亨 .
Thái: Tiểu vãng đại lai, cát, hanh.

Trên là Bĩ - bế tắc, gian lao, cốt cũng bởi nhân tâm chẳng thuận nhau, có hiềm khích có ganh ghét đố kỵ có hơn thua, mới thành ra cái cảnh tượng "bi thương" đến vậy, chứ nếu nhân hòa rồi thì có việc gì mà chẳng xong, lại còn có gì gọi là Bĩ nữa, vậy gốc của Bĩ tức là bất hòa, thế thì Thái thời cũng tức là lúc yên bình do hòa hợp của lòng người mà sinh ra.

Cái sự "hẹp hòi, vụ lợi" (tiểu) của lòng người ẩn khuất, cái sự "độ lượng, thiện lương" (đại) của lòng người nó hiển lộ ra, khi ấy thì chẳng kể mưu sự gì đều "Cát" hỷ Hanh "thông" cả, bởi "nhân hòa thiên hạ thuận", mà mưu sự tại nhân thì nhân thuận ắt là sự thành đó thôi. Lại "ý dân là ý Trời", thì toàn thể đều đồng thuận thì ý Trời cũng chiều lòng theo cái sự đại đồng ấy mà thành tựu cho người, cũng là lẽ tất nhiên.
 

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
Thúy Kiều nhan sắc tuyệt trần,
Cầm kỳ thi họa xứng phần giai nhân.
Vì cha phải bán tấm thân,
Ấy lòng Hiếu thảo, nghĩa nhân vẹn tròn.
Tú Bà cứu giúp như con,
Ngờ đâu lại bán nàng vào lầu xanh.
Thúc Sinh, khách ấy đoái tình,
Chuộc làm vợ lẽ, ngẫm mình chắc yên.
Nghịch duyên, vợ cả thấy phiền,
Hoạn Thư hành hạ, Sư Duyên giúp về.
Bạc Bà, Bạc Hạnh lôi đi,
Đem vào lầu cũ, ép nàng bán thân.
Anh Hùng nơi cõi hồng trần,
Từ Hải duyên tới hiện thân cứu nàng.
Oán ân đáp đủ nhân gian,
Xưng làm Lãnh chúa dọc ngang một vùng.
Kiều kia vụng dại xót lòng,
Lại khuyên Chàng hãy theo hầu các Quan.
Thế là Từ Hải chết oan,
Kiều đau nhói dạ, liễu hồng quyên sinh.
Trời Phật lại ứng hiển linh,
Sư Duyên lần nữa cứu nàng nẻo mê.
Bao năm lưu lạc sơn khê,
Gặp chàng Kim Trọng, theo về hầu cha.

Xét ra "Truân" "Giải" ứng mà,
"Truân" thời được "Giải", "Giải" thời lại "Truân".
Càn Khôn vẫn mãi xoay vần,
Kiếp người cứ thế, trầm luân Ái Hà.
 

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1748924175304.webp

Thủy Lôi Truân.


屯 : 元, 亨, 利, 貞, 勿 用 有 攸 往, 利 建 侯 .
Truân: Nguyên, hanh, lợi, trinh, vật dụng hữu du vãng, lợi kiến hầu.

Kinh nói: Truân, nguyên hanh lợi trinh.

"Truân" nghĩa là truân chuyên, gian nan; là cái gian nan không thể tránh của người mang "mệnh lớn" - giúp đỡ cho người, làm gương cho đời - đó là cái thử thách để thành tựu Đức Hạnh ("Nguyên, hanh, lợi trinh"), tuy là gặp cảnh gian nan, phải chịu khổ ải thiệt thòi hi sinh, nhưng cái gốc của việc hi sinh ấy là từ cái Tâm Đức trong sáng làm lợi ích cho người mà quên mình của Trời Đất đó vậy.

Thúy Kiều tuy là phận nữ nhi, bị kìm kẹp bởi thời cuộc hoàn cảnh bất khả kháng, xong vì Cha mà hi sinh bản thân mình, đem cái "ngàn vàng" biểu tượng cho khí tiết danh dự của một người thiếu nữ đoan chính - là thứ quý hơn mạng sống của nữ nhân ở thời bấy giờ - đổi lấy tiền bạc tầm thường , thế thì một mạng đổi một mạng, ấy là đền ân đáp Hiếu tới chỗ tận thiện của tục nhân rồi vậy. Cảm phục thay, nữ nhi tài sắc mà khí chất ngút Trời, có thua gì nữ tướng Bà Trưng Bà Triệu, chỉ là cảnh đời đôi khác. Có khác gì Việt Vương Câu Tiễn phải chui háng nếm phân, chỉ là nam nữ lưỡng bên đôi ngả. Thế thì, cái gian nan mà Kiều phải gặp, cũng chính là cái gương đức mà người mang "mệnh lớn" phải làm, để cho thiên hạ xét vào mà học lấy Đức sáng của Trời Đất vậy. Quả không hổ là "khuê trung quân tử" (quân tử nơi khuê phòng), liễu yếu đào tơ mà lòng son dạ sắt.

Kinh nói: Vật dụng hữu du vãng, lợi kiến Hầu.

"Vật dụng" nghĩa là chớ dùng, chớ có dụng của người vô cớ vì ắt có sự tính toan nào đó. Như Mai An Tiêm từng nói: Của biếu là của lo, của cho là của nợ, quả là ứng vô sự này, đã nhận của người thì phải đáp lại cho người, cho nên "hữu du vãng" là tức phải ra đi phụng sự báo ân đó vậy.

Giả như chịu ân của người có Đức thời cái sự trả cũng có phần thanh nhẹ, lỡ mà chịu ân của kẻ thất đức mưu toan, thì cái nợ này khác nào kẻ vay nặng lãi lúc khó khăn, có khi suốt đời vẫn còn ăn năn ân hận. Vì thế, nếu bất đắc dĩ phải chịu ân, thời chỉ có "lợi" khi "kiến Hầu" mà thôi. Hầu là một trong năm tước quý Vua ban (Công, Hầu, Bá, Tử, Nam), người phải có công với nước có Đức với dân mới được thành Hầu - vua quản một xứ, cũng là ý chỉ cho việc chịu ơn của người có Đức vậy.

