Bạch Vân Nhi

Thẩm Mỹ Mùa Xuân

Bạch Vân Nhi

Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (thán

Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
27/5/09
Bài viết
2,516
Điểm tương tác
887
Điểm
113
Nơi ở
CANADA
[NEN="http://trungtamtutam.com/diendantuthien/picture.php?albumid=21&pictureid=3272"]
THẨM MỸ MÙA XUÂN
Thích Thông Huệ




Một năm trôi qua, chúng ta đã nếm trải bao vị chua cay ngọt mặn của cuộc sống, có thêm một số kinh nghiệm trên đường đời và đường đạo. Nhờ vậy, chúng ta có sự thâm trầm tỉnh thức trước những hoàn cảnh thuận nghịch, trước những thử thách gian truân. Ðây là điều kiện cần thiết giúp chúng ta hoàn thiện nhân cách, thăng hoa đời sống tâm linh, dần dần vững bước trên lối về với Chân Thiện Mỹ.

Theo lý nghĩa sâu xa của Ðạo, Chân là bản thể chân thật tuyệt đối, là thể tánh bất sanh sẵn đủ ở mọi loài; Thiện là tâm thanh tịnh siêu vượt thiện ác, vắng bặt ý niệm phân tích nhị biên; Mỹ là nét đẹp siêu nhiên, là sự toàn bích của thế giới lý tưởng, là sự hoàn hảo vượt thường mà trí tuệ con người không thể suy lường nổi.
Nghe qua, chúng ta nghĩ đó là những cảnh giới siêu thực, ở một nơi nào, một thời điểm nào đó xa xôi mà chúng ta không bao giờ có thể dự phần.
Nhưng nếu thế thì Ðức Bổn Sư đã chẳng bảo rằng, bản hoài của chư Phật là khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Phật tri kiến là cái thấy biết của Phật, có thể nhận rõ và thưởng thức vẻ đẹp toàn diện toàn hảo và bất sanh bất diệt của muôn pháp. Con người chúng ta cũng có khả năng tiềm tàng ấy - Ðức Phật đã nhiều lần khẳng định. Nhưng chúng ta phải làm thế nào phát huy khả năng ấy? Và mỗi lúc xuân về, chúng ta dùng phương cách gì để đồng thời thưởng thức thẩm mỹ mùa Xuân nhân gian tự nhiên và Xuân Ðạo siêu nhiên?


Các pháp trong thế gian quả thật muôn màu muôn vẻ, mỗi mùa lại biểu hiện những sắc thái khác nhau. Ðặc biệt vào mùa xuân, cây cối đâm chồi nẩy lộc, ngàn hoa đua nở khoe sắc khoe hương, cả đất trời như bừng tỉnh dậy sau giấc ngủ mùa đông dày đặc.
Ta cảm thấy lòng rộn rã theo sự chuyển mình của vạn vật, ta nôn nao theo nhịp sống tưng bừng của mọi người chung quanh.
Dường như từ cõi vô hình, ông bà tổ tiên ta cũng tụ hội về, sum vầy cùng con cháu. Rồi những ngày vui cũng qua mau, chúng ta trở lại với những lo toan tất bật đời thường; những hoa những lá mới tươi đẹp là thế, nay đã héo úa tàn phai; không gian mới trong lành ấm áp là thế, nay đã vội nóng bức ngột ngạt. Nét đẹp của xuân nhân gian mang theo tính chất đa thù phức tạp, lại còn tạm bợ mong manh, phụ thuộc không gian thời gian và cả tâm trạng của mỗi người. Một thi sĩ đã viết:

Lả lướt đợi ngày xuân trở lại,
Ngày xuân trở lại, hỏi bao ngày!
Năm canh lạnh lẽo kinh sương gió,
Ngùi ngậm tàn xuân hoa rụng đầy...


Ngay trong nét tươi xanh của cây lá và rực rỡ của hoa xuân, đã ẩn náu sự tàn phai của hoa mùa hạ, sự rơi rụng của lá mùa thu và sự khô chết của cây mùa đông. Cho nên:
Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Trăng còn non nghĩa là trăng sắp già.


Người đời thường nhìn xuân qua thời gian ước lệ, qua cảnh vật đổi thay; từ đó chạy theo cái đẹp bên ngoài, phát sinh tình cảm chiếm hữu, tạo nghiệp và trầm luân. Có thể nói, cái đẹp mùa xuân nhân gian là cái đẹp của ràng buộc, của vô thường, của sinh tử.

Nếu xuân đời thuộc thẩm mỹ đa thù tương đối, có sinh có diệt, thì xuân Ðạo lại thuộc phạm trù thẩm mỹ thuần nhất, tuyệt đối, bất sinh. Khi trở về trạng thái tịch lặng mà hằng tri của bản tâm, các bậc ngộ đạo thấy toàn thể các pháp đều ở trong ánh giác. Mùa xuân về, Thiền sư Tuyết Ðậu thấy cây cối trùng điệp, nước hồ lấp lánh xanh biếc, trời xuân bát ngát thênh thang. Tâm Ngài hòa theo vạn vật, thấy mình tuy còn trong sanh tử mà vẫn đứng riêng nơi cõi siêu sanh:
Núi xuân chồng chất xanh
Nước xuân lóng lánh biếc
Thênh thang bầu trời cao
Ðứng riêng trong mù tột.


Hạnh phúc này không phải tranh đua giành giật với ai, không ai có thể cướp mất của mình, cũng không bị biến hoại theo thời gian không gian. Ấy là hạnh phúc đích thực của những người đã nhận ra cái vĩnh hằng trong dòng biến thiên vô tận của muôn pháp.

