vienquang2

NƠI SẼ SINH VỀ - sau khi chết.- (Th Nhật Từ)

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,436
Điểm tương tác
1,404
Điểm
113
Bài 20.- TỬ NẠN - THÁI ĐỘ VÀ 3 PHẢN ỨNG TÂM LÝ

Thứ nhất, phản ứng từ phía xã hội thì lẫn lộn, khen ngợi và nhận định một cách máy móc cũng có. Người Phật tử đứng
trước cảnh sinh ly tử biệt, phản ứng đầu tiên là thể hiện lòng từ bi bằng một phút mặc niệm để cầu nguyện cho các hương hồn ra đi trong trạng thái thiếu sự chuẩn bị được siêu thoát. Đối với những tình huống chết một cách đột ngột, nên làm lễ cầu siêu tập thể, chỉ cần mỗi người có tấm lòng là có thể thiết lập trai đàn cầu siêu giúp cho các nạn nhân.

Niệm một câu thần chú Vãng Sanh, hoặc trì danh hiệu đức Phật A-di-đà bằng cả tấm lòng, truyền hết năng lượng từ bi và phước báu của ta mong các hương linh đừng tiếc nuối về gia đình, gia tài, sự nghiệp để về cảnh giới an lành của chư Phật. Nghĩa cử cao thượng này dù rất đơn giản nhưng mang ý nghĩa rất lớn, là hành trang công đức giúp cho người ra đi.

Thứ hai, phản ứng từ phía gia đình các nạn nhân cũng là một phản ứng lẫn lộn. Nhiều gia đình tự giằng xé lương tâm bằng những từ “giá mà” hoặc “phải chi”. Chẳng hạn: “phải chi mấy ngày trước tôi tìm cách ngăn cản con thì hôm nay nó đâu bị chết”, “muốn làm từ thiện thì có thể gởi tiền đến các cơ quan chuyển dùm, đâu cần phải đích thân đi...”, “phải chi tôi yêu cầu nó đi vào ban ngày thì nó đâu có chết” v.v.. Đây là mệnh đề đặt giả thuyết về tình huống xảy ra, và ước nguyện của gia đình thân nhân đi ngược hoàn toàn với những tình huống đó. Điều này càng làm cho nỗi đau thêm dâng trào, thân nhân của người tử nạn không muốn thừa nhận cái chết đã diễn ra với người thân của họ. Sự tiếc nuối kéo theo những giọt nước mắt, nỗi đau, và trạng thái căng thẳng.

Trong trường hợp những người thân từng có quan hệ không tốt với người quá cố sẽ cảm thấy ân hận, tự trách móc bản thân:“phải chi mấy ngày vừa qua mình không xích mích với nhau, có lẽ người đó sẽ không đi từ thiện thì đâu xảy ra hậu quả như vậy.” Các phản ứng trên được kinh điển đạo Phật xác định, đó là tình thương yêu thiếu tính cách xây dựng và dẫn đạo bởi quy luật sống và chết, khiến khổ đau của người quá cố gia tăng.

Người chết khi cảm nhận tình thương yêu của người còn lại không hướng họ về con đường siêu sanh thoát hoá thì cảm xúc yêu thương đó sẽ kéo dài tình trạng thân trung ấm, tức là cảnh giới trung gian giữa cái chết và một đời sống mới
trong tiến trình tái sanh.

Một phản ứng khác lại cảm thấy rất hãnh diện, tự hào vì người thân hi sinh trong lúc thực hiện nghĩa cử cao thượng cho
xã hội, cộng đồng. Nỗi đau vẫn có, nhưng họ biết cách chuyển hoá nỗi đau bằng tâm lý tích cực. Khuynh hướng tâm lý tích cực hoàn toàn phù hợp với đạo lý nhà Phật về bản chất và giá trị đời sống thông qua cách thức sống như thế nào.

Riêng cái chết có thể liên hệ đến nhiều yếu tố như quy luật nhân quả, rủi ro do bất cẩn, và nhiều tình huống khác. Vì vậy, đừng bận tâm về cách chết thương tâm hay chết thư thái, nhẹ nhàng để qui kết vào tình huống nghiệp nặng hay nhẹ.

Trong nỗi khổ niềm đau của người được nhận, nếu thiên về cách giải thích tiêu cực về định nghiệp, định mệnh sẽ làm cho nỗi đau gia tăng gấp bội. Điều cần thiết nên chia sẻ là cái chết của người bị thảm nạn trên đường làm từ thiện là cái chết xứng đáng.

Trong suốt tám năm (từ 1994 đến 2002) tôi du học tại Ấn Độ, năm nào cũng theo dõi tin tức báo chí về những chuyến
hành hương và làm từ thiện của người dân Ấn Độ. Mỗi năm, báo chí đều đưa tin những chuyến hành hương và từ thiện như thế thường gặp sự cố về tai nạn và chết dọc đường. Lúc ấy, có một mẩu tin đăng trên báo khiến tôi rất tâm đắc. Đó là gia đình một nạn nhân gặp nạn trong chuyến hành hương đã viết bài chia sẻ. Phần đầu nói về nỗi buồn và nước mắt của cuộc chia ly, vĩnh biệt người thân, và phần tiếp theo nói về niềm hãnh diện tự hào với một câu rất ấn tượng:“chúng tôi rất vui mừng vì người thân của chúng tôi được rước về Phạm Thiên”. Phạm Thiên là Chúa Trời theo quan niệm Ấn Độ giáo.

Niềm tin tôn giáo giúp họ tâm niệm rằng, trong lúc thực hiện nghĩa cử cao đẹp mà qua đời thì người đó sẽ được tái sanh vào cảnh giới cõi trời, cho nên chẳng có gì phải đau buồn. Tuy nỗi đau buồn, mất mát chắc chắn phải có bởi tình người, nhất là tình thân khó mà ngăn được dòng cảm xúc, nhưng niềm vui mừng, hãnh diện trước việc làm của người quá cố thì cận tử nghiệp này sẽ quyết định tiến trình tái sanh cho người ra đi. Nếu trong quá khứ ta từng có người thân bị tử nạn khi công tác từ thiện xã hội, hoặc do tai nạn giao thông, thiên tai, lũ lụt v.v... thì nên quan niệm tương tự như thế. Không để cho nỗi buồn chi phối, mà hãy tìm cách phóng thích, chuyển hóa nó bằng khuynh hướng và suy nghĩ tích cực thì kẻ còn lẫn người mất đều cảm thấy an vui.

Thứ ba, phản ứng từ bản thân người làm từ thiện gặp tử nạn.
Với tình huống 12 người gặp thảm nạn chết tại chỗ thì không ai đo lường được dòng cảm xúc và phản ứng tâm lý của họ như thế nào.Đặt giả thuyết thứ nhất, những người này đang thiếp đi trong một giấc ngủ dài trên xe, và đến giữa khuya thì tai nạn xảy ra.- Họ không hay biết hoặc ý thức về tai nạn xảy ra nhưng cái chết đã xuất hiện. Niềm hân hoan trong những ngày đi vận động các nhà hảo tâm đóng góp đã khiến họ giữ được trạng thái vui mừng, hạnh phúc cho đến lúc cái chết diễn ra.

