vienquang2

TƯ LIỆU NGHIÊNG CỨU.- 9 (cấp độ) THIỀN ĐỊNH

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,488
Điểm tương tác
1,449
Điểm
113
15.- Chế Tâm.

+ Từ khi con người bắt đầu hướng tâm vào con đường thiền định, thử thách đầu tiên và cũng là lớn nhất chính là sự tán loạn của tâm.

- Tâm ý vốn giống như một con khỉ truyền cành liên tục nhảy từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác, bám vào ký ức, tưởng
tượng, cảm xúc và những kích thích từ bên ngoài.

- Trong đời sống thường nhật, chúng ta hiếm khi thật sự dừng lại để quan sát xem tâm mình đang ở đâu.

- Khi ngồi xuống để hành thiền, những gì vốn tồn tại âm thầm trong nền ý thức bỗng trở nên rõ ràng. - Đó là sự sao động, làn sóng vọng tường, những cơn gợn của ham muốn, sân giận, sợ hãi và những nỗi bồn chồn vô cớ. Đó chính là trạng thái tâm tán loạn mà bất kỳ ai bước chân vào con đường thiền định cũng phải đối diện.

- Từ điểm khởi đầu ấy, tiến trình đi đến sơ thiền là một hành trình tuần tự, tinh tế, đòi hỏi sự kiên trì, tỉnh thức và hiểu đúng phương pháp.

+ Trước hết, người hành thiền cần nhận ra rằng việc gom tâm không phải là sự cưỡng ép. Tâm phải trống rỗng hay
loại bỏ mọi ý nghĩ một cách vội vàng.

- Tâm tán loạn là kết quả của nhiều năm, nhiều kiếp sống trong môi trường kích thích liên tục, nơi các đối tượng dục lạc và bất thiện pháp luôn hấp dẫn và cuốn hút. - Vì vậy, bước đầu tiên là tạo điều kiện để tâm dễ dàng an trụ hơn.

+ Chọn một môi trường yên tĩnh, giảm thiểu sự phân tán từ bên ngoài.

- Duy trì một tư thế ngồi ổn định, không quá gồng nhưng cũng không buông thả.

- Hơi thở được xem là chiếc neo đầu tiên là dòng chảy tự nhiên và liên tục mà hành giả có thể nương vào để đưa tâm quay về hiện tại.

- Khi chú tâm vào hơi thở, ban đầu tâm vẫn sẽ phóng đi hàng chục lần trong một phút. Nhưng thay vì trách móc hay thất vọng, người hành thiền chỉ cần nhẹ nhàng nhận biết và đưa tâm trở lại với đề mục.

tải xuống (5).webp


- Khi sự chú ý vào hơi thở trở nên ổn định hơn, hành giả bắt đầu nhận ra các lớp của vọng tường. Có những ý nghĩ xuất
hiện dưới dạng hình ảnh, có những ý nghĩ mang cảm xúc mạnh và cũng có những ý nghĩ chỉ là những mảnh vụn lời nói lướt qua.

- Ở giai đoạn này, tâm vẫn dao động nhưng đã bớt bị cuốn trôi.

+ Người hành thiền học cách thấy mà không theo, giống như đứng bên bờ sông nhìn dòng nước chảy, không nhảy xuống để bị cuốn theo.

- Đây chính là nền tảng của sự ly bất thiện pháp, tức là không để tâm bị nhuốm màu bởi tham, sân, si khi đối diện với
các đối tượng của tâm.

- Từ từ, sự an tĩnh tăng lên và một cảm giác hỉ lạc nhẹ nhàng bắt đầu nảy sinh. Đó là hì do ly dục, niềm vui không phụ thuộc vào một đối tượng vật chất hay cảm giác kích thích mà đến từ việc tâm bớt bị rang buộc. Cảm giác này không bùng nổ như khoái cảm của dục lạc mà êm dịu, sâu và bền hơn.

+ Song song đó, sự dễ chịu thân tâm tức lạc cũng xuất hiện, khiến cho việc ở lại với đề mục trở nên tự nhiên hơn, không còn là sự cố gắng đầy gượng ép.

+ Khi Hỉ và Lạc đã hình thành, tâm bắt đầu bước vào trạng thái nhất tâm, tức ekagata.

+ Trong sơ thiền, nhất tâm chưa phải là sự tập trung tuyệt đối không dao động, nhưng đủ để tâm không còn bị kéo qua lại bởi những dòng vọng tưởng mạnh mẽ.

+ Hai yếu tố tầm và tứ vẫn còn hiện diện.

- Tầm là sự hướng tâm đến đề mục.

- Tứ là sự duy trì và ghi nhận đề mục và cả hai hoạt động hỗ trợ nhau để giữ cho tâm an trú.