Thúy Kiều trải muôn vàn gian nan tủi hổ, sau gặp Từ Hải mà ở ngôi cao, ấy cũng là nét tỏ cho sự "lợi kiến Hầu" của người có Đức.
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1748925207158.webp

Lôi Thủy Giải.


解 : 利西南, 无所往, 其來復, 吉, 有攸往, 夙吉.
Giải: Lợi Tây Nam, vô sở vãng, kỳ lai phục, cát; hữu du vãng, túc cát.

Kinh nói: Giải, lợi Tây Nam.

"Giải" tức là cởi ra, mở ra, là giải phóng khỏi sự ràng buộc, ràng buộc bởi cái gì ? Bởi hoàn cảnh, bởi con người và bởi Tâm Thức.

Người từng cho là bạn, là ân nhân lại bẫy giăng hãm hại, làm mình khổ đau, vì thế ở đây chẳng có Đông Bắc "táng bằng", bởi khi "Giải" tới thời thì người cho là “bằng” cũng “táng” theo luôn rồi. Nhưng theo cái Đạo của Thánh nhân thì biết là do nhân duyên thuở trước, nên cũng "tặc lưỡi" mà mỉm cười như người đối diện trước mưa giống bão tố mà thôi, như thế thì cũng được chỗ "Giải" của Tâm. "Lợi Tây Nam", như quẻ Khôn đã nói: "Tây Nam đắc bằng", người này hại thì có người kia giúp, thế mới thành ân oán trường lưu. Tự cứu chẳng xong thì phải nhờ người là lẽ tất nhiên, như kẻ đuối nước gặp phao, kẻ lao mình xuống sông phải nhờ ngư dân cứu độ, ấy cũng là do Phước Đức tích thành, dễ gì khi không mà được. Hoàn cảnh khó khăn qua được là nhờ có sự tương trợ của người, cảnh chuyển thì thân chuyển, đây là được chỗ "Giải" của hoàn cảnh và con người (thân).

Kinh nói: Vô sở vãng, kỳ lai phục, cát.

"Chưa rõ nơi để đi tới thì nên quay lại chốn xưa", ý là người gặp hoạn nạn, mà thoát ra được, thì nên nhìn về chỗ xuất phát, chỗ xảy chân để mà tự thân rút kinh nghiêm, một là chẳng tái phạm sai lầm, hai là chẳng viễn vông ảo mộng, cứ quay về chỗ thực tại mà làm lại từ đầu. Biết đứng lên sau ngã, biết rút kinh nghiệm khi lầm lạc, ấy tức là “kiển quân tử dĩ phản tu kỷ” – người quân tử khi gặp khó khăn phải xem lại bản thân để sửa mình. Vì thế mới nói “kỳ lai”, nhấn mạnh cái chỗ ấy chỗ đó, chính là chỗ khởi thành sự bại, mà xét rõ nguyên do, như thế thì tương lai ắt được Cát, cũng là lẽ tất nhiên nhờ nhân tâm tu chỉnh vậy.

Kinh nói: Hữu du vãng, túc cát.

Nhận ra sai lầm thì phải sửa chữa sai lầm chứ chẳng phải ngồi than Trời trách Đất, hận mình giận người. Có câu “thua keo này ta bày keo khác”, làm cách này không được thì ta làm cách khác, tránh hết chỗ sai thì tất thành chỗ đúng, do đó “hữu du vãng” là phải làm đi, nhưng làm cách gì thì phải đổi thay cho nó tốt, nhưng mục tiêu xưa, trí nguyện cũ - “túc” - ắt phải giữ trong tim, ấy thì “túc cát” là vững trí mà nên, trí nguyện xưa luôn mang theo chẳng bỏ. Như thế mới được Tâm cũng "Giải" mà Thân cũng "Giải", mới trọn vẹn sự "Giải" của Thánh nhân.
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1748928495238.webp

Lôi Phong Hằng


恆: 亨, 无咎; 利貞, 利有攸往.
Hằng: Hanh, vô cữu; lợi trinh, lợi hữu du vãng.

Kinh nói: Hằng hanh, vô cữu, lợi trinh.

"Hằng" nghĩa là thường, là lâu bền. Trong cái sự không ngừng biến đổi của "Dịch" có nét bất biến thường trụ của "Hằng", như bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông đổi thay từng ngày, mà Xuân này qua rồi Xuân kia lại tới, thế thì Xuân "dịch" hay Xuân "hằng" ? Người Quân tử (mà sau đây sẽ sử dụng rất nhiều danh từ này thì không phải mang nghĩa đối lập như quan điểm của Khổng Tử - lấy Quân tử đại biểu cho Thiện đối đầu với Tiểu nhân đại biểu cho bất thiện và do đó phải xiển dương cái Thiện rồi tiêu diệt cái Bất thiện, hiểu như thế thì làm sao đúng với đức Trinh và tượng che chở bao dung nuôi dưỡng vô phân biệt rất rộng lớn của Trời và Đất cho được, ao sen mà lọc hết bùn hôi tanh thì sen làm sao mà mọc đây ?! - do đó ý nghĩa thực sự của danh từ ấy là: hễ ai có lòng muốn thành tựu Đức Hạnh rộng lớn của Trời Đất và đang nỗ lực để rèn luyện bản thân, thì đều gọi là Quân tử cả), sống trong Trời Đất biến đổi từng ngày, mà luôn giữ tròn Đức Hạnh, dù là trong gian nguy, hay là lúc an nhàn, dù là khi Danh Lợi đề huề, hay là khi khởi sự nguy nan thiếu thốn, tánh Đức chẳng thay đổi ấy tức là nghĩa "hằng" Đức "lợi trinh". Như quẻ Khôn nói: An trinh, tức là nghĩa trước sau như một, thì "Hằng" tức là sự quy hướng về An Trinh mà ra.

