BÍCH NHAM LỤC

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
BÍCH NHAM LỤC

Bích Nham Lục do thiền sư Viên Ngộ trước thuật từ các ghi chép của thiền sư Tuyết Đậu, đạI đệ tử của sư là thiền sư ĐạI Huệ đốt sạch. Ai phảI, ai trái ?
đáp cả hai đều phải.
Tổ Đạt Ma sang Trung Quốc riêng truyền tâm ấn, chẳng lập văn tự mà có ra các sách “ Huyết mạch luận”, “ Bích nham lục”, “ Vô Môn Quan” v v…. là do ai làm? Cổ nhân nói “ Chẳng tạI văn tự, chẳng rờI văn tự “ là lờI của ngườI đã thực biết.
Sách này đã qua tay nhiều vị thiền sư chỉnh sửa, bổ khuyết, tái bản. Nay do hòa thượng Thanh Từ dịch lạI từ Hán văn, LờI lẽ súc tích, ý tứ thâm sâu. Nhưng vì thánh ý hàm chứa trong kinh quyển quá cao nên khi chuyển sách này lên diễn đàn, tôi cố gắng lược bớt nhưng chỗ dài dòng, và giảI thích thêm những chỗ khó hiểu để mong quí đạo hữu có thể hiểu được lờI chư tổ, Thấu được ý thánh hiền, và nương đó tu tập thì công đức vô lượng.

TẮC I

Công án :

Lương Võ Đế hỏI đạI sư Đạt Ma
- Thế nào là Thánh Đế Đệ Nhất Nghĩa ?
Đạt Ma đáp
- Rỗng thênh không thánh (quách nhiên vô thánh )
Vua hỏI
- ĐốI trẫm là ai ?
Đạt Ma đáp :
- Chẳng biết.
Vua không khế hộI, Đạt Ma bèn sang sông đến Ngụy. Sau vua đem việc này hỏI hòa thượng Chí Công. Chí Công tâu :
- Bệ hạ lạI biết ngườI này chăng?
Vua nói :
- Chẳng biết
Chí Công tâu
- Đây là Quán Âm ĐạI Sĩ truyền tâm ấn Phật.
Vua hốI hận sai sứ đi thỉnh trở lạI .Chí Công tâu :
- Chẳng những bệ hạ sai sứ đi thỉnh chẳng được, dù ngườI trong cả nước đi thỉnh y cũng chẳng trở lại.

GiảI thích :
Tổ Đạt Ma xa xem thấy cõi này có căn khí ĐạI thừa, vượt biển mà đến riêng truyền tâm ấn, chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm ngườI, thấy tánh thành Phật. Gặp vua Võ Đế.
Võ Đế đã từng đắp cà sa giảng kinh “ Phóng Quang Bát-Nhã” cảm được hoa trờI rơi xuống, đất biến thành vàng. NgườI đờI gọI ông là “ Phật tâm thiên tử”. Tổ Đạt Ma gặp Võ Đế, vua hỏI
- Trẫm cất chùa, độ tăng có công đức gì?
Đạt Ma đáp :
- Không công đức.
Đây là một gáo nước lạnh tạt vào mặt. Tuy nhiên nếu thấu được câu này, sẽ bảo ông đã thấy Tổ Đạt Ma. Hãy nói cất chùa, độ tăng tạI sao không công đức? Ý ở chỗ nào?
Võ Đế đã cùng pháp sư Ước Lũ, Phó ĐạI Sĩ, thái tử Chiêu Minh luận bàn về Chân đế, Tục đế ( xin xem Triệu Luận) Chân đế chỉ rõ phi hữu, Tục đế chỉ rõ phi vô. Chân đế, Tục đế không hai tức là Thánh đế đệ nhất nghĩa. Đây là chỗ cực diệu, cùng huyền của giáo lý . Vua đem chỗ cùng cực của giáo lý này hỏI Tổ Đạt Ma
- Thế nào là Thánh Đế Đệ Nhất Nghĩa?
Tổ Đạt Ma đáp
- Rỗng thênh, không thánh.
Vua trợn mắt, đứng tròng.

Chỗ này Ngũ Tổ Sư Pháp Diễn nói
- Chỉ câu “ Rỗng Thênh không thánh “ nếu ngườI thấu được , về nhà ngồI an ổn. Còn bậc nhất đẳng thì làm sắn bìm, chẳng ngạI cho y đập bể thùng sơn

Nghĩa là ai hiểu thấu câu “ Rỗng thênh không thánh” là gì thì có thể về nhà
Tùy duyên tiêu nghiệp cũ
Hồn nhiên mặc áo xiêm.
Còn hạng học giảI đệ nhất đẳng cũng chỉ làm sắn bìm, ăm bám của tín thí mà thôi. Ta chẳng ngạI cho y đập bể cái vỏ bên ngoài.

Tổ Đạt Ma thật là kỳ đặc. Vì sao? Vì tham thấu một câu thì ngàn câu, muôn câu đồng thờI thấu. Nếu hiểu thì có thể “ NgồI mà đoạn được kiết sử, nắm được định” bởI vậy ngườI xưa nói :
“ Thịt tan xương nát chửa đền xong (ơn)
“ Một câu thấu suốt trăm nghìn ức (kiếp)

Chỉ một câu “ Rỗng thênh không thánh” Tổ Đạt Ma đã bổ thẳng vào đầu y , mà y còn chẳng tỉnh, còn sanh tâm chấp nhân, ngã hỏI câu thứ hai
- Thế đốI trẫm là ai?
Đáp
- Không biết.
Tổ Từ bi chỉ dạy mà vua chẳng biết , sửng sốt không hiểu là lờI nói gì.
Hòa Thượng Nghĩa Đoan có làm bài tụng :

Nhất tiễn tầm thường lạc nhất điêu
Cánh gia nhất tiễn dĩ tương phiêu
Trực qui Thiếu Thất phong tiền tọa
Lương chúa hưu ngôn cánh khứ chiêu.
Nghĩa
Một mũi tầm thường rớt một con
LạI thêm một mũi tỏ lòng son
Thẳng về Thiếu Thất ngồI trên đảnh
Lương chúa thôi đừng có ngóng mong.

X
X X
Vua chẳng hộI. Ngài âm thầm ra khỏI nước. Ngài qua sông đến nước Ngụy, đi thẳng đến Thiếu Lâm ngồI xây mặt vào vách chín năm. Sau tiếp được Nhị Tổ. NgườI phương này gọI ngài là Bích Quán Bà-La-Môn.
Vua Võ Đế sau hỏI hòa thượng Chí Công , Chí Công tâu :
- Bệ hạ biết ngườI này chăng?
Vua bảo :
- Chẳng biết.
Câu này cùng câu chẳng biết của Tổ Đạt-Ma là đồng là khác?
Giống thì cũng giống, phảI thì chẳng phải.
Cái không biết của Tổ là vì trí vớI không tớI, lờI chẳng thể tả nên nói không biết , tức là không biết phảI nói sao.
Còn cái không biết của Võ Đế là chẳng biết nhau.
Thật 2 câu trả lờI nào có dính dáng gì đến nhau.
Chính khi Chí Công hỏI như vậy thì đáp như thế nào ? Sao chẳng đập một gậy chết tốt cho rồI? ( vì Chí Công biết rằng chẳng thể nói, mà còn hỏI )
Võ Đế đáp “ chẳng biết” , Chí Công gặp lúc phảI làm liền nói
- Đây là Quán Âm ĐạI Sĩ đến truyền Phật tâm ấn.
Võ Đế hốI hận sai sứ đi thỉnh lại. Chính khi Chí Công nói đây là Quán Ân ĐạI Sĩ truyền Phật tâm ấn, cũng nên đuổI y ra khỏI nước mớI phảI ( vì biết mà không nói) .
Tương truyền có lần vua sai họa sĩ vẽ truyền thần hòa thượng Chí Công. Họa sĩ hỏI Chí Công nên vẽ mặt ngài như thế nào, Chí Công đưa tay vuốt mặt, hiện ra 32 đầu, đầy đủ 32 tướng tốt. Họa sĩ hoang mang không biết phảI làm sao nên không vẽ được. Vua ngầm hiểu Chí Công là Quán Âm ĐạI Sĩ giáng thế, ngầm trợ Phật pháp . Nay lạI nói Đạt Ma cũng là Quán Âm thì ai là Quán Âm thật? Chẳng những có hai mà còn có cả ngàn, kết thành đoàn, thành đội. BởI vậy mớI gọI là Thiên Thủ Thiên Nhãn. Ai hiểu việc này ra sao? Quán Âm là một, là nhiều ?
ThờI Hậu Ngụy Tổ Đạt Ma đã nhiều lần tranh luận cùng các đạI sư đương thờI . Tổ bác tướng chỉ tâm (vì tâm vốn vô tướng), nên bị ngườI khởI tâm hại. Tổ nhiều lần bị bỏ thuốc độc. Đến lần thứ sáu, vì tổ đã tìm được ngườI truyền pháp, hóa duyên đã hết , nên không cần cứu. Tổ ngồI ngay thẳng mà tịch, nhập tháp trên núi Hùng Nhĩ, chùa Định Lâm. ThờI Hậu Ngụy, Tống Vân đi sứ đến núi Thông Lãnh , gặp tổ tay cầm chiếc dép , về Tây. Võ Đế nhớ lạI , lập bia kỷ niệm, khắc
“ Than ôi! Thấy đó , không thấy,
“ gần đó chẳng gần,
“gặp đó chẳng gặp.
“Kim ấy, cổ ấy,
“oán ấy, hận ấy.”
“ Tâm có vậy, nhiều kiếp mang thân phàm phu.”
“ Tâm không vậy , sát na liền lên Diệu Giác”

TỤNG
Thánh Đế khoách nhiên
Hà đương biện đích
ĐốI trẫm giả thùy ?
Hoàn vân bất thức.
Nhân tợ ám độ giang
KhởI miễn sanh kinh cức.
Hạp quốc nhân truy bất tái lai
Thiên cổ, vạn cổ không tương ức.
Hưu tương ức
Thanh phong táp địa hữu hà cực.

NGHĨA
Thánh Đế rỗng tuếch
Làm sao nói trúng?
ĐốI trẫm là ai ?
LạI bảo chẳng biết.
Nhân đây ngầm sang sông
Há khỏI sanh gai góc.
NgườI cả nước mờI chẳng trở về
Muôn đờI, ngàn đờI nhớ nhau rỗng.
Thôi nhớ nhau
Gió mát khắp nơi nào có tột.

Sư xem bên trái, bên phảI , bảo “ Trong đây lạI có Tổ sư chăng?”
Tự đáp “ Có, gọI đến rửa chân cho lão tăng”.

(Các bạn hãy thử nghĩ : Trong đây là trong nào? Có tổ sư hay không ? )

GIẢI TỤNG
Cứ theo lờI tụng công án này của Tuyết Đậu, như ngườI giỏI múa kiếm, múa kiếm Thái A, hươi trong không trung thênh thang mà không chạm đến lưỡI bén. Bình thường câu đầu của tụng chỉ nói “ Nhiễu lộ nói thiền” hay “ cứ khoản kết tộI” . Tuyết Đậu ngay đầu, đã hạ một câu rất kỳ đặc “ Thánh Đế rỗng thênh, làm sao biện trúng ” dù cho mắt sát tròng dò tìm cũng chẳng được. Đã đến trong đây, có thể dùng tình thức tìm được chăng? Không thể.
Do đó Vân Môn nói “ Như chọI đá nháng lửa, như làn điện chớp”. Nếu hiểu là hiểu liền, nếu biết, liền biết.
Tuyết Đậu nói “ Thiền tăng các nơi, các ông làm sao biện trúng?”
VớI câu “ĐốI trẫm là ai?” liền hạ “ LạI bảo chẳng biết” Giữa rỗng thênh và chẳng biết là một hay là hai? Đây là Tuyết Đậu từ bi, vì ngườI trùng lặp Chư phương các nơi đều nói “Tuyết Đậu một phen chỉ lạI việc cũ” nhưng chẳng biết chỉ bốn câu tụng đã tột công án. Hai câu sau :
“ Nhân đây ngầm sang sông
“ Há khỏI sanh gai góc ? ”
Hừ, Tổ Đạt Ma đến xứ này để gỡ niêm mở trói, nhổ đinh tháo chốt, dẹp trừ gai góc, tạI sao lạI nói sanh gai góc? Câu này ngườI đương thờI, ngườI thờI nay chân vẫn còn lún sâu mấy trượng trong vũng bùn thị phi.
Hai câu
“ NgườI cả nước mờI chẳng trở về”
“ Muôn đờI, ngàn đờI nhớ nhau rỗng”
mang đầy tình tưởng, chẳng có trượng phu. Tuy nhiên hãy nói Đạt Ma ở chỗ nào? Nếu thấy Đạt Ma là hiểu liền hai câu rốt sau của Tuyết Đậu
“ Thôi nhớ nhau”
“ Gió mát khắp nơi nào có tột”
Nào có tột, tức là cũng chẳng cùng, cũng tức là vô tận. Chỉ cần thôi nhớ nhau tức thì chẳng còn việc gì phảI làm. Gió mát trăng thanh nơi nơi đầy đủ, tha hồ thụ hưởng, của cảI vô cùng.
Tuyết Đậu sợ ngườI chấp “ở trong ấy” liền lập phương tiện lớn tiếng gọI “ Trong đây có Tổ sư không”. Tự đáp “ có” lạI bảo “ GọI đến rửa chân cho lão tăng” làm giảm tôt uy quang của ngườI.
Sao lạI làm thế?
Là để ngườI đờI sau đừng chấp Phật, chấp pháp mà không dám tự nhận. Chỉ là một cái gì rất đỗI bình thường.
Đến trong đó gộI lừa là phảI hay gọI ngựa là phảI hay gọI Tổ sư là phảI? NgườI đờI sau nói Tuyết Đậu sai sử Tổ sư. Đáng tức cườI, không dính dáng. Hãy nói cứu cánh như thế nào? Chỉ cho lão Hồ biết, không cho lão Hồ hiểu.

Xem bài kệ của Phó ĐạI Sĩ sẽ hiểu tạI sao Tuyết Đậu làm như vậy

Đêm đêm vớI Phật nằm
Sáng sáng cùng đồng dậy
Nói nín một bên mình
Đến, đi đều tạI đấy
Muốn biết Phật ở đâu
Xem trong lờI nói ấy.
(Phó Đại Sĩ )
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 2

TẮC II

CÔNG ÁN :

Triệu Châu dạy chúng :
- Chí đạo không khó, chỉ hiềm chọn lựa, vừa có ngữ ngôn là chọn lựa minh bạch. Lão tăng không ở trong minh bạch, các ngườI lạI tiếc giữ hay chăng?
Có vị tăng hỏI :
- Đã chẳng ở trong minh bạch thì tiếc giữ cái gì?
Triẹu Châu đáp :
- Ta cũng chẳng biết.
Tăng hỏI :
- Hòa thượng đã chẳng biết , vì sao nói chẳng ở trong minh bạch ?
Triệu Châu bảo :
- HỏI việc thì được, lễ bái rồI lui.

