- Tham gia
- 19/4/18
- Bài viết
- 783
- Điểm tương tác
- 212
- Điểm
- 43
I.TỤC ĐẾ & CHÂN ĐẾ:
Hiện nay có rất nhiều người ngồi nhà tu tập tự cho rằng họ đã chứng đắc một cảnh giới cao cấp nào đó và họ say mê trong cảnh giới đó mà đa số không hiểu rằng họ đang có cái gì trong tay, giả hay thật, khái niệm hay bản chất do họ có thể đã đọc quá nhiều sách truyện về tâm linh, thần thoại hoặc xem phim kiếm hiệp xen lẫn những cảnh đấu phép thần thông biến hoá và trí nhớ của họ lưu giữ lại những câu chuyện đầy hình ảnh như thế khiến cho họ tưởng tượng rằng họ đã có những khả năng như thế.
Trong thuật ngữ hàn lâm Phật giáo có hai từ là Tục đế và Chân đế - tạm hiểu Tục đế là khái niệm, sự khái niệm hoá, hình tượng hoá và Chân đế là sự thật tuyệt đối, bản chất bên trong của sự vật hiện tượng, còn gọi là thực tánh pháp, pháp tánh. Thông thường, đa phần chúng ta không sống với bản chất thực tại của thế giới hiện tượng mà luôn sống trong những khái niệm và thực tại quy ước. Nói khác hơn, theo cách nhìn của những vị thánh đã thức tỉnh thì chúng ta sống trong tình trạng mê ngủ, vì thế khi chúng ta thấy một đối tượng nào đó sẽ khái niệm hoá đó là "người nam hay người nữ", chúng ta phân biệt và đặt tên cho cái mà chúng ta tiếp xúc qua giác quan của mình, khái niệm về "người nam hay người nữ" là cách phản ánh đúng theo góc độ nhìn nhận sự vật theo sự thật quy ước chứ không phải pháp tánh của sự vật đó, trong khi bản chất thật của sự vật đó chỉ là những quá trình hoạt động của Ngũ uẩn (thân-tâm). Chúng ta dễ dàng bỏ qua thực tánh pháp của sự vật đó là ngũ uẩn chứ không có ngũ uẩn nam, ngũ uẩn nữ. Xin lấy một ví dụ khác cho dễ hiểu, trong cuộc sống hàng ngày chúng ta thường va chạm với hai phạm trù này, ví dụ: vị ngọt của trái cây khác vị ngọt của kẹo, chúng ta nói "vị ngọt" tức là tục đế và ngọt như thế nào là chân đế.
Trong quá trình tu tập, vấn đề chân đế và tục đế được biểu hiện qua cách thức nhìn nhận trạng thái chứng đắc của hành giả, những trạng thái chứng đắc có vẻ như trùng hợp nhau như lần đầu tiên hành giả bước vào trạng thái ấy, bởi vì theo quy luật vô thường của tất cả những cái gì có nguyên nhân phát sinh (nhân phát sinh ở đây là sự thực hành pháp môn nào đó) thì cho dù hành giả có làm đi làm lại hàng trăm lần ở cùng một trình độ chứng đắc thì cũng không thể có được trạng thái một trăm lần giống y chang nhau được, nếu hành giả nào thấy rằng cảnh giới chứng đắc của mình luôn luôn là như vậy tức là hành giả đã tự khái niệm hoá trạng thái ấy và giam hãm tâm thức mình trong khái niệm tục đế ấy, tình trạng thái tự giam nhốt đó là pháp đứng lại hay là pháp chết. Có không ít hành giả mắc vào sai lầm này do không được học về ý nghĩa Tục đế và Chân đế.
