- Tham gia
- 30/7/10
- Bài viết
- 803
- Điểm tương tác
- 677
- Điểm
- 93
Bài 64.
Kính Quý Đạo Hữu !
Bài viết về đức Lục Tổ Huệ Năng tuy đã từng đăng ở cuối quyển 3 (vì mục đích muốn cho liền mạng mạch 33 vị Tổ), nay vì muốn thuận theo nguyên bản Truyền Đăng Lục nên Cường đăng lại (nhưng nội dung không lặp lại).
Kính báo !
_____________
33. TỔ HUỆ NĂNG ĐẠI SƯ 慧能大師
Họ ngoài đời là Lư. Gốc người Phạm Dương, cha là Hành Thao năm Võ Đức (618 – 626 – Đường Cao Tổ) làm quan bị giáng chức, đày đi Nam Hải, đến Tân Châu rồi làm dân ở đó.
Ba tuổi cha mất, mẹ Ngài thủ tiết nuôi con. Đến lớn gia cảnh càng nghèo khó, Ngài kiếm củi bán
nuôi sống qua ngày. Một hôm gánh củi vào chợ, nghe khách tụng kinh Kim Cang, giật mình hỏi khách:
- Đó là pháp gì? Được từ thầy nào?
Khách đáp:
- Pháp đó tên Kinh Kim Cang, được từ Nhẫn Đại sư ở Hoàng Mai.
Sư bèn thưa với mẹ, bày tỏ ý tìm thầy để cầu pháp. Thẳng đến Thiều Châu, gặp kẻ sĩ cao hạnh Lưu Chí Lược, kết bạn giao hữu. Ni Vô Tận Tạng là cô của Chí Lược, thường tụng kinh Niết Bàn, Sư nghe qua liền giải nghĩa kinh cho nghe. Ni cầm quyển kinh lên hỏi về chữ, Sư nói:
- Chữ thì không biết, nghĩa thì cứ hỏi.
Ni nói:
- Chữ còn không biết, làm sao hiểu nghĩa được?
Sư đáp:
- Diệu lý chư Phật chẳng quan hệ gì đến văn tự.
Ni nghe hết sức ngạc nhiên, thông báo các cụ lớn tuổi trong thôn xóm rằng "Năng là người hữu đạo, nên thỉnh cúng dường". Từ đó người địa phương đua nhau đến chiêm lễ. Gần đó có nền đất cũ chùa Bảo Lâm, chúng bàn bạc sửa chữa xây cất thêm, mời Sư đến ở. Bốn chúng tụ tập đông đúc, chẳng bao lâu chùa trở thành ngôi bảo phường. Một hôm Sư chợt nghĩ:
- Ta cầu đại pháp đâu được dừng lại giữa đường.
Hôm sau liền đến trong thạch thất, núi Tây Sơn huyện Xương Lạc, gặp thiền sư Trí Viễn. Sư bèn thỉnh ích, Viễn nói:
- Xem ông thần tư sáng sủa hơn hết, có lẽ là người phi thường. Ta nghe Bồ đề Đạt ma từ Tây vực đến đây, truyền tâm ấn ở Hoàng Mai, ông nên đến đó tham quyết.
Sư từ giã, đến thẳng chùa Đông Thiền huyện Hoàng Mai, nhằm năm Đường Hàm Hanh thứ hai (năm 671). Hoằng Nhẫn Đại sư gặp một lần thầm lặng mà biết Sư, sau truyền y pháp và dạy Sư ẩn trong vùng Hoài Tập, Tứ Hội.
Đến ngày mùng 8 tháng giêng năm Nghi Phụng nguyên niên, năm bính tý (676 - Đường Cao Tông), Sư tới Nam Hải gặp pháp sư Ấn Tông giảng kinh Niết Bàn ở chùa Pháp Tánh. Sư tạm ngụ dưới chái chùa, chiều tối gió tốc thổi lá phướn chùa, nghe hai ông tăng tranh luận, người thì nói phướn động người thì nói gió động, đối đáp qua lại mãi mà chưa chịu ngã ngũ. Sư nói:
- Cho kẻ dung tục này tham dự cao luận ngay được không ạ? Thật ra gió phướn chẳng động, tâm mình động thôi!
