- Tham gia
- 18/1/13
- Bài viết
- 1,013
- Điểm tương tác
- 289
- Điểm
- 83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER><B>SỰ XUẤT HIỆN ĐỊNH AN CHỈ TRONG TÂM LỘ TRÌNH</B>
<I>(Trích sách: Thanh Tịnh Đạo, Tập I Thích Nữ Trí Hải dịch,
<BR>
<BR>Chương IV, Ðịnh - Kasina Ðất, trang 224-274)</I></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">74. Khi hành giả hướng tâm theo cách ấy chạm mặt sơ tướng, biết "nay, định an chỉ sẽ tiếp theo", thời ý môn hướng tâm khởi lên nơi vị ấy cùng một đối tượng là kasina đất, định tướng ấy gián đoạn dòng hữu phần và khởi lên nhờ liên tục lập lại "đất, đất". Sau đó, bốn hay năm tốc hành tâm khởi trên cùng một đối tượng tốc hành tâm cuối cùng thuộc sắc giới, những tâm trước đó thuộc dục giới, nhưng năm thiền chi trong những tốc hành tâm này mạnh hơn trong tâm thường.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những tốc hành tâm này gọi là "tâm chuẩn bị", vì chúng chuẩn bị cho định an chỉ, cũng gọi là "cận hành" tâm vì chúng gần với định an chỉ hoặc vì chúng xảy đến ngay trước định an chỉ, như người ta nói "phụ cận khu làng" phụ cận khu phố là nơi gần làng, gần phố. Cũng gọi là "tâm thuận thứ" vì chúng phù hợp với tâm đi trước và định tướng tiếp theo sau. Tốc hành tâm cuối cùng còn gọi là "chuyển tánh" vì nó vượt qua dục giới hữu hạn và làm phát sinh dòng sắc giới siêu việt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">75. Tốc hành tâm đầu tiên gọi là chuẩn bị, thứ hai "cận hành", thứ ba "thuận thứ", thứ tư " chuyển tánh", thứ năm "an chỉ" hoặc tâm đầu tiên là "cận hành", thứ hai "thuận thứ", thứ ba"chuyển tánh", thứ tư là tâm "an chỉ". Vì chỉ có tâm sau rốt này mới dán chặt vào an chỉ, tùy theo thắng trí linh lợi (tâm thứ tư đã an chỉ) hay chậm lụt (tâm thứ năm).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">76. Nhưng luận sư A Tỳ Ðàm là trưởng lão Godatta trích dẫn đoạn văn: "Những thiền tâm đi trước là một duyên, kể như tập hành duyên, cho những thiền tâm kế tiếp (Ptn 1.5) và thêm: "Chính nhờ tập hành duyên mà mỗi tâm kế tiếp đều mạnh, bởi thế trong tốc hành tâm thứ sáu hoặc bảy vẫn có thể đắc định an chỉ". Ðiều này bị các luận bác bỏ, cho đó chỉ là quan điểm riêng của vị trưởng lão ấy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">77. Chỉ trong tốc hành tâm thứ tư hoặc thứ năm mới có định an chỉ. Qua khỏi giới hạn ấy, tốc hành tâm chìm xuống, vì gần với dòng Hữu phần. Và điều này đã được cân nhắc kỹ mới nói lên, do vậy không thể bác bỏ. Bởi vì, cũng như một người đang chạy đến một cái hố mà muốn dừng khi chân đã kề miệng hố, thì không thể nào dừng được mà chỉ có việc rớt xuống hố. Cũng thế, không thể có chuyện dán chặt vào định an chỉ ở tốc hành tâm thứ sáu và thứ bảy, vì gần với dòng hữu phần. Do đó, cần hiểu rằng chỉ có định an chỉ ở tốc hành tâm thứ bốn hay thứ năm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">78. Nhưng định an chỉ ấy chỉ trong một năm sát na duy nhứt. Vì có bảy trường hợp trong đó tâm lộ trình thông thường không áp dụng. Ðó là trường hợp định an chỉ đầu tiên, các loại thắng trí thế gian, bốn đạo, quả kế tiếp đạo, thiền hữu phần trong các loại sắc và vô sắc hữu, phi tưởng phi phi tưởng xứ làm duyên cho định diệt thọ tưởng. Ở đây, quả kế tiếp sau đạo không vượt quá ba tâm sát na; tâm phi tưởng phi phi tưởng xứ làm đầu tiên (duyên) cho định diệt thọ tưởng không vượt quá hai tâm sát na; còn những tâm ở trong hữu phần thuộc sắc giới và vô sắc giới thì không thể ước lượng. Với các trường hợp còn lại, thì số tâm sát na chỉ có một. Bởi thế mà nói rằng định an chỉ thuộc vào một tâm sát na duy nhứt. Nó rơi trở lại Hữu phần sau đó, rồi, Hữu phần gián đoạn để quán sát thiền, vì đó là giai đoạn kế tiếp.