Vì sao "An trinh" thì Cát, mà Hằng thì chỉ "hanh, vô cữu" ? Bởi An trinh tức là "bổn lai" tự An, không cần kiểm tỏa mà tư nhiên hiển bày, là hạnh Đức thuần thục, là "bản thể vô nhiễm", trong khi đó "Hằng" là thường luôn phải tự ý thức, tự kiềm tỏa, nếu sơ xảy ắt bị lạc mất đức Trinh, bởi thế cho nên chẳng lạc mất, chẳng quên giữ tức là "vô cữu" - không phạm sai lầm, không bị lỗi lầm. Đã không phạm lỗi thì "hanh" thông, được "lợi trinh" là lẽ tự nhiên.

Trời Đất thì đã thành, Người thì chưa thành, vẫn còn không ngừng rèn luyện, Khổng Tử nói: "Quân tử thuận kỳ độc dã" - người Quân tử nên cẩn thận khi ở một mình; để nhắc nhở rằng: sự rèn luyện Đức Hạnh không phải để khoe khoang với người, mà cốt là để làm cho mình tốt lên mỗi ngày, nên khi ở một mình thì sự hành xử của bản thân mới có cơ hội bộc lộ mà tự tỏ rõ thói hư tật xấu, vì nó phơi bày một cách tự nhiên không bị kìm kẹp bởi thể diện và danh dự hão huyền.

Kinh nói: Lợi hữu du vãng.

Tâm hồn có thể bình lặng khi sóng gió chưa nổi lên, con người có thể hiền hòa khi chưa gặp nghịch cảnh bất như ý, vì thế, muốn học bơi thì phải xuống nước, muốn học chạy thì phải ra đường v..v chỉ có sự cọ sát trong cuộc đời thực tại mới quyết trạch được Đức Hạnh chân thực đã thành hay mới chỉ là sự tự kỷ ảo cầu nơi mình tưởng tượng mà hóa ra. Thánh nhân bị người chửi người khen chẳng còn dao động, cũng nhờ rèn luyện cọ sát, chớ chẳng phải ngồi thu mình một chỗ, tựa núi nhìn sông, trong lòng trống không mà tự xưng là Đại. Ấy là cái lý "du vãng" để có cái "lợi" thật hành, có cơ hội ra ngoài cọ sát tức là "hữu du vãng" vậy.
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1748931639496.webp

Phong Lôi Ích


益: 利有攸往, 利涉大川.
Ích: lợi hữu du vãng, lợi thiệp đại xuyên.

Người Quân tử không ngừng sửa chữa lỗi lầm, "lau trùi" những điều dở khuyết, vun đắp những sự đẹp tươi, thêm nhiều dần lên tức là sự "Ích".

Kinh nói: Ích, lợi hữu du vãng.

Trên nói ra ngoài để cọ sát thì mới lộ ra những điều chưa được của bản thân để mà sửa chữa, ở đây thì sự "lợi" ấy lại càng tăng thêm nhờ thu lượm được nhiều điều tốt đẹp từ chặng đường đang đi, từ những người có duyên gặp mặt và từ những sự việc đã qua. Việc sửa chữa lỗi lầm của mình trên chặng đường đời, giúp cộng hưởng gia tăng làm nảy sinh thêm sự cảm mến của người, sự lợi ích cho người, đôi bên đều được lợi tức là " Ich lợi" của sự "hữu du vãng" mang đến.

Kinh nói: Lợi thiệp đại xuyên.

"Đại xuyên" là con sông lớn, lớn cỡ nào vậy ? Sông Hồng, sông Sài Gòn, sông Cửu Long hay sống Hằng v..v tất cả đều không phải, e là chưa đủ lớn. Người xưa nói "nhân sinh tựa lưu thủy" - đời người như nước chảy, người nay thì ví von: dòng đời xô đẩy, sóng gió cuộc đời v..v vậy "đại xuyên" này là chỉ cho cuộc mưu sinh của đời người đang qua đó vậy, vượt qua khó khăn trong đời tức là "thiệp đại xuyên". Việc sửa mình không ngừng, thu lượm điều hay, thổi bay điều dở giúp mình trải qua cuộc đời này được nhiều lợi ích. Tức là chuyển từ xấu tệ thành tốt tươi, từ ác hiểm thành thiện lương, thuần hậu, từ hiền nhân thành Thánh nhân. Vì nó không dễ dàng, cho nên chẳng phải một ngày hai ngày mà được, nhưng có đi, lại không ngừng đi, thì tất nhiên sẽ có ngày tới nơi thôi.
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1748939393560.webp

Địa Hỏa Minh Di

明夷: 利艱貞.
Minh di: Lợi gian trinh.

Chữ “Di” nghĩa là suy vi, là thương tổn. “Minh” nghĩa là sáng, là hiểu biết đúng đắn. Khi sự hiểu biết không còn đúng với sự thật nữa, khi "ánh sáng" chân lý đã bị “thương tổn” bởi sự che khuất của mây mù tà kiến, dẫn đến cảnh quan trước mắt trở nên mờ mịt, không thể phân định rõ ràng Nhân Quả tại sao lại xảy ra như thế, ấy chính là thời kỳ của “Minh di”.

Kinh nói: Minh di, lợi gian trinh.

Vì sao lúc sự hiểu biết suy giảm sai lệch thì lại có “lợi” ? Vì hiểu sai rồi thì suy nghĩ sẽ sai, suy nghĩ sai rồi thì hành động tất tà vạy, tà nghĩa là trái với quy luật, vạy nghĩa là lệch lạc không đúng đường. Con người sống trong Trời Đất, lại làm trái với lý lẽ của Trời Đất thì sao tránh khỏi thất bại cho được. Thất bại rồi thì bớt kiêu căng, ngạo mạn; mới thấy mình còn kém cỏi tầm thường; nhờ vậy mà tự rút kinh nghiệm, tự sửa chữa sai lầm, tự rèn lại tâm tánh, ấy là cái “lợi” thứ nhất.

"Gian" nghĩa là gian nan, là khó khăn, là hiểm trở; nó đồng âm nhưng khác chữ nghĩa với "Gian" này: "奸"- đây là gian dối, gian trá, gian xảo, là gian trong kẻ gian. “Trinh” là sự trong trắng, trong sáng, sự ngay thẳng, là tiết hạnh cao quý; nay do bị “minh di” nên thành ra khó thể biểu hiện, khó thể giữ gìn, trở ngại như vậy gian nan như thế nên gọi là “gian trinh”. Như người đi dưới mưa giữ đồ quý khỏi ướt, như Huyền Trang qua sông lớn giữ Kinh thư cho được khô lành; thứ quý giá bên mình, bình thường xem nhẹ, nay do nghịch cảnh xuất hiện khiến cho tâm ý quay lại giữ gìn trân trọng, ấy là cái “lợi” thứ hai.