Ấn Tông tình cờ nghe lời nói đó rất ngạc nhiên mà kính sợ, hôm sau mời Sư vào thất hỏi về nghĩa gió phướn. Sư viện lý giảng giải đầy đủ, Ấn Tông bất giác đứng dậy hỏi:
- Nhất định hành giả là người phi thường, thầy của hành giả là ai?
Sư kể lại tự sự nhân do đắc pháp. Từ đó Ấn Tông giữ lễ đệ tử, xin được thọ nhận thiền yếu và báo tứ chúng:
- Ấn Tông thật đáng là phàm phu, nay may gặp được nhục thân Bồ tát.
Liền chỉ Lư cư sĩ đang dưới toà, bảo:
- Chính là người đó.
Nhân mời Sư xuất trình tín y được Ngũ Tổ truyền để mọi người chiêm lễ.
Đến ngày rằm tháng giêng, Ấn Tông hội các bậc danh đức xuống tóc Sư. Ngày mùng 8 tháng hai, Sư
thọ giới cụ túc ở chùa Pháp Tánh với luật sư Trí Quang. Giới đàn ấy do Ngài Tam tạng Cầu na Bạt đà la dựng nên vào triều Tiền Tống (420 – 479), Ngài Tam tạng huyền ký:
- Sau sẽ có nhục thân Bồ tát thọ giới tại giới đàn này.
Lại cuối triều Lương (502-556), Ngài Tam tạng Chơn Đế tự tay trồng hai cây bồ đề ở gần bên giới đàn, bảo chúng:
- Một trăm hai mươi năm sau, có đại sĩ diễn thuyết vô thượng thừa dưới hai cây này, độ vô lượng chúng.
Sư thọ giới cụ túc rồi, khai diễn pháp môn Đông Sơn dưới hai cây đó, đúng như lời huyền ký.
Năm sau 677, ngày mùng 8 tháng hai, bỗng nhiên Sư báo chúng:
- Ta không muốn ở đây, cần trở lại chỗ ẩn trước.
Bấy giờ Ấn Tông cùng tăng chúng và tại gia cư sĩ hơn nghìn người, tiễn Sư về chùa Bảo Lâm.
Thứ sử Thiều Châu là Vi Cừ thỉnh Sư đến chùa Đại Phạm trong thành, chuyển diệu pháp luân và thọ Vô tướng tâm địa giới. Môn nhân ghi chép các điều mục thành Đàn Kinh lưu truyền thạnh hành ở thế gian. Nhưng Sư lại trở về Tào Khê, ở chùa Bảo Lâm thuyết đại pháp vũ, học giả không dưới số nghìn.
Năm Thần Long nguyên niên 705, vua Trung Tông ban chiếu:
“Trẫm đã thỉnh hai thầy An và Tú vào trong cung cúng dường, mỗi khi rỗi rảnh trong muôn một mà tham cứu Nhất thừa".
Hai thầy đều khiêm tốn từ nhượng:
“Phương Nam có thiền sư Huệ Năng mật thọ y pháp từ Nhẫn Đại sư, bệ hạ nên mời người đó đến thưa hỏi”.
Vua sai nội thị Tiết Giản đem chiếu nghênh thỉnh : "Mong Sư thương nghĩ mau phó thượng kinh.”
Sư dâng biểu thác bệnh để từ chối, nguyện được hết đời ở chốn núi rừng.
Tiết Giản thưa:
- Các vị thiền đức ở kinh thành đều nói: “Muốn hội được đạo ắt phải tọa thiền tập định, nếu không nhờ thiền định mà được giải thoát thì chưa có chuyện đó”. Chưa biết Sư nói pháp như thế nào?