<CENTER><B>SƠ THIỀN</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">79. Ðến đây, "hoàn toàn ly dục, ly bất thiện pháp, vị ấy chứng và trú sơ thiền, có tầm, có tứ, với hỷ lạc do ly dục sanh" (Vbh, 245), và như vậy hành giả đã đắc sơ thiền, từ bỏ năm pháp, đạt được năm pháp, tốt đẹp ở ba phương diện, có mười đặc tính, và sơ thiền ấy thuộc biến xứ đất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">80. <B>"Hoàn toàn ly dục"</B> ở đây có nghĩa sau khi đã thoát khỏi những dục vọng. "Hoàn toàn" (eva) có nghĩa là tuyệt đối. Khi thực sự chứng và trú sơ thiền thì dục không có mặt và dục chính là cái gì ngược hẳn với sơ thiền, sơ thiền chỉ xảy ra khi hoàn toàn buông bỏ dục.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">81. Nghĩa là, dục phải là cái "không đội trời chung" với sơ thiền, nếu có dục thì không đắc sơ thiền, cũng như có tối thì không có sáng, bỏ bờ gần mới đến bờ xa. Ðó là tính cách tuyệt đối của sự "hoàn toàn ly dục".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">82. Danh từ "hoàn toàn" này cần được hiểu ngầm cả trong vế thứ hai "(hoàn toàn) ly bất thiện pháp", nghĩa là những triền cái khác ngoài dục. Và mặc dù ly tổng quát bao gồm mọi kiểu từ bỏ, ở đây chỉ có ba thứ từ bỏ muốn ám chỉ là thân viễn ly, tâm viễn ly và viễn ly bằng sự đè nén<SUP><B>(1)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">83. Nhưng danh từ "dục" bao gồm nhiều thứ, đó là <B>dục kể như đối tượng</B>, như ở đoạn "Gì là đối tượng của dục? Ðó là những sắc pháp khả ý..." Và <B>dục kể như cấu uế</B> được nói trong Vibhanga như sau: "Ðam mê là dục thèm muốn là dục, khát khao là dục, khát khao thèm muốn là dục"<SUP><B>(2)</B></SUP>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như vậy "hoàn toàn ly dục" có nghĩa là "hoàn toàn thoát ly những đối tượng của dục" tức <B>thân viễn ly</B>, còn "ly bất thiện pháp" là từ bỏ những cấu uế của tâm tức dục vọng, hoặc từ bỏ tất cả thiện pháp, ám chỉ <B>tâm viễn ly</B>. Trong khi <B>ly dục</B> chỉ có nghĩa "từ bỏ khoái lạc giác quan, xa lìa đối tượng của dục" thì, <B>ly bất thiện pháp</B> còn ám chỉ đến sự khoái lạc viễn ly, vì lìa khỏi dục kể như cấu uế của tâm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">84. <B>Ly dục</B> là từ bỏ cái nhân của tham, <B>ly bất thiện pháp</B> là từ bỏ cái nhân của si, ly dục là thanh tịnh thân nghiệp, ly bất thiện pháp là thanh tịnh ý nghiệp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">85. Nhưng nếu "dục" được hiểu là cấu uế, thì nó chỉ <B>dục tham</B> (kāmacchanda) dưới nhiều hình thức sự hăng say theo đuổi (chanda), sự thèm khát (rāga)... Tức khoái lạc giác quan. Mặc dù nó bao gồm trong "bất thiện pháp" ở vế sau, ở đây nó được nêu riêng rẽ, bởi vì nó xung khắc với thiền. Hoặc, dục nói ở về thứ nhất "hoàn toàn ly dục" là thèm khát khoái lạc giác quan và đó là một phiền não (cấu uế) và dục ám chỉ trong vế thứ hai vì đó là một bất thiện pháp. Và vì dục, sự thèm khát, mang nhiều hình thức, nên nguyên văn "ly dục" để số nhiều thay vì số ít.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">86. Mặc dù có bất thiện trong các pháp khác, Vibhanga chỉ kể đến những triền cái: "Nhưng pháp gì là bất thiện? Dục tham...." để chứng tỏ sự đối nghịch, xung khắc giữa triền cái với thiền chi. Vì triền cái là những pháp ngược hẳn với thiền chi, nghĩa là, những thiền chi không ở chung với triền cái, loại bỏ trừ khử triền cái: "Ðịnh không ở chung với tham dục, hỉ không ở chung với sân, tầm không ở chung với hôn trầm, lạc không ở chung với trạo hối, tứ không ở chung với nghi".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">87. Bởi thế trong trường hợp nầy, cần hiểu rằng sự viễn ly bằng cách đè nén dục được ám chỉ trong câu "hoàn toàn ly dục" và viễn ly bằng cách đè nén cả năm triền cái được ám chỉ trong câu "ly bất thiện pháp". Hoặc triền cái "tham dục" được ám chỉ trong câu đầu, bốn triền cái còn lại ám chỉ trong câu thứ hai. Hoặc <B>tham</B> (đối với năm dục) ám chỉ trong câu đầu, <B>sân, si</B> trong câu sau. Hoặc câu đầu ám chỉ dục bộc lưu, dục ách, dục lậu, dục thứ, dục hệ phược, dục kiết sở, câu sau chỉ các bộc lưu, ách, lậu... khác. Lại nữa, tám tâm sở có gốc ở tham (Chương. XIV, 90) được ám chỉ trong câu đầu, các bất thiện tâm khác được ám chỉ trong câu sau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">88. Ðến đây, những pháp thiền gạt bỏ đã được nêu lên. Bây giờ, để nói rõ các thiền chỉ, luận nêu câu "có tầm, có tứ". <B>Tầm</B> (Vitka- applied thougt) có nghĩa đánh mạnh vào. Nó có đặc tính là hướng tâm, để tâm trên đối tượng. Nhiệm vụ nói là quất vào hành giả là do tầm. Thể hiện (tướng) của tâm là sự dẫn tâm đến một đối tượng Tứ là tư duy được đưa lên cao độ (viccara- sustained thought = tứ). Ðặc tính của nó là liên tục nhấn mạnh vào đối tượng. Nhiệm vụ (dụng) của nó là khiến cho những tâm pháp đều tập trung trên đối tượng. Hiện tướng của nó là tâm lý được dán chặt vào đối tuợng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">89. Mặc dù tầm tứ không rời nhau, <B>tầm</B> có nghĩa sự chạm xúc đầu tiên của tâm với đối tượng, như đánh lên một tiếng chuông. <B>Tứ</B> là giữ tâm buộc vào một chỗ, như rung chuông. Tầm có cạn dự, đó là sự can thiệp của ý thức vào lúc khởi tâm đầu tiên, như một con chim dang đôi cánh khi