GIẢI THÍCH
Trong Tín Tâm Minh của Tam Tổ có nói “ Chí đạo không khó, chỉ hiềm chọn lựa, chớ nên yêu ghét rõ ràng minh bạch”. Nói Chí đạo không khó là không khó đốI vớI ngườI có tâm bình đẳng, không phân nhân ngã. Nếu có chọn lựa thì có yêu ghét rồI, có yêu mớI chọn. mà có yêu ghét là vì có phân biệt mà phân biệt tức là minh bạch.
Từ minh bạch, thấy có đồng dị, hơn kém, cao thấp khác nhau nên sinh tâm yêu ghét, từ yêu ghét mà có chọn lựa, có chọn lựa nên sanh tâm tiếc giữ vì vậy không bình đẳng. Triệu Châu nói “ Lão tăng không ở trong minh bạch, các ngườI có tiếc giữ hay không?” hiển nhiên là trúng lý.
Triệu Châu chẳng ở trong minh bạch vậy thì ở chỗ nào? Sao lạI bảo ngườI tiếc giữ?
Ngũ Tổ (Pháp Diễn) thường nói “ duỗI tay khỏI ông, ông làm sao hiểu?”
Vị tăng hỏI “ đã chẳng ở trong minh bạch, tiếc giữ cái gì?” quả là một câu hỏI kỳ đặc. Nắm được Triệu Châu ở trong không mà tát. (làm khó được Triệu Châu) . Triệu Châu chẳng đánh cũng chẳng hét, chỉ bảo “ Ta cũng chẳng biết”. Nếu chẳng phảI lão này, bị vị tăng tát trúng liền quên trước mất sau, nhờ lão có chỗ chuyển thân tự tạI mớI đáp được như thế. Thiền tăng ngày nay bị hỏI đến cũng đáp “ Ta chẳng biết” . Đây là đồng đường mà khác lốI, đồng lờI mà khác nghĩa.
Vị tăng này quả là kỳ đặc mớI biết hỏI: “ Hòa thượng đã chẳng biết , tạI sao nói chẳng ở trong minh bạch?” Khéo tát một cái nữa, Câu này có 2 nghĩa : - Đã nói chẳng biết sao lạI biết là mình chẳng ở trong minh bạch? Và nghĩa – nếu chẳng biết, sao dám nói mình chẳng ở trong minh bạch? Nếu là kẻ khác thì quên hết đầu đuôi. Triệu Châu là bậc tác gia , chỉ nói với y “ HỏI việc thì được, lễ bái rồI lui”. Vị tăng này không làm gì được lão ấy, chỉ đành nuốt hơi, ngậm miệng. Đây là bậc ĐạI Tông Sư, chẳng cho ông luận huyền, luận diệu, luận cơ, luận cảnh, một bề dùng bổn phận tiếp người. Đâu biết lão này không dùng gậy, hét tiếp ngườI, chỉ dùng ngôn ngữ bình thường mà chẳng ai làm gì được lão. BởI vì lão bình sanh không nhiều tính toán, cho nên nắm ngang, dùng ngược, thuận hạnh, nghịch hạnh đều được đạI tự tạI. NgườI nay chẳng hiểu , nói Triệu Châu không đáp lờI hỏI, chẳng vì ngườI nói. Thế là trước mắt lầm qua.

TỤNG :

Chí đạo vô nan
Ngôn đoan, ngữ đoan
Nhất hữu đa chủng
Nhị vô lưỡng ban
Thiên tế , nhật thượng, nguyệt hạ
Hạm tiền, sơn thâm thủy hàn.

Độc lâu thức tận, hỷ hà lập
Khô mộc long ngâm tỏa vị càn

Nan nan
Giản trạch minh bạch quân tự khan

NGHĨA

Chí đạo không khó
LờI đúng câu đúng
Một có nhiều thứ
Hai không hai ban
Bên trờI, nhật lên, nguyệt xuống
Trước lam , nước lạnh, núi sâu.

Đầu lâu hết thức, hỷ nào lập
Cây khô trổI nhạc, xích chưa cùng

Khó khó
Chọn lựa minh bạch anh tự xem.

GIẢI TỤNG
TạI sao nói Chí đạo không khó, lờI đúng câu đúng. Nói được câu này phảI là ngườI đã đến trong ấy. Tâm không còn bỉ thử, không phân năng sở, chỉ còn là một khốI. Ở nơi đó mỗI mỗI đều tự tại. Thấy núi là núi, thấy nước là nước. Cũng có khi gọI núi mà chẳng phảI núi, gọI là nước mà chẳng phảI nước. Nói phảI cũng đúng mà nói trái cũng đúng, mỗI mỗI đều là đạo, vật vật toàn chân, lờI nào cũng đúng, câu nào cũng đúng. Tâm an nhiên, lặng lẽ, vắng bặt.
Như thế nào là một có nhiều thứ, hai không hai ban? Là từ một cái tinh, minh mà lưu xuất ra nhiều thứ. Mặc dầu lưu xuất ra nhiều thứ chống trái nhau , nào là cao - thấp, ngắn - dài, phảI – trái , trắng – đen v v… nhưng thực ra cũng chẳng phảI hai, vì từ một mà ra. Mặc tình gió thổI – cây động, nước nổI – thuyền lên, xuân sanh, hạ trưởng, thu liễm đông tàng. Mặc tình “ Bên trờI nhật lên nguyệt xuống, trước lam nước lạnh núi sâu. Tâm - cảnh đều quên, như như tự tại.

Khi xưa tăng hỏI Hương Nghiêm :
- Thế nào là đạo?
Hương Nghiêm đáp
- Khô mộc lý long ngâm ( Trong cây khô trổI nhạc )
LạI hỏI
- Thế nào là ngườI trong đạo ?
Nghiêm đáp
- Độc lâu lý nhãn tình (Tròng con mắt trong đầu lâu)
Tăng không hộI, đến Thạch Sương hỏI
- Thế nào là trong cây khô trổI nhạc?
Thạch Sương đáp
- Vẫn còn kẹt hỷ.
Tăng hỏI ;
- Thế nào là tròng con mắt trong đầu lâu ?
Thạch Sương đáp
- Vẫn còn kẹt thức.
Vị tăng này lạI đến Tào Sơn hỏI
- Thế nào là trong cây khô trổI nhạc ?
Tào Sơn đáp
- Huyết mạch chẳng dứt
Tăng hỏI :
- Thế nào là tròng con mắt trong đầu lâu ?
Tào sơn đáp
- Khô chẳng hết.
Tăng hỏI
- NgườI nào được nghe?
Tào Sơn đáp
- Khắp đạI địa mọI ngườI đều nghe.
Tăng hỏI
- Chưa rõ long ngâm là chương cú gì?
Tào Sơn đáp :
- Chẳng biết chương cú gì mà ngườI nghe đều mất mạng.

Hai câu trong bài tụng
Đầu lâu thức hết hỷ nào lập ?
Cây khô trổI nhạc xích chưa cùng ?
Lá ý như thế nào ?

Nếu hết thức rồI thì cũng chăng còn thấy vui.
Nếu còn hỷ thì chưa xong việc.

TỤNG 2

Khô mộc long ngâm chân kiến đạo
Độc lâu vô thức nhãn sơ minh
Hỷ thức tận thờI tiêu tức tận
Đương nhân na biên trọc trung thanh

NGHĨA
Cây khô trổI nhạc thật thấy đạo
Đầu lâu không thức, nhãn vừa minh
Hỷ thức hết rồI tin tức hết
NgườI đờI nào biện đục trong trong
GIẢI
NgườI nào nhìn cây khô mà chợt nhận ra , thì sẽ reo vui vì thấy đạo
NgườI nào luyện tập đến cạn dòng thức rồI thì mớI được mở mắt
Thức và hỷ đã diệt hết rồI mớI xong việc
NgườI đờI nào biện luận gì được việc ấy.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 3

TẮC 3

LỜI DẪN : Một cơ - một cảnh , một lờI – một câu vẫn mong có chỗ vào . Trên da thịt lành khoét thành thương tích, thành hang, thành ổ , đạI dụng hiện tiền chẳng còn phép tắc , lạimong biết có việc hướng thượng. Che trờI , che đất lạI dò tìm chẳng được . Thế ấy cũng được, chẳng thế ấy cũng được, thật nhỏ bé thay. Thế ấy cũng chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được, thật cao lớn thay . Chẳng kẹt hai bên, làm sao mớI phảI? Xin cử xem.

CÔNG ÁN :

Mã Tổ bệnh , viện chủ đến thăm, hỏI
- Gần đây thân thể hòa thượng thế nào ?
Mã Tổ đáp :
- Nhật diện Phật, nguyệt diện Phật.
( Mặt trờI Phật, mặt trăng Phật )

(Nếu dịch thoát ý là ngày thấy Phật, đêm thấy Phật thì không ổn, bởi nguyệt không phảI là đêm, muốn nói ngày , đêm phảI dùng chữ trú, dạ. Còn nếu dịch là ngày thấy Phật, tháng thấy Phật cũng không ổn, vì như vậy cả năm thì không thấy à? Vì vậy theo sát nghĩa phảI để là Mặt trời Phật, mặt trăng Phật).

GIẢI THÍCH :
Mã Tổ bệnh, Viện chủ đến hỏI “ Gần đây thân thể hòa thượng thế nào ?” là ý hỏI đến cái thân xác thịt của Tổ, nhưng Tổ nhân cơ hộI này muốn giáo hóa mọI ngườI mớI trả lờI theo ý Pháp thân. Bậc Tổ sư gặp nhau là theo bổn phận. Công án này nếu ai hiểu thì đất trờI riêng bước, nếu không hiểu thì còn phảI tham học. Bậc Tông sư phảI có thủ đoạn “ Cướp trâu của ngườI cầy, đoạt cơm của kẻ đói” làm bổn phận. Như vậy là ý gì ? Những ngườI đã vào đến trong ấy, thong dong độc bộ, nhưng thực ra vẫn còn chỗ chấp, vì vậy Tổ đoạt cả chỗ sở đắc của họ, làm cho họ mất điểm tựa, như đoạt trâu của ngườI cầy, cướp cơm của ngườI đói . PhảI đến chỗ không còn sở đắc nữa mớI xem như về nhà. Chuyện này không ai học được, chỉ đợI cơ duyên đến, gặp bậc tác gia khai ngộ cho mớI đến mà biết. (chứ chẳng cho hiểu, nếu hiểu liền sai) vì vậy mớI nói “ Con đường hướng thượng, ngàn thánh chẳng truyền”.
Chỉ câu “ Mặt trờI Phật, mặt trăng Phật “ rất khó thấy ý nghĩa. Tuyết Đậu đến đây cũng khó nói, nhưng vì sư thấy thấu, cũng vì ngườI đờI sau mà dụng hết công phu bình sanh chỉ ra bằng bài tụng sau

TỤNG
Nhật diện Phật, nguyệt diện Phật
Ngũ Đế , tam Hoàng thị hà vật ?
Nhị thập niên lai tằng khổ thân
Vị quân kỷ hạ thương long quật

Khuất, kham , thuật
Minh nhã nạp tăng vị khinh hốt.

DỊCH
Mặt trờI Phật, mặt trăng Phật
Ngũ Đế tam Hoàng là vật gì?
Hai mươi năm lạI từng cay đắng
Vì anh bao phen xuống hang rồng.

Cúi, cam, nói
Thiền tăng mắt sáng chớ xem thường.

GIẢI TỤNG
Lơ mơ trong khoảng vô cùng, ngày thấy Phật, đêm cũng thấy Phật, lúc nào cũng thấy Phật, cũng làm Phật, thế thì trờI đất có là cái gì? Thiên hạ là cái gì? Tam Hoàng, Ngũ Đế có là cái gì? Đến được địa vị này , đã phảI trảI qua hai mươi năm đắng cay , hai mươi năm công phu, hai mươi năm nhọc nhằn tẩy rửa cho sạch các thói quen đờI thường của vô vàn kiếp tử sinh trong quá khứ. Tẩy sạch cái kiến chấp, vô minh từ vô thỉ. Trong hai mươi năm cay đắng nhọc nhằn ấy, đã bao phen treo mình trên vách sâu ngàn trượng, bao phen huyền nhai tát thủ, buông tay trên vực thẳm, bao phen xuống hang rồng để cuốI cùng đoạt được viên ngọc ước dướI hàm con ly long, để rồI chết đi mà sống lạI vớI một tâm địa khác, một tầm nhìn khác. Như rồng ra khỏI biển, thoát lên trờI cao, như Kim xí điểu, chim chúa cánh vàng kình vũ trụ.
Thiền tăng dù có mắt sáng trên đảnh, thấy rõ đường lên, tay cầm linh phù, mỗI mỗI đều sáng tỏ, đến trong ấy cũng chớ xem thường, phảI hết sức cẩn thận.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 4

TẮC 4
ĐỨC SƠN MẮC ÁO VẤN ĐÁP

LỜI DẪN
Thanh thiên bạch nhật không được chỉ đông vẽ tây
ThờI tiết nhân duyên cần phảI hợp bênh cho thuốc.
Hãy nói buông đi tốt hay nắm đứng tốt? cứ thử xem.

CÔNG ÁN

ĐỨC Sơn đến Qui Sơn, mắc áo trên pháp đường, từ phía đông đi qua phía tây, rồI từ phía tây đi qua phía đông , nhin xem, nói Không ! Không ! rồI liền đi ra.
Tuyết Đậu trước ngữ : Khám phá xong.
Viên Ngộ : Lầm! quả nhiên! điểm.
Đức Sơn ra đến cửa lạI nói: Cũng không được lôi thôi. Liền mặc áo chàng, đầy đủ oai nghi, trở vào ra mắt .Qui Sơn ngồI yên. Đức Sơn đưa tọa cụ lên nói “ Hòa thượng !“ Qui Sơn toan nắm cây phất tử. Đức Sơn liền hét, phủI áo, đi ra.
Tuyết Đậu trước ngữ ; Khám phá xong.
Viên Ngộ : Lầm! quả nhiên! Điểm.
Đức Sơn xây lưng vào pháp đường, mang giầy cỏ liền đi.
Đến chiều, Qui Sơn hỏI thủ tọa :
- NgườI mớI đến khi nẫy đâu?
Thủ tọa thưa
- Khi đó, ông ấy xoay lưng vào pháp đường, mang giày cỏ đi ra.
Qui Sơn bảo
- Kẻ này về sau đến trên đảnh cô phong, dựng chiếc am cỏ, quở Phật, mắng tổ.
Tuyết Đậu trước ngữ : Trên tuyết thêm sương
Viên Ngộ : Lầm! quả nhiên! Điểm.