Sư nói:
- Đạo do ngộ tâm, há do ngồi đâu? Kinh nói: “Nếu thấy Như Lai hoặc ngồi hoặc nằm, người đó hành tà đạo"(nhược kiến như lai nhược toạ nhược ngoạ thị hành tà đạo). Tại sao vậy? "Như Lai không từ đâu đến cũng không đi đâu” (vô sở tùng lai diệc vô sở khứ). Thế thì, không sanh diệt là Như Lai thanh tịnh thiền, chư pháp không tịch là Như Lai thanh tịnh tọa, rốt ráo không có chứng đắc, huống chi là ngồi ư?
Giản thưa:
- Đệ tử trở về chúa thượng ắt hỏi, xin hòa thượng từ bi chỉ dạy tâm yếu.
Sư nói:
- Đạo không có sáng tối, sáng tối là nghĩa đắp đổi nhau. Sáng, sáng hoài cũng có lúc hết.
Giản nói:
- Sáng dụ cho trí tuệ, tối dụ cho phiền não. Người tu đạo nếu không đem trí tuệ chiếu phá phiền não thì sanh tử từ vô thủy nhờ đâu mà xuất ly được?
Sư nói:
- Nếu đem trí tuệ chiếu phá phiền não thì đó là căn cơ nhỏ của hàng nhị thừa, xe dê nai … Hàng đại căn thượng trí đều không như thế.
Giản hỏi:
- Thế nào là kiến giải đại thừa?
Sư nói:
- Minh và vô minh tánh chúng không hai, tánh không hai tức là thật tánh. Tánh thật đó nơi phàm ngu mà không giảm, ở thánh hiền mà không tăng, ở phiền não mà không loạn, trong thiền định mà không lặng. Không đoạn không thường, không đến không đi, không ở trung gian cùng với trong ngoài, chẳng sanh chẳng diệt tánh tướng như như, thường trụ không đổi đời. Đó gọi là đạo.
Giản nói:
- Sư nói chẳng sanh chẳng diệt có khác gì ngoại đạo?
Sư dạy:
- Cái mà ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt, là đem cái diệt ngăn cái sanh, lấy cái sanh làm rõ cái diệt; diệt cũng như chẳng diệt, (cũng như) sanh nói là không sanh. Cái mà ta nói chẳng sanh chẳng diệt, là xưa vốn không sanh nay cũng không diệt, vì thế chẳng đồng ngoại đạo.Ông muốn biết tâm yếu, chỉ cần tất cả việc thiện ác đều chớ nghĩ suy, tự nhiên được vào tâm thể thanh tịnh, trạm nhiên (trong trẻo) thường tịch mà diệu dụng như hằng sa.
Giản nhờ chỉ dạy hoát nhiên (thông suốt) đại ngộ.
Lễ từ trở về cửa khuyết, dâng biểu tâu lên lời Sư nói. Vua ban chiếu cảm tạ Sư và ban tặng Y ca sa ma nạp, 500 xấp lụa và một bảo bát. Ngày 19 tháng chạp ban sắc đổi tên Bảo Lâm cổ tự thành chùa Trung Hưng.
Ngày 18 tháng 11 năm Thần Long thứ ba 707, vua lệnh thứ sử Thiều Châu (Vi Cừ) sửa sang xây cất và trang trí thêm chùa Trung Hưng, ban biển ngạch là Pháp Tuyền Tự. Và chùa tại quê nhà Sư ở Tân Châu là Quốc Ân Tự.
Một hôm Sư dạy chúng:
- Này các thiện tri thức, mỗi người các ông hãy tịnh tâm lắng nghe ta thuyết pháp. Tự tâm mỗi người các ông là Phật, chớ nên hồ nghi, ngoài tự tâm không một vật nào có thể kiến lập, muôn thứ pháp đều do bổn tâm sanh. Thế nên Kinh nói: “Tâm sanh các thứ pháp sanh, tâm diệt các thứ pháp diệt”. Nếu muốn thành tựu chủng trí, phải đạt nhất tướng tam muội và nhất hạnh tam muội. Nếu đối với tất cả chỗ mà không trụ tướng, nơi tướng ấy chẳng sanh ưa ghét cũng không lấy bỏ, không nghĩ đến các việc lợi ích thành hoại … mà an nhàn điềm tĩnh hư dung đạm bạc, đó gọi là nhất tướng tam muội. Nếu ở mọi nơi đi đứng nằm ngồi, hành trực tâm thuần nhất thì chỗ nào cũng là đạo tràng bất động, mới thành chơn tịnh độ, đó gọi là nhất hạnh tam muội.Nếu người gồm đủ hai thứ tam muội này, tợ như đất có sẵn hạt giống, chỉ hay gìn giữ trưởng dưỡng sẽ thành tựu cái thật kia, nhất tướng và nhất hạnh cũng giống như vậy. Nay ta thuyết pháp như trời mưa thấm nhuần khắp cả đại địa, Phật tánh các ông dụ như những hạt giống, gặp mưa thấm ướt đều được phát sanh. Ai theo ý chỉ ta quyết định được bồ đề, y theo ta dạy mà hành nhất định chứng diệu quả.