Có những người TK biết, họ hay kể lại là họ thường xuất hồn bay đi bay về cõi nào đó với đường xá, cua quẹo như vầy như vầy, ngày nào cũng như ngày nào, riết rồi quen thuộc đường đi nước bước ở chốn đó. Ở cõi vật chất thô thiển như cõi nhân loại thì còn có đường xá, cua quẹo nhưng ở các cõi xây dựng bằng tâm thức và ước nguyện thì đường xá, cua quẹo chỉ hiện ra với những tâm thức còn lệ thuộc vào chuyện đi lại như người nhân loại, sao không nghĩ là chúng sanh cõi tâm thức có di chuyển giống như nhân loại hay là bằng biến hoá, mà biến hoá thì cần chi đường xá giao thông? bởi tâm ý nghĩ gì thì cảnh giới biến hiện y như vậy, đâu cần giao thông đường xá mà vẫn tới lui nhanh chóng - đó là một vài điều cần để ý khi hành giả chạm tới một cảnh giới nào đó bằng tâm thức.
Thực hành một pháp môn nào, người tu cũng nên cẩn thận sự ảo hoá của tâm thức về những hiện tượng xuất hiện khi tâm thức tiến tới một trạng thái yên tĩnh nào đó. Người đắc thiền sẽ thấy cảnh giới của thiền hiện ra rực rỡ như vầy, người đắc pháp chú thuật thì cảnh giới của chú thuật đó sẽ biến ra lung linh như vậy, hành giả niệm danh hiệu Phật cũng có cảnh giới tương thích. Sở dĩ nói rằng phải cẩn thận với những trò ảo hoá của tâm thức bởi vì trong ngũ uẩn chúng ta có Tưởng uẩn đóng vai trò như cái máy ghi âm ghi hình sao chụp lại những gì xuất hiện trong tâm thức lần trước đó, Tưởng uẩn sẽ ghi nhớ lại và phát ra trong tâm thức hành giả lần khác - theo ý này mà chư Tổ sư Thiền tông từng dạy bảo hành giả đời sau "gặp Phật giết Phật, gặp Ma giết Ma". Cảnh giới chúng ta thấy lần thứ hai không bao giờ giống y lần đầu dù bản chất trình độ tu tập cùng một mức độ nhất định.
Xin nêu ví dụ trong thiền định chỉ tịnh, tầng Sơ thiền Sắc giới có 5 chi thiền là Tầm Tứ Hỷ Lạc Định, nhưng lần đầu Hỷ mạnh hơn lần sau do lần trước tâm thức chưa bao giờ đạt tới trạng thái vui thích (Hỷ) nên hành giả chưa kiểm soát được sức mạnh chú tâm trên đề mục, nhưng lần sau đã có kinh nghiệm chú tâm thì Hỷ này sẽ giảm một chút so với lần đầu. Nếu chi thiền Hỷ lần thứ ba sinh lên mạnh mẽ hơn hai lần đầu thì có nghĩa là tâm thức đã buông bỏ hai chi thiền Tầm Tứ để tiến lên tầng Nhị thiền, trong tầng thứ hai này có đặc điểm là chi thiền Hỷ sung mãn nhất - Nhị thiền được gọi là Định sinh Hỷ lạc.
Trong thiền minh sát có 16 tầng Tuệ giác, khi mà hành giả tu tập tuệ quán đạt tới mức làm cho tuệ giác thứ 11 là Hành Xả Trí phát sinh khiến cho hành giả thấy rõ bản chất chân đế của vấn đề đang quán chiếu thì liền có trạng thái thọ Xả tự động xuất hiện làm cân bằng tâm quán, không vui không buồn, an nhiên tự tại và thọ Xả này thường xuyên xuất hiện trong tâm thức khi hành giả đạt tới trình độ này. Trong trường hợp của TK thì trạng thái thọ Xả này phát sinh cho TK suốt ngày đêm chỉ khi nào ngủ thì mới không ý thức được, nhưng khi thức dậy thì trạng thái này tiếp tục xuất hiện, kéo dài liên tục mấy tháng. Lúc đó TK cho rằng rất lạ lùng và nhàm chán vì sao mà chỉ có một kiểu không vui không buồn mãi như vậy, dù có chú tâm quan sát cũng không khá hơn được, về sau khi va vấp những vấn đề phiền não khác khốc liệt hơn đã phá vỡ trạng thái cân bằng này, buộc lòng mình phải xông pha với nó và khi đã thấu hiểu bản chất sự việc thì lập tức trạng thái thọ Xả này lại xuất hiện nhưng lần này sâu sắc, đậm đà hơn lần trước bởi vì tâm thức mình đã trưởng thành hơn.