Người xưa nói: “Thiên dục kỳ vong, tất lệnh kỳ cuồng” – Trời muốn diệt ai, ắt khiến họ kiêu ngạo; ấy thế thì sự dẹp bỏ kiêu ngạo, tạo cơ hội để sự kiêu ngạo bị làm cho suy yếu, khiến cho tàn lụi; thế là chỗ “thương” của Trời với thế nhân rồi, cho nên Thánh nhân tỏ rõ, nói là “lợi” vậy.

Tồn tại ở trên đời, ai cũng cần có cái ăn để duy trì sự sống, người tục nhân vì kiếm tiền lo cho bản thân và người thân, mà phải lao vào "thương trường" - khốc liệt, cạm bẫy đủ đường, ganh hiềm đố kỵ, phiền não ưu bi - bán sức lao động vất vả "đổ mồ hôi sôi nước mắt", mới có hạt gạo bỏ nồi nấu cơm cho no bụng. Thương trường lại như chiến trường, binh thư nói "kiêu binh tất bại", cũng là thuận theo ý này mà răn dạy cho người sống trong Đời, phải nên cẩn thận rèn luyện Đức hạnh khiêm cung để mà tự bảo trọng !
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1748945202351.webp

Thiên Thủy Tụng

訟 : 有 孚 , 窒, 惕 .
Tụng: Hữu phu, trất, dịch.
中 吉 . 終 凶
Trung cát, chung hung
利 見 大 人 . 不 利 涉 大 川.
Lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại xuyên.

Trên nói “Minh di” – là sự thật, chân lý đã bị che mờ ẩn khuất, thế thì cùng một vấn đề ắt có nhiều cách hiểu khác nhau, năm người mười ý, ai cũng cho mình là chân chánh. Trang Tử nói : “Thiên hạ chi đạo, bất quá thị phi nhị tự”Mọi nẻo đi trong thiên hạ, cuối cùng lại xoay quanh hai chữ Phải – Trái. Ai cũng cho mình là đúng, thì những kẻ trái với ý mình sẽ bị mặc định là sai, sai đúng bất hòa tất nhiên phải xảy ra cái sự tranh cãi.

Kinh nói: Tụng, hữu phu, trất, dịch.

“Tụng” nghĩa là tranh cãi, là kiện cáo, là sự trách móc lẫn nhau. Khi thời “Tụng” xảy ra, nếu cả hai bên chỉ biết cố chấp giữ vững cái mình cho là đúng, mà không nhìn vào cái cơ sở mà nhân đó mình bảo lưu cái quan điểm của mình thì ắt là sự tranh cãi này sẽ diễn tới “dụng binh”, “ẩu đả” bằng binh khí “miệng, lưỡi” trước tiên, sau đó vẫn không thể khuất phục lẫn nhau thì một là chia năm xẻ bảy mà tan rã rời xa nhau, hai là “lưỡng bại câu thương” – sự thật bị trôn vùi và hai bên đều cùng chịu tổn thương, tổn thất. Do đó, Thánh nhân khuyên răn: “hữu phu” – cần có sự thành tín, nói lên sự thật và tin tưởng lẫn nhau, cùng hướng về sự thật để mà phát lộ ra Chân lý – cũng tức là “Minh” bất “di” đó vậy.

“Trất” là tắc nghẽn không thông, như người bị bịt mồm bịt mũi; “Dịch” nghĩa là cảnh giác, thận trọng, phải thấy cái việc tắc nghẽn không thông này rất đáng sợ, có thể “chết người” đấy ! Vì thế khi có sự “tụng” xảy ra, cần bình tĩnh tháo gỡ, để cho “dễ thở”, mới mong có ngày vạn sự được hanh thông.

Kinh nói: Trung cát, chung hung.

“Cát”, “Hung” là hai lãnh vực mô tả kết quả như ý và bất như ý, sự “Cát” thì khiến cho vui vẻ, sự “Hung” thì khiến cho sợ hãi lo âu. Bên “vui” bên “buồn”, cũng nằm trong tứ trạng “hỷ”, “nộ”, “ái”, “ố” (mừng, giận, thương, ghét) mà tâm con người thường hay gặp phải. Thật ra thì nó cũng rất bình thường như Bốn Mùa luân qua chuyển lại, song phàm nhân có ai chấp nhận được sự thật ấy đâu, cho nên hết thảy mong cầu đều chỉ muốn được “như ý” và khi đạt được cái đó rồi lại muốn nó mãi mãi không đổi thay, giả như có đổi thay thì “bắt” nó lại phải thay đổi theo ý mình mới chịu. Chả khác nào bắt cảnh mùa Xuân phải như mùa Thu, cảnh mùa Đông phải như mùa Hạ, cứ thích mùa nào thì ép ba mùa kia phải giống y hệt với nó, nhưng mà quên mất, măng cụt Bến Tre thì mùa Đông mới có, sầu riêng Khánh Hòa thì mùa Hạ mới sinh, cam ngọt Hòa Bình Xuân kia mới tới, hồng ngâm Lạng Sơn Thu tới mới tìm. Thế giờ mà lỡ ghét khí hậu, lại thích trái cây thì phải làm sao đây ?

Ô hay ! “Thiên bất tòng nhân nguyện” – Trời sao chiều hết được ý người, bởi người cũng chỉ là một giống loài thuộc thiên loài vạn loại trong Vũ trụ bao la, Địa cầu bé nhỏ mà thôi, có cũng được, mà không có thì chim thú có khi lại còn “hoan nghênh”. Cho nên Đức Thánh Chúa Jesus ra đời sẵn sàng chịu cảnh đóng đinh lên thập tự giá, lời Ngài nói giây phút chia tay ấy, sau này được truyền lại gọi là “Thất ngôn thập tự”, trong đó có câu rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm.” Hẳn là con người chẳng phải có nhiều sai lầm lắm hay sao, vì thế “xưng tội” ở ngôi Chúa và “sám hối” ở nhà Phật mới trở thành việc thường nhật.