Năm Tiên Thiên nguyên niên (cuối năm 712 – Đường Huyền Tông), Sư báo đồ chúng:
- Ta luống thẹn thọ y pháp Nhẫn Đại sư, nay thuyết pháp cho các ông mà không truyền y. Bởi vì tín căn các ông đã thuần thục, nhất định không nghi, kham nhận đại sự. Hãy nghe ta nói kệ:
心地含諸種
普雨悉皆生
[FONT=CN-Khai 3.0]頓悟華情已
菩提果自成
[/FONT]
Tâm địa hàm chư chủng,
Phổ vũ tất giai sanh.
Đốn ngộ hoa tình dĩ,
Bồ đề quả tự thành.
(Tâm địa chứa các giống,
Gặp mưa ắt nảy mầm.
Đốn ngộ hoa tình rồi,
Quả Bồ đề tự thành).
Sư thuyết kệ xong, lại nói:
- Pháp ấy không hai, tâm ấy cũng vậy. Đạo ấy thanh tịnh cũng không có các tướng, các ông cẩn thận đừng quán tâm ấy là tịnh và không ngơ. Tâm vốn tịnh đó không thể lấy hay bỏ được. Mỗi người hãy tự nỗ lực tùy duyên đi nhé.
Kính Quý Đạo Hữu !
Bài viết về đức Lục Tổ Huệ Năng tuy đã từng đăng ở cuối quyển 3 (vì mục đích muốn cho liền mạng mạch 33 vị Tổ), nay vì muốn thuận theo nguyên bản Truyền Đăng Lục nên Cường đăng lại (nhưng nội dung không lặp lại).
Kính báo !
_____________
33. TỔ HUỆ NĂNG ĐẠI SƯ 慧能大師
Họ ngoài đời là Lư. Gốc người Phạm Dương, cha là Hành Thao năm Võ Đức (618 – 626 – Đường Cao Tổ) làm quan bị giáng chức, đày đi Nam Hải, đến Tân Châu rồi làm dân ở đó.
Ba tuổi cha mất, mẹ Ngài thủ tiết nuôi con. Đến lớn gia cảnh càng nghèo khó, Ngài kiếm củi bán
nuôi sống qua ngày. Một hôm gánh củi vào chợ, nghe khách tụng kinh Kim Cang, giật mình hỏi khách:
- Đó là pháp gì? Được từ thầy nào?
Khách đáp:
- Pháp đó tên Kinh Kim Cang, được từ Nhẫn Đại sư ở Hoàng Mai.
Sư bèn thưa với mẹ, bày tỏ ý tìm thầy để cầu pháp. Thẳng đến Thiều Châu, gặp kẻ sĩ cao hạnh Lưu Chí Lược, kết bạn giao hữu. Ni Vô Tận Tạng là cô của Chí Lược, thường tụng kinh Niết Bàn, Sư nghe qua liền giải nghĩa kinh cho nghe. Ni cầm quyển kinh lên hỏi về chữ, Sư nói:
- Chữ thì không biết, nghĩa thì cứ hỏi.
Ni nói:
- Chữ còn không biết, làm sao hiểu nghĩa được?
Sư đáp:
- Diệu lý chư Phật chẳng quan hệ gì đến văn tự.