Thực tế cho thấy, người hành giả thực hành đúng thì thọ Xả ngày càng sâu sắc hơn do Tuệ Xả ngày càng vi tế hơn để hành giả hiểu rõ hơn thế nào là bản chất Vô thường, Khổ, Vô ngã của những vấn đề bên trong tâm thức. Ở đây, nếu cảnh giới mà hành giả chứng nghiệm chỉ có thuần tuý thọ Xả mà không có gì khác (thọ Xả cũng có nhiều biến đổi nông sâu khác nhau do Tuệ quán của hành giả mạnh yếu mà biết được), tức không phát triển gì thêm tức là không có tính chất Vô thường ở cảnh giới này - nghĩa là hành giả tu sai, hoặc pháp bị đứng lại. Bởi vì trạng thái của Tuệ thứ 11 này chưa phải là đắc quả Thánh, thế thì tại sao không còn thấy tướng và tánh Vô thường? Niết Bàn không có tướng và tánh Vô thường, mà nếu đắc trạng thái thể nhập Niết Bàn thì phải vượt xa hơn trạng thái thứ 11 này. Đây chính là trục tham chiếu kiến thức tục đế và chân đế theo ba phương diện Pháp học, Pháp hành và Pháp thành cũng như dựa vào ba loại Tuệ là Văn, Tư, Tu để hành giả có sự trạch pháp thận trọng, kỹ lưỡng, nếu không thì rất dễ rơi vào tâm ngã mạn sai quấy tự cho là ta đã đắc đạo quả Thánh - tức là phạm vào tội khoe pháp bậc thượng nhân, sẽ dẫn tới đoạ xuống khổ cảnh, rất là nguy hiểm.
Hiện nay có rất nhiều người ngồi nhà tu tập tự cho rằng họ đã chứng đắc một cảnh giới cao cấp nào đó và họ say mê trong cảnh giới đó mà đa số không hiểu rằng họ đang có cái gì trong tay, giả hay thật, khái niệm hay bản chất do họ có thể đã đọc quá nhiều sách truyện về tâm linh, thần thoại hoặc xem phim kiếm hiệp xen lẫn những cảnh đấu phép thần thông biến hoá và trí nhớ của họ lưu giữ lại những câu chuyện đầy hình ảnh như thế khiến cho họ tưởng tượng rằng họ đã có những khả năng như thế.
Trong thuật ngữ hàn lâm Phật giáo có hai từ là Tục đế và Chân đế - tạm hiểu Tục đế là khái niệm, sự khái niệm hoá, hình tượng hoá và Chân đế là sự thật tuyệt đối, bản chất bên trong của sự vật hiện tượng, còn gọi là thực tánh pháp, pháp tánh. Thông thường, đa phần chúng ta không sống với bản chất thực tại của thế giới hiện tượng mà luôn sống trong những khái niệm và thực tại quy ước. Nói khác hơn, theo cách nhìn của những vị thánh đã thức tỉnh thì chúng ta sống trong tình trạng mê ngủ, vì thế khi chúng ta thấy một đối tượng nào đó sẽ khái niệm hoá đó là "người nam hay người nữ", chúng ta phân biệt và đặt tên cho cái mà chúng ta tiếp xúc qua giác quan của mình, khái niệm về "người nam hay người nữ" là cách phản ánh đúng theo góc độ nhìn nhận sự vật theo sự thật quy ước chứ không phải pháp tánh của sự vật đó, trong khi bản chất thật của sự vật đó chỉ là những quá trình hoạt động của Ngũ uẩn (thân-tâm). Chúng ta dễ dàng bỏ qua thực tánh pháp của sự vật đó là ngũ uẩn chứ không có ngũ uẩn nam, ngũ uẩn nữ. Xin lấy một ví dụ khác cho dễ hiểu, trong cuộc sống hàng ngày chúng ta thường va chạm với hai phạm trù này, ví dụ: vị ngọt của trái cây khác vị ngọt của kẹo, chúng ta nói "vị ngọt" tức là tục đế và ngọt như thế nào là chân đế.