Tiến trình cận tử nghiệp trong an vui, hạnh phúc khi giúp đỡ người khác là hành trang quý báu, chắc chắn một trăm phần trăm rằng những người này khi tái sanh làm lại con người, trong tâm họ đã có sẵn cơ nghiệp, hạt giống làm từ thiện và hạnh phúc với việc từ thiện.- Mất mát đó có thể để lại nỗi đau cho người thân của họ, nhưng bản thân người ra đi lại không ân hận, nuối tiếc, vì họ đã làm được việc đáng tán thán và có giá trị cho đời sau.

Đặt giả thuyết thứ hai, trong tình huống cái chết xảy ra trong vài phút sau đó, tức là các nạn nhân có thể rơi vào trạng thái hôn mê, rồi tiếp theo cái chết đến từ từ, ít nhất là vài giây sau tai nạn.

Trong tình huống này, bản thân nạn nhân - người không có lập trường dễ bị lay động và khuynh đảo niềm tin. Trạng thái nuối tiếc sự sống bắt đầu xuất hiện trong tâm,“phải chi mình không đi từ thiện thì đâu bị chết như vậy”. Chính tâm lý nuối tiếc này làm cho con đường tái sanh của các nạn nhân gặp nhiều trở ngại.- Họ chưa sẵn sàng ra đi, và đến lúc tái sanh ở đời sau sẽ mang theo quán tính thói quen luôn dè dặt trước nghĩa cử cao thượng khi phải dấn thân làm việc thiện, mà không lý giải được tại sao.- Có thể họ thích công việc từ thiện, nhưng khi được mời gọi thì họ luôn dè dặt, từ chối bằng cách này hay cách khác.

Mong rằng các nạn nhân bị thảm nạn vừa qua không có cảm giác nuối tiếc vì nghĩa cử cao thượng đó.

Đề cập đến ba phản ứng tâm lý từ cộng đồng, người thân, và chính bản thân của nạn nhân để thấy rõ các góc độ tâm lý diễn ra ở mỗi người. Tình thương yêu và sự hiểu biết nhân quả sẽ giúpngười Phật tử gần gũi với cuộc đời, dấn thân vào xã hội bằng mọi cách.- Ai không có của thì đóng góp bằng tấm lòng, không trực tiếp thì gián tiếp bằng nhiều hình thức như vận động, khuyến tấn, tán thán để chất liệu của lòng từ bi được gieo rắc khắp nơi.

 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,436
Điểm tương tác
1,404
Điểm
113
Bài 21.- BẢN CHẤT NGHIỆP VÀ THỌ MẠNG

Trong bài đây, tôi chỉ phân tích đến nghiệp chung và nghiệp riêng liên hệ đến tuổi thọ và mạng sống.

Bản chất của nghiệp liên hệ đến tuổi thọ và mạng sống là thái độ và hành động tôn trọng mạng sống của người khác, các loài vật và thậm chí là môi trường sinh thái.

CHẾT ĐI VỀ ĐÂU ?.- (Th Nhật Từ) Phzng_11


Người phát tâm ăn chay trường thấy rõ các loài động vật cũng có tình thương yêu đời sống như con người. Chỉ có điều chúng không thể chia sẻ về quyền được sống và cần sự bảo hộ như con người.

Người từng có quá trình gieo hạt giống tạo sự sống, chẳng hạn như nghề bảo vệ rừng để rừng khỏi bị cháy, đồng thời giúp cho muông thú và côn trùng sống tại đó không bị chết cháy; hoặc người làm công tác đắp bờ đê chống lũ, người tuyên truyền kêu gọi hòa bình, người khuyến tấn, hướng dẫn và giúp đỡ người khác ăn chay v.v… tất cả đều là những người đang thực hiện gieo hạt giống về mạng sống và tuổi thọ.n chất của nghiệp có những tính chất chung và riêng.

Sự khác nhau giữa tính chất chung và riêng liên hệ đến phước lực tuổi thọ và đời sống. Nó là sự kết nối của một quá trình liên hệ đến nhiều kiếp sống đời trước và hiện tại.

Có nhiều loại hình nghiệp chung (cộng nghiệp) và nghiệp riêng (biệt nghiệp). Dưới đây, tôi chỉ phân tích đến nghiệp chung và nghiệp riêng liên hệ đến tuổi thọ và mạng sống.

Bản chất của nghiệp liên hệ đến tuổi thọ và mạng sống là thái độ và hành động tôn trọng mạng sống của người khác, các loài vật và thậm chí là môi trường sinh thái.

Người phát tâm ăn chay trường thấy rõ các loài động vật cũng có tình thương yêu đời sống như con người. Chỉ có điều chúng không thể chia sẻ về quyền được sống và cần sự bảo hộ như con người. Người từng có quá trình gieo hạt giống tạo sự sống, chẳng hạn như nghề bảo vệ rừng để rừng khỏi bị cháy, đồng thời giúp cho muông thú và côn trùng sống tại đó không bị chết cháy; hoặc người làm công tác đắp bờ đê chống lũ, người tuyên truyền kêu gọi hòa bình, người khuyến tấn, hướng dẫn và giúp đỡ người khác ăn chay v.v… tất cả đều là những người đang thực hiện gieo hạt giống về mạng sống và tuổi thọ.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,436
Điểm tương tác
1,404
Điểm
113
Bài 22.- Nghiệp riêng (Biệt nghiệp) & Chung (Cộng Nghiệp)

+ 1. Nghiệp riêng (Biệt nghiệp) : về phước lực tuổi thọ được tích chứa ở những người sống sót thông qua các tai nạn trong khi những người đồng nạn khác đều chết, cho thấy năng lực hạt giống về mạng sống ở người đó quá nhiều, dù cái chết bất đắc kỳ tử có diễn ra vẫn không thể cướp đi mạng sống của họ. Người không gieo trồng hạt giống bảo vệ mạng sống nhưng cũng không phá hoại mạng sống thì tuổi thọ và nghiệp lực tuổi thọ chỉ ở mức trung bình. Vì vậy, khi sự cố tai nạn xảy ra thì họ cũng như bao nhiêu người bị nạn khác, không thể níu kéo được sự sống.

Dựa vào tính chất chung và riêng của nghiệp cho thấy không có định mệnh hoặc định nghiệp. Mạng sống con người do chính hành vi, suy nghĩ và cuộc đời của người đó tạo ra. Dĩ nhiên, nó chịu sự tác động và chi phối của con người xung quanh, người trực tiếp hay gián tiếp liên hệ đếcái chết và sự sống.

+ 2. Nghiệp chung (Cộng nghiệp):
Cứ hằng ngày, hằng giờ, ta thường nghe đến những sự kiện chết tập thể rất thương tâm và đau lòng. Tất cả đều liên hệ đến nghiệp chung. Trong thời hiện đại, chúng ta có cơ hội tạo nghiệp chung khá nhiều mà không biết. Phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet là chất xúc tác để nghiệp chung được diễn ra.