- Lúc này tiến trình từ tâm tán loạn đến sơ thiền được xem là hoàn tất.

+ Hành giả đã rời xa dục vọng và bất thiện pháp ở mức độ đủ để tâm được thanh tịnh tương đối, đồng thời nuôi dưỡng năm chi thiền để tạo nên nền tảng vững chắc. - Tuy nhiên, con đường này không diễn ra tuyến tính một chiều.

+ Trong quá trình hành thiền, tâm có thể đang yên bỗng lại dao động, hỉ lạc có thể xuất hiện rồi biến mất. Khi điều đó xảy ra, người hành thiền cần hiểu rằng đây là một phần của tiến trình tự nhiên. Sự trờ lui này không phải thất bại mà là cơ hội để thực hành thêm sự kiên nhẫn và chánh niệm.

- Việc duy trì thái độ quan sát không phán xét giúp tâm từng bước trở lại trạng thái an trú.

- Mỗi lần như vậy, khả năng nhận biết và quay về của tâm trở nên mạnh mẽ hơn. Giống như cơ bắp được rèn luyện qua
nhiều lần tập luyện.

+ Từ góc nhìn sâu hơn, tiến trình từ tâm tán loạn đến sơ thiền cũng là tiến trình chuyển hóa nội tâm. Bằng việc buông bỏ dần những bám víu vào dục và bất thiện pháp, hành giả đang thay đổi cách mình phản ứng với thế giới.

- Những điều từng gây bực bội hay khơi dậy tham muốn mãnh liệt nay trở nên ít tác động hơn.

+ Tâm trở nên tự do hơn với hoàn cảnh. Và sự tự do ấy chính là mảnh đất màu mỡ để tuệ giác nảy sinh. - Sơ thiền vì thế không phải chỉ là một trạng thái đặc biệt trong lúc ngồi thiền mà là một sự chuyển hóa bền vững ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống.

* Cuối cùng cần hiểu rằng mục tiêu không phải là đạt được sơ thiền một lần rồi xem đó là thành tựu cố định.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,531
Điểm tương tác
1,169
Điểm
113
Kính Thầy Viên Quang,

Xin phép Thầy được trình bày và phân tích về hai chi khởi đầu của Sơ thiền, Tầm/Vittakka và Tứ/Vicara, vì chúng có vai trò rất quan trọng trong việc giữ tâm định tĩnh qua sự chú tâm vào đề mục khi tọa thiền.

Theo kinh luận và các nhà chú giả Theravada như Tỷ kheo Nyanatiloka...thì Tầm/Vittakka và Tứ/Vicara vận hành như một cơ quan chức năng ngôn ngữ của Tâm trí/Mind được gọi là "Tiếng nói bên trong/Inner speech (trước khi lời nói và văn tự được biểu đạt).

Trong bản Tiểu Phương Quãng Kinh, Tỷ kheo ni Dhammadinna đã mô tả Tầm, Tứ song hành mà hình thành Khẩu hành/VaciSankhara, "Trước phải có tầm, tứ sau đó mới phát ra lời nói nên Tầm, Tứ là Khẩu hành.

Tầm/Vittakka được chuyển dịch sang tiếng Anh là "Thought conception" tức "Tư duy khái niệm"; chính Tầm nắm bắt và giữ lấy một tư duy. Do nắm bắt khái niệm nên cái mà Tầm nắm bắt và giữ lấy thuần là Cảm giác (Thọ uẩn) nên Tầm lại nương tưạ vào Ý/Mana để nắm bắt một hình ảnh, ý niệm, biểu trưng. Do vậy Tầm thường bất định (Vì dựa vào sự ưa, ghét, sợ hãi và si mê (Ai muốn tìm hiểu "Tư duy khái niệm trong Phật học" thì nên đọc cuốn Buddhist logic/Stcherbatsky/Tỷ kheo Thiện Minh Việt dịch)
Tứ/Vicara, được chuyển dịch sang tiếng Anh là "Discursive Thinking" tức "Những suy nghĩ lan man, lang thang, linh tinh...có liên quan hoặc ít hoặc nhiều hoặc không ít không nhiều đến chủ đề thuộc loại "Diễn Ngôn".
Chính Tầm là Tâm viên, Tứ là Ý mã.
Kinh văn Hán tạng chuyển dịch Vittakka và Vicara là Giác và Quán.

Về ảnh dụ của Tầm, Tứ thì nhiều nhưng Trừng Hải chỉ thích thú với ảnh dụ "Tầm như tiếng chuông. Tứ như tiếng chuông vang trầm dài đủ cung bậc, thanh âm khi hội khi tán...hề hề.


Kính

trừng hải
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Top