Hỏi: Kinh sách Mật môn nhiều như vậy sao nói là ít?
Đáp: - Ít là vì so với rừng kinh điển Phật Giáo
- Ít là vì chưa nói lên được thực chất của Mật Thừa
- Ít là vì những bộ kinh lớn chưa được dịch.
Hỏi: Kinh lớn là kinh nào?
Đáp: Hai bộ kinh lớn của
Mật Tông hiện giờ ở Việt Nam chưa ai dịch, đó là:
- Đại Nhật Kinh
- Kim Cang Đảnh Kinh
Hỏi: Tại sao vậy?
Đáp: Vì các vị tôn túc chưa hội đủ nhân duyên để làm. Đây là cả một công trình lớn, cần sự đóng góp của nhiều người, và tốn nhiều công phu cùng với thời gian … Ngoài ra, còn đòi hỏi người dịch phải có trình độ thực tu, thực chứng nữa.
Nhưng bạn đừng lo, chỉ với số ít ỏi được giới thiệu trên kia, nếu bạn chọn lấy một pháp, rồi chuyên nhất mà tu hành, thì chắc chắn cũng được giải thoát.
Hỏi: Làm thế nào để chọn Pháp, và nên chọn Pháp nào?
Đáp: Phải cần có thầy, có bạn và phải được thông suốt phần căn bản Mật Tông.
Hỏi: Làm thế nào để tìm thầy Mật Tông?
Đáp: Có nhân duyên thì gặp. Về Mật môn thì thầy đi tìm trò nhiều hơn là trò đi tìm thầy.
Hỏi: Ở Việt Nam pháp Mật nào phổ biến hơn cả?
Đáp: Đại Bi và Chuẩn Đề.
Hỏi: Đại Bi và Chuẩn Đề thì đa số các nhà chùa theo Bắc Tông đều có trì tụng, như vậy là Mật Tông cả sao?
Đáp: Đúng! Đa số nghi thức của những nhà chùa bên Bắc Tông đều có trì Đại Bi, Chuẩn Đề và Bát Nhã, nhưng đó chưa hẳn là Mật.
Hỏi: Vậy là Hiển hay sao?
Đáp: Người tu Mật không phân biệt tách rời Hiển và Mật, mà quan niệm là “Tức Hiển tức Mật”, có nghĩa là Hiển mà Mật đấy, Mật mà Hiển vậy.
Hỏi: Xin nói rõ hơn.
Đáp:Vì đặc tính của dân tộc ta cương cường mà nhu hòa nên các tôn giáo và tư tưởng vào đây dần dần bị biến đổi để thích ứng với địa phương.
Cũng vậy, Đạo Phật phổ biến ở Việt Nam từ đời Đinh rồi cùng dân tộc này trải qua bao nhiêu chìm nổi đổi thay, nên giờ đây các chùa Bắc Tông cũng mang một sắc thái đặc biệt khác hẳn chùa các nước Trung Quốc, Nhật, Campuchia, Thái Lan, Ấn Độ… (mấy nước kể sau đa số là Nam Tông). Khác nhau ở chỗ dung hòa trong nghi thức không chia rõ chùa Thiền, chùa Mật hay chùa
Tịnh Độ Tông. Điều này có nghĩa là một sự dung hòa các Pháp Môn.
Bước vào chùa, đầu tiên vào nhà Tổ thì thấy thờ Đạt Ma Tổ Sư là vị Tổ Thiền. Lên chùa thì thất cả tượng Đức Di Đà, Đức Thích Ca, Đức Văn Thù, Đức Phổ Hiền, Đức Quan Âm, Đức Chuẩn Đề… Nghĩa là đủ tượng của Tịnh Độ, của Mật, của Thiền… Sang phần nghi thức hành lễ thì có đọc Chú, có tụng kinh, đó là vừa hiển, vừa Mật đấy.