“Trung” là khoảng giữa, “Chung” là kết thúc. Từ khi bắt đầu sự tranh “Tụng”, cho tới lúc kết thúc thì chỉ có khoảng giữa là Cát Hỷ, tại sao vậy ? Vì cố gắng tranh cãi tới cùng thì chỉ là sự thật chưa sáng tỏ, chứ sự thật mà sáng tỏ rồi thì sự tranh cãi cũng mất luôn, đâu còn chữ “chung” để mà nói nữa. Vậy thì “Trung” sở dĩ Cát Hỷ là vì đã hành theo cái “hữu phu” mà Thánh nhân dạy răn, do đó ôn hòa nhã nhẵn, thuận lẽ Trung Dung, mỗi người đều tự mình “cách vật trí tri” - hiểu rõ sự vật tới tận gốc rễ, cội nguồn phát sinh của nó - cho nên sự thật nó phơi bày sáng tỏ. Nay nói khoảng giữa, tức là một bên là Phải, một bên là Trái, khoảng giữa tức là Sự Thật vậy. Như mặt trời lên thì sáng, cái sự ấy có ai nói là phải hay là trái nữa đâu ? cho nên chữ “Trung” này mới Cát Hỷ là ý chỉ cho sự thật đã được làm rõ ràng cho ra lẽ rồi đó thôi.

Kinh nói: Lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại xuyên.

Sự thật sáng tỏ thì được “lợi” ích cả đôi bên, sự thật mà che mờ thì đôi bên đều “bất lợi”. Bất lợi rồi thì làm sao mà “thiệp xuyên” – vượt qua dòng đời cho nổi, vấn đề vướng mắc nó che mờ nhân trí thì khó khăn chướng ngại nó cứ lởn vởn bao quanh, như con chuột chạy trên cái vòng tròn trong lồng kín, cứ chạy mãi chạy mãi, cho tới khi kiệt sức mà ngã xuống, ấy tức là hết đời.

Ôi thôi ! Vậy thì chỉ có cách kiếm cho ra cái người “cao minh đại trí”, dụng cái lời định hướng như ngón tay chỉ trăng, cả hai tin nhau rồi cũng theo hướng tay kia mà chỉ, thì mặt trăng sự thật nó tỏ rõ trên cao, đêm đen “vô minh” huyền ảo sẽ không còn trói giữ đôi chân của bậc Chánh nhân Quân tử trên con đường tự lợi, lợi tha. Vì thế, “kiến” tức gặp được bậc xuất cách cao minh - “đại nhân” - khi tranh cãi xảy ra, chẳng khác nào dân đen thấp cổ bé họng bị cường hào ác bá hãm hại lại được diện kiến Bao Chửng Phủ Doãn phủ Khai Phong (Bao Hắc Tử) – thiết diện vô tư rõ ngay gian, xiết bao oan khuất nó tan đi, nhật nguyệt tinh tú liền lấp lánh.
 

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1748953207089.webp

Hỏa Trạch Khuê

睽: 小事吉.
Khuê: Tiểu sự cát.

"Khuê" nghĩa là mâu thuẫn, là ngang trái, là trừng mắt nhìn. "Khuê" và "Tụng" có mối liên hệ với nhau.

"Tụng" - tranh cãi, là biểu hiện bên ngoài của "Khuê" - mâu thuẫn, do có bất đồng về lí tưởng, mục đích, lợi ích, quan điểm v..v mà chưa thể điều hòa, tạo nên sự mâu thuẫn. "Khuê" có tính chất ngấm ngầm, âm thầm, diễn biến riêng tư trong tâm trí, thi thoảng biểu lộ ra, nhưng có phần tế nhị không rõ rệt, không mạnh mẽ công khai như "Tụng".

Mối liên hệ giữa chúng gần giống mối liên hệ giữa Giận dữ và Khó chịu. Sự khó chịu thì vẫn trong tầm kiểm soát, tuy là không thoải mái trong lòng và biểu cảm đôi lúc hơi khó coi. Còn Giận dữ là biểu hiện của sư khó chịu vượt giới hạn chế ngự, nên bộc phát ra ngoài.

Quay lại với Tụng và Khuê, khi mâu thuẫn ngấm ngầm vượt quá khả năng kiểm soát, kìm nén, sư tránh né làm lơ trở nên vô dụng, thì Tranh cãi nổ ra, ầm ĩ và công khai. Khi Tranh cãi dâng lên đỉnh điểm, chỉ có hai con đường để đi: Hoặc là Cải cách thay đổi để điều hòa xoa dịu mâu thuẫn hoăc là Chiến tranh sẽ nổ ra để chấm dứt sự mâu thuẫn ấy bằng bạo lực.

Trong lịch sử thành văn của nhân loại, trên hầu hết lĩnh vực đều diễn ra quá trình: Mâu thuẫn - Tranh cãi - Cải cách hay Chiến tranh; nó chỉ khác nhau về mức độ, cường độ và hình thức. Lĩnh vưc xảy ra mâu thuẫn có thể là tôn giáo, chính tri, kinh tế, văn hóa hay đời sống xã hội, trong từng mối quan hệ xã hội v..v

Kinh nói: Khuê, tiểu sự cát.

"Tiểu" nghĩa là nhỏ bé, là vụn vặt. "Sự" là sự việc, là vấn đề. "Cát" là vui vẻ.

Mâu thuẫn là động lưc tạo nên sự phát triển, sự đi lên. Nếu sự mâu thuẫn dừng lại ở mức độ tranh cãi, rồi đi tới thống nhất, đi đến sự thay đổi để làm cho mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn, thì sự mâu thuẫn ấy gọi là "tiểu sự", vì nó đi đến sự đổi mới, mâu thuẫn đã được giải quyết đưa đến sự đoàn kết nhất trí, nên Thánh nhân mới nói là "Cát" đó vậy.