GIẢI THÍCH
Giáp Sơn (Viên ngộ) hạ ba chữ điểm, các ông lạI hộI chăng? Có khi đem một cọng cỏ làm báo thân, hoa thân, có khi đem báo, hóa thân làm một cọng cỏ.
Đức Sơn vốn là giảng sư kinh Kim Cang, nghe nói phương nam có thiền đốn ngộ, tức giận nói “ Trong kinh Kim Cang nói : Sau khi được Hậu Đắc Trí còn phảI ngàn kiếp học oai nghi, muôn kiếp học tế hạnh của Phật rồI sau mớI thành Phật, thế mà bọn ma quỉ ở phương nam dám nói CHỈ THẲNG TÂM NGƯỜI, THẤY TÁNH THÀNH PHẬT” Sư tức giận, gánh một gánh sớ sao kinh Kim Cang thẳng đến phương nam để đả phá bọn yêu ma. Trên đường đi Lễ Châu, ông gặp một bà già bán bánh, bèn hỏI mua. Bà già hỏI
- trong gánh đó là cái gì ?
Đức Sơn đáp
- Kinh Kim Cang sớ sao
Bà già nói
- Tôi có một câu hỏI, nếu thầy đáp được, tôi xin cúng dường bánh điểm tâm. Bằng đáp không được, xin thầy đi nơi khác mua
Đức Sơn bằng lòng. Bà già hỏI
- Kinh Kim Cang nói: Tâm quá khứ bất khả đắc, Tâm hiện tạI bất khả đắc, Tâm vị lai bất khả đắc. Thượng tọa muốn điểm tâm nào ?
Đức Sơn không đáp được, bà già chỉ sư đến tham vấn Long Đàm. Sư vừa tớI cửa liền nói
- Nghe danh Long Đàm đã lâu, hôm nay đến, đàm (đầm) cũng chẳng thấy, long cũng chẳng thấy
Long Đàm bước ra nói
- Ông đã gần đến Long Đàm.
Đức Sơn đảnh lễ rồI lui. Một đêm sư vào thất đứng hầu, canh đã khuya, Long Đàm bảo
- Sao chẳng xuống đi?
Đức Sơn bước ra thấy ngoài trờI tốI đen liền quay trở lạI, thưa
- Ngoài trờI tốI đen.
Long Đàm đốt cây đuốc giấy trao cho sư. Đức Sơn vùa cầm. Long Đàm liền thổI tắt. Đức Sơn bỗng nhiên đạI ngộ. Bèn lễ bái. Long Đàm hỏI
- Ông thấy cái gì mà lễ bái?
Đức Sơn thưa :
- Từ nay về sau con không còn nghi lờI nói của chư hòa thượng
Hôm sau Long Đàm thượng đường nói
- Trong đây có kẻ răng như kiếm bén, miệng như chậu máu, đánh một gậy chẳng ngoái đầu, nay đây, mai kia sẽ lên đảnh cô phong dựng lập đạo của ta.
Đức Sơn bèn đem bộ sớ sao kinh Kim Cang ra trước pháp đường, nổI lửa đốt nói
- Đàm huyền luận diệu chỉ như một sợI lông trong hư không. Tột chỗ khôn khéo của ngườI đờI như một giọt nước trong đạI dương.

Sư nghe tiếng Qui Sơn giáo hóa hưng thạnh, liền thẳng đến Qui Sơn. Tác gia sắp gặp nhau, hãy chờ xem. Đến nơi, chiếc bị ông cũng chẳng cởI, thẳng vào pháp đường, đi từ đông qua tây, rồI từ tây qua đông, nhìn xem nói “ không! không!” rồI liền đi ra. Thử hỏI ý ở chỗ nào?

Phật pháp chẳng có nhiều việc. (Do trệ ở hai bên nên mớI sinh ra lắm chuyện) Huyền Sa nói “ Như bóng trăng dướI đầm, Tiếng chuông đêm, đánh, giộng tùy ý mà bóng trăng vẫn không khuyết, Tiếng chuông chạm sóng mà chẳng tan, Tuy chẳng vướng bận nhau, được tự tạI như thế, vẫn còn là việc bên bờ sinh tử”.
LạI nói đến Đức Sơn vào pháp đường đi từ đông qua tây, từ tây qua đông , nhìn ngó , nói không! không là ý hai bên đều không, chẳng còn trệ ở hai bên nữa. PhảI ngườI khác thì đã bị sư bẻ gẫy. Nhưng lão tác gia Qui Sơn kia tỉnh như không, bàng quan ngồI xem thành bại. Như như bất động, chẳng nói, chẳng làm. Nếu chẳng thấu hiểu sao làm được như thế. Vì vậy Tuyết Đậu mớI hạ câu “ Khám phá xong “ là khám phá ai?

Đức Sơn đi ra đến cửa tự nghĩ cũng chẳng được lôi thôi, vô lễ, liền khoác y đàng hoàng, đầy đủ oai nghi trở lạI pháp đường. Gặp Qui Sơn ngồI yên, Đức Sơn đưa tọa cụ lên nói “ Hòa thượng”. Qui Sơn toan nắm lấy cây phất tử thì Đức Sơn liền hét một tiếng, rồI phủI áo đi ra. Thật là kỳ đặc.
Vậy là sao? Ai thắng? Ai bạI?
ĐạI dụng hiện tiền, cả hai cùng thắng.
Tuyết Đậu nói : Khám phá xong
Nhìn thấu ngọn nguồn, như ngườI ngồI xem hai bên chiến đấu.

Từ từ, đến chiều Qui Sơn mớI hỏI thủ tọa
- NgườI mớI đến khi nẫy ở đâu?
Thủ tọa thưa
- Khi ấy ổng xây lưng vào pháp đường , mang giày cỏ đi ra.
Qui Sơn bảo
- Kẻ này về sau lên đảnh ngọn cô phong dựng chiếc am cỏ, quở Phật, mắng Tổ

Qui Sơn thọ ký cho Đức Sơn chăng? Té ra Đức Sơn vẫn chưa qua khỏI Qui Sơn, bị lão thấy thấu hết bình sanh chi tiết.

Tuyết Đậu nói : Trên tuyết thêm sương ( là nói cái mà ai cũng biết. )

TUNG :

Nhất khám phá
Nhị khám phá
Tuyết thượng gia sương tằng hiểm đọa
Phiêu kỵ tướng quân nhập Lỗ đình
Tái đắc hoàn toàn năng kỷ cá
Cấp tẩu quá
Bất phóng quá
Cô phong đảnh thượng thảo lý tọa
Đốt.

DỊCH :

Một khám phá
Hai khám phá
Trên tuyết thêm sương từng hiểm đọa
Phiêu kỵ tướng quân vào Lỗ đình
Về được hoàn toàn hay mấy kẻ
Chạy nhanh qua
Chẳng bỏ qua
Trên đảnh cô phong ngồI trong cỏ
Hét

GIẢI TỤNG :

Hai lầnTuyết Đậu hạ câu khám phá xong, nhưng thực ra chỉ là tuyết thượng gia sương, cái ý còn ẩn, cần phảI làm sáng tỏ.
Phiêu kỵ tướng quân Lý Quảng vốn giỏI bắn cung, xông vào triều đình Lỗ, bị Đơn Vu bắt sống. Quảng bị thương. Quân giặc cột chiếc cáng giữa hai con ngựa để chuyển đi. Lý Quảng nằm trên cáng giả chết, hé mắt nhìn thấy bên cạnh có ngườI Hồ cưỡI con ngựa giỏI. Quảng tung mình nhảy lên, xô té ngườI Hồ, cướp con ngựa, giật cung tên, chạy về nam. Vừa chạy vừa bắn những kẻ đuổI theo, nhờ đó thoát nạn. Nhờ có thủ đoạn, giết ngườI trong nháy mắt, nên trong chết được sống.
Đức Sơn cũng vậy. Lần tái kiến sau cũng như Lý Quảng chui đầu vào triều đình Lỗ. LạI tranh tiên, được phần tiện nghi, không cho Qui Sơn kịp xuất đầu , đã quay lưng đi thẳng. Giống như Lý Quảng dở thủ đoạn, cướp được ngựa chạy về.
BởI vậy Tuyết Đậu nói “ Chạy nhanh qua”
Tuy đã thoát rồI, nhưng Lão Qui Sơn vẫn “ chẳng bỏ qua “. Đến chiều lão hỏI thủ tọa
- NgườI mớI đến khi nãy ở đâu?
Thủ tọa thưa
- Chính khi ấy, xây lưng pháp đường, mang giầy cỏ đi ra
Qui Sơn bảo
- Kẻ này mai sau đến trên đảnh cô phong dựng chiếc am cỏ, quở Phật, mắng Tổ”.
Đâu từng bỏ qua? Quả là kỳ đặc.

Nhưng sao Tuyết Đậu nói “ Trên đảnh cô phong ngồI trong cỏ “ , (một tiếng hét.)
Đó là việc gì?
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 5

TẮC 5

TUYẾT PHONG LÚA GẠO

LỜI DẪN
NgườI phù thụ (ngườI phù giúp, ngườI thụ truyền) tông giáo phảI là ngườI anh linh, vứt bỏ không ngoái lạI, mớI đáng liền đó thành Phật . NgườI như thế, chiếu dụng đồng thờI, lý sự chẳng hai, quyền thật đồng hành. Nhảy qua một mức là dựng lập nghĩa môn thứ hai, liền đó chặt đứt sắn bìm, kẻ hậu học sơ cơ khó mà nương tựa . Hôm qua việc thế ấy là bất đắc dĩ, hôm nay việc lạI thế ấy, tộI lỗI đầy trời. (chẳng chuyển được chút nào)
Nếu là kẻ sáng mắt, một điểm dốI y chẳng được, Nếu chưa được thế, tức nằm ngang trong hang cọp, chẳng khỏI tan thân mất mạng. Thử cử xem.

CÔNG ÁN
Tuyết Phong dạy chúng “ Cả quả đất nắm lạI lớn bằng hạt lúa, hạt gạo ném đến trước mặt , chẳng hiểu, thùng sơn, đánh trống phổ thỉnh xem”.

GiảI thích
Bậc đạt đạo thu phát tự tạI, mở ra thì che trùm trờI đất, thu lạI thì bằng hạt thóc, đầu kim, nay đưa ra trước mặt trình các ông, nếu chẳng hiểu thì chỉ là cái thùng sơn rỗng tuếch, mau đánh trống phổ thỉnh, đi làm việc đi.
Trường Khánh hỏI Vân Môn
- Tuyết Phong nói thế ấy lạI có chỗ xuất đầu chẳng được chăng?
Vân Môn đáp :
- Có
Trường Khánh hỏI
- Làm thế nào?
Vân Môn đáp :
- Không thể làm kiến giảI dã hồ tinh. Tuyết Phong nói trên hai bên thì chẳng đủ, dướI hai bên thì có dư. Nay tôi lạI vì ông làm sắn bìm.
Sư cầm cây gậy đưa lên nói :
- LạI thấy Tuyết Phong chăng? (hét) lệnh vua hơi nghiêm, không cho cướp giật ngườI đi chợ .
ĐạI Qui Triết nói :
- Ta lạI cho các ông trên đất thêm bùn .
Sư cầm cây gậy đưa lên nói :
- Xem! Xem! Tuyết Phong đến trước mặt các ông đi ỉa (hét) Vì sao cứt thúi cũng chẳng biết?

Tuyết Phong dạy chúng “ Cả quả đất nắm lạI lớn bằng hạt lúa, hạt gạo”
Cổ Nhân xưa chẳng ngạI gian lao . Sư ba phen lên Đầu Tử, chín lần đến Động Sơn, mang thùng thông, muỗng gỗ đến nơi làm trưởng trai phạn, cũng chỉ vì thấu thoát việc này.
Khi đến Động Sơn, sư làm trưởng trai phạn. Một hôm Động Sơn hỏI
- Làm gì ?
Tuyết Phong đáp
- Đãi gạo .
- Đãi cát bỏ gạo hay đãi gạo bỏ cát?
- Cát, gạo đồng thờI bỏ.
- ĐạI chúng lấy gì ăn?
Tuyết Phong liền úp chậu. Động Sơn bảo
- Duyên ngươi ở Đức Sơn.
Liền chỉ đường đến yết kiến . Vừa tớI Đức Sơn , Tuyết Phong hỏI :
- Việc trong tông thừa từ trước, con lạI có phần chăng?
Đức Sơn đánh một gậy hỏI
- Nói cái gì?
Nhân đây Tuyết Phong có tỉnh. Sau ở Ngao Sơn, trờI trở tuyết. Sư nói vớI Nham Đầu
- Tôi khi ở Đức Sơn, ngay lúc ăn một gậy, như thùng lủng đáy.
Nham Đầu quát, bảo ;
- Ông chẳng thấy nói “ Từ cửa vào chẳng phảI của báu trong nhà” Nên từ trong hông ngực mình lưu xuất che trờI che đất mớI có ít phần tương ưng sao?
Tuyết Phong bỗng nhiên đạI ngộ, lễ bái nói
- Sư huynh! Ngày nay thành đạo ở Ngao Sơn.
( bỏ một đoạn)
Một hôm sư bảo chúng
- Núi Nam có con rắn to, tất cả các ông cần phảI khéo xem!
Lăng Đạo Giả đứng dậy nói
- Thế thì trong nhà hôm nay ắc có ngườI táng thân mất mạng .
Sư nói
- Cả quả đất là con mắt của sa-môn, các ông đi ỉa chỗ nào?
(nơi nơi đều sáng trưng, đừng nói bậy)
Sư lạI nói
- Nhà Vọng Châu cùng các ông thấy nhau rồI! Núi Ô Thạch cùng các ông thấy nhau rồI! Trước tăng đường cùng ông thấy nhau rồi.

TS Bảo Phước hỏI TS Nga Hồ :
- Trước tăng đường hãy gác lạI. Thế nào là nhà Vọng Châu, núi Ô Thạch thấy nhau?
Nga Hồ đi nhanh về phương trượng.
(cả quả đất là một con mắt, sao lạI không thấy nhau?)

Sư (Tuyết Phong) thường cử những lờI này dạy chúng như nói “Cả quả đất nắm lạI lớn bằng hạt lúa, hạt gạo” Đây là lúc chẳng thể dùng tình thức mà hiểu thấu được. PhảI vứt bỏ tất cả, được - mất, phảI - quấy v v… đồng thờI buông sạch, thong dong tự tạI mớI thấy được chỗ dụng của Tuyết Phong. Hãy nói Tuyết Phong ý tạI chỗ nào? Nếu khởI tình giảI tức không dính dáng. Phàm ngườI đến trong ấy phảI là kẻ chân thật, vừa nghe cử ra liền thấu tột xương tủy chẳng rơi vào tình tư ý tưởng.

Tuyết Đậu làm bài tụng

TỤNG

Ngưu đầu một
Mã đầu hồI
Tào Khê cảnh lý tuyệt trần ai
Đả cổ khán lai quân bất kiến
Bách hoa xuân chí vị thùy khai?

DỊCH

Đầu trâu mất
Đầu ngựa về
Trong vắt Tào Khê gương chẳng nhơ
Đánh trống đến xem anh chẳng thấy
Trăm hoa xuân đến nở vì ai?

