vienquang2

TƯ LIỆU NGHIÊNG CỨU.- 9 (cấp độ) THIỀN ĐỊNH

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,492
Điểm tương tác
1,451
Điểm
113
15.- Chế Tâm.

+ Từ khi con người bắt đầu hướng tâm vào con đường thiền định, thử thách đầu tiên và cũng là lớn nhất chính là sự tán loạn của tâm.

- Tâm ý vốn giống như một con khỉ truyền cành liên tục nhảy từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác, bám vào ký ức, tưởng
tượng, cảm xúc và những kích thích từ bên ngoài.

- Trong đời sống thường nhật, chúng ta hiếm khi thật sự dừng lại để quan sát xem tâm mình đang ở đâu.

- Khi ngồi xuống để hành thiền, những gì vốn tồn tại âm thầm trong nền ý thức bỗng trở nên rõ ràng. - Đó là sự sao động, làn sóng vọng tường, những cơn gợn của ham muốn, sân giận, sợ hãi và những nỗi bồn chồn vô cớ. Đó chính là trạng thái tâm tán loạn mà bất kỳ ai bước chân vào con đường thiền định cũng phải đối diện.

- Từ điểm khởi đầu ấy, tiến trình đi đến sơ thiền là một hành trình tuần tự, tinh tế, đòi hỏi sự kiên trì, tỉnh thức và hiểu đúng phương pháp.

+ Trước hết, người hành thiền cần nhận ra rằng việc gom tâm không phải là sự cưỡng ép. Tâm phải trống rỗng hay
loại bỏ mọi ý nghĩ một cách vội vàng.

- Tâm tán loạn là kết quả của nhiều năm, nhiều kiếp sống trong môi trường kích thích liên tục, nơi các đối tượng dục lạc và bất thiện pháp luôn hấp dẫn và cuốn hút. - Vì vậy, bước đầu tiên là tạo điều kiện để tâm dễ dàng an trụ hơn.

+ Chọn một môi trường yên tĩnh, giảm thiểu sự phân tán từ bên ngoài.

- Duy trì một tư thế ngồi ổn định, không quá gồng nhưng cũng không buông thả.

- Hơi thở được xem là chiếc neo đầu tiên là dòng chảy tự nhiên và liên tục mà hành giả có thể nương vào để đưa tâm quay về hiện tại.

- Khi chú tâm vào hơi thở, ban đầu tâm vẫn sẽ phóng đi hàng chục lần trong một phút. Nhưng thay vì trách móc hay thất vọng, người hành thiền chỉ cần nhẹ nhàng nhận biết và đưa tâm trở lại với đề mục.

tải xuống (5).webp


- Khi sự chú ý vào hơi thở trở nên ổn định hơn, hành giả bắt đầu nhận ra các lớp của vọng tường. Có những ý nghĩ xuất
hiện dưới dạng hình ảnh, có những ý nghĩ mang cảm xúc mạnh và cũng có những ý nghĩ chỉ là những mảnh vụn lời nói lướt qua.

- Ở giai đoạn này, tâm vẫn dao động nhưng đã bớt bị cuốn trôi.

+ Người hành thiền học cách thấy mà không theo, giống như đứng bên bờ sông nhìn dòng nước chảy, không nhảy xuống để bị cuốn theo.

- Đây chính là nền tảng của sự ly bất thiện pháp, tức là không để tâm bị nhuốm màu bởi tham, sân, si khi đối diện với
các đối tượng của tâm.

- Từ từ, sự an tĩnh tăng lên và một cảm giác hỉ lạc nhẹ nhàng bắt đầu nảy sinh. Đó là hì do ly dục, niềm vui không phụ thuộc vào một đối tượng vật chất hay cảm giác kích thích mà đến từ việc tâm bớt bị rang buộc. Cảm giác này không bùng nổ như khoái cảm của dục lạc mà êm dịu, sâu và bền hơn.