Ni nghe hết sức ngạc nhiên, thông báo các cụ lớn tuổi trong thôn xóm rằng "Năng là người hữu đạo, nên thỉnh cúng dường". Từ đó người địa phương đua nhau đến chiêm lễ. Gần đó có nền đất cũ chùa Bảo Lâm, chúng bàn bạc sửa chữa xây cất thêm, mời Sư đến ở. Bốn chúng tụ tập đông đúc, chẳng bao lâu chùa trở thành ngôi bảo phường. Một hôm Sư chợt nghĩ:
- Ta cầu đại pháp đâu được dừng lại giữa đường.
Hôm sau liền đến trong thạch thất, núi Tây Sơn huyện Xương Lạc, gặp thiền sư Trí Viễn. Sư bèn thỉnh ích, Viễn nói:
- Xem ông thần tư sáng sủa hơn hết, có lẽ là người phi thường. Ta nghe Bồ đề Đạt ma từ Tây vực đến đây, truyền tâm ấn ở Hoàng Mai, ông nên đến đó tham quyết.
Sư từ giã, đến thẳng chùa Đông Thiền huyện Hoàng Mai, nhằm năm Đường Hàm Hanh thứ hai (năm 671). Hoằng Nhẫn Đại sư gặp một lần thầm lặng mà biết Sư, sau truyền y pháp và dạy Sư ẩn trong vùng Hoài Tập, Tứ Hội.
Đến ngày mùng 8 tháng giêng năm Nghi Phụng nguyên niên, năm bính tý (676 - Đường Cao Tông), Sư tới Nam Hải gặp pháp sư Ấn Tông giảng kinh Niết Bàn ở chùa Pháp Tánh. Sư tạm ngụ dưới chái chùa, chiều tối gió tốc thổi lá phướn chùa, nghe hai ông tăng tranh luận, người thì nói phướn động người thì nói gió động, đối đáp qua lại mãi mà chưa chịu ngã ngũ. Sư nói:
- Cho kẻ dung tục này tham dự cao luận ngay được không ạ? Thật ra gió phướn chẳng động, tâm mình động thôi!
Ấn Tông tình cờ nghe lời nói đó rất ngạc nhiên mà kính sợ, hôm sau mời Sư vào thất hỏi về nghĩa gió phướn. Sư viện lý giảng giải đầy đủ, Ấn Tông bất giác đứng dậy hỏi:
- Nhất định hành giả là người phi thường, thầy của hành giả là ai?
Sư kể lại tự sự nhân do đắc pháp. Từ đó Ấn Tông giữ lễ đệ tử, xin được thọ nhận thiền yếu và báo tứ chúng:
- Ấn Tông thật đáng là phàm phu, nay may gặp được nhục thân Bồ tát.
Liền chỉ Lư cư sĩ đang dưới toà, bảo:
- Chính là người đó.
Nhân mời Sư xuất trình tín y được Ngũ Tổ truyền để mọi người chiêm lễ.
Đến ngày rằm tháng giêng, Ấn Tông hội các bậc danh đức xuống tóc Sư. Ngày mùng 8 tháng hai, Sư
thọ giới cụ túc ở chùa Pháp Tánh với luật sư Trí Quang. Giới đàn ấy do Ngài Tam tạng Cầu na Bạt đà la dựng nên vào triều Tiền Tống (420 – 479), Ngài Tam tạng huyền ký:
- Sau sẽ có nhục thân Bồ tát thọ giới tại giới đàn này.
Lại cuối triều Lương (502-556), Ngài Tam tạng Chơn Đế tự tay trồng hai cây bồ đề ở gần bên giới đàn, bảo chúng:
- Một trăm hai mươi năm sau, có đại sĩ diễn thuyết vô thượng thừa dưới hai cây này, độ vô lượng chúng.
Sư thọ giới cụ túc rồi, khai diễn pháp môn Đông Sơn dưới hai cây đó, đúng như lời huyền ký.
Năm sau 677, ngày mùng 8 tháng hai, bỗng nhiên Sư báo chúng:
- Ta không muốn ở đây, cần trở lại chỗ ẩn trước.