sắp liệng, như con ong lao vút tới một cái hoa sen khi nó muốn theo dõi mùi hương của hoa. Hành tướng của <B>tứ</B> an tịnh hơn, ý thức hầu như không can dự giống như một con chim sau khi lao vào hư không, liệng với đôi cánh dang rộng, như con ong lao mình tới, vù vù quanh đoá hoa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">90. Trong tập Sớ về Chương Hai pháp (Angutta N.) có câu: "<B>Tầm</B> là trạng thái hướng tâm đến một đối tượng, như chuyển vận của một con chim lớn cất cánh bay, vồ lấy hư không với cả hai cánh rồi ép xuống. Vì tầm làm phát sinh định tĩnh bằng cách hợp nhứt. <B>Tứ</B> có đặc tính một áp lực liên tục, như chuyển động của con chim khi nó sử dụng đôi cánh để giữ thăng bằng trên hư không. Vì tứ liên tục bám vào đối tượng. Sự khác biệt giữa tầm và tứ trở nên rõ rệt trong Sơ thiền và Nhị thiền (nếu tính có năm thiền).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">91. Hơn nữa, tầm được ví như bàn tay nắm chặt, còn tứ như bàn tay chà xát, khi ta nắm một cái đĩa kim loại hoen rỉ với một tay, còn tay kia chà xát nó với mảnh giẻ tấm dầu và phấn. Cũng vậy, khi người thợ gốm quay bánh xe bằng cách đánh vào cây trục để làm một cái đĩa thì bàn tay đỡ dưới của ông ví như tầm và bàn tay chuyển động qua lại ví như Tứ. Hoặc khi ta kẻ một vòng tròn thì cây kim cố định giữa trung tâm ví như <B>tầm</B>, cây kim di động vòng quanh cái tâm điểm ấy gọi là tứ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">92. Vậy, sơ thiền xảy đến cùng một lúc với tầm và tứ được gọi là "câu hữu với tầm tứ như ta nói một cây có hoa và trái". Nhưng trong Vibbhanga, lời dạy được ám chỉ đến con người là: "Vị ấy đạt đến, viên mãn tầm và tứ" (Vbh. 257). Ý nghĩa cũng như nhau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">93. <B>Do viễn ly sanh</B>: Ở đây viễn ly (vivitti) là sự ẩn cư, có nghĩa là sự biến mất của những triền cái. Hoặc có nghĩa là các pháp liên hệ đến thiền này xa lìa khỏi những triền cái. Do viễn ly sanh là được sanh ra từ, hay trong viễn ly. <B>Hỉ và lạc</B> vì nó làm cho mát mẻ, tươi tỉnh (pirayati) nên gọi là <B>hỉ</B> (pīti). Nó có đặc tính (thể) làm <B>ưa thích</B> (sampiyyayana). Nhiệm vụ (dụng) của nó là thấm nhuần (cả mình rởn ốc). Tướng của nó là hoan hỉ cao hứng. Nhưng hỉ có năm cấp bực từ thấp lên cao: tiểu hỉ, hỉ như chớp nhoáng, hỉ như mưa rào, hỉ nâng người lên và hỉ sung mãn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">94. <B>Tiểu hỉ</B> chỉ có thể là dựng lông tóc trong mình mà thôi. <B>Hỉ như chớp nhoáng</B> thỉnh thoảng loé lên. <B>Hỉ như mưa rào</B> nổi trên cơ thể liên tục, như sóng vồ vào bờ bể. <B>Hỉ nâng người</B> có thể làm cho thân thể mất trọng lượng và bay bổng lên.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">95. Ðó là điều đã xảy đến cho trưởng lão Mahā-Tissa ở Punnavallika. Ngài đến sân điện thờ vào ngày rằm. Trông thấy ánh sáng trăng, Ngài hướng về Ðại tự ở Anuràdhapura nghĩ: "Vào giờ nầy tứ chúng đang đảnh lễ nơi chánh điện!" Do những đối tượng đã trông thấy ở đấy trước kia, ngài khởi lên niềm vui lớn khi tưởng đến đức Thế Tôn và Ngài bay lên hư không như một quả bóng, đáp xuống sân chánh điện.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">96. Và điều này cũng đã xảy đến con gái của nhà phú hộ trong làng Vattakālaka gần tu viện Girikaudaka, khi nàng thăng hư không nhờ tâm hoan hỉ lúc tưởng đến đức Thế Tôn. Khi cha mẹ nàng sắp đến chùa để nghe pháp chiều hôm ấy, họ bảo nàng: "Này con, con đang có thai, không thể nào đi ra ngoài vào giờ này. Ba má sẽ đi nghe pháp kiếm công đức cho con". Và họ ra đi. Nàng rất muốn đi, nhưng không thể trả lời cha mẹ. Bởi thể, nàng bước ra khỏi nhà, đứng trên bao lơn nhìn về Hư Không Ðiện (Akāsacetiya) ở Girikandaka sáng rỡ dưới ánh trăng. Nàng trông thấy lễ dâng đèn ở chánh điện và tứ chúng đang đi nhiễu quanh hướng tay mặt sau khi dâng hương hoa và nghe chư tăng đọc tụng. Nàng nghĩ: "Hạnh phúc thay là những người kia, được nhiễu quanh và nghe pháp vi diệu". Trông thấy ngôi điện thờ như một khối châu ngọc và khởi lên hỉ, tâm rộng lớn, nàng bay bổng lên hư không và đáp xuống điện thờ lễ bái và nghe pháp ngay cả trước cha mẹ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">97. Khi họ đến nơi, trông thấy nàng, bèn hỏi: "Con đến bằng đường nào vậy?"- "Con đến bằng hư không, không phải bằng đường bộ". - "Con ơi, những vị lậu hoặc đã đoạn tận mới đi giữa hư không được. Con đến bằng lối nào?" - "Khi đứng nhìn ngôi chánh điện dưới ánh trăng, một niềm vui lớn khởi lên trong con, với đức Thế Tôn là đối tượng. Rồi con không biết nữa mình đang đứng hay ngồi, chỉ biết mình bay bổng lên hư không, theo với hình ảnh con đã nắm được và con hạ xuống trên sân điện này".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy, hỉ lớn có thể làm mất trọng lượng thể xác và làm nó bay bổng lên hư không.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">98. Nhưng khi <B>hỷ sung mãn</B> khởi lên thì toàn thân được thấm nhuần, như một cái bong bóng đổ đầy nước, như một hang động bị ngập lụt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">99. Năm loại hỉ nói trên, khi được làm cho chín mùi thì sẽ viên mãn hai thứ khinh an là thân khinh an, và tâm khinh an. Khinh an được ấp ủ, làm cho chín mùi sẽ viên mãn hai thứ lạc thân lạc và tâm lạc. Lạc được ấp ủ, làm cho chín mùi thì sẽ viên mãn ba thứ định, đó là định chốc lát, định cận hành và định an chỉ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong năm thứ hỉ nói trên, hỉ muốn nói ở đây là hỉ sung mãn vì nó là căn bản của định và nó tăng trưởng dần theo mình.