Một khách tăng hỏi Thiền sư Chân Không: “Khi sắc thân bại hoại thì thế nào?”. Ngài đáp:
Xuân đến xuân đi ngỡ xuân hết,
Hoa tàn hoa nở chỉ là xuân.

Bậc ngộ đạo hằng sống với Phật tâm không sanh không diệt, nên dù sắc thân còn mất như xuân đời có đến có đi, các Ngài vẫn luôn ở trong mùa xuân miên viễn; ví như con sóng lúc nổi lúc chìm, nhưng dù chìm nổi cũng không bao giờ rời thể tánh biển cả mênh mông. Vũ trụ dù có đổi dời, thời gian dù không ngừng trôi chảy, vẫn ẩn tàng nét thẩm mỹ siêu nhiên, nét đẹp uyên nguyên hằng hữu của pháp giới tánh. Ðây là ý nghĩa của Diệu Pháp Liên Hoa, một hoa Sen huyền diệu nở trong lò lửa vô thường.
Thấm thoát thu qua mấy độ rồi
Ðời người bóng chớp áng mây trôi.
Muôn vật hiện bày trò ảo hóa
Sen nở trong lò sắc thường tươi.


Thu qua đông tới, xuân lại về, hoa vàng mấy độ. Ðời người như bóng chớp như áng mây, chợt còn chợt mất; muôn cảnh như mộng ảo không thật có, không thường còn. Nếu tâm dính mắc với trần cảnh ngoại duyên, ta thấy cuộc đời mình luôn bị chi phối bởi những tác nhân bên ngoài, không lúc nào an ổn. Nhưng nếu đối cảnh mà tâm vắng bặt mọi ý niệm phân biệt, mọi suy tính lăng xăng, ta sẽ có cơ hội tiếp cận với cái chân thật muôn đời.
Chủ trương nhập thế tích cực của đạo Phật không phải rời bỏ thế gian, xa lánh cuộc đời; các Ngài vẫn chu toàn mọi bổn phận với đời nhưng không bị đời ràng buộc. Hình tượng của Bồ-tát Di Lặc là một biểu hiện sinh động của tinh thần hòa quang đồng trần.
Nụ cười của Ngài thật rạng rỡ, thật bình an giữa đám trẻ vây quanh; vì buông xả đến tận cùng các Căn-Trần-Thức nên ở trong pháp sinh diệt mà vượt thoát sinh diệt, nên lục tặc biến thành lục thông, nên ngay xuân nhân gian mà tâm xuân của Ngài mãi lồng lộng trong đất trời!


Như vậy, Xuân Ðạo và Xuân đời chỉ là hai mặt của cùng một thực tại. Xuân đời thuộc thế giới hữu hạn, tương đối, đa thù; Xuân Ðạo có tính vô hạn, tuyệt đối, thuần nhất; nhưng cả hai không thể tách rời mà hòa quyện nhau như sóng và nước. Khi chúng ta phân tâm trên cảnh mùa xuân và bị cảnh ràng buộc, ấy là thưởng thức xuân đời có đến có đi có sanh diệt. Cũng trên cảnh ấy mà tâm thanh tịnh không khởi niệm phân biệt nhị biên, dù vẫn thấy nghe hay biết rõ ràng, chúng ta đang vui cùng xuân đạo.
Các bậc ngộ đạo vẫn cảm xúc cùng xuân, nhưng sự cảm xúc này ở chiều sâu thẳm của vô thức chứ không hời hợt trên mặt ý thức. Các Ngài vẫn thưởng ngoạn thẩm mỹ mùa xuân, nhưng do quán triệt sự lý viên dung nên vẫn duy trì sự tỉnh thức, để đời và đạo, đa thù và thuần nhất trở thành bất khả phân ly. Các Ngài hòa mình với thế gian vô thường, với vũ trụ biến đổi mà tâm không phân biệt năng sở chủ khách, nhưng dù ở trong những tầm thường của cuộc sống mà vẫn có niềm an lạc diệu thường. Lúc sống không cần biết hưởng thụ thế nào, khi chết không đặt vấn đề mình sẽ đi đâu; sống không thích Thiên đường, chết không sợ Ðịa ngục, nên các Ngài tự tại trước sanh tử, và dù thời gian trôi chảy không dừng, các Ngài vẫn mãi sống trong mùa xuân bất diệt.

Một Thiền sư có nói bài kệ như sau:
Năm trước gặp thanh xuân,
Má hồng khoe đào lý.
Năm nay gặp thanh xuân,
Tóc bạc đầy mái đầu.
Người đời tuổi bảy mươi,
Nhanh như dòng nước chảy.
Chẳng ngộ tâm xưa nay,
Sinh tử làm sao khỏi?


Năm xưa còn trẻ, ngắm nhìn những cô gái má đào mơn mởn, lòng không khỏi rộn ràng tình ý. Năm nay, trên đường vẫn gặp bóng áo hồng áo xanh, nhưng nhìn lại mình đã thấy tóc bạc đầy đầu! Thời gian trôi nhanh như dòng nước chảy, thoáng chốc mình đã ở tuổi “cổ lai hy”, cái chết đang là mối hăm dọa lớn. Nếu cứ mãi đắm mình trong ngũ dục, không sống với bản tâm chân thật xưa nay, làm sao thoát khỏi luân hồi? Hãy ngay trong thế giới vô thường mà sống được với cái chân thường, ngay dòng sanh tử mà tự tại với thể tánh bất sanh. Bản tâm thể tánh ấy là cành mai của Thiền sư Mãn Giác, là hoa cúc của Tam Tổ Huyền Quang; ấy là mùa xuân miên viễn lung linh chiếu diệu trong thời gian vô cùng và không gian vô biên.