Trong quá trình tu tập, vấn đề chân đế và tục đế được biểu hiện qua cách thức nhìn nhận trạng thái chứng đắc của hành giả, những trạng thái chứng đắc có vẻ như trùng hợp nhau như lần đầu tiên hành giả bước vào trạng thái ấy, bởi vì theo quy luật vô thường của tất cả những cái gì có nguyên nhân phát sinh (nhân phát sinh ở đây là sự thực hành pháp môn nào đó) thì cho dù hành giả có làm đi làm lại hàng trăm lần ở cùng một trình độ chứng đắc thì cũng không thể có được trạng thái một trăm lần giống y chang nhau được, nếu hành giả nào thấy rằng cảnh giới chứng đắc của mình luôn luôn là như vậy tức là hành giả đã tự khái niệm hoá trạng thái ấy và giam hãm tâm thức mình trong khái niệm tục đế ấy, tình trạng thái tự giam nhốt đó là pháp đứng lại hay là pháp chết. Có không ít hành giả mắc vào sai lầm này do không được học về ý nghĩa Tục đế và Chân đế.
Có những người TK biết, họ hay kể lại là họ thường xuất hồn bay đi bay về cõi nào đó với đường xá, cua quẹo như vầy như vầy, ngày nào cũng như ngày nào, riết rồi quen thuộc đường đi nước bước ở chốn đó. Ở cõi vật chất thô thiển như cõi nhân loại thì còn có đường xá, cua quẹo nhưng ở các cõi xây dựng bằng tâm thức và ước nguyện thì đường xá, cua quẹo chỉ hiện ra với những tâm thức còn lệ thuộc vào chuyện đi lại như người nhân loại, sao không nghĩ là chúng sanh cõi tâm thức có di chuyển giống như nhân loại hay là bằng biến hoá, mà biến hoá thì cần chi đường xá giao thông? bởi tâm ý nghĩ gì thì cảnh giới biến hiện y như vậy, đâu cần giao thông đường xá mà vẫn tới lui nhanh chóng - đó là một vài điều cần để ý khi hành giả chạm tới một cảnh giới nào đó bằng tâm thức.
Thực hành một pháp môn nào, người tu cũng nên cẩn thận sự ảo hoá của tâm thức về những hiện tượng xuất hiện khi tâm thức tiến tới một trạng thái yên tĩnh nào đó. Người đắc thiền sẽ thấy cảnh giới của thiền hiện ra rực rỡ như vầy, người đắc pháp chú thuật thì cảnh giới của chú thuật đó sẽ biến ra lung linh như vậy, hành giả niệm danh hiệu Phật cũng có cảnh giới tương thích. Sở dĩ nói rằng phải cẩn thận với những trò ảo hoá của tâm thức bởi vì trong ngũ uẩn chúng ta có Tưởng uẩn đóng vai trò như cái máy ghi âm ghi hình sao chụp lại những gì xuất hiện trong tâm thức lần trước đó, Tưởng uẩn sẽ ghi nhớ lại và phát ra trong tâm thức hành giả lần khác - theo ý này mà chư Tổ sư Thiền tông từng dạy bảo hành giả đời sau "gặp Phật giết Phật, gặp Ma giết Ma". Cảnh giới chúng ta thấy lần thứ hai không bao giờ giống y lần đầu dù bản chất trình độ tu tập cùng một mức độ nhất định.