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">100. <B>Lạc</B> (sukha) là sự làm hài lòng, sự hạnh phúc. Hoặc có nghĩa là nó hoàn toàn (sutthu) ngấu nghiến (khādati) ăn nuốt (khanati) sầu khổ của thân tâm. Ðặc tính nó là làm thoả mãn. Dụng của nó là tăng cường độ các pháp tương ứng. Tướng của nó là sự hỗ trợ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và khi <B>hỉ lạc</B> được liên kết thì hỉ có nghĩa "hài lòng vì đạt được điều ước ao" còn <B>lạc</B> là kinh nghiệm thực thụ đối với điều đã đạt được. Có <B>hỉ</B> tất nhiên có <B>lạc</B> nhưng có <B>lạc</B> thì không tất nhiên có <B>hỉ</B>. <B>Hỉ</B> thuộc hành uẩn, lạc thuộc thọ uẩn. Khi một người khát nước kiệt sức trên sa mạc (Kantārahinna) mà thấy được hay nghe được một vũng nước ở bìa rừng, người ấy sẽ có <B>hỉ</B>, nếu người ấy đi đến bóng mát uống nước ấy thì sẽ có lạc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">101. Vậy, (a) hỉ lạc này thuộc về sơ thiền, hay ở trong sơ thiền, bởi thế thiền này được gọi là <B>có hỉ có lạc</B> và còn <B>do ly dục sanh</B>. Hoặc (b) có thể hiểu <B>hỉ lạc do ly dục sanh</B> là một câu, thay vì hiểu "sơ thiền"... do ly dục sanh" như trường hợp (a).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">102. <B>Sơ thiền</B>: Sẽ giải thích ở đoạn 119. <B>Chứng</B> (upassampajja) là đạt đến, hoặc nếu đọc "upasampādayivā" "làm cho thể nhập" có nghĩa là phát sinh, đi vào, đạt đến, có được, đến nơi, sờ chạm, thực hiện, nhập sơ thiền" (Vbh. 257).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">103 Trú (Viharati): do đạt được thiền thuộc loại đã nói, nhờ an trú trong tư thế thích hợp, hành giả phát sinh một tư thế, một đường lối, một sự duy trì, kiên cố, kéo dài, cư xử, an trú". (Vbh. 252)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">104. Ở trên (đoạn 79, xem M i, 284): "từ bỏ năm pháp, được năm pháp": từ bỏ 5 pháp là năm triền cái, (tham, sân, hôn trầm, trạo hối và nghi). Vì không có thiền sanh khởi nếu chưa từ bỏ năm pháp này, nên chúng là những pháp cần bỏ. Vì, mặc dù lúc đắc thiền, các bất thiện pháp khác cũng được từ bỏ, song chỉ năm pháp này là đặc biệt chướng ngại cho thiền mà thôi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">105. Khi tâm bị tham dục chi phối, do sự thèm muốn các đối tượng sai khác, thì không tập trung được trên một đối tượng duy nhất khi tâm tràn ngập dục tham thì không thể đi vào đạo lộ từ bỏ dục giới. Khi nhiễm độc vì cân đối với một đối tượng thì tâm không thể sanh khởi một cách không gián đoạn. Khi bị hôn trầm thuỵ miên, thì tâm khó điều phục. Khi bị trạo hối tóm lầy thì tâm trở nên bất an, lăng xăng. Khi hoài nghi nổi lên thì tâm không thể bước lên đạo lộ để đắc thiền. Bởi vậy, chỉ những pháp này (tham sân, hôn trầm, trạo hối, nghi) mới gọi là những pháp cần từ bỏ vì chúng đặc biệt chướng ngại thiền.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">106. Nhưng <B>tầm</B> hướng tâm đến một đối tượng, <B>tứ</B> giữ cho tâm neo lại một chỗ ấy. Khi nỗ lực này thành công, <B>hỉ</B> phát sinh và làm tâm tươi tỉnh vì nó đã thành công không để bị tán loạn vì những triền cái, và <B>lạc</B> khởi lên tăng cường mức độ của hỉ cũng vì lý do đó. Rồi <B>nhứt tâm</B> được hỗ trợ bởi bốn pháp vừa kể, tập trung thích đáng vào đối tượng. Bởi thể sự "có được năm pháp" chính là khởi lên tầm, tứ hỉ, lạc và nhứt tâm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">107. Vì chính khi những pháp này khởi lên, ta mới nói rằng thiền phát sinh, nên gọi là "có được năm pháp".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">108. Tuy rằng năm pháp cũng hiện hữu ở giai đoạn cận hành, mạnh hơn ở tâm thức bình thường, song ở giai đoạn này chúng lại còn mạnh hơn là ở định cận hành và mang đặc tính sắc giới. Vì ở giai đoạn này, <B>tầm</B> hướng đến đối tượng một cách cực kỳ sáng suốt, <B>tứ</B> cũng vậy, áp mạnh lên đối tượng, <B>hỉ và lạc</B> thấm nhuần khắp toàn thân. Kinh nói: "Không có chỗ nào trên thân hành giả mà không được thấm nhuần bởi hỉ lạc do ly dục sanh" (Trường. i, 73). Và sự <B>nhất tâm</B> cũng vậy, khởi lên, hoàn toàn chạm xúc với đối tượng như nắp hộp chạm đáy hộp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">109. Mặc dù sự <B>nhất tâm</B> không được kể ra ở trong câu nói: "có tầm có tứ, hỉ lạc do ly dục sanh", Thiền: đó là tầm, tứ, hỉ, lạc, nhất tâm" (đ. 257), bởi vậy, "nhất tâm" được đức Thế Tôn nói lược, cũng như trong phần trình bày kế tiếp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">110. <B>Tốt đẹp theo ba cách có mười đặc tính</B> (đoạn 79): sự tốt đẹp theo ba cách là đầu, giữa, cuối: mười đặc tính là những đặc tính của chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">111. "Về sơ thiền, sự thanh tịnh đạo lộ là chặng đầu: chặng đầu có ba đặc tính, là tâm được lọc sạch chướng ngại cho thiền, nhờ lọc sạch, nó chuẩn bị cho trạng thái quân bình cho chặn giữa, tức tịnh chỉ tướng và vì đã chuẩn bị, nên tâm thể nhập trạng thái ấy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">112. "Sự tăng trưởng xả là chặng giữa": chặng giữa có ba đặc tính: bấy giờ hành giả, với trạng thái xả, nhìn tâm đã được thanh lọc, với xả, nhìn tâm đã được chuẩn bị cho tịnh chỉ, với xả, nhìn sự xuất hiện cửa nhứt tướng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">113. "Sự toại ý là chặng cuối": chặng cuối có bốn đặc tính: toại ý không có sự quá độ nào trong các pháp khởi lên, toại ý vì các căn chỉ có một nhiệm vụ duy nhất; toại ý vì nỗ lực thích đáng đã kết quả và sự toại ý với nghĩa tập hành, là sự toại ý ở chặn cuối của sơ thiền, nên nói rằng "sơ thiền tốt đẹp ở chặng cuối với bốn đặc tính" (Ps. i, 167-8 lược).