GIẢI TỤNG
Đầu trâu mất, đầu ngựa về . Thử nói luận về việc gì? Nếu thấy được thì như sáng ăn cháo, trưa ăn cơm, chỉ là chuyện tầm thường. Chỉ là quá ư cao vót, như chọI đá nháng lửa, dường làn điện chớp, không có chỗ cho ý thức bám tay.
Câu ba chỉ ra tông phong , môn qui thiền tông
Câu bốn “ vua đăng bửu điện, dã lão âu ca, (mà kẻ mê chẳng thấy)
Câu năm tự do tự tạI, mà vẫn đầy đủ bổn phận.
Khi xuân đến, nơi hang sâu khe vắng, chỗ không ngườI, trăm hoa vẫn đua nở. Anh nói hoa nở vì ai?
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 6

TẮC 6

VÂN MÔN: MỖI NGÀY ĐỀU LÀ NGÀY TỐT

CÔNG ÁN
Vân Môn dạy: ngày mườI lăm về trước chẳng hỏI ông, Ngày mườI lăm về sau nói một câu xem? Sư tự đáp thế : “MỗI ngày đều là ngày tốt”.

GIẢI THÍCH
Vân Môn ban đầu tham vấn Mục Châu , Mục Châu đốI đáp, xoay nhanh như điện chớp, thật khó nắm bắt. Sư bình thường tiếp ngườI, vừa vào cửa liền bị sư nắm đứng bảo “ Nói! Nói!” vừa khởI suy nghĩ liền bị sư xô ra , nói “ Cây dùi cùn đờI Tần”. Vân Môn yết kiến đến ba phen. MớI gõ cửa, Mục Châu hỏI “ Ai?” Vân Môn thưa “ Văn Yển “. Vừa mở cửa sư liền chạy ùa vào. Mục Châu nắm đứng bảo “Nói! Nói!”. Vân Môn suy nghĩ liền bị xô ra. Một chân còn trong ngạch cửa, bị Mục Châu đóng ập cửa lạI, nghiền nát bàn chân Vân Môn. Vân Môn đau quá , la to, bỗng nhiên đạI ngộ. Vân Môn ở nhà thượng thơ Trần Tháo ba năm (chăn trâu), Mục Châu chỉ đến hộI Tuyết Phong. Đến nơi , sư ra trước chúng hỏI “ Thế nào là Phật?” Tuyết Phong bảo “ Chớ nói mớ!”. Vân Môn lễ bái, ở lạI ba năm (chăn trâu). Một hôm Tuyết Phong hỏI :” Chỗ thấy của con thế nào ?” Vân Môn thưa “ Chỗ thấy của con cùng chư thánh không đổI dờI một sợI tóc, mẩy tơ “.
Thiền sư Linh Thọ hai mươi năm không mờI ai giữ chức thủ tọa. Thỉnh thoảng ngài nói : Thủ tọa của ta sanh, lạI nói thủ tọa của ta chăn trâu, lạI nói thủ tọa của ta hành cước. Bỗng một hôm đánh chuông, sai chúng ra trước tam quan đón thủ tọa. Quả thật Vân Môn đến, liền thỉnh vào liêu thủ tọa nghỉ ngơi. ThờI ấy goi thiền sư Linh Thọ là Thiền sư tri thánh, bởI dự biết trước việc quá khứ, vị lai. Một lần Quảng chúa là Lưu Vương sắp cử binh, đích thân đến viện thỉnh sư quyết định tốt xấu. Linh Thọ biết trước vui vẻ ngồI tịch. Quảng chúa tức giận hỏI thị giả:
- Hòa thượng bệnh lúc nào?
Thị giả đáp:
- Thầy không hề có bịnh, có để lạI một phong thơ bảo Hầu Vương đến thì trao.
Quảng chúa mở bì thấy có một tấm thiếp viết “ Con mắt của trờI, ngườI là thủ tọa trong chùa”. Quảng chúa hiểu ý, dừng binh, thỉnh Vân Môn xuất thế trụ Linh Thọ (Về sau sư mớI trụ Vân Môn ). Sư khai đường thuyết pháp, có Cúc thường thị đến hỏI :
- Trái Linh Thọ chín chưa?
Sư đáp :
- Trong năm nào được tin nó sống.
Sau Lưu Vương phong thụy Linh Thọ là Tri Thánh Thiền Sư. Linh Thọ đờI đờI chẳng mất thần thông, Vân Môn có ba đờI làm vua nên mất thần thông.
(bỏ một bài kệ)
Về sau sư trụ trì Vân Môn, bình thường thuyết pháp thích nói thiền ba chữ : Cố, Giám, Di. LạI nói thiền một chữ. Có vị tăng đến hỏI
- Giết cha, giết mẹ đến trước Phật sám hốI, giết Phật, giết Tổ đến chỗ nào sám hốI?
Vân Môn đáp :
- Lộ (bày )
LạI hỏI:
- Thế nào là chánh pháp nhãn tạng?
Vân Môn đáp :
- Phổ ( khắp )
Quả là không cho nghĩ nghị. LạI nói
- Nếu hạ một câu, giống hệt cây cọc sắt.
Về sau từ sư xuất phát bốn vị hiền triết: Động Sơn Sơ, Trí Môn Khoan, Đức Sơn Mật, Hương Lâm Viễn đều là bậc đạI tông sư. Hương Lâm làm thị giả mườI tám năm. Khi tiếp ông, sư chỉ gọI
- Thị giả Viễn.
Viễn đáp :
- Dạ !
Sư nói :
- Là cái gì?
Như thế mườI tám năm, một hôm Viễn đạI ngộ. Vân Môn nói
- Từ nay về sau ta không còn kêu ngươi nữa.
Vân Môn bình thường tiếp ngườI hay dùng thủ đoạn của Mục Châu. Thật là khó bề gá nương, có lốI rèn luyện tháo chốt, nhổ đinh. Tuyết Đậu nói
- Tôi mến Thiều Dương ( Vân Môn) cơ phong mớI định, một đờI vì ngườI nhổ đinh, tháo chốt.
x
x x
Sư hỏI chúng “ Ngày mườI lăm về trước chẳng hỏI, ngày mườI lăm về sau , nói một câu xem” RồI sư tự trả lờI “ MỗI ngày đều là ngày tốt”.

Sao không nói ngày mườI hai, mườI ba, hôm kia, hôm qua mà nói ngày mườI lăm về trước? Nói như thế thì đánh đồng mọI ngày trong quá khứ rồI ư?
Cũng vậy, sao không nói ngày mườI sáu, mườI bảy hay ngày mai, ngày kia, mà nói ngày mườI lăm về sau? Như vậy là đánh đồng mọI ngày trong tương lai rồI ư?
Cùng một câu hỏI, dứt cả quá khứ và tương lai. Nhưng câu trả lờI còn kỳ đặc hơn nữa: “ Ngày nào cũng là ngày tốt” . Câu này thông suốt ba thời. Chẳng còn quá khứ, hiện tạI tương lai gì ráo. Ngày nào cũng như nhau thôi.
NgườI đến trong ấy, đạI dụng hiện tiền, không quá khứ , không tương lai, lúc nào cũng chỉ là hiện tại.

TỤNG
Khứ khước nhất
Niêm đắc thất
Thượng hạ tứ duy vô đẳng thất
Từ hành đạp đoạn lưu thủy thanh
Túng quan tả xuất phi cầm tích
Thảo nhung nhung
Yên mịch mịch
Không Sanh nham bạn hoa lang tịch
Đờn chỉ kham bi Thuấn Nhã Đa
Mạc động trước
Động trước tam thập bổng.

DỊCH
Bỏ đi một
Nắm được bảy
Trên dướI, bốn phương không đồng bậc
Từng bước dứt hẳn tiếng suối reo
Nhìn xem vẽ ra dấu chim bay
Cỏ xanh rì
Khói trắng bạc
Không Sanh (Tu Bồ Đề) bạn đá hoa rơi lặng
Búng tay làm buồn Thuấn Nhã Đa (mất đầu)
Chớ động đến
Động đến ăn ba mươi gậy.

GIẢI TỤNG
TạI sao nói “ Bỏ đi một, nắm được bảy ?” bỏ cái gì? Nắm cái gì?
Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật hỏI chư Bồ-Tát về các pháp môn tu. Lần lượt nhiều vị mô tả kinh nghiệm tu chứng của mình. Trong đó Bồ-Tát Quán Thế Âm nói về pháp quán âm thanh, và Bồ-Tát …….nói về pháp quán sắc tướng. ĐạI phàm, trong mườI tám giớI, hành giả chọn một giớI thích hợp để tu. Nếu đã bỏ được hết, tu đã tột, thờI sẽ được Tam Thân, Tứ Trí, thành Phật.
Thí dụ Phép tu Viên thông của Bồ-Tát Quán Thế Âm

PHÁP TU QUÁN ÂM.

1/ Sơ văn trung,nhập lưu vong sở.-Sở nhập ký tịch
GIẢI:NGHE RỒI BỎ.-TÂM KHÔNG CHẤP MẮC.

2/.. Động tỉnh nhị tướng liễu nhiên bất sanh.
GIẢI: ĐỘNG- TỈNH HAI TƯỚNG,KHÔNG CHO KHỞI SANH.-CHẤP NIỆM.

3/.Như thị tiệm văn.-Văn-Sở Văn, tận.Tận văn bất trụ.
GIẢI:NĂNG VĂN VÀ SỞ VĂN CÙNG BUÔNG BỎ.

4/.Giác ,sở giác không.Không giác tịch nhiên.
GIẢI:SAU ĐÓ CÒN TÁNH GIÁC (VĂN)V À ĐỐI TƯỢNG GIÁC (V ĂN NH Ư) ĐIỀU GIẢI KHÔNG.

5/.Không ,sở không diệt.
NGH ỈA:CÁI KH ÔNG(NĂNG CH ẤP),VÀ (SỞ KHÔNG ĐỂ GỞI GẤM TÂM TRÍ VÀO KHÔNG) ĐỀU HÓA GIẢI HẾT(DIỆT).

6/.Sanh diệt ký diệt ,tịch diệt hiện tiền.
NGH ỈA:KỂ CẢ Ý NIỆM DIỆT TRỪ (KHÔNG) CŨNG DIỆT LUÔN.

*LÚC ĐÓ: T ỊCH DIỆT HIỆN TIỀN

Hai câu dướI cũng nói về các pháp tu này
“Từng bước đoạn dứt tiếng suốI reo” nói về pháp tu Quán Âm Viên Thông
“ Nhìn xem vẽ được dấu chim bay” nói về phép quán sắc tướng .

Ba câu đầu :
“Bỏ đi một “
“Nắm được bảy”
“Trên dướI, bốn phương không đồng bậc”

Từ phép tu dứt bỏ đó mà được đạo, đến trong ấy, trên không thấy Phật, dướI không thấy chúng sinh, Ngoài không cảnh tượng, trong không tri giác. Giống hệt ngườI chết. Chết đi rồI sống lạI, cao thấp, ngắn dài, tốt xấu nhồI thành một khốI , không thấy có gì khác cả. Nhưng sum la vạn tượng vẫn rõ ràng. Trên dướI bốn bên không đồng bậc mà vẫn không có cách biệt.
Vì thế nói
TỤNG

Vạn tượng chi trung độc lộ thân
Duy nhân tự khẳng nãi phương thân
Tích niên mậu hướng đồ trung mích
Kim nhật khán lai hỏa lý băng.

Dịch
Ở trong vạn tượng riêng bày thân
Chỉ ngườI tự nhận mớI là gần
Măm xưa lầm ngắm trên đường kiếm
Nay mớI nhìn ra lò lửa băng.

Hai câu :
“ Không Sanh trong núi hoa rơi loạn”
“Búng tay làm buồn Thuấn Nhã Đa”

Đâu chẳng thấy tôn giả Tu Bồ Đề ngồI yên trong núi, chư thiên mưa hoa tán thán. Tôn giả hỏI
- Trong không mưa hoa tán thán là ngườI nào?
Chư thiên thưa :
- Tôi là thiên Đế Thích
- TạI sao ông tán thán?
- Tôi tán thán tôn giả nói Bát-Nhã Ba-La-Mật hay.
- Tôi đốI vớI Bát-Nhã chưa từng nói một chữ, sao ông tán thán.
- Tôn giả không nói, tôi không nghe. Không nói không nghe là chân Bát-Nhã.
RồI Thiên Đế Thích lạI mưa hoa khắp đất.
Việc này Tuyết Đậu làm bài tụng:

TỤNG
Vũ quá, vân ngưng hiểu bán khai
Sổ phong như họa bích thôi ngôi
Không Sanh bất giảI, nham trung tọa
Nhạ đắc thiên hoa động địa lai

DỊCH
Mưa tạnh, mây ngừng sáng vừa hửng
Vẽ ra mấy ngọn núi chập chùng
Không Sanh chẳng biết, ngồI trong núi
Liền được thiên hoa tán khắp nơi .

Câu “ Búng tay làm buồn Thuấn Nhã Đa” . Câu này và câu trên có liên quan.
Thuấn Nhã Đa là thần hư không, lấy hư không làm thể nên vô hình. Một bữa Thuấn Nhã Đa soi gương không thấy đầu, hốt hoảng liền chạy khắp nơi tìm kiếm. Sau được hào quang Phật chiếu soi mớI hiện được thân.

Hai câu này nói : Nếu được như Tu Bồ Đề, ngồI quán không được hoa trờI rơi loạn, thân như hư không, không xúc chạm. Chính lúc đó thấu hết, biết hết nhưng không một ý gợn, không một niệm khởi , giống như người ngủ say.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 7

TẮC 7

HUỆ SIÊU HỎI PHẬT

LỜI DẪN :
Một câu trước tiếng ngàn thánh chẳng truyền , chưa từng thân cận như cách đạI thiên. Giả sử nhằm trước tiếng mà biện được, bịt được miệng mọI ngườI trong thiên hạ cũng chưa phảI là ngườI kiến tánh. Do đó nói : trờI không thể che, đất không thể chở, hư không không chỗ dung, nhật nguyệt không thể chiếu . Chỗ không Phật riêng xưng tôn mớI sánh được đôi phần. Nếu chưa được như thế thì phảI ở trên đầu sợI lông thấu được, phóng đạI quang minh, bảy dọc, tám ngang , đốI pháp tự tạI tự do, nắm lạI đưa ra cái nào cũng phảI. Hãy nói được cái gì mà kỳ đặc như thế? LạI hỏI đạI chúng hộI chăng khổ thân từ trước không ai biết , chỉ cốt bàn về việc đạI công. Việc hiện nay hãy gác lạI, công án Tuyết Đậu lạI thế nào? Xem lấy văn sau.

CÔNG ÁN :
Có vị tăng hỏI Pháp Nhãn :
- Huệ Siêu xin hỏI hòa thượng thế nào là Phật ?
Pháp Nhãn đáp
- Ông là Huệ Siêu.