Đây cũng là điểm đặc sắc của Đạo Phật ở nước ta, thường thường các thầy tu theo hai đường:
- Thiền Mật song tu
- Tịnh Mật song tu.
Ở Việt Nam chưa có một chùa nào riêng của Mật Tông , thờ theo đúng Mạn Đà La, tức là Đàn Pháp Mật, với các vị Phật Mật tông như Tỳ Lô Giá Na… giống bên Nhật. Do đó Mật Tông mà chúng ta hành trì ở đây thường tự tu tự chứng, không có một sự truyền thừa rõ ràng và phần nhiều là “TẠP Mật” không phải “THUẦN Mật”.
Hỏi: Thế nào là tạp?
Đáp: - Tạp vì không chuyên nhất, thí dụ như tu Tịnh Độ mà lại trì chú Chuẩn Đề.
- Tạp vì tự học, tự hành, không được truyền thừa có hệ thống.
- Tạp vì giáo pháp tiếp nhận từ ứng thân Đức Thích Ca Mâu ni, thay vì từ pháp thân Đức Tỳ Lô Giá Na.
Nhưng dù sao tạp hay thuần thì cũng đều đi đến cứu cánh là giải thoát.
Hỏi: Mấy câu hỏi vừa nêu đã đi xa tiêu đề của phần II là Người tu Mật Tông làm gì? Giờ xin quay lại chủ đề.
Đáp: Muốn biết làm gì thì cần nắm vững vấn đề trước đã.
Tu Mật là tu TÂM, tu PHÁP, dùng Pháp làm phương tiện, mà phải biết dùng “PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO” để đạt cứu cánh giải thoát cho mình và người.
Hỏi: Thế nào là phương tiện thiện xảo?
Đáp: Phương tiện thiện xảo là phương tiện thù thắng khéo léo, phương tiện nhặm lẹ và chắc chắn, phương tiện vững vàng mà hiệu quả, phương tiện nhiệm màu và thâm thúy nhất, để đưa người tu Mật vượt bể khổ luân hồi đến được bờ giải thoát ngay trong đời này.
Phương tiện đó đối với Mật môn là CHÂN NGÔN.
Hỏi: Chân ngôn thì thật nhiều, nhưng biết dùng ra sao?
Đáp: Đó là chúng ta bắt đầu đi vào vấn đề thật sự.
Cũng như người lái xe, xe đi nhanh hay chậm do nơi tài xế, lái khéo hay dở cũng bởi bác tài. Vậy có xe trong tay rồi, còn phải đòi hỏi những điều kiện cần thiết khác nữa, thí dụ như sự lanh trí, phản ứng nhặm lẹ và đôi mắt tinh tường cùng sức khỏe sung mãn… Người tu Chân ngôn cũng như vậy.
Khi bạn đã có pháp trong tay rồi, chỉ cần một pháp thôi – thì bạn cần phải có:
- Một niềm tin không gì lay chuyển nổi
- Một chí nguyện rộng lớn vô hạn,
- Một nguyện lực mãnh liệt vô biên.
- Một nghị lực vững bền kiên cố
Đó là tất cả sự chánh tâm thành ý đòi hỏi, và cũng là điều kiện để ly sanh tử vậy.
Hỏi: Ngoài 4 điểm trên còn phải dọn Tâm thế nào?
Đáp: Muốn vào pháp và chắc chắn đi đến thành tựu thì người tu Mật phải:
a. Đối với mình:
- XẢ tất cả
- PHÁ tất cả
- LÀM tất cả
b. Đối với người:
- CHUYỂN tất cả
- THẮNG tất cả
- THÀNH tất cả.
Hỏi: Xin nói rõ 3 điểm đối với mình.
Đáp: Thực hiện 3 điểm này để được nhất tâm và luôn trong chánh niệm:
XẢ TẤT CẢ là bỏ “cái TA” và “cái CỦA TA” tức là Ngã và Ngã Sở.