Chúng ta thưởng thức vẻ đẹp của mùa xuân nhân gian, nên ngay đó mà nhận ra thẩm mỹ của mùa xuân siêu thế. Xuân ấy chỉ ở trong mỗi người. Khi tâm thanh tịnh, không dính mắc trần cảnh sanh niệm vọng động, thì nơi muôn hoa tàn nở, ta nhận ra hoa xuân chưa từng tàn nở bao giờ. Cầu chúc tất cả chúng ta, trong mùa xuân của đất trời đang đến, sống được với xuân trong lòng mình và chan hòa ý xuân ấy cho mọi người, để hạnh phúc vĩnh cửu luôn tỏa sáng muôn nơi, bây giờ và mãi mãi !


[/NEN]
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Bạch Vân Nhi

Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (thán

Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
27/5/09
Bài viết
2,516
Điểm tương tác
887
Điểm
113
Nơi ở
CANADA
Mùa Xuân với Cành Mai

[NEN="http://trungtamtutam.com/diendantuthien/picture.php?albumid=21&pictureid=3255"]

MÙA XUÂN VỚI CÀNH MAI
Thích Thông Huệ

maivang-010205.jpg


Thiền sư Mãn Giác, thuộc đời thứ 8, dòng thiền Vô Ngôn Thông. Niên hiệu Hội Phong thứ 5 (1096), cuối tháng 11 Sư có bệnh, gọi môn nhân đến nói kệ:

“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai”.

Nghĩa:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm qua sân trước một cành mai.


Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già thị tịch, thọ 45 tuổi, được 19 tuổi hạ (Thiền sư Việt Nam, trang 124).

Ðây là một bài kệ giàu chất thơ và nhất là giàu chất thiền. Dường như trong giới tu thiền, giới tu sĩ, những người hâm mộ Phật, cả những người yêu thơ văn, giới trí thức Việt Nam ít có ai không thuộc lòng bài kệ thơ này. Ðây là một bài thơ nổi tiếng và là một bài thơ duy nhất còn sót lại của Thiền sư Mãn Giác, được tìm thấy trong Thiền Uyển Tập Anh.

Mỗi độ xuân về, trăm hoa khoe sắc thắm; mỗi lần xuân đi trăm hoa úa tàn rơi rụng, gợi nhắc đến cái định luật vô thường khắc khe hữu sinh hữu diệt nơi vạn vật cỏ cây. Tất cả pháp giữa thế gian này đều không ra ngoài quy luật đó. Trước mắt, Sư đã từng chứng kiến biết bao lần sự đổi thay chuyển dời, mỗi sự mỗi vật cứ trôi đi mãi, không bao giờ dừng trụ. Sự vô thường nơi các hiện tượng như một dòng sông trôi chảy đến vô cùng. Khi thoạt nhìn lại bản thân thì sự già nua đã đáp trên đầu tự bao giờ. Có lẽ lúc ấy Sư đã “tóc pha màu tuyết?”.

Qua bốn câu kệ đầu, Sư nói đến lẽ vô thường nơi cảnh vật và bản thân bằng cái nhìn của một người có kinh nghiệm thực chứng. Vì vô thường mà các pháp đều đi đến hủy diệt, cũng vì vậy mà vô thường được ví như ngọn lửa lớn, ầm ỉ thiêu đốt cả thế gian. Vô thường đem đến sự chết chóc, nỗi sợ hãi cho con người, nên được nhân cách hóa nó trở thành một con quỷ (quỷ Vô Thường), hoặc Thần chết. Kinh Pháp Hoa lại nói ba cõi như nhà lửa, không vui sướng gì.

Như vậy, vô thường như là một điềm xấu, hay đem đến cho con người sự sợ hãi, làm nền tảng cho thái độ bi quan về cuộc sống. Tuy nhiên nếu nhìn với một góc độ khác, với mức quán chiếu sâu xa khác, thì vô thường lại có thể đem đến sự lạc quan vui sống hồn nhiên cho con người. Ðiều ấy hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ nhận thức chủ quan của chúng ta về bản thân cuộc đời. Nếu công tâm mà nhận xét, nếu không nhờ vô thường thì các pháp không thể sinh trưởng; chính nhờ vô thường mà có ra sự sống trên trái đất. Sự chuyển dời trong lòng sự vật mà tất cả pháp trở thành hoạt dụng, nên vô thường là một phép lạ đem đến sự sống cho con người và muôn loài muôn vật.
Nhờ vô thường mà ta biết phục thiện, phát tâm Bồ đề, viên thành chánh giác. Chắc chắn nếu không nhờ vô thường thì các pháp trở nên trơ lì và sự sống biến mất trên trái đất này. Tất cả pháp quá khứ vốn vô thường, tất cả pháp hiện tại đang vô thường, tất cả pháp vị lai sẽ vô thường, thế nên vô thường tức là thường (Vô thường thị thường). Mà vô thường đã tức là thường thì không nên lẫn tránh vô thường để tìm cái thường hằng bất biến.

Tính thường hằng bất biến vốn là tự thể cho tất cả mọi hiện tượng sinh diệt, nên mọi hiện tượng sinh diệt không bao giờ xa lìa cái đương thể thường hằng đó. Phật giáo phát triển chủ xướng thuyết: “Nhất thiết thế gian pháp giai thị Phật pháp” không phải hoàn toàn không có chỗ y cứ. Vì nhận thức sâu xa về vô thường như là một thực tại nhiệm mầu mà Thiền sư Mãn Giác biểu hiện một cách rõ nét qua hai câu kết:

“Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm qua sân trước một cành mai”.