GIẢI THÍCH :
Pháp Nhãn cơ phong : đồng thờI thốt trác ( như gà mẹ nghe tiếng, bèn mổ vỏ trứng cho con chui ra) mớI có lờI đáp như thế. Có thể nói siêu sắc, vượt thanh được đạI tự tạI, nắm buông cùng lúc, sống chết tạI ta, thật là kỳ đặc. Hãy nói công án này nên hiểu thế nào? Các nơi tình giảI hoặc nói “ Huệ Siêu chính là Phật “, hoặc nói “ như ngườI cưỡI trâu đi tìm trâu”. Nếu hiểu như thế là cô phụ cổ nhân, chôn vùi chính mình không dính dáng gì đến lờI giải. PhảI biết rằng các tổ thường chỉ thẳng mà mình thì thường không nhận ra. Hãy tưởng tượng chính mình là Huệ Siêu đến hỏI Pháp Nhãn
“ Thế nào là Phật?” và nhận được lờI đáp “ Ông là Huệ Siêu” . Đây là một câu có hai nghĩa, “ Thế nào là Phật, ông là Huệ Siêu” có nghĩa “ Thế nào mớI là Phật, còn ông thì là Huệ Siêu” tức nhiên Huệ Siêu không phảI Phật, đây là câu phủ nhận. Nhưng cũng trong câu hỏI đó và câu trả lờI đó, ta nhận được một đáp án khác. “ Thế nào là Phật? Ông là Huệ Siêu” Thử nghĩ xem Huệ Siêu thấy thế nào trước câu trả lờI đó ? Thật là sửng sốt , chẳng hiểu gì cả. Chính cái tâm sửng sốt, và không hiểu ấy là lờI giảI đáp.
Tổ đã chỉ rất trực tiếp
- Thế nào là Phật ?
- Hả ? ? ?………….
Đó, chính nó. Vì vậy, câu trả lờI này nằm ngoài thanh sắc, buông bắt đồng thờI, vừa phủ nhận, vừa chỉ thẳng. Thật là kỳ đặc. PhảI là ngườI đạI tự tạI mớI có câu trả lờI như thế.

Cơ phong Pháp Nhãn gọI là “ Tiễn phong tương trú ” nghĩa là hai mũi tên nhọn đốI đầu nhau, hoặc là trúng đỉnh, hoặc là trớt quớt, không có gần trúng. Hoặc là biết chính xác ngay, hoặc không biết. Không cho tình giảI có chỗ len chân.
Trong HộI của ngài có giám viện Tắc, đã từng đi tham vấn các nơi, nên không thấy thưa thỉnh, nhập thất. Một hôm Pháp Nhãn hỏI :
- Giám viện Tắc sao chẳng vào thất?
Tắc thưa :
- Con ở Thanh Lâm đã chỗ thâm nhập.
Pháp Nhãn bảo:
- Ông thử cử lạI xem.
Tắc thưa
- Con hỏI thế nào là Phật? Thanh Lâm đáp : Đồng Tử Bính Đinh đi xin lửa.
Pháp Nhãn bảo
- trả lờI khéo lắm, nhưng ngạI ông hiểu lầm, ông thử giảI xem.
Tắc thưa
- Bính Đinh là thần lửa lạI đi xin lửa, cũng như con vốn là Phật lạI đi tìm Phật.
Pháp Nhãn bảo
- Giám viện quả nhiên hiểu lầm.
Tắc nổI xung liền bỏ đi. Pháp Nhãn nói :
- NgườI này nếu trở lạI có thể cứu, nếu không trở lạI thì không thể cứu.
Tắc đi đến giữa đường tự nghĩ “ NgườI này là Thiện Tri Thức của 500 chúng, há lạI gạt ta sao?” bèn trở lạI tái tham vấn. Pháp Nhãn bảo
- Ông hãy hỏI, ta sẽ vì ông mà đáp.
Tắc hỏI
- Thế nào là Phật ?
Pháp Nhãn đáp
- Đồng tử Bính Đinh đi xin lửa.
Tắc liền đạI ngộ.
Thử hỏI lờI đáp sau vớI lờI đáp trước là đồng , là khác? Giám viện Tắc trong hai lần hộI có giống nhau chăng?

Quốc sư Thiều theo Sơ Sơn đã lâu, tự cho đã được yếu chỉ . lãnh chúng đi hành cước, đến trong hộI Pháp Nhãn sư chẳng vào thất, chỉ bảo đồ đệ theo chúng vào thất. Một hôm Pháp Nhãn đăng tòa, có vị tăng hỏI
- Thế nào là một giọt nước nguồn Tào?
Pháp Nhãn đáp :
- Là một giọt nước nguồn Tào.
Vị tăng chẳng hộI, nhưng Thiều ở trong đạI chúng nghe câu này bỗng nhiên đạI ngộ (sau này sư nốI pháp Pháp Nhãn). Sư làm bài tụng trình

TỤNG :
Thông huyền phong đảnh
Bất thị nhân gian
Tâm ngoạI vô pháp
Mãn mục thanh san.

DỊCH
Thông huyền chót núi
Chẳng phảI nhân gian
Ngoài tâm không pháp
Đầy mắt núi xanh.

Pháp Nhãn ấn khả nói
- Chỉ một bài kệ này đáng thừa kế tông ta, sau ngươi được bậc vương hầu kính trọng, ta chẳng bằng ngươi.

Xem công án của Pháp Nhãn, ngườI nào hộI ngay đó liền hộI, như lửa nháng, điện chớp. NgườI nào không hộI, thì còn tìm tòi,lục lọI trong đám văn tự, toan dùng tình thức kiến giải. Tuyết Đậu là bậc tác gia, trong công án trên, Tuyết Đậu nắm được chìa khóa của công án và chỗ rơi của Huệ Siêu. nên ngạI ngườI sau nhằm trên ngôn cú mà hộI giảI mờI làm bài tụng này.


TỤNG
Giang quốc xuân phong suy bất khởI
Chá cô đề tạI thâm hoa lý
Tam cấp lãng cao ngư hóa long
Si nhân du hố dạ Đường thủy.

DỊCH
Giang quốc gió xuân thổI chẳng ngừng ( có ngừng mớI khởI)
Chim chá cô hót trong đám hoa rậm
Vượt ba cấp sóng, cá hóa rồng
Kẻ ngu đêm còn tìm trong mương nước

Ngọn gió lành Phật pháp thổI trên Giang Tây, Giang Nam. NgườI ngườI nói pháp, nhà nhà học Phật, như chim chá cô hót líu lo, Giang quốc như vườn hoa,trăm hoa đua nở. Pháp tràng các nơi như Võ môn Tam cấp để khảo thí những thí sinh học Phật. Công án như những đề thi mà các tổ đưa ra cho các thí sinh. Ai hộI được thì ngay đó biến thành rồng, vượt ra khỏI đờI thường mà biến mất vào thanh sơn, tự viện. Còn đám ngườI mê muộI thì vẫn còn tìm tòi lục lọI trong chương cú, kinh sách.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 8

TẮC 8

LÔNG MÀY THÚY NHAM

LỜI DẪN :
Nếu hội thì trên đường thọ dụng, như rồng được nước, cọp tựa núi. Chẳng hộI thì thế đế lưu bố, dê đực chạm rào, ôm cây đợI thỏ.
Có khi một câu như sư tử ngồI xổm , có khi một câu như bảo kiếm Kim Cang Vương , có khi một câu cắt đầu lưỡI ngườI trong thiên hạ, có khi một câu theo mòi đuổI sóng.
Nếu là trên đường thọ dụng thì gặp tri âm, biện cơ nghi, biết lỗI lầm, cùng nhau chứng minh. Nếu là thế đế lưu bố , đủ một con mắt , khả dĩ ngồI dứt mườI phương , vách đứng ngàn nhẫn.
Vì thế nói đạI dụng hiện tiền chẳng còn phép tắc. Có khi đem một cọng cỏ làm thân vàng trượng sáu, có khi đem thân vàng trượng sáu làm một cọng cỏ.
Hãy nói bằng vào đạo lý nào? LạI biết rõ chăng? Thử cử xem.

CÔNG ÁN :
Thúy Nham cuốI hạ dạy chúng :
- Từ đầu hạ tớI nay, vì huynh đệ thuyết thoạI , xem Thúy Nham lông mày còn chăng?
Bảo Phước nói :
- Làm cướp biết cướp.
Trường Khánh nói:
- Sanh vậy.
Vân Môn nói :
- Quan.
GIẢI THÍCH
Cổ nhân có sớm tham chiều thỉnh . Thúy Nham đến cuốI hạ lạI dạy chúng thế ấy, quả là cao vót, rung trờI, động đất. Cả Đại Tạng Kinh 5048 quyển chẳng khỏI nói tâm nói tánh, nói đốn nói tiệm, lạI có nói thế này chăng? Hàng nhất đẳng là đúng thờI tiết. Thúy Nham thật là kỳ đặc, Sư nói thế thử hỏI ý rơi tạI chỗ nào? Đa số ngườI hiểu lầm nói “ Thúy Nham cuốI hạ, tự nói lỗI trước để khỏI bị ngườI kiểm điểm”. Thật đáng tức cườI, không dính dáng gì ở đây. Nhiều đờI tông sư mở hộI, nếu chẳng dạy bảo cho người được lợI ích thì làm cái gì?
Đến được trong ấy, nhìn được thấu mớI biết cổ nhân có cái thuật “ Đoạt trâu của ngườI cày, cướp cơm của ngườI đói”. NgườI trong thất (tác gia) tự nhiên biết chỗ đi của họ, Thiên biến vạn hóa, khó khăn gút mắc rõ ràng có con đường xuất thân , mớI hay vì ngườI đốI đáp như thế. Lời nói này nếu không thù đặc thì ba vị Bảo Phước, Trường Khánh, Vân Môn đua nhau thù xướng làm gì?
Bảo Phước nói : làm cướp biết cướp. Thử nói ý Bảo Phước thế nào? TốI kỵ nhắm trong câu tìm cổ nhân. Nếu ông sanh tình khởI niệm thì móc tròng con mắt ông. Đâu biết Bảo Phước hạ một chuyển ngữ là chặt đứt gót chân Thúy Nham.
Trường Khánh nói : Sanh vậy. Nhiều ngườI bảo Trường Khánh theo gót Thúy Nham vì thế nói “sanh vậy”, vẫn không dính dáng, không biết Trường Khánh tự xuất kiến giảI của mình. MỗI ngườI một chỗ xuất thân, là hàng tác gia, cây bảo kiếm Kim Cang Vương trước mặt thẳng đó liền dùng. Nếu ngườI đập tan kiến giảI tầm thường, chặt đứt mọI được mất, phảI quấy mớI thấy chỗ thù xướng của Trường Khánh.
Vân Môn nói “ Quan “ quả là kỳ đặc, song khó tham cứu. ĐạI sư Vân Môn phần nhiều dùng “ Nhất tự Thiền” dạy người. Tuy một chữ song phảI đủ ba câu. Cổ nhân tuy nói thế nhưng ý quyết không ở trong ấy. Đã không ở trong ấy, hãy nói ở chỗ nào?
Tuyết Đậu làm bài tụng sau

TỤNG
Thúy Nham thị đồ
Thiên cổ vô đốI
Quan tự tương thù
Thất tiền tao tộI
Lảo đảo Bảo Phước
Ức , dương nan đắc
Lao lao Thúy Nham
Phân minh thi tặc
Bạch khuê vô điểm
Thùy biện chân giả
Trường Khánh tương am
Mi mao sanh dã

DỊCH
Thúy Nham dạy chúng
Ngàn xưa không đốI
Chữ quan đáp nhau
Mất tiền tạo tộI
Bảo Phước gian nan
Đè nâng khó được
Thúy Nham nói nhiều
Rõ ràng là cướp
Bạch khuê không tỳ (vết)
Ai biện chân giả
Trường Khánh hiểu nhau
Lông mày sanh vậy.

GIẢI TỤNG
Tuyết Đậu nếu chẳng tụng ra cho ngườI thấy thì đâu được gọI là Thiện Tri Thức. Cổ nhân mỗI việc đều là bất đắc dĩ phảI làm. Kẻ hậu học chỉ bám vào ngôn cú mà sanh tình giảI do đó chẳng thấy được ý chỉ cổ nhân.
Tuyết Đậu nói “ ngàn xưa không đốI “ là nói xem lông mày Thúy Nham có còn không. Chỗ nào kỳ đặc mà ngàn xưa không đốI? PhảI biết cổ nhân nhả một lờI, nửa câu chẳng phảI tầm thường, cần có con mắt định càn khôn mớI được. Tuyết Đậu đặt một lờI, nửa câu như bảo kiếm Kim Cang Vương , như sư tử ngồI xổm, như chọI đá nháng lửa, như làn điện chớp. Nếu chẳng phảI là ngườI đủ con mắt ở đảnh môn thì không thể thấy chỗ rơi của cổ nhân .
LờI dạy chúng này hẳn là ngàn xưa không đốI, còn hơn gậy của Đức Sơn, hét của Lâm Tế. Thử nói Tuyết Đậu vì ngườI, ý tạI chỗ nào? Ông làm sao hiểu Tuyết Đậu nói “ngàn xưa không đốI” ?
“Chữ quan đáp nhau, mất tiền tạo tộI” ý này thế nào? Dù có con mắt thấu cửa quan, đến trong ấy cũng phảI chín chắn mớI được. Hãy nói Thúy Nham, Tuyết Đậu, Vân Môn ai mất tiền tạo tộI? Nếu ông thấu được, công nhận ông có con mắt
“Bảo Phước gian nan, đè nâng khó được” là đè chính mình, nâng cổ nhân. Bảo Phước chỗ nào đè, chỗ nào nâng ?
“ Thúy Nham nói nhiều, rõ ràng là cướp”, hãy nói sư cướp cái gì mà Tuyết Đậu nói là cướp? TốI kỵ theo ngữ mạch của ngườI chuyển, đến trong đây phảI tự giữ tiết tháo mớI được.
“Bạch khuê không tỳ “ là tụng Thúy Nham giống như bạch khuê, không chút tỳ vết. “ Ai biện chân giả?” Có thể nói ít có ngườI biện được.
Tuyết Đậu đạI tài, từ đầu đến cuốI quán xuyến hết, rốt sau mớI nói “ Trường Khánh hiểu nhau, lông mày sanh vậy”. Hãy nói sanh ở chỗ nào? Để mắt xem gấp.