Trước đây, khi một sự kiện xảy ra ở địa điểm nào đó trên trái đất thì chỉ cư dân nơi đó mới biết rõ thông tin, nhưng ngày nay nhờ phương tiện vệ tinh, truyền hình, truyền thanh và báo chí, người ta nắm rõ chi tiết từng sự kiện một. Thái độ phản ứng trước những sự kiện có thể cùng vui hay buồn, cùng đồng tình hay phản đối, cùng tán thán hay chỉ trích. Tất cả những hành động“cùng” này được gọi là cộng nghiệp.

Ví dụ khi đưa tin trực tiếp về vụ tai nạn máy bay xảy ra tại NewYork vừa qua với sự sốt sắng của những người làm công tác cứu hộ rất quý và đáng trân trọng. Sự cố đã dẫn đến cái chết cho ngôi sao bóng chày tên Korirido và người hướng dẫn lái máy bay của anh. Chiếc máy bay này đã lao vào một tòa nhà cao 50 tầng ở New York, trong đó có hai tầng bị bốc cháy đó là tầng thứ 39 và 40. Chiếc máy bay này cất cánh từ sân bay Tentênovo, NewJesey bay được 15 phút trước khi đâm vào tòa nhà, chỉ có hai người chết nhưng bị thương đến 21 người trong đội cứu hộ.

Xem truyền hình trực tiếp về vụ tai nạn, nhìn thấy nghĩa cử cao đẹp của những người dấn thân, nếu ai phát khởi tâm niệm tán thán về sự dũng cảm của đội cứu hộ thì xem như người đó đang gieo cộng nghiệp về bảo hộ tuổi thọ và sự sống. Dù không trực tiếp làm công việcnày, nhưng việc tùy hỷ công đức, khởi tâm niệm chia buồn, tụng câu thần chú hay niệm danh hiệu Phật v.v… tất cả những hành động trên đều tạo ra cộng nghiệp có ý nghĩa trong đời sống. Muốn được như thế, đòi hỏi người xem truyền hình phải có lòng từ bi, có sự hướng dẫn và thực tập từ bi để gieo nghiệp tích cực.

Khi nghe tin tức về chiến tranh, chúng ta có khuynh hướng đứng về phe liên minh và đối lập với phe còn lại. Cuộc chiến nào cũng có chánh nghĩa và phi nghĩa, nhưng cái chết vẫn thuộc về người dân vô tội. Đứng trước cái chết dù của bên nào, người Phật tử nên khởi lên tâm niệm từ bi, thương yêu và chia sẻ. Thực hiện được như thế là tạo cộng nghiệp tốt giúp ta có phước báu về mạng sống và tuổi thọ.

Trong tình huống về sự cố tai nạn, nghiệp riêng về lòng từ bi chỉ bị thương tật chứ không bị hoạn nạn, bởi nó được tiếp tục nuôi lớn. Trái lại, nếu đứng về phía một liên minh, ta nguyền rủa kẻ xâm lăng, tạo tội lỗi giết chóc, không thể hiện được tình thương với các binh sĩ nằm xuống của phe ấy, lúc đó lòng từ bi bị thương tổn, ta hài lòng với sự giết chóc là xem như đã tạo một nghiệp chung về giảm tuổi thọ. Điều này rất tế nhị và khó nhận biết, bởi nó liên hệ đến chủ nghĩa yêu nước, chính sách quốc gia, thể chế chính trị v.v… Cái chết nào cũng mang lại khổ đau như nhau, nếu các chiến sĩ ấy không được cầu siêu thì sự tái sanh của họ sẽ lại tiếp tục mang khổ đau cho những người khác, vì nghiệp đó chưa được chuyển hóa hoàn toàn.

Nghiệp chung và nghiệp riêng tạo ra khuynh hướng về tuổi thọ và mạng sống của con người ở hiện tại và tương lai. Dù
là cộng nghiệp hay biệt nghiệp, dù được cộng nghiệp hay biệt nghiệp giúp đỡ thì người Phật tử là thân nhân của người tử nạn nên quan niệm đây là nghĩa cử cao thượng. Không nên chán nản, thất vọng và lý giải sai lầm về cái chết liên hệ đến việc làm từ thiện. Các nhà làm từ thiện hãy mạnh dạn và dấn thân nhiều hơn để cuộc đời vơi bớt khổ đau. Đừng vì sự cố tai nạn làm thui chột lòng thương yêu của chúng ta.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,436
Điểm tương tác
1,404
Điểm
113

Bài 23.- TỬ TÙ - DƯỚI CÁI NHÌN PHẬT GIÁO

Vào ngày 12 -10 -2006, các phương tiện báo chí đưa tin về tử tù Nguyễn Thị Oanh sinh năm 1967, bị xử tử hình về tội buôn 20 bánh heroin, đang chờ ngày thụ án tại trại giam tỉnh Hoà Bình đã mang thai. Sự kiện này đã gây chấn động trong dư luận, bởi theo qui định của luật pháp Việt Nam và thế giớicho phép giảm án tử hình đối với tử tù đang mang thai vì tính chất nhân đạo. Bà được giam trong phòng biệt giam có không gian từ 6-9m2 , mọi sinh hoạt hằng ngày ngay cả tiểu tiện đều diễn ra trong khoảng không gian đó. Mỗi ngày, người làm công tác quét dọn vệ sinh và đưa cơm vào cho tử tù đều phải qua sự giám sát chặt chẽ của những cán bộ quản giáo. Theo qui định của trại giam, phòng biệt giam nữ chỉ có người nữ mới được phép vào làm công việc dọn dẹp vệ sinh. Nghịch lý thay, có một phạm nhân nam tên Nguyễn Tường Thiên lại được cán bộ trại giam cho phép thực hiện công việc này mỗi ngày trong thời gian nhiều tháng, kết quả là bà mang thai được 3 tháng. Vụ việc xảy ra khiến cho một thiếu uý và một cán bộ quản giáo tại đây bị bắt giam vì tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn tiếp tay cho hành vi sai trái, gây hậu quả nghiêm trọng.

Hình thức giảm án tử hình xuống tù chung thân đối với người có thai mang tính chất nhân đạo hoàn toàn phù hợp với đạo lý nhà Phật.

Ngày nay, trên thế giới có một số quốc gia bãi bỏ hoàn toàn khung hình phạt tử hình. Bởi việc xử tử hình sẽ không giúp cho người ăn năn, hối cải có cơ hội làm mới cuộc đời, ngoại trừ sự ăn năn, hối hận về phương diện cảm xúc. Tử tù muốn thể hiện sự hồi đầu cụ thể bằng hành động cũng không có điều kiện, vì cái chết đã cận kề.

Nền tảng giáo dục đạo đức Phật giáo nhấn mạnh đến hai phương diện: trừng phạt và giáo dục. Luật pháp trong xã hội lại thiên về sự trừng phạt, còn giáo dục chỉ mang tính hỗ trợ vì nó không thuộc trách nhiệm của trại giam. Ngay cả người làm công tác quản giáo tại trại giam cũng không được huấn luyện về tâm lý tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo giúp người phạm tội có cơ hội tháo gỡ nỗi khổ niềm đau đã gây cho con người và xã hội nói chung.