Theo ý nghĩa trên, muôn vật vô thường thay hình đổi dạng cũng chỉ là bản thân của một cành mai (muôn vật là hóa thân của tự tánh). Nó âm thầm đi vào lòng người như một phép lạ, gợi nhắc chúng ta hướng đến một thực tại vĩnh hằng vô thủy vô chung. Thực tại ấy vốn vô ngôn, vượt thoát tất cả mọi ý niệm thời - không, là nơi mà muôn vật được sinh thành, tồn tại và hủy diệt.

Vốn vô thường mà có khả năng biểu hiện thành tất cả tướng, vốn nhất như mà có thể biểu hiện thành thiên sai vạn biệt, vốn vô sanh mà có thể sanh thành... Nếu thật vậy, một con chim, cái kiến, cọng cỏ, núi sông, sum la vạn tượng, hữu tình, vô tình, sự sống và sự chết đều là hiện tướng của một cành mai. Nhân mùa xuân nhân gian có hoa nở hoa tàn, Sư Mãn Giác đã giới thiệu đến chúng ta một cành mai vẫn thường hằng khoe tươi sắc thắm trong bốn mùa thay đổi.
Con người là trung tâm của vũ trụ, tuy hữu hạn trong dòng thời gian vô hạn, vẫn không ngại ngùng nuôi những ước vọng hướng đến sự sống vĩnh hằng. Con người tuy nhận thấy mình bé nhỏ, lạc loài giữa vũ trụ bao la, vẫn khát khao hòa nhập vào đại thể. Khi đau khổ bi đát đến cùng cực, người ta hay suy nghĩ tìm kiếm nhiều nhất về ý nghĩa của kiếp người. Ðời sống hướng nội tự nhiên trở thành nhu cầu tâm linh, là điểm tựa cuối cùng giúp họ có dịp để tự đánh thức mình, vén mở lên những bí mật của kiếp sống.

Ban đêm nhìn lên bầu trời thấy muôn ngàn vì sao lấp lánh, vừa đảo mắt đã nhìn thấy trăng sao xa tít, cái thấy và cái bị thấy tuy xa xăm dịu vợi trong khoảng không gian rộng lớn, nhưng vẫn đến với nhau bằng một gạch nối, đó là “cái biết”. Như vậy, há không phải chúng ta là pháp giới hay sao?

Người học thiền không nên lìa ngoài ảo ảnh đổi thay của muôn vật để riêng tìm chơn thường, nhưng chơn thường vốn không tướng mạo âm thinh. Tuy “không” mà muôn pháp hiện bày, tuy “không” mà tất cả pháp được hoạt dụng, “không” là tự thể của muôn pháp, là mẹ đẻ của muôn pháp, muôn pháp nhờ “không” mà được an lập, nhưng “không” lại không hình, không bóng, không tướng, không thể nắm bắt.
Khi nào ánh trực giác phát sinh từ vùng sâu thẳm giữa lòng tâm thức, khi một nguồn suối của đời sống mới được tuôn trào, thì cùng lúc Chúa Xuân liền vén mở những ẩn mật của đời sống. Muốn trọn hưởng mùa Xuân bất diệt, mỗi người phải tự hòa mình vào vạn vật. Mùa Xuân ấy nằm trong sự đổi thay của muôn vật. Trong cái chuyển biến vô thường ảo mộng, có cái gì ẩn mật thầm kín trường tồn. Ðó là hình ảnh một cành mai của Thiền sư Mãn Giác đời Lý.
Thiền là chủ động chứ không phải chủ tịnh, nên người học thiền cần nhìn vào chỗ sống chứ đừng nhìn vào chỗ chết. Chỗ sống đó là một cành mai vẫn mãi tươi thắm trong dòng đời biến đổi này. Ðó là tinh thần ngay nơi Ta-bà mà an lập Tịnh-độ, ngay nơi ảo ảnh mà nhận ra chơn thường, ngay nơi thế gian sinh diệt mà nhận ra mùa Xuân bất diệt. Ðược như thế, thì sự sống bản lai liền trở thành nguồn suối tâm linh mới,vẫn mãi mãi tuôn trào trong sát-na hiện tiền bất động.



[/NEN]
 

Bạch Vân Nhi

Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (thán

Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
27/5/09
Bài viết
2,516
Điểm tương tác
887
Điểm
113
Nơi ở
CANADA
Xuân tự tại

[NEN="http://trungtamtutam.com/diendantuthien/picture.php?albumid=21&pictureid=3032"]

XUÂN TỰ TẠI
Thích Thông Huệ

picture.php


Mỗi lần xuân về, muôn hoa đều khoe sắc và lòng người cũng tưng bừng rộn rã. Mọi người trao cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Ðây là biểu hiện lịch sự xã giao thế tục; hoặc trong tình đạo, là những điều mình mong mỏi bạn bè thân hữu mình đạt được.
Tuy nhiên, xuân nhân gian chỉ có ba tháng trong một năm, rồi đi qua cho mùa hạ đến, theo luật tuần hoàn của trời đất, theo sự phân chia ước lệ của con người. Ðạo Phật còn nói đến một mùa xuân khác, không lệ thuộc vào sự biến đổi vô thường của vũ trụ: đó là mùa Xuân miên viễn, Xuân bốn mùa, Xuân tự tại.