+ Song song đó, sự dễ chịu thân tâm tức lạc cũng xuất hiện, khiến cho việc ở lại với đề mục trở nên tự nhiên hơn, không còn là sự cố gắng đầy gượng ép.

+ Khi Hỉ và Lạc đã hình thành, tâm bắt đầu bước vào trạng thái nhất tâm, tức ekagata.

+ Trong sơ thiền, nhất tâm chưa phải là sự tập trung tuyệt đối không dao động, nhưng đủ để tâm không còn bị kéo qua lại bởi những dòng vọng tưởng mạnh mẽ.

+ Hai yếu tố tầm và tứ vẫn còn hiện diện.

- Tầm là sự hướng tâm đến đề mục.

- Tứ là sự duy trì và ghi nhận đề mục và cả hai hoạt động hỗ trợ nhau để giữ cho tâm an trú.

- Lúc này tiến trình từ tâm tán loạn đến sơ thiền được xem là hoàn tất.

+ Hành giả đã rời xa dục vọng và bất thiện pháp ở mức độ đủ để tâm được thanh tịnh tương đối, đồng thời nuôi dưỡng năm chi thiền để tạo nên nền tảng vững chắc. - Tuy nhiên, con đường này không diễn ra tuyến tính một chiều.

+ Trong quá trình hành thiền, tâm có thể đang yên bỗng lại dao động, hỉ lạc có thể xuất hiện rồi biến mất. Khi điều đó xảy ra, người hành thiền cần hiểu rằng đây là một phần của tiến trình tự nhiên. Sự trờ lui này không phải thất bại mà là cơ hội để thực hành thêm sự kiên nhẫn và chánh niệm.

- Việc duy trì thái độ quan sát không phán xét giúp tâm từng bước trở lại trạng thái an trú.

- Mỗi lần như vậy, khả năng nhận biết và quay về của tâm trở nên mạnh mẽ hơn. Giống như cơ bắp được rèn luyện qua
nhiều lần tập luyện.

+ Từ góc nhìn sâu hơn, tiến trình từ tâm tán loạn đến sơ thiền cũng là tiến trình chuyển hóa nội tâm. Bằng việc buông bỏ dần những bám víu vào dục và bất thiện pháp, hành giả đang thay đổi cách mình phản ứng với thế giới.

- Những điều từng gây bực bội hay khơi dậy tham muốn mãnh liệt nay trở nên ít tác động hơn.

+ Tâm trở nên tự do hơn với hoàn cảnh. Và sự tự do ấy chính là mảnh đất màu mỡ để tuệ giác nảy sinh. - Sơ thiền vì thế không phải chỉ là một trạng thái đặc biệt trong lúc ngồi thiền mà là một sự chuyển hóa bền vững ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống.

* Cuối cùng cần hiểu rằng mục tiêu không phải là đạt được sơ thiền một lần rồi xem đó là thành tựu cố định.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,531
Điểm tương tác
1,169
Điểm
113
Kính Thầy Viên Quang,

Xin phép Thầy được trình bày và phân tích về hai chi khởi đầu của Sơ thiền, Tầm/Vittakka và Tứ/Vicara, vì chúng có vai trò rất quan trọng trong việc giữ tâm định tĩnh qua sự chú tâm vào đề mục khi tọa thiền.

Theo kinh luận và các nhà chú giả Theravada như Tỷ kheo Nyanatiloka...thì Tầm/Vittakka và Tứ/Vicara vận hành như một cơ quan chức năng ngôn ngữ của Tâm trí/Mind được gọi là "Tiếng nói bên trong/Inner speech (trước khi lời nói và văn tự được biểu đạt).

Trong bản Tiểu Phương Quãng Kinh, Tỷ kheo ni Dhammadinna đã mô tả Tầm, Tứ song hành mà hình thành Khẩu hành/VaciSankhara, "Trước phải có tầm, tứ sau đó mới phát ra lời nói nên Tầm, Tứ là Khẩu hành."