Bấy giờ Ấn Tông cùng tăng chúng và tại gia cư sĩ hơn nghìn người, tiễn Sư về chùa Bảo Lâm.
Thứ sử Thiều Châu là Vi Cừ thỉnh Sư đến chùa Đại Phạm trong thành, chuyển diệu pháp luân và thọ Vô tướng tâm địa giới. Môn nhân ghi chép các điều mục thành Đàn Kinh lưu truyền thạnh hành ở thế gian. Nhưng Sư lại trở về Tào Khê, ở chùa Bảo Lâm thuyết đại pháp vũ, học giả không dưới số nghìn.
Năm Thần Long nguyên niên 705, vua Trung Tông ban chiếu:
“Trẫm đã thỉnh hai thầy An và Tú vào trong cung cúng dường, mỗi khi rỗi rảnh trong muôn một mà tham cứu Nhất thừa".
Hai thầy đều khiêm tốn từ nhượng:
“Phương Nam có thiền sư Huệ Năng mật thọ y pháp từ Nhẫn Đại sư, bệ hạ nên mời người đó đến thưa hỏi”.
Vua sai nội thị Tiết Giản đem chiếu nghênh thỉnh : "Mong Sư thương nghĩ mau phó thượng kinh.”
Sư dâng biểu thác bệnh để từ chối, nguyện được hết đời ở chốn núi rừng.
Tiết Giản thưa:
- Các vị thiền đức ở kinh thành đều nói: “Muốn hội được đạo ắt phải tọa thiền tập định, nếu không nhờ thiền định mà được giải thoát thì chưa có chuyện đó”. Chưa biết Sư nói pháp như thế nào?
Sư nói:
- Đạo do ngộ tâm, há do ngồi đâu? Kinh nói: “Nếu thấy Như Lai hoặc ngồi hoặc nằm, người đó hành tà đạo"(nhược kiến như lai nhược toạ nhược ngoạ thị hành tà đạo). Tại sao vậy? "Như Lai không từ đâu đến cũng không đi đâu” (vô sở tùng lai diệc vô sở khứ). Thế thì, không sanh diệt là Như Lai thanh tịnh thiền, chư pháp không tịch là Như Lai thanh tịnh tọa, rốt ráo không có chứng đắc, huống chi là ngồi ư?
Giản thưa:
- Đệ tử trở về chúa thượng ắt hỏi, xin hòa thượng từ bi chỉ dạy tâm yếu.
Sư nói:
- Đạo không có sáng tối, sáng tối là nghĩa đắp đổi nhau. Sáng, sáng hoài cũng có lúc hết.
Giản nói:
- Sáng dụ cho trí tuệ, tối dụ cho phiền não. Người tu đạo nếu không đem trí tuệ chiếu phá phiền não thì sanh tử từ vô thủy nhờ đâu mà xuất ly được?
Sư nói:
- Nếu đem trí tuệ chiếu phá phiền não thì đó là căn cơ nhỏ của hàng nhị thừa, xe dê nai … Hàng đại căn thượng trí đều không như thế.
Giản hỏi:
- Thế nào là kiến giải đại thừa?
Sư nói:
- Minh và vô minh tánh chúng không hai, tánh không hai tức là thật tánh. Tánh thật đó nơi phàm ngu mà không giảm, ở thánh hiền mà không tăng, ở phiền não mà không loạn, trong thiền định mà không lặng. Không đoạn không thường, không đến không đi, không ở trung gian cùng với trong ngoài, chẳng sanh chẳng diệt tánh tướng như như, thường trụ không đổi đời. Đó gọi là đạo.
Giản nói:
- Sư nói chẳng sanh chẳng diệt có khác gì ngoại đạo?
Sư dạy:
- Cái mà ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt, là đem cái diệt ngăn cái sanh, lấy cái sanh làm rõ cái diệt; diệt cũng như chẳng diệt, (cũng như) sanh nói là không sanh. Cái mà ta nói chẳng sanh chẳng diệt, là xưa vốn không sanh nay cũng không diệt, vì thế chẳng đồng ngoại đạo.Ông muốn biết tâm yếu, chỉ cần tất cả việc thiện ác đều chớ nghĩ suy, tự nhiên được vào tâm thể thanh tịnh, trạm nhiên (trong trẻo) thường tịch mà diệu dụng như hằng sa.