Dưới đây là một vài ví dụ về sự Mâu thuẫn đưa đến Tranh cãi rồi Cải cách:

1. "Chúa không chơi xúc xắc" - Đây là câu nói nổi tiếng của Einstein khi thể hiện quan điểm về thuyết cơ học lượng tử, tuy nhiên thì sau này thực tiễn đã chứng mình rằng Einstein không đúng:

Albert Einstein phản đối thuyết cơ học lượng tử do Bohr và Heisenberg đề xuất, cho rằng nó phi logic. Tranh luận này diễn ra trong hàng chục năm đã giúp thúc đẩy hàng loạt thí nghiệm kiểm chứng, dẫn đến sự ra đời của lý thuyết rối lượng tử (quantum entanglement). Sự phản biện của Einstein giúp khoa học hiểu sâu hơn về Thế giới vi mô.

2. Charles Darwin bị chỉ trích dữ dội khi công bố "Nguồn gốc các loài" (1859), vì mâu thuẫn với quan niệm sáng tạo luận của Giáo hội. Tuy nhiên, thuyết tiến hóa đã trở thành nền tảng của sinh học hiện đại, thúc đẩy sự nghiên cứu của ngành di truyền học. (DNA v..v)

3. Phong Trào Đấu Tranh Dân Quyền (Mỹ, 1950s–1960s)

Người da màu đòi quyền bình đẳng với chính quyền phân biệt chủng tộc cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 ( khi thông qua đạo luật Jim Crow Laws), dẫn tới Đạo luật Dân quyền (1964) và Đạo luật Quyền bầu cử (1965) được thông qua, xóa bỏ phân biệt chủng tộc hợp pháp.

4. Kinh tế chia sẻ (Sharing Economy) cải cách Ngành vận tải

Uber/Grab ra đời phá vỡ mô hình taxi truyền thống , các hãng taxi truyền thống đệ đơn kiện, tài xế Uber/Grab không được coi là lao động chính thức. Dẫn đến ngành giao thông công nghệ phát triển (như giao hành nhanh, đặt xe qua App v..v) chính phủ EU phải điều chỉnh luật, công nhận "lao động nền tảng".

5. "Nho Giáo và Dân Chủ" Thời Duy Tân (Nhật Bản, Thế kỷ 19)

Xã hội Nhật Bản theo Nho giáo, đề cao tầng lớp samurai và tôn ti trật tự. Sau khi Mỹ ép mở cửa (1853), Nhật đứng trước nguy cơ bị xâm lược. Minh Trị Duy Tân (1868) ra lệnh bãi bỏ lãnh địa phong kiến, giải tán Samurai thay bằng quân đội hiện đại, xây dựng chính quyền trung ương, đồng thời học hỏi phương Tây về khoa học, quân sự, giáo dục. Đưa Nhật Bản trở thành cường quốc châu Á, thoát khỏi nguy cơ trở thành thuộc địa.
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1748955625770.webp

Trạch Hỏa Cách

革: 已日乃孚, 元亨 利貞.悔亡.
Cách: Dĩ nhật nãi phu, nguyên hanh lợi trinh. Hối vong.

“Cách” có nghĩa là thay đổi, là trừ bỏ đi. Bỏ đi cái “mâu thuẫn, tranh cãi”, đổi lấy cái “thống nhất, hòa hợp”.

Kinh nói: Cách, dĩ nhật nãi phu.

“Cách” là thay đổi, thay đổi cái gì ? Thay đổi bản thân, thay đổi hoàn cảnh hay là thay đổi người khác ?

Con người thông thường bị chi phối bởi hoàn cảnh, khi hoàn cảnh thay đổi, con người sẽ có xu hướng thay đổi theo. Hoàn cảnh thì nó lại được tạo thành bởi nhiều yếu tố khác nhau, nó là sự hòa hiệp của Trời, Đất, vạn vật và con người. Trời Đất thì nằm ngoài sự làm chủ của phàm nhân, người khác và vạn vật mặc dù chúng ta có thể tương tác, có thể tác động gián tiếp hay trực tiếp, có thể ảnh hưởng tới một mức độ nhất định, xong những đối tượng ấy vẫn có lối đi riêng của họ, chỉ có bản thân mình là nằm trong tầm kiểm soát của chính mình mà thôi.

Luận Ngữ nói: “Bất năng chính kỳ thân, như chính nhân hà ?” – mình chưa sửa được mình, thì làm sao mà sửa người cho được ? Lão Tử nói: “Tự chi giả minh, tự thắng giả cường” – hiểu được mình thì gọi là người sáng suốt, nhưng chiến thắng được bản thân mình mới gọi là người mạnh mẽ. Vậy thì ai cũng có thói hư tật xấu, cho nên ai cũng cần phải học tập rèn luyện, rèn luyện thành rồi thì mới trở thành bậc Quân tử, bậc Đại nhân, bậc Hiền, bậc Thánh. Nay muốn thay đổi hoàn cảnh, thay đổi người khác thì cần phải thay đổi chính mình trước tiên, thay đổi chính mình tức là nhận ra thói hư tật xấu của chính mình, rồi cải sửa nó đi. Ấy tức là nghĩa “Cách” vậy.

“Dĩ nhật” là trải qua mỗi ngày, “Nãi” nghĩa là rồi thì, thì mới. “Phu” nghĩa là làm cho người tin phục; là tín nhiệm; cũng có nghĩa là sự thành tín;

Toàn câu Kinh trên nghĩa là: Kiên trì sửa đổi mình mỗi ngày, bằng sự thành tín chân thật, thì mới có thể làm người tin phục, mới được người tín nhiệm. ( mới tự tin vào bản thân mình ).

Tại sao lại nói việc “sửa đổi bản thân mình” lại khiến mình tự tin vào chính mình ? Bởi thói hư tật xấu đã bám sâu chắc rễ nơi mình, nhờ có ý chí kiên định, có sự quyết tâm gang thép và sự kiên trì nhẫn nại, như mài sắt thành kim, mà trải qua thời gian mới thay đổi được; mới vượt thắng được sự trì trệ, sự kìm kẹp của thói hư tật xấu. Vượt thắng được rồi, sửa đổi được rồi, mình thấy mình tốt đẹp hơn trước đây, như chân tay dính bùn nay được rửa sạch đã thơm tho trở lại, bởi thế nên trong lòng sinh tâm vui thích, mới sinh sự tự tin vào bản thân vì đã làm được việc khó làm, vì đã trở thành “người mạnh mẽ” như lời của Lão Tử nói ở trên.