Tầm/Vittakka được chuyển dịch sang tiếng Anh là "Thought conception" tức "Tư duy khái niệm"; chính Tầm tạo sự chú tâm qua việc nắm bắt và giữ lấy một tư duy. Do nắm bắt tư duy khái niệm nên cái mà Tầm giữ lấy thuần là Cảm giác (Thọ uẩn) nên Tầm lại nương tưạ vào Ý/Mana và sử dụng hình ảnh, biểu tượng, danh ngôn mà làm rõ khái niệm. Do vậy Tầm thường bất định vì chịu ảnh hưởng của sự ưa, ghét, sợ hãi và si mê (Tư vị/Agati) nên khó tập trung vào một chủ đề nhất định (Ai muốn tìm hiểu "Tư duy khái niệm trong Phật học" thì nên đọc cuốn Buddhist logic/Stcherbatsky/Tỷ kheo Thiện Minh Việt dịch)
Tứ/Vicara, được chuyển dịch sang tiếng Anh là "Discursive Thinking" tức "Những suy nghĩ lê thê lan man, lang thang, linh tinh...có liên quan hoặc ít hoặc nhiều hoặc không ít không nhiều đến chủ đề thuộc loại Diễn Ngôn".
Chính Tầm là Tâm viên, Tứ là Ý mã.
Kinh văn Hán tạng chuyển dịch Vittakka và Vicara là Giác và Quán.

Về ảnh dụ của Tầm, Tứ thì nhiều nhưng Trừng Hải chỉ thích thú với ảnh dụ "Tầm như tiếng chuông. Tứ như tiếng chuông vang vọng trầm dài đủ cung bậc, thanh âm khi tụ khi tán...hề hề.


Kính

trừng hải
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,492
Điểm tương tác
1,451
Điểm
113
16.- An trú trong Sơ Thiền.

Giống như dòng nước cần được giữ sạch mỗi ngày, tâm cũng cần được chăm sóc và thanh lọc liên tục.




Mỗi buổi hành thiền, mỗi khoảnh khắc quay về với hơi thở, mỗi lần buông bỏ một ý nghĩ bất thiện, tất cả đều là
những bước trên con đường ấy. Và một khi hành giả kiên trì đi qua tiến trình này, từ chỗ tâm tán loạn đến khi an trú trong sơ thiền thì không chỉ tìm thấy sự bình an giữa cuộc sống xô bồ mà còn đặt được
viên gạch đầu tiên cho hành trình giác ngộ lâu dài.

+ Ngũ Triền cái trong truyền thống Phật giáo là năm trạng thái tâm làm chướng ngại cho sự định tâm và sáng suốt được xem như những đám mây mờ che khuất mặt trời trí tuệ khiến hành giả dù có thiện trí hành thiền cũng khó đạt được sơ thiền nếu chưa nhận diện và hóa giải.

- Năm triền cái ấy bao gồm dục, sân, hôn trầm thụy miên, trạo cử và nghi.- Mỗi thứ đều có sức cuốn hút hoặc đè nặng khiến tâm không thể an trú.

- Khi nói ly dục, ly bất thiện pháp để bước vào sơ thiền, điều đó không chỉ mang tính khái niệm mà là yêu cầu thực tiễn phải tháo gỡ từng Triền cái một cách khéo léo. Vì chỉ khi tâm được thanh lọc khỏi những cấu uế này, định lực mới có nền tảng để phát triển.

+ DỤC.- triền cái đầu tiên không chỉ giới hạn ở dục tính mà còn bao gồm mọi ham muốn trói buộc liên quan đến sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. - Nó làm cho tâm hướng ra ngoài, tìm kiếm khoái cảm nơi cảnh trần.- Giống như một chiếc thuyền bị kéo về nhiều hướng bởi những sợi dây buộc vào bến bờ khác nhau.

- Khi tâm bị DỤC chi phối, hơi thở khó mà nhẹ nhàng, thân khó mà an tịnh.

