Đức Phật dạy tiếp:
“Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; vị Tỷ-kheo thấy sắc, chuyên chú, như lý quán sát sắc. Do vị Tỷ-kheo nhìn chuyên chú, như lý quán sát sắc, sắc ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong sắc được?”.
Đức Phật dạy với cùng thể cách ấy về những uẩn còn lại và hỏi:
“Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong thọ, trong tưởng, trong hành, trong thức được?” — Kinh Tương Ưng Bộ, HT. Thích Minh Châu dịch.
Với sự phân tích về năm uẩn như vậy, một phạm vi tư tưởng tiến bộ hơn xuất hiện. Chính là ở giai đoạn này mà sự hiểu biết chân thật được gọi là tuệ giác hay minh sát tuệ (vipassaana) bắt đầu có tác dụng. Thông qua tuệ giác bởi sự minh sát này mà bản chất thực của năm uẩn được nắm bắt và được nhìn thấy dưới ánh sáng của Tam Pháp Ấn (tilakkhana): vô thường, khổ, và vô ngã.
Không chỉ năm uẩn mới là vô thường, khổ và vô ngã, mà nhân và duyên tạo thành năm uẩn cũng vô thường, khổ và vô ngã. Điểm này Đức Phật dạy rõ:
Sắc, thọ, tưởng, hành và thức, này các Tỷ-kheo, là vô thường. Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho ngũ uẩn sanh khởi; cái ấy cũng vô thường. Ngũ uẩn đã được cái vô thường làm cho sanh khởi, này các Tỷ-kheo, làm sao có thể thường được?
Sắc, thọ, tưởng, hành và thức, này các Tỷ-kheo, là khổ. Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho ngũ uẩn sanh khởi; cái ấy cũng khổ. Ngũ uẩn đã được cái khổ làm cho sanh khởi, này các Tỷ- kheo, làm sao có thể vui thích hay thỏa mãn được?
Sắc, thọ, tưởng, hành và thức, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho ngũ uẩn sanh khởi; cái ấy cũng vô ngã. Ngũ uẩn đã được cái vô ngã làm cho sanh khởi, này các Tỷ-kheo, làm sao có thể có ngã được?
Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Đa văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng, yếm ly đối với các hành, yếm ly đối với thức. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: “Ta được giải thoát”. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa” Kinh Tương Ưng 22.7-9, tóm tắt.