Không chỉ riêng Khổng Tử, Lão Tử, kể cả Phật Thích Ca trong Kinh Pháp Cú cũng nói: “Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình”, thế thì phải biết rằng, việc sửa mình chính là gốc rễ của sự cải “Cách” mà Thánh hiền xưa nay đều răn nhắc.

Kinh nói: Nguyên, hanh, lợi, trinh. Hối vong.

“Nguyên, hanh, lợi, trinh” là đức hạnh của Trời, Trời ở trên cao tức chỉ sự hướng thượng, sự vươn lên. Quân tử rèn luyện bản thân, sửa đổi tính cách mỗi ngày là nhằm thành tựu đức hạnh của Trời, đó là chí hướng rộng lớn, cao cả, nhưng cũng đòi hỏi sự nỗ lực rất nhiều, bởi đây là việc khó làm bậc nhất.

Đã lấy việc hướng thượng, thành tựu đức hạnh cao dày của Trời Đất làm trí nguyện, làm mục tiêu, thì ắt trong mọi việc đều phải cẩn trọng, đều phải tỉnh xét, mỗi ngày đều phải nhìn lại mình xem ngày nay đã làm được những gì, đã sửa được những gì và còn cách đức hạnh ấy bao xa nữa ? Luận ngữ ghi lời Khổng Tử dạy Tăng Tử rằng: “Ngô nhật tam tỉnh ngô thân” – nghĩa là mỗi ngày ta tự xem xét lại bản thân mình ba việc. Bậc Hiền xưa kia rèn luyện mỗi ngày như thế, há lại chẳng hợp ý Thánh nhân lắm hay sao !

Sửa mình mỗi ngày như thế thì tất nhiên lỗi lầm càng ngày sẽ càng ít đi, sai lầm càng ngày càng bớt đi và tới lúc "Hối vong" - chẳng phải ăn năn, chẳng còn điều chi phải hối hận nữa vậy.

 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
Muốn mà sửa đổi bản thân,
Đâu thể gấp rút chóng thành ngay mai.
Từ từ, sửa chữa đúng sai.
Dần dần chút một, “mài” hoài tất xong.
Một khi đã gắng bỏ công,
Thời phải khéo léo, chớ lòng vội nhanh.
Bởi việc vốn chẳng chóng thành,
Nếu mình gấp rút, hỏng nhanh được gì ?
Cho nên “Tiệm”, từng bước đi;
Đừng mà, “Quy muội” – bắt liền về ngay.
 

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1748966431847.webp

Phong Sơn Tiệm

漸: 女歸, 吉, 利貞.
Tiệm: Nữ quy, cát, lợi trinh.
“Tiệm” nghĩa là dần dần, từ từ, làm từng bước một.

Kinh nói: Tiệm, nữ quy.

“Nữ” nghĩa là người nữ, phái nữ, là con gái, là đàn bà. “Quy” nghĩa là theo về, là con gái đi lấy chồng.

Theo truyền thống văn hóa xưa, đặc biệt là Nho gia, thiếu nữ tới độ tuổi lấy chồng, muốn xuất giá phải thực hiện đủ 6 bước, gọi là “Lục Lễ”, thực hiện đủ sáu bước này thì tức là "nữ quy":

1. Nạp thái (纳采) – Dạm ngõ (hay Chạm ngõ)
Người làm mai mối đại diện nhà trai, mang theo lễ vật, đến gặp đại diện nhà gái để bày tỏ ý định. Nhà gái nhận lễ tức là đồng ý cho hai bên tiến tới.

2. Vấn danh (问名) – Hỏi tên, tuổi
Nhà trai xin hỏi rõ tên tuổi và ngày giờ tháng năm sinh của người con gái để xem tuổi Hợp, Xung, theo phong tục truyền thống.

3. Nạp cát (纳吉) – Báo tin lành
Nhà trai sau khi xem tuổi, nếu thấy phù hợp thì thông báo cho nhà gái kèm theo lễ vật để báo tin mừng, đồng thời lên kế hoạch sửa soạn lễ vật chọn ngày đính hôn.

4. Nạp trưng (纳征) – Đính hôn
Lễ vật mang đến phải thể hiện được sự nghiêm túc (“Trưng” – chứng tỏ, làm chứng), cam kết chắc chắn sẽ kết hôn trong tương lai.

5. Thỉnh kỳ (请期) – Xin ngày cưới
Nhà trai chọn ngày lành tháng tốt , sau đó ấn định với nhà gái để tiến hành lễ thành hôn.

6. Thân nghênh (亲迎) – Rước dâu
Chú rể đi ngựa, kiệu hoa đến nhà gái. Cô dâu từ biệt cha mẹ, đội khăn che mặt, làm lễ bái đường trước bàn thờ tổ tiên, sau đó lên kiệu hoa về nhà chồng.

Lễ vật có thể xa hoa hay đơn giản, tùy theo hoàn cảnh gia đình hai bên, nhưng tuyệt đối phải giữ nghiêm “Lục lễ” không được bỏ qua bước nào cả. Chính vì vậy, Thánh nhân lấy việc trọng đại của đời người con gái – vì chỉ có một lần, nam nhân xưa kia có thể có năm thê bảy thiếp, tức nhiều lần hơn nữ - thể hiện cho sự nghiêm túc trong việc sửa mình của người Quân tử, lấy các bước không thể bỏ qua của việc lấy chồng, làm chỗ minh họa cho sự tiến lên từng bước không được nóng vội của việc sửa mình. Thánh nhân lấy việc Đời để tỏ việc Đạo, quả là ân cần chu đáo, như “Cha” dặn “Con”, chẳng khác chi Bổn sư Thích Ca Mâu Ni dặn dò đệ tử về phép “Tiệm thứ tu hành”: Giới – Định – Tuệ vậy.

Kinh nói: Cát, lợi trinh.