- Bởi ngay cả khi ngồi yên, vọng tưởng vẫn miên man về những gì muốn sở hữu, trải nghiệm hay hưởng thụ.

- Để hóa giải, hành giả cần nuôi dưỡng tâm biết đủ, quán bất tịnh nơi đối tượng ham muốn và nhận ra rằng mọi khoái lạc đều vô thường, tan biến nhanh chóng như bọt nước.

+ SÂN.- cái thứ hai là phản ứng đẩy lùi hoặc chống đối khi đối diện với điều trái ý.

- Có thể biểu hiện từ những bực bội nhỏ nhặt đến sự phẫn nộ bùng nổ. Tâm sân làm mất đi sự mềm mại và rộng mở, giống như mặt hồ nổi sóng dữ khiến bóng trăng trí tuệ không thể phản chiếu.

- Khi còn nuôi dưỡng sân, dù chỉ là những bức xúc vụn vặt, hành giả cũng khó an trú trong hỉ lạc của sơ thiền, vì hỉ và sân không thể cùng tồn tại.

- Cách đối trị SÂN là tu tập tâm từ, thường xuyên khởi ý nguyện an lành đến tất cả chúng sinh, kể cả những người làm mình tổn thương và quán chiếu rằng mọi phản ứng sân hận đều chỉ khiến bản thân thêm đau khổ.

+ HÔN TRẦM- THỤY MIÊN.- trên cái thứ ba lại là một loại chướng ngại khác, không ồn ào như dục và sân, nhưng lặng lẽ gặm mòn sự tỉnh giác.

- Khi tâm bị hôn trầm, thân nặng nề, đầu óc mơ màng, ý chí suy yếu giống như một căn phòng bị thiếu dưỡng khí.

- Đây thường là trở ngại cho những hành giả mới, đặc biệt khi thực hành vào thời điểm cơ thể mệt mỏi hoặc sau bữa ăn no.

+ Để vượt qua, cần chú trọng vào sự điều hòa thân tâm, ngồi với lưng thẳng, mở mắt hoặc nhắm hờ để tránh chìm vào mộng tưởng.
- Và khi cần có thể thay đổi tư thế hoặc thực hành trong không gian thoáng đãng, trạo cử hay tâm xao động là Triền cái thứ tư xuất hiện khi tâm không thể yên chỗ mà cứ chạy theo hết ý tưởng này đến ký ức khác.

- Ngay cả khi không phải những ham muốn mạnh mẽ hay sân hận dữ dội, sự liên tục nhảy từ đối tượng này sang đối tượng khác cũng khiến định lực bị phá vỡ.

+ TRẠO CỬ.- có thể sinh từ lo lắng về tương lai, hối tiếc quá khứ hoặc chỉ là thói quen tâm lý không chịu ở yên.

- Để chế ngự, hành giả cần kiên nhẫn đưa tâm trở lại đề mục.

- Mỗi khi nhận ra mình vừa bị cuốn đi mà không trách mắng hay ép buộc quá mức, vì sự ép buộc thường lại tạo thêm căng thẳng.

+ NGHI.- Triền cái cuối cùng là sự hoài nghi đối với con đường tu tập, phương pháp hay thậm chí đối với khả năng của chính mình.

- Khi NGHI nổi lên, hành giả chùn bước, không toàn tâm vào thực hành, giống như người trèo thuyền cứ quay lại bờ xem mình có nên đi tiếp không.

- Nghi làm mất đi sự liên tục và vì định lực chỉ hình thành trên nền tảng của sự duy trì không gián đoạn nên đây là một trở ngại lớn.

+ Để hóa giải, cần học hỏi, quán chiếu và trực tiếp trải nghiệm để niềm tin trở nên vững chắc cũng như thường xuyên nhớ lại lời dạy và tấm gương của những bậc hành giả đã thành tựu.

+ Năm triền cái này không chỉ được liệt kê trong kinh điển như những khái niệm xa vời mà chúng thực sự là những trải nghiệm tâm lý mà bất cứ ai khi bước vào con đường thiền định đều sẽ đối diện.