Trong mỗi ngôi chùa Bắc tông luôn thờ hai hình ảnh. Từ phía chánh điện nhìn ra, bên trái thờ tượng ngài Hộ Pháp - tượng trưng cho ông Thiện, bên phải thờ tượng ngài Tiêu Diện Đại Sĩ - tượngtrưng cho ông Ác. Gọi ông Ác không có nghĩa là ngài Tiêu Diện Đại Sĩ chuyên làm việc xấu ác, mà ngài tượng trưng cho luật pháp xã hội để trừng trị kẻ xấu ác, khi biện pháp giáo dục đạo đức trở nên bất lực, không thể chuyển hóa được kẻ xấu. Ngược lại, hình ảnh ngài Hộ Pháp lại tượng trưng cho nền tảng giáo dục và đạo đức. Nói cách khác, giáo dục trong Phật giáo dựa trên nền tảng ứng dụng cả hai khuynh hướng cùng một lúc.Có những con người chỉ cần áp dụng hình thức giáo dục đạo đức là có thể chuyển hóa họ lánh ác làm lành, tự động từ bỏ việc xấu ác trong quá khứ.

Chuyển hóa về nhận thức dẫn đến chuyển hóa về hành vi, kết quả là họ đã làm mới cuộc đời. Đây là những người có căn cơ tốt, hạt giống lành, phương tiện thuận lợi, và sự hỗ trợ tích cực. Bên cạnh đó, cũng có những người mà kinh A-di-đà gọi đó là người tính tình cang cường, khó hóa độ, và việc hoá độ về phương diện đạo đức (đức dục) không đủ sức. Lúc đó, khung hình phạt về phương diện luật pháp và hình sự mới thực sự cần thiết.

Tuy nhiên, đạo Phật không chấp nhận khung hình phạt tử hình.- Bởi vì giết chết một con người sẽ khiến người đó bị uất hận, khi mà tâm chưa thật sự chuyển hóa và nhất là chưa nhìn thấy việc làm sai trái của mình wần chuyển hóa. Chính vì thế, nên kết hợp cả hai phương diện giáo dục, vừa hình phạt và vừa truyền bá đạo đức song hành với nhau. Nếu chỉ áp dụng duy nhất khung hình phạt, người ta có thể sợ mà không làm. Chẳng hạn như nhìn thấy các loại hình tra tấn dã man, sống trong ngục tù phải đối diện với bóng tối, không có tự do, không có phương tiện giải trí, khôngđược sinh hoạt như một người bình thường v.v… có thể vì sợ nên họ không dám tái phạm nữa.

Thế nhưng gốc rễ của hành vi phạm tội vẫn chưa được khắc phục nếu họ mãn hạn tù.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,436
Điểm tương tác
1,404
Điểm
113
Bài 24.- (v/đ) phép TU TRONG NHÀ TÙ

Tại những quốc gia mà Phật giáo được xem là quốc giáo như Thái Lan, tử tù và tù nhân được huấn luyện về đạo đức và thực tập thiền định.

Hướng dẫn về đạo đức và Phật pháp, đặc biệt về nhân quả nghiệp báo giúp họ ý thức rằng, mỗi hành vi sẽ kéo theo phản ứng tốt xấu. Chính họ là người phải gánh chịu hoàn toàn những hành động do mình tạo ra, không thể trốn chạy
được. - Hiểu nhân quả, họ sẽ không dám làm.

Trong các nhà tù có ứng dụng phương pháp của Phật giáo, người ta cho treo những câu kệ về nhân quả ở mỗi phòng giam, chẳng hạn như: “Phàm làm việc gì cũng nên nghĩ đến hậu quả của nó”, chắc chắn phạm nhân sẽ sợ, không dám làm. Khi phải đối diện với khổ đau, tù tội, phạm nhân mới cảm thấy ăn năn, hối hận.

Những bài kệ về giáo dục nhân quả chính là chiếc phao đạo đức cứu vớt, để họ bám vào và từ bỏ tội ác bằng thái độ sám hối chân thành. Điều này tốt cho họ lẫn cộng đồng về sau.

Thái Lan là quốc gia áp dụng phương pháp giáo dục thông qua hình ảnh ngài Hộ Pháp, bằng việc thỉnh mời các vị giảng sư, pháp sư vào các trại tù giảng dạy cho phạm nhân, hướng dẫn họ tu Bát Quan Trai, làm công tác từ thiện xã hội v.v… Những tù nhân phạm tội nhẹ sẽ được người quản giáo dẫn đi làm công quả tại những ngôi chùa khác, và có người giám sát chặt chẽ.- Số phạm nhân phạm tội ăn cắp được dẫn đến các trung tâm để làm từ thiện, bằng cách đích thân trao tặng những phần quà cho người đang có nhu cầu.

Cảm xúc khi nhìn thấy người khác hạnh phúc vì nhận được một phần quà như vậy khiến họ biết trân quý tài sản được làm ra từ mồ hôi nước mắt. Từ đó về sau, họ không có suy nghĩ muốn cướp đi những tài sản không thuộc về mình.- Điều này tạo nên gốc rễ về lòng nhân ái, nếu ta biết kích thích, tạo chất xúc tác thích hợp thì hạt giống đó sẽ trổi dậy mãnh liệt. Về sau, họ không còn tái diễn lại hành động tội ác nữa. Sau khi học Phật pháp xong, tù nhân được tổ chức thi giáo lý ngay trong tù. Ai được điểm cao và có sự sáng tạo về khuynh hướng đổi đời, người đó sẽ được giảm án.

Khuynh hướng sáng tạo giúp phạm nhân có hướng suy nghĩ tích cực. Nó như một phương châm làm thay đổi cuộc đời họ về sau. Phương pháp tâm lý trong giáo dục tại Thái Lan rất ấn tượng và hiệu quả.

Ngoài ra, các trại giam còn nhấn mạnh đến phương pháp giáo dục thiền định cho phạm nhân. Đây là hình thức giáo dục mang tính chất tịnh nhiều hơn. Trước nhất, phạm nhân phải trải qua kinh nghiệm đối diện với khổ đau do chính mình gây ra bằng sự tù đày. Ý thức về tội lỗi như sự mặc cảm khiến phạm nhân có nhu cầu ăn năn sám hối.

Hằng ngày, phạm nhân được hướng dẫn phương pháp thiền tập, và phải thực tập ngồi thiền vào buổi sáng khi thức dậy và buổi tối trước khi đi ngủ. Phương pháp thực tập thiền ở đây khá đơn giản. Họ được hướng dẫn ngồi trong tư thế hoa sen bán phần hoặc trọn phần, còn được gọi là tư thế bán già hoặc kiết già. Tư thế hoa sen bán phần (bán già),nghĩa là bàn chân này nằm lên trên bàn chân khác.