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) <I>Năm kiểu viễn ly bằng cách <B>đè nén</B> nhờ định, bằng cách <B>thay thế</B> những pháp đối lập nhờ tuệ, bằng cách cắt dứt nhờ đạo lộ, bằng cách <B>tịnh chỉ</B> nhờ quả và viễn ly nhờ Niết bàn. Ba kiểu viễn ly là thân viễn ly, tâm viễn ly và hữu viễn ly - Niết bàn).</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) <I>Chanda, kāma, rāga cùng hợp với từ chia chúng, cần hiểu rõ. <B>Chanda</B> rất thông dụng, có nghĩa là hằng say, ham muốn, tốt hoặc xấu, thường có nghĩa là ưa hoạt động trong thuật ngữ, nó chỉ cho bốn thần túc (iddhipāda) và bốn thắng đạo (adhipati). <B>Kāma</B> chỉ chung ngũ dục thuộc dục giới, nghĩa hẹp là dâm dục. Nó gồm có nghĩa <B>dục</B> chủ thế ham muốn, tức cấu uế của tâm và đối tượng gọi lên đối tượng gợi lên dục vọng. <B>Rāga</B> là ham muốn theo ý xấu, như chữ <B>Lobha</B> là thuật ngữ chỉ một trong ba bất thiện. Căn là tham (sân si). Rāga là tham theo nghĩa chung. <B>Kāmacchanda</B> là "dục tham" (từ ngữ chỉ riêng triền cái).</I>
<CENTER><B>SỰ XUẤT HIỆN ĐỊNH AN CHỈ TRONG TÂM LỘ TRÌNH</B>
<I>(Trích sách: Thanh Tịnh Đạo, Tập I Thích Nữ Trí Hải dịch,
<BR>

<BR>Chương IV, Ðịnh - Kasina Ðất, trang 224-274)</I></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">74. Khi hành giả hướng tâm theo cách ấy chạm mặt sơ tướng, biết "nay, định an chỉ sẽ tiếp theo", thời ý môn hướng tâm khởi lên nơi vị ấy cùng một đối tượng là kasina đất, định tướng ấy gián đoạn dòng hữu phần và khởi lên nhờ liên tục lập lại "đất, đất". Sau đó, bốn hay năm tốc hành tâm khởi trên cùng một đối tượng tốc hành tâm cuối cùng thuộc sắc giới, những tâm trước đó thuộc dục giới, nhưng năm thiền chi trong những tốc hành tâm này mạnh hơn trong tâm thường.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những tốc hành tâm này gọi là "tâm chuẩn bị", vì chúng chuẩn bị cho định an chỉ, cũng gọi là "cận hành" tâm vì chúng gần với định an chỉ hoặc vì chúng xảy đến ngay trước định an chỉ, như người ta nói "phụ cận khu làng" phụ cận khu phố là nơi gần làng, gần phố. Cũng gọi là "tâm thuận thứ" vì chúng phù hợp với tâm đi trước và định tướng tiếp theo sau. Tốc hành tâm cuối cùng còn gọi là "chuyển tánh" vì nó vượt qua dục giới hữu hạn và làm phát sinh dòng sắc giới siêu việt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">75. Tốc hành tâm đầu tiên gọi là chuẩn bị, thứ hai "cận hành", thứ ba "thuận thứ", thứ tư " chuyển tánh", thứ năm "an chỉ" hoặc tâm đầu tiên là "cận hành", thứ hai "thuận thứ", thứ ba"chuyển tánh", thứ tư là tâm "an chỉ". Vì chỉ có tâm sau rốt này mới dán chặt vào an chỉ, tùy theo thắng trí linh lợi (tâm thứ tư đã an chỉ) hay chậm lụt (tâm thứ năm).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">76. Nhưng luận sư A Tỳ Ðàm là trưởng lão Godatta trích dẫn đoạn văn: "Những thiền tâm đi trước là một duyên, kể như tập hành duyên, cho những thiền tâm kế tiếp (Ptn 1.5) và thêm: "Chính nhờ tập hành duyên mà mỗi tâm kế tiếp đều mạnh, bởi thế trong tốc hành tâm thứ sáu hoặc bảy vẫn có thể đắc định an chỉ". Ðiều này bị các luận bác bỏ, cho đó chỉ là quan điểm riêng của vị trưởng lão ấy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">77. Chỉ trong tốc hành tâm thứ tư hoặc thứ năm mới có định an chỉ. Qua khỏi giới hạn ấy, tốc hành tâm chìm xuống, vì gần với dòng Hữu phần. Và điều này đã được cân nhắc kỹ mới nói lên, do vậy không thể bác bỏ. Bởi vì, cũng như một người đang chạy đến một cái hố mà muốn dừng khi chân đã kề miệng hố, thì không thể nào dừng được mà chỉ có việc rớt xuống hố. Cũng thế, không thể có chuyện dán chặt vào định an chỉ ở tốc hành tâm thứ sáu và thứ bảy, vì gần với dòng hữu phần. Do đó, cần hiểu rằng chỉ có định an chỉ ở tốc hành tâm thứ bốn hay thứ năm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">78. Nhưng định an chỉ ấy chỉ trong một năm sát na duy nhứt. Vì có bảy trường hợp trong đó tâm lộ trình thông thường không áp dụng. Ðó là trường hợp định an chỉ đầu tiên, các loại thắng trí thế gian, bốn đạo, quả kế tiếp đạo, thiền hữu phần trong các loại sắc và vô sắc hữu, phi tưởng phi phi tưởng xứ làm duyên cho định diệt thọ tưởng. Ở đây, quả kế tiếp sau đạo không vượt quá ba tâm sát na; tâm phi tưởng phi phi tưởng xứ làm đầu tiên (duyên) cho định diệt thọ tưởng không vượt quá hai tâm sát na; còn những tâm ở trong hữu phần thuộc sắc giới và vô sắc giới thì không thể ước lượng. Với các trường hợp còn lại, thì số tâm sát na chỉ có một. Bởi thế mà nói rằng định an chỉ thuộc vào một tâm sát na duy nhứt. Nó rơi trở lại Hữu phần sau đó, rồi, Hữu phần gián đoạn để quán sát thiền, vì đó là giai đoạn kế tiếp.