- Đôi khi trong cùng một buổi thiền có thể trải qua nhiều triền cái nối tiếp nhau.

+ Hành giả cần học cách nhận diện kịp thời, không chối bỏ nhưng cũng không nuôi dưỡng, giống như nhìn thấy đám mây trôi qua bầu trời mà không chạy theo hay tìm cách xua đuổi.

- Khi năm triền cái được làm lắng xuống, tâm trở nên nhẹ nhàng sáng trong và đó là dấu hiệu cho thấy cánh cửa của Sơ Thiền đang mở ra.

+ Ly dục, ly bất thiện pháp không phải là khẩu hiệu mà là một tiến trình tinh tế của việc thanh lọc tâm.- Trong đó, việc hiểu và vượt qua ngũ triền cái chính là bước đi không thể bỏ qua. Và chính ở đây, hành giả bắt đầu nếm trải niềm hỉ lạc do ly dục sinh ra.- Thứ hỉ lạc không lệ thuộc vào bất cứ điều kiện nào của thế gian, là nền móng cho tất cả những tầng thiền định cao hơn và cho cả sự khai mở trí tuệ.

+ Về sau trong thời Đức Phật, tinh thần ly dục, ly bất thiện pháp không chỉ được giảng dạy trên pháp tòa mà đã được sống động hóa qua đời sống và sự chuyển hóa của nhiều nhân vật từ những vị xuất gia trẻ tuổi cho đến những cư sĩ tại gia đầy trách nhiệm.

- Những câu chuyện này không chỉ truyền cảm hứng cho hàng đệ tử lúc bấy giờ mà còn trở thành minh chứng sống động cho giá trị và tính khả thi của Sơ Thiền đối với bất cứ ai thực hành đúng pháp.
 
Sửa bởi Amin:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,492
Điểm tương tác
1,451
Điểm
113
17.- Câu chuyện Sadi Rahula , Angulimala & cấp cô độc.- Tu tập Sơ Thiền.

Một trong những câu chuyện tiêu biểu là về Sadi Rahula, con trai của Đức Phật.- Rahula được xuất gia từ khi còn rất nhỏ, tâm trí vẫn còn trong sáng nhưng cũng đầy sự tò mò và ham muốn khám phá.

- Ban đầu Rahula cũng giống nhiều người trẻ khác, đôi khi bị cuốn vào những trò chuyện vô ích, dễ để tâm dao động trước những điều hấp dẫn bên ngoài.

- Đức Phật đã dạy Rahula một cách kiên nhẫn, bắt đầu từ những bài học căn bản về chân thật và chánh niệm, rồi dẫn dắt Rahula quán sát thân, thọ, tâm, pháp.

- Trong một lần, ngài khuyên Rahula tìm nơi vắng vẻ dưới gốc cây để hành thiền, buông bỏ mọi ham muốn và tư tưởng không lành mạnh.

TƯ LIỆU NGHIÊNG CỨU.- 9 (cấp độ) THIỀN ĐỊNH Ccd_jf10


- Khi tâm Rahula trở nên an tịnh, rời xa dục vọng và những ý nghĩ bất thiện, hì lạc phát sinh và Rahula đã nếm trải trạng thái sơ thiền.

+ Điều đáng chú ý là Rahula không đạt được điều này nhờ vào những nghi lễ phức tạp hay thần thông mà nhờ vào sự thực tập từng bước chính xác và kiên trì.

+ Một câu chuyện khác là về trường giả cấp cô độc, người cư sĩ nổi tiếng nhất trong thời Đức Phật. Dù bận rộn với việc kinh doanh và các trách nhiệm xã hội, ông vẫn dành thời gian để hành thiền và nuôi dưỡng tâm thanh tịnh.

- Khi nghe pháp về ly dục, ly bất thiện pháp, ông nhận ra rằng dục không chỉ là ham muốn vật chất mà còn là sự dính mắc vào danh tiếng, quyền lực và cả những mối quan hệ ràng buộc.