Tùy vào sự thuận chân của mỗi người để có thể lựa chọn đặt bàn chân nào lên trên, và điều này không có sự qui định bắt buộc.

Tư thế hoa sen toàn phần (kiết già), nghĩa là hai chân bắt chéo vào nhau, lòng bàn chân trái nằm trên đùi phải và lòng bàn chân phải nằm trên đùi trái. Đây là tư thế giao thoa âm dương tạo năng lực giúp hành giả nhiếp tâm dễ dàng. Vì Thái Lan là quốc gia theo truyền thống Phật giáo Nam tông, nên các phạm nhân được hướng dẫn thực tập phương pháp thiền quán, với nhiều cách thức buông xả nỗi khổ niềm đau.

  • Thứ nhất, buông xả về tội lỗi, giúp họ quán tưởng về sự ăn năn, hối cải tội lỗi mình từng gây ra cho người và xã hội.
  • Thứ hai, thực tập lòng từ bi. Lòng từ bi phải được trải rộng khắp mười phương, từ con người, loài vật đến môi trường thiên nhiên. Giúp phạm nhân có được chất liệu yêu sự sống, yêu con người, nhìn thấy nỗi đau của người khác cũng chính là nỗi đau của mình.
  • Thứ ba, là quán tình thân. Phạm nhân được thực tập quán tất cả người nam từng là cha, ông, chú, bác, cậu, anh trai,
em trai, con trai, cháu trai v.v… của mình trong một kiếp nàođó, và quán tất cả người nữ từng là bà, mẹ, cô, dì, thím, mợ, chị gái, em gái, con gái, cháu gái v.v... Thực tập như thế để thấy nỗi khổ đau dễ tác động và ảnh hưởng đến bản thân mình nhiều nhất. Vì vậy, họ không còn có động cơ muốn gây khổ đau cho những người thân của mình. -Nếu quan niệm tất cả mọi người trong xã hội đều là người thân thì không ai muốn gây tội lỗi để họ bị khổ đau.
- Thứ tư, quán “sau cơn mưa trời lại sáng” là cách thức giúp phạm nhận thấy rằng, cuộc đời của họ không phải vứt bỏ, chỉ cần biết ăn năn, hối lỗi là có thể làm mới cuộc đời.

Dùng hình ảnh bầu trời sáng xua đi bóng đêm mịt mờ. Khi xoá mây mù thì vầng nhật nguyệt sẽ chiếu rạng. Sử dụng nhiều hình ảnh để kết nối sự hướng thượng, lúc đó hiệu ứng giáo dục thực sự mang lại kết quả cao. Hướng dẫn thiền quán là tạo cơ hội giúp phạm nhân có đời sống tốt trong cuộc đời.

Tôi đã có hai năm kinh nghiệm thực hiện công việc này tại các trung tâm cai nghiện, trại tù v.v… Cứ mỗi lần đến, đoàn chúng tôi không chỉ đơn thuần làm công tác từ thiện bằng cách tặng quà, chương trình ca nhạc, mà tặng cho họ bài pháp thoại để làm mới đời sống.

Luật pháp và sự trừng phạt không thể giúp phạm nhân hồi đầu, mà trái lại hận thù càng gia tăng, tình trạng đại bàng xuất hiện khắp trại tù.

Chỉ có lòng từ bi, nhân quả của đạo lý nhà Phật mới có thể giúp họ chuyển hóa. Tôi nhận thấy những chương trình từ thiện như thế rất thành công trong thời gian vừa qua.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,436
Điểm tương tác
1,404
Điểm
113
Bài 25.- VUA TẦN-BÀ-SA-LA VÀ ÁN OAN TỬ TÙ

Ngày xưa thời của đức Phật, hoàng hậu Vi-đề-hi khi mang thai thái tử A-xà-thế đã được các nhà tiên tri tiên đoán rằng, đây là đứa con nghịch tử cần phải giết đi, thế nhưng vua Tần-bà-sala lại không nghe. Mặc dù ông rất thương A-xà-thế và muốn cho con được lên ngôi sớm hơn, A-xà-thế lại không tin thiện chí của vua cha sẽ nhường ngôi, nên đã ba lần bày mưu lập kế soái ngôi vua. Lần cuối cùng, âm mưu của A-xà-thế đã thành công. Ông giam nhốt vua cha trong ngục tù cho đến chết.

Ở đây, tôi không phân tích về góc độ nhân quả nghiệp báo, mà chỉ chia sẻ về thái độ và tâm lý của người bị tù oan - vua Tần-bà-sa-la.

Đặt giả thuyết trong lúc bị giam trong ngục tù, vua Tần-bà sa-la khởi lên nỗi oán hận, chẳng hạn như: “phải chi ta nghe
lời nhà tiên tri cách đây mấy mươi năm thì hôm nay đâu phải chịu án oan tử tù từ đứa con ngỗ nghịch này”, “giá mà ta giết nó ngay khi phát hiện ý định muốn soái ngôi thì đâu phải chịu cảnh giam nhốt như thế”.

Nếu những câu“phải chi”, “giá mà” của vua thể hiện sự hối hận thì hành động thiện và thái độ bảo vệ sự sống của nhà vua trước đây xem như mất hết.

Sử sách đã ghi lại hoàn toàn trái ngược với giả thuyết, vua Tần-bà-sa-la rất hân hoan trong những ngày cuối đời. Dù A-xà-thế đã ra lệnh cấm tất cả mọi người không được phép vào thăm, ngay cả mẹ ruột của mình - hoàng hậu Vi-đề-hi. Ngoài ra, ông còn cả cấm việc mang lương thực vào trong tù cùng mọi phương diện tạo sự sống cho vua cha.- Những giờ phút cuối đời, vua Tần-bà-sa-la đã hướng về đức Phật, phát nguyện thọ trì Bát Quan Trai với tâm niệm từ bi hỷ xả, rộng lượng tha thứ, mong cho nghiệp oan khiên oán trái giữa ông và con trong quá khứ được tháo gỡ hết và kết thúc tại đây.

Thông qua nghiệp tử tù này, con ông sẽ hồi đầu, chuyển ý, trở thành bậc minh quân cho thiên hạ. Ông không hề có nỗi niềm oán hận. Ông niệm Phật và nghĩ đến những việc lành từng gieo trồng trong quá khứ khiến ông hạnh phúc hơn.Đây là trạng thái tâm lý rất tốt và cần thiết đối với người bị tù oan, chết oan do tình ngay lý gian, oan khiên oán trái, trù dập v.v… cần tu tập để hoá giải tất cả.

Tóm lại, trong tình huống bị tử nạn, cần quan niệm rằng đó là nghiệp hoạnh tử, và không được phép chán nản hay thất vọng trước những hành vi, nghĩa cử cao thượng đó. Hãy tiếp tục hành động, đừng sợ cái chết thì cái chết sẽ từ chối chúng ta.