Giản nhờ chỉ dạy hoát nhiên (thông suốt) đại ngộ.
Lễ từ trở về cửa khuyết, dâng biểu tâu lên lời Sư nói. Vua ban chiếu cảm tạ Sư và ban tặng Y ca sa ma nạp, 500 xấp lụa và một bảo bát. Ngày 19 tháng chạp ban sắc đổi tên Bảo Lâm cổ tự thành chùa Trung Hưng.
Ngày 18 tháng 11 năm Thần Long thứ ba 707, vua lệnh thứ sử Thiều Châu (Vi Cừ) sửa sang xây cất và trang trí thêm chùa Trung Hưng, ban biển ngạch là Pháp Tuyền Tự. Và chùa tại quê nhà Sư ở Tân Châu là Quốc Ân Tự.
Một hôm Sư dạy chúng:
- Này các thiện tri thức, mỗi người các ông hãy tịnh tâm lắng nghe ta thuyết pháp. Tự tâm mỗi người các ông là Phật, chớ nên hồ nghi, ngoài tự tâm không một vật nào có thể kiến lập, muôn thứ pháp đều do bổn tâm sanh. Thế nên Kinh nói: “Tâm sanh các thứ pháp sanh, tâm diệt các thứ pháp diệt”. Nếu muốn thành tựu chủng trí, phải đạt nhất tướng tam muội và nhất hạnh tam muội. Nếu đối với tất cả chỗ mà không trụ tướng, nơi tướng ấy chẳng sanh ưa ghét cũng không lấy bỏ, không nghĩ đến các việc lợi ích thành hoại … mà an nhàn điềm tĩnh hư dung đạm bạc, đó gọi là nhất tướng tam muội. Nếu ở mọi nơi đi đứng nằm ngồi, hành trực tâm thuần nhất thì chỗ nào cũng là đạo tràng bất động, mới thành chơn tịnh độ, đó gọi là nhất hạnh tam muội.Nếu người gồm đủ hai thứ tam muội này, tợ như đất có sẵn hạt giống, chỉ hay gìn giữ trưởng dưỡng sẽ thành tựu cái thật kia, nhất tướng và nhất hạnh cũng giống như vậy. Nay ta thuyết pháp như trời mưa thấm nhuần khắp cả đại địa, Phật tánh các ông dụ như những hạt giống, gặp mưa thấm ướt đều được phát sanh. Ai theo ý chỉ ta quyết định được bồ đề, y theo ta dạy mà hành nhất định chứng diệu quả.
Năm Tiên Thiên nguyên niên (cuối năm 712 – Đường Huyền Tông), Sư báo đồ chúng:
- Ta luống thẹn thọ y pháp Nhẫn Đại sư, nay thuyết pháp cho các ông mà không truyền y. Bởi vì tín căn các ông đã thuần thục, nhất định không nghi, kham nhận đại sự. Hãy nghe ta nói kệ:
心地含諸種
普雨悉皆生
[FONT=CN-Khai 3.0]頓悟華情已
菩提果自成
[/FONT]
Tâm địa hàm chư chủng,
Phổ vũ tất giai sanh.
Đốn ngộ hoa tình dĩ,
Bồ đề quả tự thành.
(Tâm địa chứa các giống,
Gặp mưa ắt nảy mầm.
Đốn ngộ hoa tình rồi,
Quả Bồ đề tự thành).
Sư thuyết kệ xong, lại nói:
- Pháp ấy không hai, tâm ấy cũng vậy. Đạo ấy thanh tịnh cũng không có các tướng, các ông cẩn thận đừng quán tâm ấy là tịnh và không ngơ. Tâm vốn tịnh đó không thể lấy hay bỏ được. Mỗi người hãy tự nỗ lực tùy duyên đi nhé.