- Ông bắt đầu tập nhìn mọi thứ như phương tiện để hành thiện, không phải để tích trữ hay bám chấp.

Nhờ thực hành như vậy, dù sống giữa đời thường, tâm ông vẫn đạt được sự hỉ lạc và an ổn của sơ thiền.

Câu chuyện của cấp cô độc chứng minh rằng ly dục không có nghĩa là bỏ hết của cải hay tránh xa thế gian mà là giữ tâm không bị trói buộc bởi chúng.

+ Ngoài ra còn có trường hợp của Angulimala, kẻ từng sát hại hàng trăm người trước khi gặp Đức Phật.

- Ban đầu tâm ông tràn ngập bất thiện pháp, sân hận, si mê và ác ý. Nhưng khi được Đức Phật cảm hóa, Angulimala xuất gia, tu tập nghiêm túc và tập buông bỏ hoàn toàn những ý nghĩ sát hại hay ác độc.

- Quá trình này không dễ dàng. Ông phải đối diện với ký ức tội lỗi, với sự khinh miệt của người đời. Nhưng nhờ định hướng tâm vào pháp hành và kiên trì thiền quán, ông đã thanh lọc được tâm ý, dứt bỏ dục vọng và bất thiện pháp. Cuối cùng Angulimala chứng đắc A La Hán, vượt qua cả sơ thiền để đạt giải thoát hoàn toàn.

Những câu chuyện ấy dù bối cảnh khác nhau đều cho thấy một điểm chung. Sơ thiền không phải là đặc quyền của một tầng lớp hay hoàn cảnh nào.- Dù là một chú sa đi, một cư sĩ giàu có hay một kẻ từng phạm tội tày trời, chỉ cần thực hành ly dục, ly bất thiện pháp một cách chân thành và liên tục, đều có thể tiếp cận được trạng thái an lạc này. Điều đó khẳng định rằng lời dạy của Đức Phật về Sơ thiền không phải là lý thuyết xa vời mà là một con đường thực tiễn đã và đang được chứng minh qua hàng nghìn năm tu tập của biết bao người.
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,492
Điểm tương tác
1,451
Điểm
113
18.- Sơ Thiền ở Á Đông: Thiền sư Nhất Hạnh, TS Hư Vân của Trung Hoa,

Nếu như thời Đức Phật Sơ Thiền đã được thực chứng và truyền dạy rộng rãi trong cộng đồng tăng và cư sĩ thì ở Á Đông nơi Phật giáo được tiếp nhận và phát triển qua hàng nghìn năm.

+ Tinh thần ly dục, ly bất thiện pháp của sơ thiền vẫn được các bậc thiền sư duy trì, ứng dụng và truyền lại cho thế hệ sau.

- Những câu chuyện về các ngài không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn là bài học thực tiễn cho người tu thời nay.

+ Trước hết có thể nhắc đến Minh Hạnh Tổ, một bậc thầy nổi tiếng của Thiền tông Việt Nam thời Lý. Ngài không chỉ là người uyên thâm kinh điển mà còn là một hành giả thiền định thâm sâu.

- Sử chép rằng ngay từ khi còn là Sa đi, Minh Hạnh Tổ đã thực hành thiền quán một cách nghiêm mật, tránh xa mọi thú vui thế tục.- Ly dục đối với ngài không chỉ là không dính vào tài sắc mà còn là từ bỏ những suy nghĩ vụn vặt ngoài những ưa ghét nhỏ nhặt.

- Khi đã giữ tâm thanh tịnh, ngài dễ dàng đi vào trạng thái sơ thiền, cảm nhận hì lạc do ly dục sinh.

- Sự an ổn ấy giúp ngài ứng xử ung dung giữa triều đình và tăng chúng, không bị lay động bởi khen chê, thị phi.