PHÁ TẤT CẢ là phá cái ”TÂM PHÂN BIỆT” và “KIẾN CHẤP”.
LÀM TẤT CẢ là “LÀM CÁC THIỆN NGHIỆP” và hằng thường giữ Thân, Khấu, Ý lành.
Hỏi: Xin cho biết thêm về 3 điểm đối với người.
Đáp: Đối với người thì phải thường tùy hỷ và lấy “BI TÂM” mà đối xử để:
CHUYỂN TẤT CẢ là: Dựa vào bi nguyện của chư Phật, chư Bồ Tát và đem tất cả công đức lực của mình để chuyển hóa cho người khiến nghiệp dữ thành lành, hướng về chánh pháp tu hành.
THẮNG TẤT CẢ là: Bằng phương tiện thiện xảo, bằng nguyện lực bằng chánh tâm để thắng mọi tà ngụy.
THÀNH TẤT CẢ là: Người tu Chân ngôn mang tâm Bồ Tát làm việc Phật làm nên “khởi niệm tất thành”, đó là chỗ thắng diệu của Pháp vậy.
Hỏi: Thật khó thực hiện những điều vừa kể, xin cho thêm ý kiến để củng cố niềm tin.
Đáp: Người tu Mật là người sống trong nhân quả mà vượt lên trên nhân quả. Sống trong nghiệp lực mà chuyển nghiệp lực, do TÂM, do PHÁP và do HÀNH. Nếu bạn đã có quyết tâm và biết pháp giải thoát thì cứ hành đi nhất định sẽ thành. Bạn đã có chìa khóa của sự thành công rồi, giờ hãy vững tin mà tiến bước.
Hỏi: Giả sử như bây giờ tôi đã quyết tâm, vậy thì còn cần thêm gì nữa không?
Đáp: Đã quyết rồi phải cần nhất tâm.
Đã nhất tâm rồi cần chuyên chú, siêng năng như gà ấp trứng thì mới đạt kết quả tốt.
Hỏi: Với kinh nghiệm của người đi trước, ông thấy còn khó khăn gì?
Đáp: Cái khó khăn nhất mà tất cả những người mới bước vào con đường “Mật thừa” đều gặp đó là:
ƯA thích thần thông, hoặc
MUỐN mau chóng được một cái gì, thành một cái gì!
Tâm lý này cũng đúng thôi, nhưng nó lại trở thành chướng ngại lớn cho hành giả.
Hỏi: Tại sao mong cầu hợp lý mà lại gây trở ngại?
Đáp: Ưa thích thần thông tức mong muốn có quyền năng hoặc là siêu nhân, đó là phát triển tự ngã. Mong mau chóng kết quả là bạn còn tham, còn cầu, còn chưa làm chủ thật sự tâm mình. Và khi bạn vào “tu Pháp Mật” mà còn với tư tưởng đó thì kết quả rất là hạn chế, và khó mà chuyên nhất.
Hỏi: Vì sao?
Đáp: Lại vì sao nữa! Tam tổ Thiền Tông Tăng Xán đã viết trong Tín Tâm Minh là:
“Đừng hỏi vì sao nữa,
Thì hết chuyện sai ngoa!”
Xin trả lời cái “vì sao” của bạn nhé!
Vì mục đích của bạn là đi tìm cầu, có khi cầu lớn lai, mà có khi chỉ là cầu tri kiến. Vậy nếu cầu lớn lao thì là “tham”, mà cầu tri kiến thì “sai”, là “lạc”, cả hai trường hợp đều hỏng hết. Tại vì muốn vào Pháp Phật thì phải lìa TRI KIẾN, khi đó bạn sẽ hiểu hai câu này”
“Phật với chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn”.
Bạn cứ chuẩn bị tinh thần sẵn sàng thì khó khăn nào chẳng vượt qua, trở ngại nào mà chẳng khắc phục.