Nói đến mùa Xuân tự tại, chúng ta nhớ lại bài vía Ðức Di Lặc thường được tụng vào đêm giao thừa, trong đó có những câu sau đây:
Di Lặc vốn là bậc Ðại hùng,
An nhiên ngồi ngự Phạn Vương cung.
Xưa nay muôn việc ông sắp đặt,
Dâu biển phù vân cười như không.
Ðảnh lễ thưa cùng Phật Di Lặc,
Bụng chứa những gì con muốn biết.
Cười rằng: Tâm ấy vốn như như,
Thấy là như không, thoát sanh diệt!


Hình ảnh Ðức Di Lặc nổi bật nhất là dáng người mập tròn với cái bụng rất to nhưng lại có vẻ thoát tục. Miệng cười rộng gần đến mép tai. Dù ai đang phiền não, nhìn tượng Ngài cũng thấy lòng nhẹ được đôi phần. Bởi vì, nụ cười rất tươi tắn, rất hoan hỉ của Ngài là nụ cười của người đã siêu vượt ngã chấp, có một đời sống nội tâm sung mãn; nụ cười biểu lộ một niềm an lạc xuất thế. Do đã làm chủ được căn-trần-thức, nên dù trực diện với tất cả các pháp mà Ngài vẫn an nhiên tự tại, vẫn cười trước bao phong ba bão táp, trước mọi dâu biển phù vân.

Nhà Thiền có câu: “Trung vô tận tạng, hữu hoa hữu nguyệt hữu lâu đài” (Trong kho vô tận có hoa, có trăng, có lâu đài). Bụng của Ðức Di Lặc tượng trưng kho Như Lai tạng vô tận, trong kho ấy muôn pháp được hình thành và lưu xuất, cũng như trong lòng hư không gồm chứa tất cả các pháp sinh diệt. Tâm Ngài vốn như như, thấy mọi pháp đều bình đẳng trong tự tánh Không, vì thế vượt thoát được sinh tử.
Không chỉ Ðức Di Lặc hưởng trọn vẹn mùa Xuân tự tại, mà các vị Tổ sư và những bậc Thánh Tăng đã thể hiện rõ phong thái an nhiên trước sự vô thường của kiếp sống. Sơ Tổ Trúc Lâm Ðiều Ngự Giác Hoàng từng viết:
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá Ðông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.

Dịch:
Thuở bé chưa từng rõ sắc không,
Xuân về hoa nở rộn trong lòng.
Chúa Xuân nay bị ta khám phá,
Chiếu trải giường thiền ngắm cánh hồng.

Khi còn niên thiếu, chưa tỏ lý sắc - không nên khi Xuân về, Ngài choáng ngợp theo sự bừng nở của muôn hoa. Ngày nay, Ngài đã khám phá được chúa Xuân nên ung dung ngồi trên giường thiền ngắm từng cánh hoa hồng rụng. Ðây là sự tịch tĩnh của người tu đã biết nội dung của mùa Xuân tự tại. Hoa nở rồi tàn nhưng tự tánh không tàn nở, như sóng có chìm nổi nhưng bản chất nước chưa từng thay đổi bao giờ. Cái chơn thường không thay đổi, không sinh diệt ấy là bản tâm thanh tịnh sẵn đủ ở mọi chúng sanh, mà ở đây Ngài gọi là “Chúa Xuân”. Chúa Xuân được tìm thấy ở đâu? Câu “Kiến sắc minh tâm” thường được sử dụng trong nhà Thiền có ý nghĩa như thế nào? đó là những điều rất quan trọng mà chúng ta cần suy gẫm.
Thiền sư Chân Không đời Lý, khi còn Trụ trì chùa Chúc Thánh trên núi Phổ Lại, có vị Tăng đến hỏi: “Khi sắc thân bại hoại thì thế nào?”. Ngài trả lời bằng hai câu kệ:
Xuân đến, xuân đi ngỡ xuân hết
Hoa nở hoa tàn chỉ là xuân.


Khi thân còn trẻ khỏe là còn tuổi thanh xuân, nhưng nếu đã nhận ra mùa Xuân bất diệt thì già yếu bệnh hoạn cũng vẫn là một chất xuân ấy. Gặp thuận hay nghịch cảnh đều khéo tùy duyên để tu để sống; nhiều lúc bệnh ngặt nghèo lại chính là cơ hội giúp ta tu hành đắc lực. Vì vậy, dù xuân nhân gian có đến có đi, hoa nở hay tàn theo thời tiết thay đổi, trong tâm người đã thấu triệt ý nghĩa tu hành thì lúc nào cũng chỉ là xuân. Ðây là sự khác nhau giữa Xuân đời và Xuân đạo. Các Ngài cũng đón xuân như mọi người thế tục, nhưng luôn hướng tâm đến chỗ không bao giờ biến dịch theo ý niệm thời - không.

Một thi hào Thiền sư đời Trần, Ngài Tuệ Trung Thượng sĩ đón xuân bằng một bài kệ như sau:
Thời tiết xoay vần xuân đến thu,
Cái già sồng sộc đến trên đầu.
Giàu sang ngó lại trơ tràng mộng,
Năm tháng mang theo chất hộc sầu.
Nẻo khổ vành xe lăn lóc khắp,
Sông yêu bọt nước mất còn đâu?
Trường đời nếu chẳng sờ lên mũi
Ngàn thuở lương duyên chỉ bóng màu !


