- Tham gia
- 29/6/13
- Bài viết
- 121
- Điểm tương tác
- 58
- Điểm
- 28
Tông chỉ Thiền
II. Tư tưởng Phật học của Thượng Sĩ
Thượng Sĩ sống đời sống dung tục, chỉ có Thánh Tông, Nhân Tông và các bậc thạc đức trong rừng Thiền mới biết chiêm ngưỡng tâm giải thoát và tuệ giải thoát của Người. Bài biên khảo nầy sẽ đi vào tìm hiểu vườn Thiền của Người qua một số nét hương sắc Người để lại trong các thi kệ trong "Thơ Văn Lý Trần" và "Việt Nam Phật Giáo Sử Luận".
1. Tông chỉ Thiền của Thượng Sĩ
Đây cũng là tông chỉ của thiền Tiêu Dao và thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Tông chỉ ở đây thực sự là bí quyết quyết định công phu đi vào Tâm và Tuệ giải thoát.
Một hôm, Nhân Tông hỏi Người về tông chỉ ấy, Người bảo :"Hãy quay về tự thân mà tìm lấy tông chỉ ấy, không thể đạt từ ai khác".
Quay về tự thân mà tìm lấy tông chỉ là ý nghĩa tự mình trở về chính mình để khơi dậy tâm và tuệ giải thoát vốn có ở tâm mình. Từ Kinh tạng Nikàya, đức Phật dạy hãy trở về nương tựa mình và nương tựa pháp: một Tỷ kheo nương tựa mình và nương tựa pháp là Tỷ kheo hành Tứ niệm xứ. Hành Tứ niệm xứ là công phu khơi dậy tâm và tuệ giải thoát sẵn có ở tâm mình. Như thế, tông chỉ thiền mà Thượng Sĩ trao truyền cho Nhân Tông là hoàn toàn phù hợp với lời dạy tinh yếu của đức Gotama được kiết tập ở kinh tạng Nikàya (Pàli Text Society).
Thời đức Phật, các tăng sĩ tìm về tông chỉ nói trên trong nếp sống xuất thế; các cư sĩ thì tìm về tông chỉ ở đời sống gia đình, xã hội. Thời Trần, ở Việt Nam, Ứng Thuận - thầy truyền đạo cho tăng sĩ Tiêu Diêu, quốc sư Nhất Tông, thiền sư Giới Ninh và Giới Viên - là một cư sĩ tại gia như Tuệ Trung : thế là việc trở về với tâm và tuệ giải thoát ở Việt Nam cũng như dưới thời đức Phật đều có thể thực hiện trong nếp sống xuất thế hay nhập thế, tùy duyên. Điều đặc biệt ở Việt Nam là Tuệ Trung là một thiền sư vừa làm tướng cầm quân chống giặc Nguyên; vua Lý Thánh Tông, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông thì vừa làm vua vừa làm thiền sư , vua Nhân Tông thì vừa làm vua vừa làm thiền sư lúc tại gia và lúc xuất gia, rất tùy duyên, không câu nệ. Sẽ không còn nghi ngờ hay ngạc nhiên, nếu ta nhìn thẳng vào thực chất của công phu cá nhân soi mình để đạt được tâm và tuệ giải thoát ấy: đó là công phu nhìn thấy rõ cái hư ngã của "Ngũ thủ uẩn" ; do từ cái thấy đó mà hành giả tự động buông xả hết thảy vọng tâm - dục vọng; tham ái về sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; chấp ngã; và các tâm lý tiêu cực phát sinh từ tham ái và chấp ngã ấy - tự động đến với tâm và tuệ giải thoát. Đây quả là nội dung chứng đắc của các thiền sư Việt Nam thời Lý, Trần, và chính đây là sức mạnh tâm lý - hay có thể gọi là sức mạnh tinh thần, hoặc sức mạnh tâm linh - tạo nên các thành quả lịch sử to lớn của Lý, Trần.
II. Tư tưởng Phật học của Thượng Sĩ
Thượng Sĩ sống đời sống dung tục, chỉ có Thánh Tông, Nhân Tông và các bậc thạc đức trong rừng Thiền mới biết chiêm ngưỡng tâm giải thoát và tuệ giải thoát của Người. Bài biên khảo nầy sẽ đi vào tìm hiểu vườn Thiền của Người qua một số nét hương sắc Người để lại trong các thi kệ trong "Thơ Văn Lý Trần" và "Việt Nam Phật Giáo Sử Luận".
1. Tông chỉ Thiền của Thượng Sĩ
Đây cũng là tông chỉ của thiền Tiêu Dao và thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Tông chỉ ở đây thực sự là bí quyết quyết định công phu đi vào Tâm và Tuệ giải thoát.
Một hôm, Nhân Tông hỏi Người về tông chỉ ấy, Người bảo :"Hãy quay về tự thân mà tìm lấy tông chỉ ấy, không thể đạt từ ai khác".
Quay về tự thân mà tìm lấy tông chỉ là ý nghĩa tự mình trở về chính mình để khơi dậy tâm và tuệ giải thoát vốn có ở tâm mình. Từ Kinh tạng Nikàya, đức Phật dạy hãy trở về nương tựa mình và nương tựa pháp: một Tỷ kheo nương tựa mình và nương tựa pháp là Tỷ kheo hành Tứ niệm xứ. Hành Tứ niệm xứ là công phu khơi dậy tâm và tuệ giải thoát sẵn có ở tâm mình. Như thế, tông chỉ thiền mà Thượng Sĩ trao truyền cho Nhân Tông là hoàn toàn phù hợp với lời dạy tinh yếu của đức Gotama được kiết tập ở kinh tạng Nikàya (Pàli Text Society).
Thời đức Phật, các tăng sĩ tìm về tông chỉ nói trên trong nếp sống xuất thế; các cư sĩ thì tìm về tông chỉ ở đời sống gia đình, xã hội. Thời Trần, ở Việt Nam, Ứng Thuận - thầy truyền đạo cho tăng sĩ Tiêu Diêu, quốc sư Nhất Tông, thiền sư Giới Ninh và Giới Viên - là một cư sĩ tại gia như Tuệ Trung : thế là việc trở về với tâm và tuệ giải thoát ở Việt Nam cũng như dưới thời đức Phật đều có thể thực hiện trong nếp sống xuất thế hay nhập thế, tùy duyên. Điều đặc biệt ở Việt Nam là Tuệ Trung là một thiền sư vừa làm tướng cầm quân chống giặc Nguyên; vua Lý Thánh Tông, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông thì vừa làm vua vừa làm thiền sư , vua Nhân Tông thì vừa làm vua vừa làm thiền sư lúc tại gia và lúc xuất gia, rất tùy duyên, không câu nệ. Sẽ không còn nghi ngờ hay ngạc nhiên, nếu ta nhìn thẳng vào thực chất của công phu cá nhân soi mình để đạt được tâm và tuệ giải thoát ấy: đó là công phu nhìn thấy rõ cái hư ngã của "Ngũ thủ uẩn" ; do từ cái thấy đó mà hành giả tự động buông xả hết thảy vọng tâm - dục vọng; tham ái về sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; chấp ngã; và các tâm lý tiêu cực phát sinh từ tham ái và chấp ngã ấy - tự động đến với tâm và tuệ giải thoát. Đây quả là nội dung chứng đắc của các thiền sư Việt Nam thời Lý, Trần, và chính đây là sức mạnh tâm lý - hay có thể gọi là sức mạnh tinh thần, hoặc sức mạnh tâm linh - tạo nên các thành quả lịch sử to lớn của Lý, Trần.