<CENTER><B>SƠ THIỀN</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">79. Ðến đây, "hoàn toàn ly dục, ly bất thiện pháp, vị ấy chứng và trú sơ thiền, có tầm, có tứ, với hỷ lạc do ly dục sanh" (Vbh, 245), và như vậy hành giả đã đắc sơ thiền, từ bỏ năm pháp, đạt được năm pháp, tốt đẹp ở ba phương diện, có mười đặc tính, và sơ thiền ấy thuộc biến xứ đất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">80. <B>"Hoàn toàn ly dục"</B> ở đây có nghĩa sau khi đã thoát khỏi những dục vọng. "Hoàn toàn" (eva) có nghĩa là tuyệt đối. Khi thực sự chứng và trú sơ thiền thì dục không có mặt và dục chính là cái gì ngược hẳn với sơ thiền, sơ thiền chỉ xảy ra khi hoàn toàn buông bỏ dục.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">81. Nghĩa là, dục phải là cái "không đội trời chung" với sơ thiền, nếu có dục thì không đắc sơ thiền, cũng như có tối thì không có sáng, bỏ bờ gần mới đến bờ xa. Ðó là tính cách tuyệt đối của sự "hoàn toàn ly dục".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">82. Danh từ "hoàn toàn" này cần được hiểu ngầm cả trong vế thứ hai "(hoàn toàn) ly bất thiện pháp", nghĩa là những triền cái khác ngoài dục. Và mặc dù ly tổng quát bao gồm mọi kiểu từ bỏ, ở đây chỉ có ba thứ từ bỏ muốn ám chỉ là thân viễn ly, tâm viễn ly và viễn ly bằng sự đè nén<SUP><B>(1)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">83. Nhưng danh từ "dục" bao gồm nhiều thứ, đó là <B>dục kể như đối tượng</B>, như ở đoạn "Gì là đối tượng của dục? Ðó là những sắc pháp khả ý..." Và <B>dục kể như cấu uế</B> được nói trong Vibhanga như sau: "Ðam mê là dục thèm muốn là dục, khát khao là dục, khát khao thèm muốn là dục"<SUP><B>(2)</B></SUP>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như vậy "hoàn toàn ly dục" có nghĩa là "hoàn toàn thoát ly những đối tượng của dục" tức <B>thân viễn ly</B>, còn "ly bất thiện pháp" là từ bỏ những cấu uế của tâm tức dục vọng, hoặc từ bỏ tất cả thiện pháp, ám chỉ <B>tâm viễn ly</B>. Trong khi <B>ly dục</B> chỉ có nghĩa "từ bỏ khoái lạc giác quan, xa lìa đối tượng của dục" thì, <B>ly bất thiện pháp</B> còn ám chỉ đến sự khoái lạc viễn ly, vì lìa khỏi dục kể như cấu uế của tâm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">84. <B>Ly dục</B> là từ bỏ cái nhân của tham, <B>ly bất thiện pháp</B> là từ bỏ cái nhân của si, ly dục là thanh tịnh thân nghiệp, ly bất thiện pháp là thanh tịnh ý nghiệp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">85. Nhưng nếu "dục" được hiểu là cấu uế, thì nó chỉ <B>dục tham</B> (kāmacchanda) dưới nhiều hình thức sự hăng say theo đuổi (chanda), sự thèm khát (rāga)... Tức khoái lạc giác quan. Mặc dù nó bao gồm trong "bất thiện pháp" ở vế sau, ở đây nó được nêu riêng rẽ, bởi vì nó xung khắc với thiền. Hoặc, dục nói ở về thứ nhất "hoàn toàn ly dục" là thèm khát khoái lạc giác quan và đó là một phiền não (cấu uế) và dục ám chỉ trong vế thứ hai vì đó là một bất thiện pháp. Và vì dục, sự thèm khát, mang nhiều hình thức, nên nguyên văn "ly dục" để số nhiều thay vì số ít.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">86. Mặc dù có bất thiện trong các pháp khác, Vibhanga chỉ kể đến những triền cái: "Nhưng pháp gì là bất thiện? Dục tham...." để chứng tỏ sự đối nghịch, xung khắc giữa triền cái với thiền chi. Vì triền cái là những pháp ngược hẳn với thiền chi, nghĩa là, những thiền chi không ở chung với triền cái, loại bỏ trừ khử triền cái: "Ðịnh không ở chung với tham dục, hỉ không ở chung với sân, tầm không ở chung với hôn trầm, lạc không ở chung với trạo hối, tứ không ở chung với nghi".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">87. Bởi thế trong trường hợp nầy, cần hiểu rằng sự viễn ly bằng cách đè nén dục được ám chỉ trong câu "hoàn toàn ly dục" và viễn ly bằng cách đè nén cả năm triền cái được ám chỉ trong câu "ly bất thiện pháp". Hoặc triền cái "tham dục" được ám chỉ trong câu đầu, bốn triền cái còn lại ám chỉ trong câu thứ hai. Hoặc <B>tham</B> (đối với năm dục) ám chỉ trong câu đầu, <B>sân, si</B> trong câu sau. Hoặc câu đầu ám chỉ dục bộc lưu, dục ách, dục lậu, dục thứ, dục hệ phược, dục kiết sở, câu sau chỉ các bộc lưu, ách, lậu... khác. Lại nữa, tám tâm sở có gốc ở tham (Chương. XIV, 90) được ám chỉ trong câu đầu, các bất thiện tâm khác được ám chỉ trong câu sau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">88. Ðến đây, những pháp thiền gạt bỏ đã được nêu lên. Bây giờ, để nói rõ các thiền chỉ, luận nêu câu "có tầm, có tứ". <B>Tầm</B> (Vitka- applied thougt) có nghĩa đánh mạnh vào. Nó có đặc tính là hướng tâm, để tâm trên đối tượng. Nhiệm vụ nói là quất vào hành giả là do tầm. Thể hiện (tướng) của tâm là sự dẫn tâm đến một đối tượng Tứ là tư duy được đưa lên cao độ (viccara- sustained thought = tứ). Ðặc tính của nó là liên tục nhấn mạnh vào đối tượng. Nhiệm vụ (dụng) của nó là khiến cho những tâm pháp đều tập trung trên đối tượng. Hiện tướng của nó là tâm lý được dán chặt vào đối tuợng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">89. Mặc dù tầm tứ không rời nhau, <B>tầm</B> có nghĩa sự chạm xúc đầu tiên của tâm với đối tượng, như đánh lên một tiếng chuông. <B>Tứ</B> là giữ tâm buộc vào một chỗ, như rung chuông. Tầm có cạn dự, đó là sự can thiệp của ý thức vào lúc khởi tâm đầu tiên, như một con chim dang đôi cánh khi sắp liệng, như con ong lao vút tới một cái hoa sen khi nó muốn theo dõi mùi hương của hoa. Hành tướng của <B>tứ</B> an tịnh hơn, ý thức hầu như không can dự giống như một con chim sau khi lao vào hư không, liệng với đôi cánh dang rộng, như con ong lao mình tới, vù vù quanh đoá hoa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">90. Trong tập Sớ về Chương Hai pháp (Angutta N.) có câu: "<B>Tầm</B> là trạng thái hướng tâm đến một đối tượng, như chuyển vận của một con chim lớn cất cánh bay, vồ lấy hư không với cả hai cánh rồi ép xuống. Vì tầm làm phát sinh định tĩnh bằng cách hợp nhứt. <B>Tứ</B> có đặc tính một áp lực liên tục, như chuyển động của con chim khi nó sử dụng đôi cánh để giữ thăng bằng trên hư không. Vì tứ liên tục bám vào đối tượng. Sự khác biệt giữa tầm và tứ trở nên rõ rệt trong Sơ thiền và Nhị thiền (nếu tính có năm thiền).