Trong tình huống tử tù do phạm pháp hình sự, hoặc do oan khiên oán trái thì về phương diện cảm xúc, người tử tù phải ăn năn, hối hận và có nỗ lực hóa giải nghiệp tiền kiếp. Có như thế, đời sống hằng ngày trong tù được vơi bớt khổ đau, không còn tình trạng một ngày ở tù bằng nghìn thu ở ngoài.

Nhiều người đã thực sự thay đổi bản thân khi trải nghiệm thời gian ở tù, nhất là được ngồi tù chung với các vị tu sĩ Phật giáo.

So sánh hình ảnh giữa các nhà sư ngồi tù vì liên hệ đến chính thể, chính trị, hoặc bị oan khiên oán trái và những phạm nhân bình thường hoàn toàn trái ngược. Các nhà sư rất thản nhiên, sống hạnh phúc và không oán hận. Ngược lại, các phạm nhân thì bị khủng hoảng tinh thần, tâm thần và uất hận. Tất cả đều tùy thuộc vào lối suy nghĩ và hướng giải quyết vấn đề của mỗi chúng ta.
CHẾT ĐI VỀ ĐÂU ?.- (Th Nhật Từ) - Page 2 Vua_tn10
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,436
Điểm tương tác
1,404
Điểm
113
Bài 26. (Nổi sợ) VĨNH BIỆT CUỘC ĐỜI

Một ngày nọ, có một gia đình Phật tử từ Mỹ về thăm quê hương, nhân tiện ghé thăm chùa Giác Ngộ. Những người con thảo cháu hiền dẫn người mẹ, người bà của họ vào chánh điện lễ Phật. Sau đó, họ yêu cầu bà đứng chụp một tấm hình. Khi ấy, tôi đề nghị người nhà hãy đưa bà đến một studio nổi tiếng để chụp cho đẹp. Bà cụ vội lắc đầu, thấy vậy tôi bèn hỏi lý do tại sao? Gạn hỏi mãi bà mới chịu trả lời: “chụp hình là lên bàn thờ sớm hơn”.- Đó là tâm lý chung khá phổ biến ở người có tuổi, cứ nghĩ rằng chụp hình là để thờ niệm sau khi mình chết. - Nỗi sợ hãi này đã làm cho họ bị mất tự nhiên và không muốn để lại những kỷ niệm đẹp khi mình có niềm vui, sự hân hoan và đặc biệt là niềm vui trong sự chăm sóc hiếu thảo của con cháu.

Trong đạo thỉnh thoảng cũng xảy ra tình huống tương tự đối với các vị Thượng tọa lão niên, đạo cao đức trọng. Thay vì theo qui định của đức Phật ngày xưa, khi đến tuổi hạ lạp và có những đóng góp lớn cho Phật giáo thì mặc nhiên các vị ấy được tấn phong Hòa thượng. Thế nhưng nhiều vị Thượng tọa lại không muốn danh hiệu đó, mặc dù tuổi đã trên 60 và hạ lạp trên 30.- Hỏi ra thì một số vị cho biết:“Khi lên Hòa thượng thì biết rằng cái tuổi gần đất xa trời cũng đã đến”.

Lý giải từ góc độ nhân gian là thế, thực ra đối với những người xuất gia như các ngài thì không phải vậy. Bởi bản chất của người tu là hạnh khiêm tốn, việc phong tặng giáo phẩm đối với các ngài chỉ là xã hội hóa việc thừa nhận những đóng góp trong quá trình tu tập và đức hạnh của các ngài dành cho Phật giáo và cuộc đời.- Phẩm hiệu đó có hay không đối với người xuất gia không quan trọng.

Đề cập và tìm hiểu cái chết là một nghệ thuật để sống có ý nghĩa hơn. Định đề này có vẻ xa lạ với hầu hết nhiều người. Bởi ai cũng cấm kỵ nói hoặc bàn về cái chết, nhất là vào dịp đầu năm mới, nghĩ rằng như thế sẽ bị xui xẻo, tạo cái “huông” kéo theo cái chết trong gia đình.

Phong tục tập quán ở Việt Nam và Trung Hoa lại còn sai lầm hơn khi cho rằng, mỗi khi nghe chim cú kêu là báo hiệu điềm gở, điềm xấu sắp xảy ra, khu vực chung quanh đó sẽ có người chết. Điều này tạo ra lối ứng xử căm ghét,xua đuổi và thậm chí bắn giàn ná giết chết loài chim này. Ngược lại, với con chim khách lại được quan niệm là biểu đạt cho điềmblành của một gia đình hay làng xóm. Điều này cho thấy hệ nhân quả được thiết lập dựa trên quan niệm, phong tục tập quán và truyền thống văn hóa ở mỗi nơi.
CHẾT ĐI VỀ ĐÂU ?.- (Th Nhật Từ) - Page 2 Cz_jfi10
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,436
Điểm tương tác
1,404
Điểm
113
Bài 27.- CHẾT LÀ MỘT BẾN ĐÒ

Phật giáo xem cái chết như một bến đò hay chỉ là một trạm dừng chân, đã là bến đò thì cần có điểm xuất phát hay điểm đến.-Bến đò và người lái đò phải liên tục đi và về để chuyên chở, phục vụ hành khách, và chức năng của nó cứ tiếp tục mãi như thế.

Tiến trình của sự sống và cái chết cũng giống như một lượt đi qua đò.-Khi kết thúc mạng sống, không phải là dấu chấm cuối cùng, mà là chuyến hành trình mới để quay về bến đò bên kia, tiếp tục rước những hành khách khác.

Trong đạo Phật, việc rước hành khách được hiểu như thần thức của con người xuất hiện trong một mầm sống mới dưới hình thức là phôi thai.

Tùy theo sự chiêu cảm của nghiệp và tính cách tương ứng của hành vi (còn được gọi là họ hàng nghiệp) giữa người chuẩn bị đi tái sanh và gia đình, cha mẹ,anh chị em mà người đó sẽ là một thành viên.-Hiểu như thế, ta không nên quá bi lụy trước cái chết, mất bến đò bờ bên này để cập bến bờ bên kia và ngược lại. Gọi nó là trạm dừng chân là bởi chức năng của trạm này không phải để cống hiến cho hành khách dừng tại đó một cách vĩnh viễn.-Sự dừng chân chỉ mang tính tạm thời mà thôi, để rồi sau đó,hành khách lại phải tiếp tục lên chuyến xe đi đến nơi mà mình muốn đến. Việc dừng chân ở lại một chỗ chắc chắn sẽ làm mất hết giá trị của đôi chân và chức năng hoạt dụng của toàn cơ thể.