Xin nêu ví dụ trong thiền định chỉ tịnh, tầng Sơ thiền Sắc giới có 5 chi thiền là Tầm Tứ Hỷ Lạc Định, nhưng lần đầu Hỷ mạnh hơn lần sau do lần trước tâm thức chưa bao giờ đạt tới trạng thái vui thích (Hỷ) nên hành giả chưa kiểm soát được sức mạnh chú tâm trên đề mục, nhưng lần sau đã có kinh nghiệm chú tâm thì Hỷ này sẽ giảm một chút so với lần đầu. Nếu chi thiền Hỷ lần thứ ba sinh lên mạnh mẽ hơn hai lần đầu thì có nghĩa là tâm thức đã buông bỏ hai chi thiền Tầm Tứ để tiến lên tầng Nhị thiền, trong tầng thứ hai này có đặc điểm là chi thiền Hỷ sung mãn nhất - Nhị thiền được gọi là Định sinh Hỷ lạc.
Trong thiền minh sát có 16 tầng Tuệ giác, khi mà hành giả tu tập tuệ quán đạt tới mức làm cho tuệ giác thứ 11 là Hành Xả Trí phát sinh khiến cho hành giả thấy rõ bản chất chân đế của vấn đề đang quán chiếu thì liền có trạng thái thọ Xả tự động xuất hiện làm cân bằng tâm quán, không vui không buồn, an nhiên tự tại và thọ Xả này thường xuyên xuất hiện trong tâm thức khi hành giả đạt tới trình độ này. Trong trường hợp của TK thì trạng thái thọ Xả này phát sinh cho TK suốt ngày đêm chỉ khi nào ngủ thì mới không ý thức được, nhưng khi thức dậy thì trạng thái này tiếp tục xuất hiện, kéo dài liên tục mấy tháng. Lúc đó TK cho rằng rất lạ lùng và nhàm chán vì sao mà chỉ có một kiểu không vui không buồn mãi như vậy, dù có chú tâm quan sát cũng không khá hơn được, về sau khi va vấp những vấn đề phiền não khác khốc liệt hơn đã phá vỡ trạng thái cân bằng này, buộc lòng mình phải xông pha với nó và khi đã thấu hiểu bản chất sự việc thì lập tức trạng thái thọ Xả này lại xuất hiện nhưng lần này sâu sắc, đậm đà hơn lần trước bởi vì tâm thức mình đã trưởng thành hơn.
Thực tế cho thấy, người hành giả thực hành đúng thì thọ Xả ngày càng sâu sắc hơn do Tuệ Xả ngày càng vi tế hơn để hành giả hiểu rõ hơn thế nào là bản chất Vô thường, Khổ, Vô ngã của những vấn đề bên trong tâm thức. Ở đây, nếu cảnh giới mà hành giả chứng nghiệm chỉ có thuần tuý thọ Xả mà không có gì khác (thọ Xả cũng có nhiều biến đổi nông sâu khác nhau do Tuệ quán của hành giả mạnh yếu mà biết được), tức không phát triển gì thêm tức là không có tính chất Vô thường ở cảnh giới này - nghĩa là hành giả tu sai, hoặc pháp bị đứng lại. Bởi vì trạng thái của Tuệ thứ 11 này chưa phải là đắc quả Thánh, thế thì tại sao không còn thấy tướng và tánh Vô thường? Niết Bàn không có tướng và tánh Vô thường, mà nếu đắc trạng thái thể nhập Niết Bàn thì phải vượt xa hơn trạng thái thứ 11 này. Đây chính là trục tham chiếu kiến thức tục đế và chân đế theo ba phương diện Pháp học, Pháp hành và Pháp thành cũng như dựa vào ba loại Tuệ là Văn, Tư, Tu để hành giả có sự trạch pháp thận trọng, kỹ lưỡng, nếu không thì rất dễ rơi vào tâm ngã mạn sai quấy tự cho là ta đã đắc đạo quả Thánh - tức là phạm vào tội khoe pháp bậc thượng nhân, sẽ dẫn tới đoạ xuống khổ cảnh, rất là nguy hiểm.