+ Một bậc khác là Thiền sư Nhất Hạnh, người đã đem thực tập chánh niệm và thiền định của Phật giáo nguyên thủy hòa
vào đời sống hiện đại. Trong nhiều bài giảng, thầy nhấn mạnh rằng ly dục không có nghĩa là từ bỏ hết mọi tiện nghi mà
là không để những thứ đó chi phối tâm mình.




- Thầy kể rằng mỗi khi bước đi trong rừng chỉ cần thở vào, thở ra và ý thức trọn vẹn về bước chân là đã gieo mầm của sơ thiền.

- Thầy không đặt nặng chuyện đạt được tầng thiền cao mà khuyến khích học trò tiếp xúc với hì lạc ngay từ những
giây phút đơn giản, uống trà, ngắm trăng hay rửa bát.

- Chính sự tiếp xúc đó là cánh cửa mở vào trạng thái tâm ly dục, ly bất thiện pháp dù đang sống giữa đời thường.

+ Không thể không nhắc đến thiền sư Hư Vân của Trung Hoa vì Cao Tăng sống qua ba thế kỷ nổi tiếng với công phu thiền định bên bì.

- Ngài thường nhắc đệ tử rằng muốn tâm an định thì trước hết phải buông bỏ lòng ham muốn và thói quen phán xét.

- Trong thời gian nhập thất, hư vân thiền tọa hàng chục giờ mỗi ngày. Nhưng ngài không xem đây là hành hạ thân thể, mà là một niềm vui nội tâm khi tâm không còn bị trói buộc.

- Trạng thái sơ thiền đến với ngài như một sự tự nhiên vì tâm đã được chuẩn bị bằng nhiều năm thanh lọc qua giới, định và tuệ.

+ Điểm chung ở các bậc thiền sư Á Đông là họ không xem sơ thiền như một mục tiêu cần tranh đoạt hay một thành tựu để khoe khoang.- Đối với họ, đó là một trạng thái tự nhiên khi tâm rời xa các ham muốn và bất thiện pháp. Nhờ vào việc sống giản dị, hành thiền đều đặn và giữ giới nghiêm minh.

- Bài học từ các ngài là sơ thiền không phải kết quả của sự căng thẳng hay gò ép mà là hoa trái chín muồi của đời sống thanh tịnh và tâm hồn rậu mờ.

- Khi tâm con người bị cuốn vào vòng xoáy của những dục vọng và bất thiện pháp, sức ép tâm lý ngày càng lớn dẫn đến căng thẳng, lo âu, bất an và nhiều rối loạn tinh thần khác.

+ Sơ thiên trạng thái ly dục, ly bất thiện pháp mang lại một lợi ích tâm lý đặc biệt sâu sắc.- Bởi đây không chỉ là sự yên tĩnh của thân thể mà là sự thanh lọc tận gốc rễ những nguyên nhân gây sao động.

+ Trong kinh điển, Đức Phật đã nhiều lần nhấn mạnh rằng hì và lạc của sơ thiền là hì lạc do ly dục sanh. Nghĩa là một loại an vui không dựa vào bất kỳ sự thỏa mãn cảm giác hay vật chất nào mà khởi sinh từ chính việc tâm thoát khỏi các trói buộc và nhiễm ô.

- Trạng thái ấy khác hẳn với những niềm vui tạm bợ của thế gian. Vốn chỉ tồn tại khi điều kiện bên ngoài thuận lợi và dễ
dàng biến mất khi gặp nghịch cảnh.

- Khi hành giả tiếp cận sơ thiền, tâm dần đạt đến sự tập trung ổn định, các suy nghĩ tán loạn lắng xuống và những cảm xúc tiêu cực như sợ hãi, nóng giận, tham muốn, tự nhiên yếu đi hoặc biến mất.

- Sự giảm thiểu dòng vọng tưởng không chỉ giúp não bộ được nghỉ ngơi sâu mà còn tạo ra cảm giác nhẹ nhàng thành thơi, giống như một hồ nước vốn bị gió làm nổi sóng nay trở lại phẳng lặng trong vắt.

 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Top