Hỏi: Thế thì phải chuẩn bị tinh thần thế nào?
Đáp: Tinh thần chân thực và buông xả.
Hỏi: Nghĩa là thế nào?
Đáp: Chân thực là:
TRỞ VỀ chính mình
HIỂU THỰC lòng mình
KHẨN THIẾT vào Đạo
Buông xả là:
BỎ HẾT tri kiến
DẸP HẾT mong cầu.
Đó mới là bước đầu của người ngộ Đạo. Nếu bạn đi tìm chân lý chỉ bằng lý trí của bạn thì không thể thấy được “CÁI THỰC – LẼ THỰC”, vì theo Phật pháp, những hiểu biết nhiều quá sẽ là “sở tri chướng” làm ngăn con đường vào Đạo.
Hỏi: Nãy giờ tôi nghe tu Mật cái gì cũng vì người, cho người, thế là “tu” mà chẳng được gì à?
Đáp: Chính cái chỗ “chẳng được gì cả” của bạn là được nhiều lắm đấy! Điều này chắc bạn không tin, vì bạn đã đi vào đâu mà tin được!
Giờ nếu bạn đã quyết tâm và có hành trang đầy đủ rồi thì xin bạn hãy lên đường. Chúc bạn sớm gặp được duyên may.
Hỏi: Khoan! Xin cho hỏi câu cuối cùng: Thế nào biết là thành tựu?
Đáp: Phật nói “Tự tu tự chứng” vậy thì thành quả không ai giống ai. Có người thành tựu lớn, có người thành tựu nhỏ. Tùy theo căn cơ, phước đức, công phu của mỗi người.
Tuy nhiên, bạn đã hỏi thì phải trả lời:
Thành tựu nói chung của những người “TU GIẢI THOÁT” không phải ở chỗ “biến hóa thần thông, hô phong hoán vũ” mà là tự thấy được:
TÂM PHÀM của mình ngày một mất,
NGHIỆP XẤU ngày một bỏ,
TỪ BI ngày một tăng,
TINH THẦN ngày một an ổn,
TRÍ THẤY BIẾT ngày một sáng,
GIẢI THOÁT ngày một gần …
Bạn đã an tâm chưa? Bây giờ khởi hành chứ, kẻo trễ quá rồi, vô thường đâu có đợi bạn?
Đừng để phí ngày này
Đừng để phí kiếp này
Sau này chắc gì gặp được chánh pháp
Cơ hội khó có lần thứ hai!
Chúc bạn thành công.
Xin hồi hướng công đức về mười phương Tam Bảo, và tất cả chúng sanh trong các cõi.
Sau khi đọc xong phần II này, nếu bạn thấy được điều gì hay, mới, thì đó là bởi căn nghiệp phước đức của bạn đã có sẳn, nên hồi hướng về “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ”
TU MẬT
Đừng đòi những pháp nhiệm màu,
Hãy chờ những pháp không cầu mà nên
Thần thông thì chẳng có tên,
Chẳng cần tác ý tùy duyên hiện bày,
Tu mật phải hiểu lẽ này,
Còn tham, còn vọng còn đầy quỷ ma,
Phật thường vẫn nhắn nhủ ta,
Đừng đem quỷ tới thay ma trong người.
Hành giả tu Mật vào đời,
Cứu sanh độ chúng trời người đều thông
Con đường “Mật Hạnh” cửa KHÔNG
Trang nghiêm quốc độ Mật Tông thường làm,
Thênh thang chánh pháp rõ ràng,
Vào đời cứu độ chẳng màng tử sanh,
Cởi mình khỏi trói lợi danh,
Chuyển Thân Tâm biến mau thành NHƯ LAI.
18-7-1992
MẬT NGHIÊM
Nói thì dễ lắm, nhưng làm thì thật khó “Thiên nan vạn nan” bạn hãy hành đi và thật sống trong đó thì mới giải thoát được.