Do thời tiết xoay vần nên có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Ðông. Theo dòng thời gian, con người càng ngày càng tiến dần đến chỗ chết. Nhìn lại kiếp sống, đau khổ nhiều hơn lạc thú, danh vọng quyền thế hay bể ái sông yêu đều chỉ như mộng ảo, như bọt nước đầu ghềnh. Trong trường đời, nếu không có một chút tỉnh thức, không biết đẩy lui phiền não nghiệp chướng để nhận ra cái thường hằng, cái phi huyễn, thì dù muôn thuở lăn lóc trong ba nẻo sáu đường, cũng chỉ là bóng màu hư dối.

Ðọc bài kệ này, những ai từng chịu nhiều vinh nhục thăng trầm trong cuộc sống sẽ vô cùng thấy thấm thía. Từ bao đời bao kiếp, con người vì vô minh nhận lầm cái giả cho là thật, nên suốt đời tận lực lo phục vụ cho cái thân tứ đại. Thậm chí nhiều khi dùng mọi mánh khóe mưu mô, chỉ cốt lợi mình không kể hại người. Nhưng khi có được một địa vị, một số tài sản nào đó, con người đã thỏa mãn chưa, hay lại mong được nhiều hơn nữa? Do vô minh (Si) nên tham đắm ngũ dục, nếu tham không được thỏa mãn sẽ phát sinh sân hận; từ đó tạo nghiệp ác và bị đọa đày trong các khổ xứ. Ðó là bi kịch của kiếp người, bởi vì khi xuôi tay nhắm mắt, con người có mang được gì ngoài những nghiệp thiện -ác từ thân-miệng-ý đã từng tạo khởi? Chiêm nghiệm kỹ điều này, chúng ta sẽ thấu hiểu lý vô thường của vũ trụ nhân sinh, từ đó tìm cho mình một lẽ sống có ý nghĩa.
Một điều cần nhấn mạnh ở đây, chúng ta không phải vì chán cuộc đời vô thường huyễn mộng mà gia công tu hành, cốt tìm sự an lạc vĩnh cửu ngoài trần thế. Hoa sen không mọc lên từ đất sạch, mà nhờ bùn nhơ để tăng trưởng và cuối cùng nở hoa thơm ngát giữa hư không. Cũng vậy, Bồ-đề Niết-bàn không tồn tại ở một cõi nào đó thanh tịnh xa xôi, mà ở ngay trong phiền não nhiễm ô của cuộc đời.

Trong pháp hội Lăng Nghiêm, khi tôn giả A-Nan hỏi Ðức Phật đâu là nguồn gốc của luân hồi và giải thoát, mười phương chư Phật đều đồng thanh đáp rằng: “Nguồn gốc của luân hồi sanh tử là sáu căn của ông; nguồn gốc của giải thoát Niết-bàn cũng là sáu căn của ông chớ không đâu khác”. Nếu sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà khởi niệm phân biệt đẹp - xấu, ta - người, thương - ghét..., đó là dính mắc. Vì dính mắc nên tạo nghiệp trôi lăn vào sinh tử luân hồi. Nếu sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà không có tâm chia chẻ hai bên, ngay đó là giải thoát. Cho nên, chúng sanh thấy sắc thì chạy theo bóng sắc, có nghĩa “Quên mình theo vật”; người đã hiểu đạo lý vẫn nhìn thấy sắc, nhưng thầm sống với bản tâm thanh tịnh của chính mình, ấy là “Kiến sắc minh tâm”.

Như vậy, giải thoát sinh diệt không có nghĩa là trốn tránh trạng thái sinh diệt; mà ở nơi sinh diệt thấy được cái chưa từng sinh diệt, nơi ảo ảnh nhận được chỗ miên trường, nơi Ta-bà mà an lập Tịnh-độ. Ðây là tinh thần sống động tích cực của Ðại Thừa Phật giáo và của Tối thượng thừa Thiền. Thiền là chủ động chớ không phải chủ tịnh, nên người tu vẫn tham gia vào mọi sinh hoạt lành mạnh của xã hội, vẫn thỏa mãn những nhu cầu bức thiết và chính đáng của bản thân, nghĩa là vẫn sống và làm việc bình thường, nhưng sống khế hợp với tự tánh.

Trăm hoa đua nở khi xuân đến chúng ta đều biết, nhưng chúng ta vui xuân trong sự tỉnh thức, không chạy theo ảo ảnh sinh diệt bên ngoài, mà phải thẩm sâu được, sống trọn vẹn được với chất xuân. Luôn an trú trong chánh niệm, đặt tâm vào giờ phút hiện tại, chúng ta sẽ thấy quan niệm về thời gian và không gian chỉ là sản phẩm của vọng tưởng, ta sẽ hiểu mùa xuân luôn luôn hiện hữu, không đi không đến bao giờ. Lúc ấy, chúng ta cũng đón xuân thế gian một cách tùy duyên tùy tục, vẫn nhịp nhàng với cuộc sống đời thường; nhưng trong những giây phút, chúng ta đều từng bước vững chãi và thảnh thơi trong thực tại nhiệm mầu.