Tuần tự từng bước chẳng nóng vội bỏ qua bước nào, tiến bước nào chắc chắn thành tựu bước ấy, như người leo núi cách xa mặt đất lại không dây an toàn chỉ có tay chân bản thân làm chỗ dựa vào, sự sửa mình cẩn thận vững vàng như thế thì được sự “Cát” Hỷ, dẹp bỏ những suy tưởng hão huyền xa rời thực tế làm rối loạn tâm trí, giữ lòng mình trong sạch “Trinh”, như người thiếu nữ về nhà trồng mà còn vẹn nguyên tiết hạnh thì ắt được sự “lợi” ích rõ ràng.
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1749014609475.webp

Lôi Trạch Quy Muội

歸 妹: 征 凶 . 無 攸 利 .
Quy muội: Chinh hung. Vô du lợi.

Chữ “Quy” ở đây với ở trên là một, đều chỉ việc người nữ đi lấy chồng. Tuy cùng là một sự việc lấy chồng, nhưng tâm trạng tình trạng của hai người nữ lại khác nhau hoàn toàn, nếu không muốn nói là trái ngược.

Kinh nói: Quy muội.

“Muội” nghĩa là em gái nhỏ, nằm trong mối liên hệ “huynh, đệ, tỷ, muội” (anh trai, em trai, chị gái, em gái) của một gia đình, khi gọi tên “muội” thì ngầm hiểu rằng người gọi là “huynh” hoặc là “tỷ”, tức là ngữ cảnh ít nhất phải có hai người thân nhau trở lên. “Nữ” là chỉ người con gái đã đủ tuổi kết hôn, còn “Muội” là chỉ người con gái còn ít tuổi nên không được phép thành hôn, vì tâm sinh lý đều chưa đảm bảo để thực hiện việc đó mà không để lại di chứng hay hậu quả xấu về sau.

Nay chưa tới thời, tới tuổi mà lại phải đi lấy chồng, nhà nhiều người mà lại bắt "em gái" phải đi xa, thế thì rõ là một bên “được” còn một bên “bị”, cho nên xoay quanh chữ “Quy” mà “nữ” thì đứng trước, “muội” thì đứng sau. Đứng trước thì là người được hỏi ý kiến, được quyền quyết định; đứng sau thì là người không được quyền quyết định, chỉ có thể chấp nhận mà làm theo. Một bên thì chủ động, một bên thì bị động, một bên thì vui vẻ hạnh phúc, một bên thì âu sầu lo lắng, thậm chí còn có phần “sợ hãi”, bởi sắp đi tới một nơi hoàn toàn xa lạ, sống với người chẳng chút tình thân, huống hồ còn phải làm những việc gì, bản thân cũng chưa đủ “trải nghiệm” và “hiểu biết” để mà hình dung ra nổi, không lo lắng, không sợ hãi thì đúng là điều vô lý.

Nay Thánh nhân lấy hai hình tượng người nữ lấy chồng để tả cho cùng một việc quan trọng là sửa mình của người Quân tử. Nếu người Quân tử ý thức rõ ràng rằng việc sửa chữa lỗi lầm thiếu khuyết của mình là cần thiết, tức là ở tâm thế chủ động thực hiện, thì sự thực hiện ấy sẽ có thứ tự có lớp lang, không nóng vội và bình tĩnh tiến lên từng bước chắc chắn cụ thể, được bước nào thành tựu bước ấy thì ắt gặt hái được những điều tốt đẹp mà cũng có thêm niềm vui. Bằng như chẳng biết tới việc sửa mình, chỉ đợi tới khi hoàn cảnh bức bách, không thể phản kháng chống cự đành thuận theo, tâm thế ở tình trạng bị động như vậy, bản thân ở tình trạng ngơ ngác như vậy, thì chẳng khác nào em gái mới lớn mà phải đi lấy chồng, trước không biết sẽ gặp chuyện gì, sau không rõ sẽ đi về đâu, bơ vơ mông lung, chân bước hú họa theo dòng đời xô đẩy, theo nghiệp quả luân hồi, thế thì ắt phải gặp những điều trái ý nghịch lòng, những cảnh tượng âu sầu ưu uất, thành tựu cũng không mà hạnh phúc thì lại càng xa vời. Phải nên nhận thức mà tự cảnh tỉnh, ấy là nghĩa thực sự của “Quy muội”.

Kinh nói: Chinh hung, vô du lợi.

“Chinh” nghĩa là đi xa. “Du” nghĩa là nơi, chốn. “Hung” nghĩa là xấu, không tốt lành, là sợ hãi. “Lợi” nghĩa là tốt đẹp, có ích. “Vô” nghĩa là không có.

Toàn câu Kinh trên nghĩa là: Đi xa xấu lắm còn lo, chẳng nơi tốt đẹp để mà về đâu.

Tuổi còn nhỏ - “muội” - như người còn nhiều lỗi lầm, còn nhiều lỗi lầm mà lại đảm đương trách nhiệm khó khăn, công việc trọng đại - "Quy", thì nhất định phải gặp trắc trở, tất nhiên phải gặp điều không tốt lành “hung”, chẳng kể là việc đó đưa mình tới đâu, có phải đúng nơi như mình kỳ vọng hay không, thì đều là không có “lợi” ích. Tình cảnh này nó ứng với câu sau đây của người xưa:
“Tiểu nhân vị tu thân, tác đại sự tất bại” – Kẻ chẳng có trí sửa mình hướng tới đức hạnh của Trời Đất, thì đảm nhiệm việc lớn làm sao tránh khỏi sự thất bại.
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
326
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
Thói hư tật xấu bủa vây,
Như là vỏ cứng bọc lâu chắc bền
Quyết chí dụng sức phá nên,
Lợi dụng "hình ngục" mới mềm lỏng ra.
Chứ mà buông thả bỏ qua,
Thân thời bất tịnh, ý thời lăng xăng.
Chẳng những thiện nghiệp khó xong.
Mà như ác hạnh dễ quàng vào ngay.
Cho nên "Phệ Hạp" tỏ bày,
"Tỉnh" thời nối gót, rõ ngay Đạo "mầu".
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm
Top