GHI CHÚ
Có truyền thuyết rằng : Thiến sư nào mà giảng sai Phật pháp thì sẽ bị rụng hết lông mày. BởI vậy, cuốI hạ, gần hết khóa học, thiền sư Thúy Nham mới nói “ xem Thúy Nham còn lông mày không ”.
Những ai đến vớI các thiền sư để tu học, cuốI cùng khi ra đi đều vớI cái tâm trống rỗng, đầu óc nhẹ tênh, họ đã bị các thiền sư lột sạch tất cả các tình giảI, kiến chấp và mọI thứ ở trong tâm. Vì vậy Bảo Phước mớI bảo Thúy Nham rằng : làm cướp , mà cướp này biết cướp đấy, cướp sạch sẽ chẳng còn gì cả.
Trường Khánh nói : Sanh vậy, là nghĩa gì ?
Vân Môn nói : Quan. Quan là xem , nghĩa là chỉ ngồI xem không mà thôi, đúng là phí công vô ích, cho nên Tuyết Đậu bảo “ Mất tiền tạo tộI”.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 9

TẮC 9

TRIỆU CHÂU BỐN CỬA

LỜI DẪN :
Gương sáng trên đài, đẹp xấu tự phân. Kiếm Mạt Da trong tay, sống chết tùy thời. Hán đi Hồ lạI, Hồ lạI Hán đi. Trong sống được chết, trong chết được sống. Thử nói : đến trong ấy lạI làm thế nào? Nếu không có con mắt thấu quan làm chỗ chuyển thân, đến trong ấy hẳn là không làm gì được. Hãy nói thế nào là con mắt thấu quan làm chõ chuyển thân? Thử cử xem.

CÔNG ÁN
Tăng hỏI Triệu Châu:
- Thế nào là Triệu Châu?
Triệu Châu đáp
- Cửa Đông, cửa Tây, cửa Nam, cửa Bắc.

GIẢI THÍCH
Phàm kẻ hỏI đạo để xét rõ chính mình tốI kỵ giản trạch (xét nét) ngôn cú . Vì sao? Đâu chẳng thấy Triệu Châu nói “ Chí đạo không khó, chỉ hiềm giản trạch”. LạI Vân Môn nói “ Hiên nay thiền khách năm ngườI, ba ngườI chụm đầu nói ồn náo : cái này là cú, cái kia là ngữ. Không biết trong cửa phương tiện của cổ nhân, vì kẻ sơ cơ hậu học chưa rõ tâm địa, chưa thấy bản tánh, bất đắc dĩ mà lập ngôn cú phương tiện “. Như Tổ Sư từ Ấn sang riêng truyền tâm ấn, chỉ thẳng tâm ngườI, thấy tánh thành Phật. Ở đâu có sắn bìm như thế? Cần phảI chặt đứt ngôn ngữ, cách ngoài thật thấy, thấu thoát được rồI, như rồng gặp nước, như cọp dựa núi. Những bậc tiên đức cửu tham có thấy mà chưa thấu, có thấu mà chưa minh gọI đó là thỉnh ích (tham vấn). Nếu thấy được thấu mà thỉnh ích, lạI cần trên ngữ cú xoay quanh không có mắc kẹt, ngườI cửu tham thỉnh ích như vì kẻ trôm đưa thang, kỳ thật việc này không ở trên ngôn cú. Vì thế Vân Môn nói “ Việc này nếu ở trên ngôn cú thì ba thừa, mườI hai phần giáo há không phảI ngôn cú sao? Cần gì tổ Đạt Ma phảI từ Ấn Độ sang?” . Phần Dương trong mườI tám câu hỏI , câu hỏI này gọI là “nghiệm chủ vấn” cũng gọI là “ Thám bạt vấn” . Vị tăng đặt câu hỏI này thật là kỳ đặc. Nếu không phảI Triệu Châu cũng khó đáp được. Vị tăng hỏI “ Thế nào là Triệu Châu?” Triệu Châu vì bổn phận bậc tác gia liền đáp “Cửa Đông, cửa Tây, cửa Nam, cửa Bắc” . Vì Triệu Châu cũng là tên thành, nên ông tăng thưa “ Con không hỏI Triệu Châu này ”. Triệu Châu bảo “ Ông hỏI Triệu Châu nào?” Thật là lừa ngườI chẳng ít. Tăng hỏI Triệu Châu, Triệu Châu chỉ cái thành.Nếu dễ hiểu như thế thì trong thôn ai cũng hiểu Phật pháp. Đây là phá diệt Phật pháp , như đem con mắt cá so sánh vớI hạt minh châu. Giống thì giống mà phảI thì chẳng phải. Nếu là lão tăng , sẽ nói “ Chẳng ở Hà Nam, chính tạI Hà Bắc”. hãy nói là hữu sự hay vô sự ? Cần phảI chín chắn mớI được.
Viễn Lục Công nói : Một câu rốt sau mớI đến cửa quan. Ý chỉ chỉ nam không ở trong ngôn thuyết , mườI ngày một trận gió, năm ngày một đám mưa, an bang lạc nghiệp, vỗ bụng hát ca, gọI đó là thờI tiết thái bình mớI là vô sự, chứ chẳng phảI mù tịt gọI là vô sự. Cần phảI tháo được cây chốt cửa, ra khỏI rừng gai góc, lột trần, toàn thong dong , như xưa giống hệt ngườI bình thường. Từ đó ông hữu sự cũng được, vô sự cũng được, bảy dọc, tám ngang, trọn chẳng chấp không, chấp có.
Có một bọn ngườI nói : Xưa nay không một vật, chỉ cần gặp trà uống trà, gặp cơm ăn cơm. Đây là đạI vọng ngữ. Chưa được nói được, chưa chứng nói chứng. Xưa nay chưa từng tham được thấu, nghe ngườI nói tâm nói tánh, nói huyền nói diệu, liền bảo chỉ là cuồng ngôn, xưa nay không việc. Quả là ngườI mù dẫn đám đui. Sao chẳng biết : Khi Tổ Sư chưa đến, ở đâu gọI trờI là đất? gọI núi là sông? Từ khi Tổ Sư ở Tây sang , các nơi đăng đường , nhập thất, nói cái gì? Toàn là tình thức so lường. Nếu tình thức so lường ấy hết mớI thấy được thấu. Nếu thấy được thấu, lạI như xưa trờI là trờI, đất là đất, núi là núi, sông là sông. Cổ nhân nói : Tâm là căn, pháp là trần. Hai thứ ví như vết bẩn trên gương. Đến chỗ này, tự nhiên lột trần, toàn thong dong. Nhưng nếu tột cùng cũng chưa phảI là chỗ an ổn. Đạt đến đó, đa số ngườI hiểu lầm cho là cảnh vô sự, Phật cũng chẳng lễ, hương cũng chẳng đốt. Giống thì cũng giống, nhưng đến chỗ thoát thể thì chẳng phải. HỏI đến thì tương tợ chỗ cực tắc, vô thường chụp đến thì vỡ làm bảy , tám mảnh. Trụ ở chỗ bụng rỗng, tâm cao, đến đêm ba mươi tháng chạp (hết tuổI thọ) quơ tay chụp ngực, như con ba ba trong chảo nước sôi.
Tăng hỏI Triệu Châu thế ấy, Triệu Châu đáp thế này. Hãy nói làm sao dò tìm? Thế ấy cũng chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được. Chung qui là thế nào? Chỗ này là nạn xứ.

TỤNG
Cú lý trình cơ phách diện lai
Thước-Ca-La nhãn tuyệt tiêm ai
Đông Tây Nam Bắc môn tương đốI
Vô hạn luân chùy kích bất khai.

DỊCH
Trong cú trình cơ vạch mặt ra
Trần ai chẳng dính mắt Ca-La
Nam Bắc Đông Tây cửa tương đốI
Biết bao chùy sắt đập chẳng ra.

GIẢI TỤNG
Triệu Châu lâm cơ như bảo kiếm Kim Cang Vương, vừa nghĩ nghị là chặt đầu ông, thường thường ngay mặt móc con mắt ông. Vị tăng này dám vuốt râu cọp , đặt câu hỏI dường như vô sự mà sanh sự, không ngờ trong câu có cơ (bẫy) . Ông tăng đã trình ra. Triệu Châu cũng chẳng cô phụ câu hỏI của ông tăng, cho nên cũng trình cơ đáp. Chẳng phảI Triệu Châu đáp mọI ngườI đều như thế. Đây là trường hợp ngườI hỏI có cơ ( bẫy ).
Tuyết Đậu thấy thấu, liền nói : “Trong cú trình câu vạch mặt ra”. Câu hỏI có hai ý.
Nếu muốn hỏi người thì phảI hỏi : Triệu Châu là ai? Nếu muốn hỏi cảnh thì phảI hỏi : Triệu Châu là cái gì? (vì Triệu Châu cũng là tên địa phương). Nhưng ông Tăng lại hỏi “ Thế nào là Triệu Châu?” thành ra đáp thế nào cũng trật. Nếu nói “ Tôi khỏe “ thì ông Tăng sẽ bảo “ Tôi hỏi thành Triệu Châu độ này ra sao”. Nếu trả lời theo địa phương thì ông Tăng nói ngược lại. Cho nên nói là trong câu hỏI có cơ. Giống như truyện sau:
Có một ngoạI đạo tay cầm con chim sẻ đến hỏI Phật “ Thử nói con chim trong tay tôi là sống hay chết?” . Dĩ nhiên không thể nào nói đúng được. Thế Tôn bèn bước đến ngưỡng cửa hỏi lạI “ Ngươi nói ta ra hay vào?” Ngoại đạo nói không được bèn lễ bái.
Nghe ông Tăng hỏi, Triệu Châu không dời đổi một mẩy tơ, liền nói “ Cửa Đông, cửa Tây, cửa Nam, cửa Bắc”. Nếu nói là cảnh cũng được, vì là bốn cửa thành. Nếu nói là ngườI cũng được, vì như thế có nghĩa “ Đâu chẳng phảI là Triệu Châu”. Triệu Châu nhân, cảnh đều đoạt nên Tuyết Đậu nói “ Trần ai chẳng dính mắt Ca-La” (Mắt Thước Ca-La là mắt Kim Cang, có thể soi thấu sợI tơ ngoài nghìn dăm, phân biệt rõ chánh, tà , được mất…) hai câu sau , cứ khoản kết tộI, tự nhiên phảI như thế.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 10

TẮC 10
MỤC CHÂU KẺ CƯỚP RỖNG

LỜI DẪN
Thế ấy thế ấy, chẳng thế ấy chẳng thế ấy, nếu luận chiến thì mỗi mỗi ở chỗ chuyển, cho nên nói : Nếu hướng thượng chuyển liền được Thích Ca, Di Lạc, Văn Thù, Phổ Hiền, ngàn thánh, muôn thánh. Các bậc Tông Sư trong thiên hạ thảy đều nuốt hơi ngậm miệng. Nếu hướng hạ chuyển thì chim chóc, mốI kiến xuẩn động, hàm linh mỗi mỗi đều phóng hào quang sáng, mỗi mỗi đều vách đứng vạn nhẫn. Nếu như chẳng thượng chẳng hạ, lại làm sao thương lượng ? Có điều vin điều, không điều vin lệ, thử cử xem ?

CÔNG ÁN
Mục Châu hỏi vị tăng :
- Vừa rờI chỗ nào?
Tăng liền hét ! Mục Châu nói :
- Lão tăng bị một tiếng hét của ông.
Tăng lạI hét. Mục Châu nói :
- Ba hét, bốn hét rồi sau làm gì?
Tăng lặng câm, Mục Châu liền đánh, nói :
- Kẻ cướp rỗng này.

GIẢI THÍCH
Phàm là người dựng lập tông giáo phải có bổn phận Tông Sư nhã mục, Tông sư tác dụng. Mục Châu cơ phong dường như điện chớp, thích khám phá các tọa chủ. Bình thường sư nói ra một lời, nửa câu giống như cả rừng gai góc để chân tay đến không được. Sư vừa thấy tăng đến liền nói :
- Hiện thành công án , tha ông ba mươi gậy.
Có khi thấy tăng, sư gọi:
- Thượng Tọa !
Tăng xoay đầu lại, sư bảo :
- Kẻ gánh bản.
Sư dạy chúng :
- Chưa có chỗ vào, phảI được chỗ vào. Đã được chỗ vào, không được cô phụ lão tăng.
Mục Châu vì ngườI, phần nhiều như thế.
Vị tăng ở đây cũng khéo gọt dũa, song đầu rồng đuôi rắn. Chính khi ấy, nếu không phải Mục Châu cũng bị y làm bối rối. Như Mục Châu hỏi “ Vừa rờI chỗ nào?” Tăng liền hét , hãy nói ý chỉ thế nào? Lão già này cũng không rối loạn, chậm rãi nói với y “Lão tăng bị một tiếng hét của ông”. Dường như nhận thoại của y được một phần, lại dường như nghiệm y , nép thân qua một bên xem y thế nào. Vị tăng này lại hét. Giống thì rất giống, phải thì chưa phải. Bị lão già này xỏ mũi, bèn hỏi “ Ba hét, bốn hét rồi sau làm gì?” Quả nhiên vị tăng này câm họng. Mục Châu liền đánh, bảo “Kẻ cướp rỗng này”. Thật là nghiệm người đến chỗ chính xác, buông lời liền là tri âm. Tiếc thay vị tăng này câm họng , nên bị Mục Châu nói “ Kẻ cướp rỗng này” Trong đây nếu là người biết sống, chết, rành tốt xấu, chân đạp đến chỗ đất chân thật, nào quản ba tiếng hét, bốn tiếng hét, rồi sau làm gì? BởI vị tăng này câm họng nên bị lão ấy cứ theo bản luận tội kết án. Nghe Tuyết Đậu tụng:

TỤNG
Lưỡng hát dữ tam hát
Tác giả tri cơ biến
Nhược vị kỵ hổ đầu
Nhị câu thành hạt hán
Thùy hạt hán ?
Niêm lai thiên hạ dữ nhân khán.

DỊCH
Hai hét cùng ba hét
Tác giả biết cơ biến
Nếu bảo cưỡi đầu cọp Cả hai thành mù hết
Ai kẻ mù?
Đem ra thiên hạ cho ngườI xem.