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">91. Hơn nữa, tầm được ví như bàn tay nắm chặt, còn tứ như bàn tay chà xát, khi ta nắm một cái đĩa kim loại hoen rỉ với một tay, còn tay kia chà xát nó với mảnh giẻ tấm dầu và phấn. Cũng vậy, khi người thợ gốm quay bánh xe bằng cách đánh vào cây trục để làm một cái đĩa thì bàn tay đỡ dưới của ông ví như tầm và bàn tay chuyển động qua lại ví như Tứ. Hoặc khi ta kẻ một vòng tròn thì cây kim cố định giữa trung tâm ví như <B>tầm</B>, cây kim di động vòng quanh cái tâm điểm ấy gọi là tứ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">92. Vậy, sơ thiền xảy đến cùng một lúc với tầm và tứ được gọi là "câu hữu với tầm tứ như ta nói một cây có hoa và trái". Nhưng trong Vibbhanga, lời dạy được ám chỉ đến con người là: "Vị ấy đạt đến, viên mãn tầm và tứ" (Vbh. 257). Ý nghĩa cũng như nhau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">93. <B>Do viễn ly sanh</B>: Ở đây viễn ly (vivitti) là sự ẩn cư, có nghĩa là sự biến mất của những triền cái. Hoặc có nghĩa là các pháp liên hệ đến thiền này xa lìa khỏi những triền cái. Do viễn ly sanh là được sanh ra từ, hay trong viễn ly. <B>Hỉ và lạc</B> vì nó làm cho mát mẻ, tươi tỉnh (pirayati) nên gọi là <B>hỉ</B> (pīti). Nó có đặc tính (thể) làm <B>ưa thích</B> (sampiyyayana). Nhiệm vụ (dụng) của nó là thấm nhuần (cả mình rởn ốc). Tướng của nó là hoan hỉ cao hứng. Nhưng hỉ có năm cấp bực từ thấp lên cao: tiểu hỉ, hỉ như chớp nhoáng, hỉ như mưa rào, hỉ nâng người lên và hỉ sung mãn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">94. <B>Tiểu hỉ</B> chỉ có thể là dựng lông tóc trong mình mà thôi. <B>Hỉ như chớp nhoáng</B> thỉnh thoảng loé lên. <B>Hỉ như mưa rào</B> nổi trên cơ thể liên tục, như sóng vồ vào bờ bể. <B>Hỉ nâng người</B> có thể làm cho thân thể mất trọng lượng và bay bổng lên.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">95. Ðó là điều đã xảy đến cho trưởng lão Mahā-Tissa ở Punnavallika. Ngài đến sân điện thờ vào ngày rằm. Trông thấy ánh sáng trăng, Ngài hướng về Ðại tự ở Anuràdhapura nghĩ: "Vào giờ nầy tứ chúng đang đảnh lễ nơi chánh điện!" Do những đối tượng đã trông thấy ở đấy trước kia, ngài khởi lên niềm vui lớn khi tưởng đến đức Thế Tôn và Ngài bay lên hư không như một quả bóng, đáp xuống sân chánh điện.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">96. Và điều này cũng đã xảy đến con gái của nhà phú hộ trong làng Vattakālaka gần tu viện Girikaudaka, khi nàng thăng hư không nhờ tâm hoan hỉ lúc tưởng đến đức Thế Tôn. Khi cha mẹ nàng sắp đến chùa để nghe pháp chiều hôm ấy, họ bảo nàng: "Này con, con đang có thai, không thể nào đi ra ngoài vào giờ này. Ba má sẽ đi nghe pháp kiếm công đức cho con". Và họ ra đi. Nàng rất muốn đi, nhưng không thể trả lời cha mẹ. Bởi thể, nàng bước ra khỏi nhà, đứng trên bao lơn nhìn về Hư Không Ðiện (Akāsacetiya) ở Girikandaka sáng rỡ dưới ánh trăng. Nàng trông thấy lễ dâng đèn ở chánh điện và tứ chúng đang đi nhiễu quanh hướng tay mặt sau khi dâng hương hoa và nghe chư tăng đọc tụng. Nàng nghĩ: "Hạnh phúc thay là những người kia, được nhiễu quanh và nghe pháp vi diệu". Trông thấy ngôi điện thờ như một khối châu ngọc và khởi lên hỉ, tâm rộng lớn, nàng bay bổng lên hư không và đáp xuống điện thờ lễ bái và nghe pháp ngay cả trước cha mẹ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">97. Khi họ đến nơi, trông thấy nàng, bèn hỏi: "Con đến bằng đường nào vậy?"- "Con đến bằng hư không, không phải bằng đường bộ". - "Con ơi, những vị lậu hoặc đã đoạn tận mới đi giữa hư không được. Con đến bằng lối nào?" - "Khi đứng nhìn ngôi chánh điện dưới ánh trăng, một niềm vui lớn khởi lên trong con, với đức Thế Tôn là đối tượng. Rồi con không biết nữa mình đang đứng hay ngồi, chỉ biết mình bay bổng lên hư không, theo với hình ảnh con đã nắm được và con hạ xuống trên sân điện này".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy, hỉ lớn có thể làm mất trọng lượng thể xác và làm nó bay bổng lên hư không.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">98. Nhưng khi <B>hỷ sung mãn</B> khởi lên thì toàn thân được thấm nhuần, như một cái bong bóng đổ đầy nước, như một hang động bị ngập lụt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">99. Năm loại hỉ nói trên, khi được làm cho chín mùi thì sẽ viên mãn hai thứ khinh an là thân khinh an, và tâm khinh an. Khinh an được ấp ủ, làm cho chín mùi sẽ viên mãn hai thứ lạc thân lạc và tâm lạc. Lạc được ấp ủ, làm cho chín mùi thì sẽ viên mãn ba thứ định, đó là định chốc lát, định cận hành và định an chỉ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong năm thứ hỉ nói trên, hỉ muốn nói ở đây là hỉ sung mãn vì nó là căn bản của định và nó tăng trưởng dần theo mình.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">100. <B>Lạc</B> (sukha) là sự làm hài lòng, sự hạnh phúc. Hoặc có nghĩa là nó hoàn toàn (sutthu) ngấu nghiến (khādati) ăn nuốt (khanati) sầu khổ của thân tâm. Ðặc tính nó là làm thoả mãn. Dụng của nó là tăng cường độ các pháp tương ứng. Tướng của nó là sự hỗ trợ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và khi <B>hỉ lạc</B> được liên kết thì hỉ có nghĩa "hài lòng vì đạt được điều ước ao" còn <B>lạc</B> là kinh nghiệm thực thụ đối với điều đã đạt được. Có <B>hỉ</B> tất nhiên có <B>lạc</B> nhưng có <B>lạc</B> thì không tất nhiên có <B>hỉ</B>. <B>Hỉ</B> thuộc hành uẩn, lạc thuộc thọ uẩn. Khi một người khát nước kiệt sức trên sa mạc (Kantārahinna) mà thấy được hay nghe được một vũng nước ở bìa rừng, người ấy sẽ có <B>hỉ</B>, nếu người ấy đi đến bóng mát uống nước ấy thì sẽ có lạc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">101. Vậy, (a) hỉ lạc này thuộc về sơ thiền, hay ở trong sơ thiền, bởi thế thiền này được gọi là <B>có hỉ có lạc</B> và còn <B>do ly dục sanh</B>. Hoặc (b) có thể hiểu <B>hỉ lạc do ly dục sanh</B> là một câu, thay vì hiểu "sơ thiền"... do ly dục sanh" như trường hợp (a).