Trạm là cảnh giới và loại hình sự sống mới mà bản chất của nó mang tính tương thuộc, thống nhất về nội dung với những gì con người đã tạo thông qua hành vi, lời nói và việc làm cụ thể trong quãng thời gian có mặt trên đời.
CHẾT ĐI VỀ ĐÂU ?.- (Th Nhật Từ) - Page 2 Bn_jfi10
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,436
Điểm tương tác
1,404
Điểm
113
Bài 28.- CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI ĐIỆN

Ngày 07- 09 - 2006, một tờ báo trong nước đã đưa tin về một sự kiện rất đau lòng với tựa đề: “Người điện bị điện giật chết”.
CHẾT ĐI VỀ ĐÂU ?.- (Th Nhật Từ) - Page 2 Nguy1_10


Nhân vật trong bài báo tên là Huỳnh Văn Hùng, 44 tuổi, là một thợ điện. Anh có khả năng đặc biệt là điện giật không chết mà nhiều năm trước báo chí và truyền hình từng đưa tin, phỏng vấn.- Khi ấy, anh trở thành người khá nổi tiếng, có thể dùng bàn tay của mình tiếp xúc trực tiếp với điện mà không cần phải cúp cầu giao và không sợ bị điện giật.

Vì hoàn cảnh khó khăn, lương không đủ sống, anh có ý định tìm kiếm một công việc khác để mưu sinh. Trong thời điểm đó, anh ở lại tá túc tại nhà một người thân, nếp sống của gia đình này là ăn chay trường nên anh đành phải theo.

Một hôm nọ, cũng như bao nhiêu ngày khác, anh đã thử điện mà không cần cúp cầu giao, đột nhiên có tiếng la thất thanh từ trong nhà vọng ra:“cúp cầu giao…” Khi chạy vào thì nhìn thấy cơ thể anh bị cháy đen, anh đã chết.

Có người lý giải rằng, do vì tá túc lại trong gia đình đó phải ăn chay nên kháng lực trong cơ thể anh xuống thấp, không đủ sức chịu đựng trước dòng điện bình thường, so với thời điểm trước đây khi ăn mặn thì không vấn đề gì.

Thực ra, người ăn chay trường có sức khỏe tốt hơn người ăn mặn, sức dẻo dai, bền bỉ chẳng thua kém gì người ăn thịt cá. Lý giải như vậy là không đúng.

Hoặc một lý giải khác cho rằng “sanh nghề tử nghiệp” sống bằng nghề nào thì chết bằng nghề ấy. Lý giải đó chưa có sự chứng thực đúng sai, nhưng đau lòng ở chỗ nó là một sự lên án rằng, những người như thế đáng phải chết với những gì họ làm.

Lý giải từ quan điểm và góc nhìn của đạo Phật có sự khác biệt. Người có năng lực đặc biệt liên hệ đến chi phần hay một cơ quan nào đó của cơ thể, đừng nên ngộ nhận nó sẽ tồn tại vĩnh viễn một cách lâu dài. Lạm dụng vào nó sẽ dẫn đến hậu quả đáng tiếc, điển hình là cái chết của anh Hùng. Trong khi với năng lực đặc biệt này có thể hỗ trợ cho anh trong công việc khá nhiều. Do đó, chỉ nên sử dụng năng lực đặc biệt để chứng minh cho một sự kiện mà khoa học cần đến, bằng không việc lạm dụng có thể là trở ngại.

Thời của đức Phật ngày xưa, rất nhiều vị xuất gia có năng lực thần thông, mà lẽ ra với năng lực đó sự thu hút quần chúng sẽ khá dễ dàng. Bởi quan niệm một con người có khả năng siêu phàm sẽ làm cho rất nhiều người có niềm tin tôn giáo nghĩ rằng đây là một bậc thánh. Khi ấy, đức Phật đã khuyến tấn tất cả các vị xuất gia không nên thể hiện năng lực thần thông mà mình đạt được. Những ai làm việc đó để thu hút tín đồ sẽ bị giới luật trong đạo Phật trừng phạt. Vì Ngài nhìn thấy rõ sự nguy hại trong việc lạm dụng năng lực đặc biệt này, ít nhất về phương diện hòa hợp trong cộng đồng của người xuất gia.

Một tu sĩ được thần tượng hóa như một vị chứng đắc, vị ấy cố tình làm việc này trong khi những người khác lại không thể hiện được sẽ dẫn đến tình trạng quần chúng đổ dồn, tập trung vào vị ấy, trong khi các giá trị thiết thực khác họ lại không mảy may quan tâm.

Truyền thống Lạt Ma tái sinh của người Tây Tạng là một truyền thống có giá trị. Bởi vì nó xác quyết được con đường và cảnh giới tái sinh khi các vị ấy đang còn sống khỏe mạnh,nhưng về lâu dài, thái độ ứng xử của người dân Tây Tạng đối với những vị Lạt Ma tái sanh lại tạo ra cung cách thần tượng hóa; và dĩ nhiên thái độ phân biệt đối xử đã xảy ra đối với những vị không phải là Lạt Ma tái sinh.

Trong thời gian có mặt tại Lhasa, nơi được xem là vương quốc lưu vong của Phật giáo Tây Tạng tại Ấn Độ. Hằng ngày, tôi quan sát và cảm nhận rõ điều này. Người dân Tây Tạng rất thành kính đối với những vị Lạt Ma tái sinh, thế nhưng càng thành kính các ngài nhiều chừng nào thì thái độ của họ đối với các vị Lạt Ma không tái sinh lại xuống cấp nhiều chừng nấy.

Trong đời sống hằng ngày, người Phật tử Tây Tạng lúc nào trên tay cũng có xâu chuỗi với 108 tràng hạt. Họ lần chuỗi trong lúc buôn bán, làm việc, chợ búa v.v… ở mọi nơi và mọi lúc giống như người xuất gia.-Chính vì vậy, họ mong muốn các vị xuất gia phải có điểm gì đó đặc biệt hơn, không thể nào tương tự như họ. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận yếu tố đặc biệt chỉ thông qua truyền thống tái sinh đôi lúc bị lệch lạc, đi sai với truyền thống và tinh thần của đạo Phật.

Đức Phật từng xác quyết rõ việc có thần thông và sự chứng đắc, hai yếu tố này có thể song hành và cũng có thể biệt lập với nhau hoàn toàn.

Trong thời đức Phật, rất nhiều vị A-la-hán không có khả năng thần thông nhưng nhiều người phàm lại có khả năng này. Do đó, đức Phật đã giới thiệu một loại hình thần thông mới có chiều sâu hơn, và Ngài sử dụng lối chơi chữ với tên gọi:
“Giáo dục thần thông”, được hiểu theo hai nghĩa như sau:

- Thứ nhất, sử dụng thần thông như một phương tiện giáo dục quần chúng, giúp họ tin sâu vào nhân quả, giá trị tốt xấu, đạo đức, hiểu được bản chất của đời sống là do con người định đoạt thay vì do Thần linh, Thượng đế. Trong tình huống này, việc vận dụng thần thông được tán thán. Tuy nhiên, cũng cần giới hạn chỉ khi nào thực sự cần thiết mới đem ra ứng dụng.

- Thứ hai, điều quan trọng và là mục tiêu mà đức Phật muốn nhắm đến, đó là bản chất của giáo dục chánh pháp đối với cuộc đời là phép mầu. Ai biết vận dụng chánh pháp đưa vào cuộc sống bản thân để giải quyết khổ đau, không bị rơi vào tình trạng than trời trách phận. Hoặc ai ứng dụng lời Phật dạy trong việc giáo dục con cái, giúp cho chúng trở thành người hữu dụng về sau thì họ được xem là đang thể hiện phép mầu. Phép mầu của sự giáo hóa, chuyển hóa, và làm mới hoàn toàn nhân cách của con người.