Trong ngôn ngữ nhà Thiền, có rất nhiều danh từ dùng để nói về mùa Xuân hằng hữu ấy. Các Ngài khi đã thấu tột lý Thiền, có thể biểu hiện cái “Vô nhất vật” bằng hình ảnh một cành mai, một hoa cúc hay bất cứ một ngôn ngữ nào chợt thoáng hiện. Sở dĩ nó có nhiều tên gọi vì thực chất không thể dùng lời nói để diễn đạt, mà chỉ có sự tâm đắc tâm chứng mới quán triệt được. Nó vốn không có tướng mạo âm thanh, không thể dùng ý thức để hiểu, không thể dùng tưởng tượng để hình dung, và không thể đạt bằng cách mong cầu. Tuy bản chất nó là không nhưng lại biểu hiện ra bằng mọi hình tướng, tuy không nhưng là nguồn sống của muôn loài, tuy không mà muôn pháp được hoạt dụng. “Không” ở đây là tánh Không, là bình đẳng tánh của tất cả muôn sự muôn vật, là “Chân Không”. Chính Chân Không là thể, còn Diệu Hữu là dụng của tự tánh.
Khi nào chúng ta bặt hết mọi vọng tưởng đảo điên, mọi ý niệm lưỡng phân nhị nguyên để ánh trực giác bừng lên từ cõi niềm sâu xa của tâm thức, chúng ta sẽ nhận ra một cách thấu thể tánh Không bình đẳng này của vũ trụ vạn hữu. Lúc ấy, những ẩn mật và vi diệu từ vô thủy của cuộc sống sẽ phơi bày trọn vẹn, và chúng ta sẽ hòa cùng muôn pháp thành một thể nhất như. Ðây là thời điểm chúa Xuân hiển hiện, và từ đó, mùa Xuân sẽ tồn tại vĩnh viễn dù vũ trụ có chuyển biến đổi dời!
Trong không khí rộn ràng tưng bừng của những ngày đầu xuân, những người con Phật chúng ta nên xoay lại chính mình, bằng tinh thần phản quan tự kỷ, để nhận ra tâm xuân bất sanh bất diệt hằng hữu. Cầu chúc chúng ta luôn sống được trọn vẹn với mùa xuân ấy, để đạt được niềm an lạc tự tại đối với sự vô thường sinh diệt của kiếp người.




[/NEN]
 

Bạch Vân Nhi

Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (thán

Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
27/5/09
Bài viết
2,516
Điểm tương tác
887
Điểm
113
Nơi ở
CANADA
Xuân Bất Diệt

[NEN="http://trungtamtutam.com/diendantuthien/picture.php?albumid=21&pictureid=3029"]

XUÂN BẤT DIỆT
Thích Thông Huệ

picture.php


Một lần nữa, mùa xuân lại đến với đất trời và với con người. Trong khi cây cối đâm chồi nẩy lộc, cỏ hoa tươi tốt khoe sắc khoe hương, có phải mỗi người chúng ta, bên cạnh sự rộn rã như được tiếp thêm một luồng sinh khí mới, còn mang một nỗi niềm riêng không ai giống ai? Ở lứa tuổi thanh thiếu niên, mùa xuân thường mang lại niềm vui và hy vọng về một đời sống tương lai tươi đẹp và bình an hơn hôm nay.

Riêng tuổi trung và lão niên, mỗi năm chồng chất thêm một tuổi, bước thêm một bước gần đến điểm cuối cùng, không biết mình sẽ đi về đâu trong cái hư vô mờ mịt. Ðó là chưa kể những lo toan phức tạp trong cuộc sống thường nhật, những nuối tiếc quá khứ bao giờ cũng đẹp dù buồn hay vui. Ðặc biệt đối với những người con xa xứ, luôn canh cánh bên lòng những nỗi nhớ về nơi chôn nhao cắt rốn; có phải đêm giao thừa nghĩ nhiều đến những bạn bè quyến thuộc, giờ nầy đang quây quần vui hưởng sự thân thương đầm ấm của mùa xuân quê hương mà cảm thấy nhớ nhung ray rứt?

Tuy nhiên, dù cảnh vật tươi nhuận hay tàn phai, dù con người hạnh phúc hay đau khổ, mùa xuân cũng vẫn đến rồi đi theo luật tuần hoàn của vũ trụ. Xuân sanh - hạ trưởng - thu liễm - đông tàn. Con người thì tuần tự sinh-già-bịnh-chết. Thế giới vĩ mô biến đổi thành - trụ - hoại - không. Thế giới vi mô cũng lưu chuyển sanh diệt từng giây từng phút. Vô thường là chân lý ngàn đời, có ai thoát khỏi?
Democritus nói: "Hạnh phúc của tuổi trẻ là sức mạnh và vẻ đẹp. Hạnh phúc của tuổi già là trí tuệ và sự hưng thịnh". Nhưng sức mạnh và vẻ đẹp sẽ dần dần suy giảm theo thời gian. Trí tuệ thế gian thu lượm từ trường học và trường đời chỉ có tính cách hạn cuộc tương đối. Sự hưng thịnh xem lại như một thoáng phù du, sớm còn tối mất. Ðó không phải là hạnh phúc muôn đời; cũng như mùa xuân nhân gian khi đến khi đi, không phải là mùa xuân miên viễn. Như vậy, chúng ta phải tìm hạnh phúc đích thực ở đâu, tìm mùa xuân bất diệt nơi nào?

Tuệ Trung Thượng Sĩ, một Thiền sư đời Trần có bài thơ như sau:

Thời tiết xoay vần xuân đến thu,
Cái già sồng sộc đã trên đầu.
Giàu sang ngó lại thơ tràng mộng,
Năm tháng mang theo chất hộc sầu.
Nẻo khổ vành xe lăn lóc khắp,
Sông yêu bọt nước mất còn đâu!
Trường đời nếu chẳng sờ lên mũi,
Ngàn thuở lương duyên chỉ bóng màu.

Thời tiết xoay vần bốn mùa thay đổi, thoáng chốc đã thấy tóc bạc đầy đầu. Nhìn lại công danh sự nghiệp cả đời ta tốn công gầy dựng, cũng chỉ như giấc mộng Nam Kha. Năm tháng trôi qua, mang đến cho đời ta nhiều buồn khổ hơn là vui sướng: khổ vì bệnh tật già nua, vì điều mong ước không đạt được, vì xa cách người thân... Tình yêu đôi lứa là tình cảm mãnh liệt nhất, nhưng có tình yêu nào hoàn toàn không có bất hòa hay thay đổi?