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">102. <B>Sơ thiền</B>: Sẽ giải thích ở đoạn 119. <B>Chứng</B> (upassampajja) là đạt đến, hoặc nếu đọc "upasampādayivā" "làm cho thể nhập" có nghĩa là phát sinh, đi vào, đạt đến, có được, đến nơi, sờ chạm, thực hiện, nhập sơ thiền" (Vbh. 257).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">103 Trú (Viharati): do đạt được thiền thuộc loại đã nói, nhờ an trú trong tư thế thích hợp, hành giả phát sinh một tư thế, một đường lối, một sự duy trì, kiên cố, kéo dài, cư xử, an trú". (Vbh. 252)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">104. Ở trên (đoạn 79, xem M i, 284): "từ bỏ năm pháp, được năm pháp": từ bỏ 5 pháp là năm triền cái, (tham, sân, hôn trầm, trạo hối và nghi). Vì không có thiền sanh khởi nếu chưa từ bỏ năm pháp này, nên chúng là những pháp cần bỏ. Vì, mặc dù lúc đắc thiền, các bất thiện pháp khác cũng được từ bỏ, song chỉ năm pháp này là đặc biệt chướng ngại cho thiền mà thôi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">105. Khi tâm bị tham dục chi phối, do sự thèm muốn các đối tượng sai khác, thì không tập trung được trên một đối tượng duy nhất khi tâm tràn ngập dục tham thì không thể đi vào đạo lộ từ bỏ dục giới. Khi nhiễm độc vì cân đối với một đối tượng thì tâm không thể sanh khởi một cách không gián đoạn. Khi bị hôn trầm thuỵ miên, thì tâm khó điều phục. Khi bị trạo hối tóm lầy thì tâm trở nên bất an, lăng xăng. Khi hoài nghi nổi lên thì tâm không thể bước lên đạo lộ để đắc thiền. Bởi vậy, chỉ những pháp này (tham sân, hôn trầm, trạo hối, nghi) mới gọi là những pháp cần từ bỏ vì chúng đặc biệt chướng ngại thiền.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">106. Nhưng <B>tầm</B> hướng tâm đến một đối tượng, <B>tứ</B> giữ cho tâm neo lại một chỗ ấy. Khi nỗ lực này thành công, <B>hỉ</B> phát sinh và làm tâm tươi tỉnh vì nó đã thành công không để bị tán loạn vì những triền cái, và <B>lạc</B> khởi lên tăng cường mức độ của hỉ cũng vì lý do đó. Rồi <B>nhứt tâm</B> được hỗ trợ bởi bốn pháp vừa kể, tập trung thích đáng vào đối tượng. Bởi thể sự "có được năm pháp" chính là khởi lên tầm, tứ hỉ, lạc và nhứt tâm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">107. Vì chính khi những pháp này khởi lên, ta mới nói rằng thiền phát sinh, nên gọi là "có được năm pháp".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">108. Tuy rằng năm pháp cũng hiện hữu ở giai đoạn cận hành, mạnh hơn ở tâm thức bình thường, song ở giai đoạn này chúng lại còn mạnh hơn là ở định cận hành và mang đặc tính sắc giới. Vì ở giai đoạn này, <B>tầm</B> hướng đến đối tượng một cách cực kỳ sáng suốt, <B>tứ</B> cũng vậy, áp mạnh lên đối tượng, <B>hỉ và lạc</B> thấm nhuần khắp toàn thân. Kinh nói: "Không có chỗ nào trên thân hành giả mà không được thấm nhuần bởi hỉ lạc do ly dục sanh" (Trường. i, 73). Và sự <B>nhất tâm</B> cũng vậy, khởi lên, hoàn toàn chạm xúc với đối tượng như nắp hộp chạm đáy hộp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">109. Mặc dù sự <B>nhất tâm</B> không được kể ra ở trong câu nói: "có tầm có tứ, hỉ lạc do ly dục sanh", Thiền: đó là tầm, tứ, hỉ, lạc, nhất tâm" (đ. 257), bởi vậy, "nhất tâm" được đức Thế Tôn nói lược, cũng như trong phần trình bày kế tiếp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">110. <B>Tốt đẹp theo ba cách có mười đặc tính</B> (đoạn 79): sự tốt đẹp theo ba cách là đầu, giữa, cuối: mười đặc tính là những đặc tính của chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">111. "Về sơ thiền, sự thanh tịnh đạo lộ là chặng đầu: chặng đầu có ba đặc tính, là tâm được lọc sạch chướng ngại cho thiền, nhờ lọc sạch, nó chuẩn bị cho trạng thái quân bình cho chặn giữa, tức tịnh chỉ tướng và vì đã chuẩn bị, nên tâm thể nhập trạng thái ấy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">112. "Sự tăng trưởng xả là chặng giữa": chặng giữa có ba đặc tính: bấy giờ hành giả, với trạng thái xả, nhìn tâm đã được thanh lọc, với xả, nhìn tâm đã được chuẩn bị cho tịnh chỉ, với xả, nhìn sự xuất hiện cửa nhứt tướng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">113. "Sự toại ý là chặng cuối": chặng cuối có bốn đặc tính: toại ý không có sự quá độ nào trong các pháp khởi lên, toại ý vì các căn chỉ có một nhiệm vụ duy nhất; toại ý vì nỗ lực thích đáng đã kết quả và sự toại ý với nghĩa tập hành, là sự toại ý ở chặn cuối của sơ thiền, nên nói rằng "sơ thiền tốt đẹp ở chặng cuối với bốn đặc tính" (Ps. i, 167-8 lược).</P>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) <I>Năm kiểu viễn ly bằng cách <B>đè nén</B> nhờ định, bằng cách <B>thay thế</B> những pháp đối lập nhờ tuệ, bằng cách cắt dứt nhờ đạo lộ, bằng cách <B>tịnh chỉ</B> nhờ quả và viễn ly nhờ Niết bàn. Ba kiểu viễn ly là thân viễn ly, tâm viễn ly và hữu viễn ly - Niết bàn).</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) <I>Chanda, kāma, rāga cùng hợp với từ chia chúng, cần hiểu rõ. <B>Chanda</B> rất thông dụng, có nghĩa là hằng say, ham muốn, tốt hoặc xấu, thường có nghĩa là ưa hoạt động trong thuật ngữ, nó chỉ cho bốn thần túc (iddhipāda) và bốn thắng đạo (adhipati). <B>Kāma</B> chỉ chung ngũ dục thuộc dục giới, nghĩa hẹp là dâm dục. Nó gồm có nghĩa <B>dục</B> chủ thế ham muốn, tức cấu uế của tâm và đối tượng gọi lên đối tượng gợi lên dục vọng. <B>Rāga</B> là ham muốn theo ý xấu, như chữ <B>Lobha</B> là thuật ngữ chỉ một trong ba bất thiện. Căn là tham (sân si). Rāga là tham theo nghĩa chung. <B>Kāmacchanda</B> là "dục tham" (từ ngữ chỉ riêng triền cái).</I>