Điều mà đức Phật muốn nhấn mạnh là tất cả những người phàm, dù xuất gia hay tại gia đều có khả năng thực hiện phép mầu mà không cần phải có năng lực đặc biệt nào.

Lạm dụng năng lực đặc biệt trong những tình huống không cần thiết có thể tạo sự nuối tiếc về sau.

Báo chí tiếp tục đưa tin sau khi anh Hùng qua đời, vợ và hai con của anh bị hụt hẫng vì trụ cột kinh tế gia đình đều nương tựa vào anh. Do vì ỷ lại vào năng lực thần thông quá mức mà đôi lúc ta tự hại bản thân và hại luôn cả những người thân, người thương của mình nữa. Từ đó rút ra được bài học mà đức Phật từng nhắc nhở các vị xuất gia: “Cho đến lúc nào các vị trở thành thánh nhân thì có thể tạm yên tâm về con đường chuyển hóa, tu tập, đạo đức, nỗ lực… còn nếu chưa phải là một bậc A-la-hán thì đừng bao giờ cho phép mình ỷ lại.”.- Câu nói đó có thể được ứng dụng trong công việc, sự nghiệp, lý tưởng mà người cư sĩ tại gia đang theo đuổi.

Đừng nên ỷ lại dù quý vị là người có thể rất thành công trên thương trường, chính trị, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật… cùng nhiều lĩnh vực khác; đừng cho phép mình thỏa mãn, tự hào, vì đó là ổ khóa giam nhốt năng lực và sự đóng góp của bản thân đối với cộng đồng và xã hội. Những ai cho phép mình thỏa mãn, người đó khó có thể tiến bộ xa hơn.

Ỷ vào khả năng là cách thức làm giảm đi giá trị bản thân.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,436
Điểm tương tác
1,404
Điểm
113
Bài 29.- CÁI CHẾT Ở LÀNG THIÊN LÔI

Câu chuyện thứ hai mà tôi muốn chia sẻ được đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 13 - 09 - 2006 về một ngôi làng được mệnh danh là “Làng trời đánh” hoặc còn gọi là “Làng thiên lôi”. Làng này là một khu đất thuộc địa phận Hà Tĩnh, ở đó có một cánh đồng giao giữa ba xã Sơn Lộc, Thạch Ngọc, Việt Xuyên. - Mỗi khi mưa to, sấm sét lớn thì dân làng ở đây không ai dám bước chân ra ngoài.

Thống kê xã hội học từ năm 1990 đến 2006, nơi đây có ít nhất hơn 20 người chết do bị sét đánh với thân thể bị cháy đen không còn nhận dạng ra. Trước sự kiện này, nhiều người sợ hãi và nghĩ rằng đó là hiện tượng trời trừng phạt đối với những người sống không có đạo đức. Lý giải đó tạo ra sự phân biệt đối xử với người chết và tệ hại hơn là ảnh hưởng đến người thân của họ, mà lẽ ra tình thương của con người phải được đặt lên trên hết.

Ngoài ra, thêm một quan niệm sai lầm khác xuất hiện khi người dân địa phương cho rằng, cái đầu của người chết do sét đánh rất linh thiêng. Ai lấy được cái đầu đó về nhà thì công ăn việc làm được thịnh vượng, cầu gì được đó, mua may bán đắt.- Vì vậy mà nạn cướp xác diễn ra khiến nhiều người hoang mang, lo sợ, đã mất người thân bây giờ bị mất cả thi thể của người thân. Bên cạnh đó, người ta còn quan niệm sự linh ứng này vẫn tiếp tục tồn tại trong vòng 3 tháng 10 ngày, chỉ khi nào qua thời điểm đó thì sự linh ứng mới không còn. Vì vậy mà trong suốt thời gian đó, thân nhân của người chết phải thuê người canh gác, bảo vệ mồ mả.

Nghiên cứu về địa chất học cho thấy trời đánh là một hiện tượng vật lý. Vùng đất nào có nhiều quặng mỏ thiếc thì hiện tượng trời đánh tăng cao, giao cảm điện từ thiếc và điện trên bầu trời tạo ra luồng sấm sét. Lúc đó, người đang có mặt trong vùng điện tạo sấm sét có thể bị chết cháy đen.

Khoa học chứng minh như thế, trong khi nhân gian lại hiểu sai lầm, gán điều này cho ông trời. Nếu thực sự ông trời làm việc đó thì xem ra ông đã quá bất lương và nhẫn tâm. Bởi vì đã có nhiều người hiền lương,hiếu thảo với cha mẹ, đàng hoàng, đứng đắn trong các mối quan hệ, giúp đỡ mọi người trong xã hội, chưa làm mất lòng ai nhưng vẫn bị trời đánh.
Do đó, đừng nên ỷ lại vào giá trị đạo đức mà ta đang có. Đức Phật vẫn khuyên chúng ta phải nỗ lực, phát huy, tu tập, và phấn đấu cho đến khi nào không còn gì để phát huy nữa thì lúc đó mới dừng, và cũng không cho phép mình được quyền thỏa mãn đến đó. Hình ảnh của sự thỏa mãn cũng giống như nấc thang.- Nếu ta dừng lại và đánh dấu sự thỏa mãn của người bộ hành đang đi trên từng nấc thang sẽ không có cơ hội để bước thêm một bước cao hơn trong đạo đức, tu tập, nghề nghiệp, thành công và nhiều lĩnh vực khác.

Có kiến thức khoa học căn bản, người ta có thể tránh được cái chết, không cần vĩnh biệt cuộc đời để lại niềm thương tiếc cho người thân. Khi mưa to gió lớn, không nên ra những khu vực có quặng mỏ, chẳng phải vì sợ ma, sợ trời hay sợ thần linh trừng phạt, mà vì qui luật vật lý tự nhiên nếu ta muốn an toàn tính mạng. Trái lại, niềm tin mê tín chỉ làm cho con người ngày càng lún sâu vào những cảnh huống bất hạnh, đặc biệt với hiện tượng cướp xác vừa nêu càng làm cho ta đau lòng hơn, vì người đã chết mà vẫn chưa được yên.

Những trường hợp chết bất đắc kỳ tử như hiện tượng sét đánh, người chết chưa sẵn sàng chấp nhận cái chết, dòng cảm xúc của họ vẫn còn đang níu kéo sự sống, dù thân thể bị cháy đen. Trong tình huống này, chưa chắc họ đã được siêu sinh, huống hồ chi với hiện tượng bị cướp đầu thì dòng cảm xúc nổi sân bị trỗi dậy. Đó là ách tắc lớn cho tiến trình tái sinh ở đời sau.

CHẾT ĐI VỀ ĐÂU ?.- (Th Nhật Từ) - Page 2 Szot_j10
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm

Users search this thread by keywords

  1. chat linh tinh
Top