Những người có đạo đức thì cùng cố gắng xây đắp hạnh phúc gia đình, cùng giúp nhau thăng tiến về nghề nghiệp và thăng hoa trong đời sống tâm linh; nhưng cũng chỉ sống với nhau được vài mươi năm rồi kẻ còn người mất. Chưa nói đến những người ích kỷ chỉ biết sống cho mình, thì gia đình ấy chỉ toàn nỗi thống khổ triền miên. Do vậy, Thiền sư thấy rõ sự yêu thương ái luyến chỉ như bọt nước đầu ghềnh và là động cơ của bánh xe luân hồi sanh tử.

Mới đọc qua, ta thấy Ðạo Phật dường như bi quan yếm thế. Tất cả mọi thứ trên thế gian cho là quý giá như thân xác, công danh, tài sản... đều cho là vô thường, là hư giả. Nên có người vội cho rằng, Ðạo Phật là liều thuốc an thần cho kẻ chán đời thất chí, hay người già cả bệnh tật không còn ích lợi cho ai. Chúng ta còn năng lực hoạt động, còn có thể cống hiến tài sức của mình cho gia đình và xã hội, không thể nhìn đời bằng đôi kính màu đen như thế.
Thật ra, cái nhìn về vũ trụ và nhân sinh của Ðạo Phật là nhìn thẳng về thực tại, không trốn tránh sự thật. Người Phật tử chân chánh có nhiều cơ hội thấy sự vô thường giả tạm ấy rõ hơn ai hết. Có điều, chúng ta chấp nhận đó là quy luật tất yếu của đời sống. Còn Ðức Phật thì thấu rõ nguồn gốc của khổ đau và những phương pháp thoát khổ. Sau 49 ngày thiền định, Ngài đã tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Và bài thuyết pháp đầu tiên sau khi thành đạo, Ngài đã giảng về bốn sự thật:
1- Cuộc đời là khổ, trong đó nỗi khổ lớn nhất là luân chuyển vô cùng tận theo vòng sanh tử.
2- Nguyên nhân của nỗi đau khổ triền miên ấy.
3- Hạnh phúc chân thật muôn đời mà con người có thể đạt đến.
4- Những phương pháp thực tập để đạt được hạnh phúc chân thật.
Danh từ chuyên môn gọi là Tứ Diệu Ðế.

Ở đây, chúng ta không đi sâu vào giáo lý, vì có thể đọc được trong những quyển sách về Phật học căn bản. Hạnh phúc chân thực chỉ đạt được khi nào tâm ta không còn kiết sử phiền não tùy miên; và hạnh phúc ấy phải tìm nơi mãnh đất hiện tại.
Tự do trong nhà Phật là sự buông xả tột cùng mọi dính mắc buộc ràng vào người và cảnh. Nhờ công phu thiền tập, ta nhận diện và chuyển hóa được phiền não khổ đau, từng bước làm tâm ta yên tĩnh. Mặt hồ dậy sóng không thể phản chiếu cảnh vật, nhưng khi lặng yên, mọi sự vật cảnh tượng đều hiện bóng rõ ràng. Cũng vậy, nếu lặng yên mọi suy nghĩ toan tính, mọi ý niệm phân biệt nhị nguyên, ta mới có cơ hội tiếp cận với cái chân thật muôn đời.

Các vị Thiền sư ngộ đạo, không còn bị xáo trộn bởi bất cứ hoàn cảnh nào, dù tốt hay xấu. Các Ngài vẫn làm tròn trách nhiệm đối với mọi người, với xã hội, nhưng không vướng bận đến mọi thăng trầm vinh nhục của cuộc sống. Ðây mới là tinh thần của tự do đích thực. Hạnh phúc ấy không phải tìm ở nơi nào đó xa xôi, mà ở ngay trong tâm mỗi người. Ðiều này giải thích tại sao Nikos Kazanzaki khẳng định: "Dãi đất mới chỉ có trong lòng người"; Chúa cũng từng bảo: "Nước Chúa ở ngay trong chúng ta" (Le Royaume de Dieu est au dedans de nous); và câu "Phật tức tâm" hầu như là câu nói quen thuộc, chúng ta đã từng nghe không chỉ một lần!

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm qua sân trước một cành mai.

Muôn vật hữu hình ắt hữu hoại, hoa có nở có tàn, người có sinh có tử. Chính trong cảnh héo úa tàn phai vẫn có một cành mai mãi mãi tươi thắm theo thời gian. Ðó là bất sanh bất diệt ngầm chứa trong mọi sinh diệt. Thiền sư đã nhận ra và hằng sống với nó, nên Ngài luôn ở trong mùa xuân bất diệt.
Bằng quan niệm sống tích cực nhập thế, ở trong đời mà vẫn vui với đạo, chúng ta hãy từ mùa xuân nhân gian mà nhận ra ý xuân bất diệt lồng lộng trong đất trời; từ muôn hoa tàn nở, từ mọi sự vô thường mà nhận ra hoa xuân chưa bao giờ héo úa. Cầu chúc chúng ta sống được với mùa xuân trong lòng mình và chan rãi hương xuân ấy cho người xung quanh, để hạnh phúc vĩnh cửu luôn tưới tẩm tâm hồn chúng ta, bây giờ và mãi mãi.


[/NEN]
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm
Top