GIẢI TỤNG

Tuyết Đậu chẳng ngại có chỗ vì ngườI. Nếu không phảI hàng tác gia thì chỉ hò hét loạn mà thôi. Vì thế có khi cổ nhân nói : Có khi một tiếng hét không có tác dụng của một tiếng hét, có khi tiếng hét có tác dụng của một tiếng hét. Có khi tiếng hét như sư tử ngồI xổm, có khi tiếng hét có tác dụng như bảo kiếm Kim Cang Vương. Thiền sư Hưng Hóa nói : Ta thấy các ông ở bên đông gia hét, ở bên tây gia cũng hét . Chớ có hò hét loạn. Dù cho hét đến Hưng Hóa bay bổng lên trời, rơi xuống đất chết ngất, khi tỉnh lạI ta sẽ nói vớI các ông là chưa phải. Vì sao? Vì Hưng Hóa chưa từng nhằm trong màn trướng tía, ném Trân châu cho các ông, các ông thích hét hò hét loạn làm gì? Tổ Lâm Tế nói : Ta nghe các ông thẩy đều học tiếng hét của ta, Ta hỏI các ông : nhà đông có vị tăng đến, nhà tây có vị tăng đến, cả hai đồng thời hét, vậy tiếng hét nào là khách, tiếng hét nào là chủ? Nếu các ông phân chủ khách không được, về sau không được bắt chước lão tăng.
Tuyết Đậu tụng “ Tác giả biết cơ biến “. Vị tăng này tuy bị Mục Châu thâu , song y có biết chỗ cơ biến? Thiền sư Trí ở Lộc Môn điểm vị tăng này rằng Người biết pháp sợ Nham Đầu nói nếu luận chiến thì mỗi mỗi đứng tại chỗ chuyển. Hòa Thượng Tử Tâm ở Hoàng Long nói : Cùng thì biến, biến thì thông. Cái này là chỗ Tổ Sư ngồi cắt đầu lưỡI thiên hạ. Ông nếu biết cơ biến , nhắc đến liền biết chỗ rơi. Có một nhóm ngườI nói; Cần đợI kia nói ba hét, bốn hét làm gì, chỉ cần hét liên tục cho đến khi Di Lạc hạ sanh, gọi đó là cưỡI đầu cọp. Nếu thấy biết như thế là chẳng biết Mục Châu, còn rất xa vậy. Người cưỡi đầu cọp cần phảI trong tay có đao , cũng biết chuyển biến mới được. Tuyết Đậu nói “ Nêu thấy biết như thế , cả hai đều mù hết”. Tuyết Đậugiống như cầm cây Ỷ Thiên Trường kiếm , oai phong lẫm lẫm . Nếu hiểu được ý Tuyết Đậu tự nhiên ngàn chỗ, muôn chỗ đồng thời hiểu, liền thấy phần tụng sau của Tuyết Đậu chỉ là chú giải. Lại nói “ Ai kẻ mù?” thử nói khách mù hay chủ mù? Hay là chủ khách đồng thời mù? Câu “Đem ra thiên hạ cho người xem” đây là chỗ sống , Tuyết Đậu một lúc tụng xong vậy. nhưng mở mắt xem hay nhắm mắt xem? Lại có ngườI khỏi được chăng ?
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 11

TẮC 11

HOÀNG BÁ: BỌN ĂN HÈM

LỜI DẪN
ĐạI cơ Phật tổ toàn nắm trong tay, mạng mạch nhân thiên nằm trong tiếng gọI. Thảnh thơi một lờI, một câu kinh động quần chúng , một cơ, một cảnh đập xích phá cùm tiếp cơ hướng thượng nêu việc hướng thượng. Hãy nói ngườI nào từng đến thế ấy, có biết chỗ rơi chăng? Thử nêu coi xem.

CÔNG ÁN
Hoàng Bá dạy chúng :
- Cả thẩy các ngươi đều là bọn ăn hèm, hành khước thế ấy chỗ nào có ngày nay? LạI biết trong nước ĐạI Đường có thiền sư chăng ?
Có vị tăng ra thưa:
- Chỉ như các nơi khuông đồ lãnh chúng lạI là gì?
Hoàng Bá bảo:
- Chẳng nói không thiền, chỉ nói không sư.

GIẢI THÍCH
Hoàng Bá thân cao bảy thước (2m8), trên trán có hạt châu tròn, thiên tánh hộI thiền. Sư đi dạo Thiên Thai, trên đường gặp một vị tăng cùng bàn luận vui cườI như ngườI quen cũ, nhìn kỹ là ngườI chết, có chút ít tướng lạ. Hai ngườI đông đi, gặp một dòng suốI nước tràn chẩy mạnh . Sư chống gậy, lột nón đứng lạI, vị tăng kia thúc sư qua. Sư bảo “MờI qua trước”. Vị tăng kia liền vén áo, bước trên sóng đi qua, như bước trên đất bằng. Qua rồI, vị tăng gọI “ Qua đây! Qua đây!” Sư quở” Gã tự liễu này, nếu tôi sớm biết làm quái, tôi sẽ chặt bắp đùi huynh”. Vị tăng kia khen “ Thật là pháp khí đạI thừa”. Nói xong nhìn lạI chẳng thấy đâu.
Sư ban đầu đến BáTrượng. Bá Trượng hỏI
- Vòi vọI, rờ rỡ từ chỗ nào đến?
Sư thưa
- Vòi vọI rờ rỡ từ Lãnh Trung đến.
- Đến vì việc gì?
- Chẳng vì việc khác.
Bá Trượng thầm chấp nhận. Hôm khác sư đến từ giã Bá Trượng, Bá Trượng hỏI
- Định đi đâu?
Sư thưa:
- Đến Giang Tây lễ bái Mã ĐạI Sư
Bá Trượng bảo :
- Mã ĐạI Sư tịch rồi.
( Ông hãy nói : Hoàng Bá hỏI thế ấy là biết mà hỏI hay không biết mà hỏI?)
Sư thưa :
- Con mơ ước đến lễ bái mà phước duyên cạn mỏng, không được yết kiến. Chẳng biết bình thường ngài có dạy lời gì? Mong được nghe nhắc lại.
Bá trượng nhắc lạI nhân duyên tái tham vấn Mã Tổ:
- Mã Tổ thấy ta đến liền dựng đứng cây phất tử, ta hỏI “ tức đây dùng, lìa đây dùng?” MãTổ bèn treo cây Phất tử ở góc giường thiền. Giây lâu Mã Tổ hỏI ta “ Ngươi về sau mở miệng vì ngườI thế nào?” Ta lấy Phất tử dựng đứng. Mã Tổ hỏI “ Tức đây dùng, lìa đây dùng?” Ta đem phát tử máng ở góc giường thiền. Mã Tổ chấn oai , hét một tiếng, ta khi ấy, đến ba ngày lỗ tai còn điếc. Hoàng Bá bất chợt le lưỡi. Bá Trượng bảo :
- Ngươi về sau kế thừa Mã Tổ chăng?
Sư thưa:
- Chẳng phảI thế, ngày nay nghe thầy nhắc lạI, được thấy Mã Tổ đạI cơ đạI dụng , nếu kế thừa Mã đạI sư về sau mất hết con cháu của con.
Ba Trượng bảo
- Dúng thế! Đúng thế! Thấy bằng thầy kém thầy nửa đức, trí vượt hơn thầy mớI kham truyền thụ. Chỗ thấy của ngươi hiện nay quả là có tác dụng vượt hơn thầy.

Quí vị nói Hoàng Bá hỏI thế ấy là biết mà cố hỏI hay không biết mà hỏI? Cần phảI thân thấy chỗ hành lý trong nhà cha con họ mớI được.

Một hôm Hoàng Bá lạI hỏI Bá Trượng
- Tông thừa về trước làm sao chỉ dạy ?
Bá Trượng im lặng giây lâu. Hoàng Bá thưa :
- Không thể khiến ngườI sau đoạn tuyệt.
Bá Trượng nói :
- Toan bảo ngươi là một cá nhân.
Bèn đứng dậy đi vào phương trượng.

Hoàng Bá và tướng quốc Bùi Hưu là bạn phương ngoạI. Bùi Hưu trấn Uyển Lăng, thỉnh sư đến quận đường, đem quyển sách ông viết trao cho sư xem. Sư tiếp nhận rồI để dướI tòa, bỏ qua không dở ra xem. Im lặng giây lâu hỏI
- HộI chăng ?
- Thưa chẳng hội.
- Nếu thế ấy mà hộI được vẫn còn sơ sài, Nếu bày trên giấy mực thì chỗ nào lạI có tông của ta.
Bùi Hưu làm bài tụng tán thán:

TỤNG
Tự tùng ĐạI Sĩ truyền tâm ấn
Ngạch hữu viên châu thất xích thân
QuảI tích thập niên thê Thục thủy
Phù bôi kim nhất độ Chương Tân
Bát thiên long tượng tùy cao bộ
Vạn lý hương hoa kết thắng nhân
Nghĩ dục sự sư vi đệ tử
Bất tri tương pháp phó hà nhân.

NGHĨA
Kể từ ĐạI Sĩ truyền tâm ấn
Trán có minh châu, bảy thước thân
Chống gậy mườI năm nương đất Thục
Ngày nay cưỡI sóng đến Chương Tân.
Tám ngàn long tượng theo chân bước
Muôn dặm hương hoa kết thắng nhân
Lòng muốn thờ thầy làm đệ tử
Chẳng biết pháp gì gởI cho người.

Sư không vui nói

Tâm như đạI hảI vô biên tế
Khẩu thổ hồng liên dưỡng bệnh thân
Tự hữu nhất song vô sự thủ
Bất tằng chi ấp đẳng nhàn nhân.

NGHĨA
Tâm như bể cả không ngằn mé
Miệng nhả sen hồng nuôi bênh thân
Sẵn có một đôi tay không việc
Chẳng từng kính vái kẻ nhàn nhân.

Sau khi sư trụ trì, cơ phong cao vót, trong hộI có Lâm Tế, Mục Châu làm thủ tọa. Mục Châu hỏI Lâm Tế
- Thượng tọa ở đây đã lâu, sao chẳng đến hỏI thoạI?
Lâm Tế thưa:
- Bảo tôi hỏI thoạI gì mớI được?
Thủ tọa bảo
- Sao không hỏI thế nào là đạI ý Phật pháp?
Lâm Tế bèn đi hỏI, ba phen bị đánh đuổI ra. Lâm Tế đến giã từ thủ tọa:
- Nhờ thủ tọa dậy, ba phen đến hỏI đều bị đánh đuổI ra, e nhân duyên không phảI ở đây. Tạm thờI xin xuống núi.
Thủ tọa bảo :
- Ông muốn đi nên đến từ giã hòa thượng rồI sẽ đi.
Thủ tọa đến trước bạch Hoàng Bá
- Thượng tọa đến hỏI thoạI thật là ít có, sao hòa thượng không đục đẽo khiến thành cộI cây to che mát ngườI trong thiên hạ?
Hoàng Bá nói :
- Ta biết .
Lâm Tế đến từ giã, Hoàng Bá bảo :
- Ông không nên đi nơi khác, hãy thẳng đến Cao An yến kiến ĐạI ngu.
Lâm Tế đến ĐạI Ngu thuật lạI lờI hỏI trước. và nói :
- Chẳng biết con lỗI tạI chỗ nào?
ĐạI ngu nói :
- Hoàng Bá thật tâm lão bà , tha thiết vì ông triệt khốn lạI hỏI có lỗI, không lỗi.
Lâm Tế bỗng nhiên đạI ngộ, nói
- Phật pháp của Hoàng Bá rất ít vậy
ĐạI Ngu nắm đứng bảo
- Ông vừa rồI nói có lỗI, không lỗi. Sao giờ đây lạI nói Phật pháp của Hoàng Bá rất ít?
Lâm Tế nhằm bên hông ĐạI Ngu thoi ba cái. ĐạI Ngu buông ra bảo
- Thầy ông là Hoàng Bá, không can gì việc của ta.

Một hôm Hoàng Bá nói
- ĐạI sư Pháp Dung ở núi Ngưu Đầu nói ngang, nói dọc vẫn chưa biết cây chốt cửa hướng thượng
Bấy giờ dướI hộI Thạch Đầu , Mã Tổ thiền tăng đông vầy, nói thiền, nói đạo , tạI sao sư lạI nói như thế? Sơ dĩ dậy chúng
- Cả thẩy các ông đều là bọn ăn hèm, đi hành cước thế ấy chỉ khiến cho ngườI ta cườI, chỉ thấy tám trăm, một ngàn ngườI liền ra đi, không thể cam chịu sự ồn náo. Trong đây thẩy đều dung dị như các ông thì làm gì có việc ngày nay?
ĐờI Đường, ngườI ta thường mắng ngườI bằng câu “ kẻ ăn hèm” . Nhiều ngườI nói Hoàng Bá mắng ngườI ta. Kẻ mắt sáng tự thấy chỗ rơi của sư. ĐạI ý thả một lưỡI câu để nhử ngườI hỏI . Trong chúng có một thiền khách không tiếc thân mạng, hiểu như thế, liền ra chúng hỏI “hiện nay các nơi khuông đồ lãnh chúng lạI là sao? “ Cũng nên cho một tát. Lão này quả nhiên bốI rốI liền ló đuôi nói “ Chẳng nói không thiền, chỉ là không sư”. Hãy nói ý tạI chỗ nào?
Tông chỉ của sư từ trước: Có khi bắt - có khi thả, có khi giết – có khi tha, có khi buông – có khi giữ. Dám hỏI quí vị “ Thế nào là Sư ở trong Thiền?” Sơn tăng nói thế ấy đã là khắp đầu chìm ngấm rồI . Lỗ mũi quí vị ở chỗ nào? Giây lâu nói : Xỏ qua rồi.

TỤNG
Lẫm lẫm cô phong bất tự khoa
Đoan cư hoàng hảI định long xà
ĐạI Trung thiên tử tằng khinh xúc
Tam độ thân tao lộng trảo nha.

NGHĨA
Lẫm lẫm cô phong chẳng tự khoe
NgồI yên biển cả định long xà
ĐạI Trung thiên tử từng bị tát
Ba bận thân đùa nanh vuốt nhe.

GIẢI TỤNG
Bài tụng này của Tuyết Đậu dường như bài chân tán Hoàng Bá. Chỗ xuất thân nói rõ rằng “ Lẫm lẫm cô phong chẳng tự khoe”. Hoàng Bá dạy chúng thế ấy, chẳng phảI tranh thắng, tranh thua vớI người. Tự trình tự khoe. Nếu hộI được thì mặc tình bảy dọc tám ngang. Có khi một mình đứng trên ngọn cô phong, có khi nằm ngang giữa chốn thị thành, đâu thể riêng giữ trong một góc. Càng xả càng chẳng hết, càng tìm càng chẳng thấy, càng gánh gồng càng chìm lịm. NgườI xưa nói “ Không cánh khắp thiên hạ, có danh truyền thế gian”. Tận tình buông hết Phật pháp, đạo lý huyền diệu kỳ đặc, buông sạch không còn chút gì, tự nhiên xúc xứ hiện thành.
Tuyết Đậu nói “ ngồI yên biển cả định long, xà” là tâm định như biển lặng, rồng, rắn vào cửa đều nghiệm được.
Hai câu “ ĐạI Trung thiên tử từng bị tát, Ba trận thân đùa nanh vuốt nhe” có xuất xứ từ một truyện. Vua Đường Tuyên Tông là ĐạI Trung khi xua từng bị cháu là Đường Võ Tông sai đánh chết, ĐạI Trung trốn vào làm tăng ở hộI Hương Nghiêm Trí Nhàn. Một lần cùng Trí Nhàn du phương đến Lô Sơn. Trí Nhàn làm thơ Bộc Bố được hai câu

Xuyên vân thấu thạch bất từ lao
Địa viễn phương tri xuất xứ cao
NGHĨA
Phủng mây, soi đá biết nhọc nào
Xa tít mớI hay xuất xứ cao.

Trí Nhàn làm hai câu rồI ngẫm nghĩ. ĐạI Trung tiếp

Khê giản khởI năng lưu đắc trụ
Chung qui đạI hảI tác ba đào.
NGHĨA
Khe suốI tài gì ngăn được (thế) đứng
Trọn về bể cả dấy ba đào.

Trí Nhàn nghe biết không phảI ngườI tầm thường, chỉ thàm biết thôi. Sau đến trong Hôi Diêm Quan, ĐạI Trung làm thư ký, Hoàng Bá làm thủ tọa. Một hôm Hoàng Bá đi lễ Phật, ĐạI Trung thấy hỏI :
- Chẳng cầu Phật, chẳng cầu pháp, chẳng cầu tăng vậy lễ bái để cầu cái gì?
Hoàng Bá đáp
- Chẳng cầu Phật, chẳng cầu pháp, chẳng cầu tăng, thường lễ như thế.
ĐạI Trung bảo :
- Dùng lễ để làm gì?
Hoàng Bá liền tát tai. ĐạI Trung nói
- Quá thô!
Hoàng Bá nói
- Trong đây còn gì mà nói thô, nói tế?
Hoàng Bá lạI tát tai.
Sau ĐạI Trung lên ngôi vua, ban cho Hoàng Bá hiệu “ Thô hạnh sa môn”. Tướng quốc Bùi Hưu ở triều tâu xin ban hiệu là “ Đoạn tế thiền sư”. (là thiền sư không được tế nhị)
Tuyết Đậu biết rõ xuất xứ việc này nên dụng câu rất khéo. Hiện nay có ngườI đùa nanh vuốt chăng? Liền đánh.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 12

TẮC 12

ĐỘNG SƠN: BA CÂN GAI

LỜI DẪN
Đao giết người, kiếm cứu người là phong qui từ thượng cổ, cũng là chỗ khu yếu hiện nay. Nếu luận về giết thì không chạm tới mảy lông , Nếu luận về cứu thì tan thân mất mạng. Vì thế nói “ Con đường hướng thượng ngàn thánh chẳng truyền, học giả nhọc hình như khỉ bắt bóng”. Hãy nói đã là chẳng truyền, vì sao lại có rất nhiều công án sắn bìm? Người đủ mắt sáng thử nói xem !

CÔNG ÁN
Tăng hỏi Động Sơn Thủ Sơ
- Thế nào là Phật?
Động Sơn đáp
- Ba cân gai

GIẢI THÍCH
Công án này có nhiều người hiểu lầm, không có chỗ cho ông mở miệng. Người xưa đã nhiều lần đáp câu hỏi “ Thế nào là Phật ?” . Hoặc nói : ở trong điện, hoặc nói là người có ba mươi hai tướng tốt, hoặc nói dưới gốc cây Bồ-Đề. Nhưng không ai như Động Sơn, hỏi “ Thế nào là Phật?”, đáp “Ba cân gai” thật là chặn họng người, không có chỗ cho nghĩ bàn. Có ngườI nói : Động Sơn lúc ấy đang cân gai ở trong kho, có ngườI lại nói Động Sơn hỏi đông đáp tây v v… Thật hoàn toàn không dính dáng gì. Nếu ông dưới câu của Động Sơn mà hiểu như thế, tham vấn đến Phật Di Lạc ra đời cũng chưa thấy. Vì sao? Vì ngôn ngữ chỉ là món đồ chở đạo. Sao chẳng biết ý cổ nhân? Chỉ chăm chăm vào trong câu tìm cầu, có gì chân thật? NgườI xưa nói “Đạo vốn không lời, nhân lời hiển đạo, thấy đạo phải quên lời”. Nếu đến đây, trả lại ta cơ đệ nhất mớI được. Chỉ câu “ Ba cân gai” giống như con đường Trường An, giở chân lên, để chân xuống đều phải. Câu này so với câu “ Bánh Hồ” của Vân Môn cũng đồng một loại. Quả là khó hội. Ngũ Tổ tụng
TỤNG
Tiện mại đảm bản hán
Thiếp bình ma tam cân
Thiên bách niên trệ hóa
Cô xứ trước hồn thân

NGHĨA
Kẻ hèn gánh bảng bán
Đo lường ba cân gai
Trăm ngàn năm mắc kẹt
Không chỗ để an thân.

Ông chỉ cần nhồi đập cho tình thức, so đo, lường tính , phải quấy một lúc hết sạch, tự nhiên được hội.

TỤNG
Kim Ô cấp, ngọc thố tốc
Thiện ứng hà tằng hữu khinh xúc
Triển sự đầu cơ kiến Động Sơn
Ba miết, manh qui nhập không cốc
Hoa thốc thốc, cẩm thốc thốc
Nam địa trúc hề bắc địa mộc
Nhân tư Trường Khánh Lục đạI phu
GiảI đạo hiệp tiếu bất hiệp khấp
Di

NGHĨA
Mặt trờI chóng, mặt trăng gấp
Khéo ứng đâu từng có khinh xuất
Sự triển, đầu cơ thấy Động Sơn
Trạch què, rùa mù vào hang trống
Hoa nhóm nhóm, gấm nhóm nhóm
Tre phương nam chừ cây phương bắc
Nhân nhớ Trường Khánh Lục đại phu
Khéo nói nên cười chẳng nên khóc
Chao!

GIẢI TỤNG
Mặt trờI chóng, mặt trăng gấp có nghĩa là thờI gian trôi qua nhanh chóng lắm. Câu này còn có nghĩa giải câu hỏI của ông tăng . Ông tăng hỏi “ Thế nào là Phật?” thay vì đáp “ Ba cân gai” có thể thay bằng “ ngày, đêm trôi qua chóng lắm”. Câu trả lời của Động Sơn rất khéo ứng với câu hỏI của thiền tăng, không hề khinh xuất.
Khi xưa Động Sơn đến tham vấn Vân Môn, Vân Môn hỏI
- Vừa rời chỗ nào?
- Thưa Tra Độ
- Mùa hạ ở đâu?
- Thưa chùa Báo Từ, Hồ Nam
- RờI chỗ kia lúc nào?
- Ngày 25 tháng 8.
- Tha ông ba gậy.
Thử hỏi Động Sơn lỗi ở chỗ nào? Vân Môn còn đỡ. Ở đạo tràng Lâm Tế, bất cứ ông tăng nào mở miệng trả lờI cũng bị ăn đòn. Có một ông tăng mớI đến hội, Lâm Tế hỏI “từ đâu đến?” . Ông tăng chưa kịp trả lờI đã ăn một gậy, Ông tăng hỏi “ Con chưa nói gì mà?”. Lâm Tế bảo “ Đợi ông mở miệng sao kịp nữa”. Xem như vậy thì biết rằng Không phải Động Sơn trả lời đến câu thứ tư mớI là có lỗi, mà vừa mở miệng ra là đã có lỗi rồi.
Chiều đến, Động Sơn vào thất hỏI :
- Ban sáng được thầy tha cho ba gậy, không biết con lỗi tại chỗ nào?
- Ôi cái túi cơm, cứ thế mà đi Giang Tây, Hồ Nam ”
Động Sơn ngay câu nói này bỗng nhiên đại ngộ, sụp lạy, thưa
- Con ngày khác sẽ đến chỗ không một bóng ngườI, dựng chiếc am , chẳng chứa một hạt gạo, chẳng trồng một cọng rau, tiếp đãi thiện tri thức mười phương qua lại, trọn vì họ nhổ đinh tháo chốt, lột chiếc mũ thịt mỡ, cởi chiếc áo hôi thúi, khiến mọI ngườI được sạch sẽ, thong dong, làm một người vô sự.
Vân Môn bảo :
- Thân bằng cây dừa mà mở miệng to thế?
Động Sơn liền từ tạ ra đi . Sau này sư xuất thế ứng cơ.Câu “ Ba cân gai” các nơi chỉ hiểu là để trả lời cho câu hỏI “ Thế nào là Phật?” cũng như các câu “ là người có ba mươi hai tướng tốt” hay câu “ Đồng tử Bính Đinh đi xin lửa”. Tuyết Đậu nói nếu thế ấy khởi triển sự đầu cơ hiểu , giống như “ Trạch què, rùa mù vào hang trống” biết ngày tháng năm nào mới tìm được đường ra.
Có vị tăng hỏi Hòa thượng Trí Môn
- Động Sơn nói ba cân gai là ý chỉ thế nào?
Trí Môn đáp
- Hoa nhóm nhóm, gấm nhóm nhóm
Tăng thưa chẳng hiểu. Trí Môn nói tiếp
- Tre phương nam, cây phương bắc.
Vị tăng trở về thưa lại với Động Sơn. Động sơn nói
- Ta chẳng vì ngươi nói, ta vì đại chúng nói
Liền thượng đường nói
- Nói không bày việc, lời chẳng hợp cơ. Nương lời là mất, kẹt câu là mê.

Lục Hoàn Đại Phu làm Quán sát sử ở Tuyên Châu. Thường đến tham vấn Nam Tuyền, được khai ngộ. Khi Nam Tuyên tịch, ông vào chùa tế xong liền cườI ha hả. Viện chủ bảo
- Tiên sư cùng đại phu có nghĩa thầy trò, sao chẳng khóc một tiếng?
Đại phu bảo :
- Nói được thì khóc.
Viện chủ lặng câm. Đại phu khóc to nói
- Trời xanh! Trời xanh ! tiên sư cách đời xa vậy.
Sau này Trường Khánh nghe được, bèn nói
- Đại phu nên cười, chẳng nên khóc.
Hai câu này cùng một ý. Lục đạI phu khóc vì đệ tử ngài Nam Tuyền chẳng giữ được Tông, Còn Trường Khánh bảo ĐạI phu nên cười là cườI viện chủ chẳng hội.

Câu “ Ba cân gai” ý không ở trong câu, nó cũng như các câu “ mặt trờI lặn, mặt trăng mọc” “Trúc phương nam, cây phương bắc” , hay “ Gà lạnh lên cây, vịt lạnh xuống nước” vậy.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 13

TẮC 13

BA LĂNG : TUYẾT TRONG CHÉN BẠC

LỜI DẪN:
Mây dừng đồng rộng, khắp nơi chẳng dấu. Tuyết phủ hoa lau khó phân dấu vết. Chỗ lạnh, lạnh như băng tuyết. Chỗ tế, tế như mảnh gạo . Chỗ sâu, sâu mắt Phật cũng khó thấy. chỗ kín, kín ma ngoạI khó lường. Nêu một rõ ba nên gác lạI, ngồI cắt đầu lưỡI trong thiên hạ làm sao nói? Hãy nói là việc phần thượng của ngườI nào? Thử cử xem ?

CÔNG ÁN
Tăng hỏI thiền sư Ba Lăng :
- Thế nào là tông Đề Bà?
Ba Lăng đáp :
- Trong chén bạc đựng tuyết.

GIẢI THÍCH :
Công án này nhiều ngườI hiểu lầm nói : đây là tông ngoạI đạo, có liên can gì đến Phật pháp.
Tôn giả Đề Bà là một tôn sư ngoạI đạo. Tổ Long Thọ đến, Đề Bà sai ngườI đưa ra một chậu nước. Tổ Long thọ thả vào chậu mọt cây kim. Đề Bà nói “ NgườI này đáng cùng ta nghị luận”. Bèn mở cửa tiếp. Tổ Long thọ (thứ 14) hàng phục Đề Bà, thu nhận, truyền trao tâm tông của Phật làm tổ thứ 15.
TạI Ấn Độ xưa, muốn tổ chức nghị luận phảI được phép của vua, ở trong chùa lớn đánh chuông, gióng trống sau mớI luận nghị. NgườI luận nghị thắng tay cầm cờ đỏ, ngườI thua phảI mặc ngược áo ca-sa từ cửa hông đi ra. Khi đó ngoạI đạo ở trong chùa tăng, phong cấm lầu chuông, trống không cho nghị luận. Tôn giả Đề Bà biết Phật pháp có nạn, liền vận thần thông, lên lầu đánh chuông, gióng trống . NgoạI đạo hỏI
- Đánh chuông trên lầu là ai?
Đề Bà đáp
- TrờI
- TrờI là gì ?
- Ta
- Ta là gì?
- Ta là ngươi.
- Ngươi là gì?
- Ngươi là chó.
- Chó là gì?
- Chó là ngươi.
HỏI như vậy bảy lần, ngoạI đạo biết thua bèn mở cửa. Khi ấy Đề Bà từ trên lầu đi xuống, tay cầm cờ đỏ. NgườI thua đứng dướI lá cờ. NgoạI đạo toan chặt đầu tạ lỗi. Đề Bà ngăn họ lạI và xuống tóc cho họ, nhận vào Phật đạo. Bấy giờ tông Đề Bà hưng thạnh.
Kinh Lăng Già chép : Phật nói “ Tâm là Tông, cửa không là cửa pháp”. Mã Tổ nói “Phàm có câu lờI là Tông Đề Bà, chỉ do cái này làm chủ. Các ngươi là thiền khách, đã từng thể cứu tông Đề Bà chăng? Nếu thể cứu được thì 96 thứ ngoạI đạo ở Ấn Độ bị ông một lúc hàng phục. Nếu thể cứu chẳng được, chưa khỏI mặc ngược áo ca sa”. Hãy nói phảI làm sao? Nếu nói ngôn cú là phảI cũng không liên can, nếu nói ngôn cú là không phảI cũng không liên can. Hãy nói ý Mã ĐạI sư ở chỗ nào?
Sau này Vân Môn nói “ Mã ĐạI Sư khéo nói năng, chỉ là không có ngườI hỏI”. Có vị tăng ra hỏI “ Thế nào là Tông Đề Bà?” Vân Môn đáp “ Chín mươi sáu thứ, ông là hạng chót ”.
Có vị tăng từ giã ĐạI Tùy, ĐạI Tùy hỏI
- Đi đến đâu?
Tăng thưa:
- Lễ bái Phổ Hiền.
ĐạI Tùy dựng đứng cây phất tử nói :
- Văn Thù, Phổ Hiền trọn ở trong đây.
Vị tăng vẽ một vòng tròn, lấy tay đưa trình lên sư, rồI lạI ném ra sau lưng. ĐạI Tùy gọI
- Thị giả , đem một chung trà cho vị tăng này.
Vân Môn riêng nói
- Tây Thiên chặt đầu, cắt tay ,trong đây tự lãnh mà ra.
LạI nói :
- Cờ đỏ ở trong tay ta.

Ba Lăng ở trong chúng được hiệu là Giám nhiều lời. Thường vác tọa cụ đi hành cước , nhận được đạI sự dướI gót chân Vân Môn nên rất kỳ đặc. Sau sư xuất thế kế thừa Vân Môn, trước trụ Nhạc Châu Ba Lăng mà chẳng gởI thư Pháp từ, chỉ dùng ba chuyển ngữ dâng lên Vân Môn

1) Thế nào là đạo? - NgườI sáng mắt rơi giếng.
2) Thế nào là suy mao kiếm? - Cành cành san hô chống đến trăng
3) Thế nào là tông Đề Bà? - Trong chén bạc đựng tuyết.

Vân Môn bảo : Sau này ngày kỵ của lão tăng chỉ cử ba chuyển ngữ này đền ơn là đủ. Về sau quả nhiên không tổ chức trai kỵ, y theo lờI dặn của Vân Môn chỉ cử ba chuyển ngữ này. Các nơi đáp thoạI này phần nhiều nằm trên sự , chỉ có Ba Lăng nói thế ấy thật là cao vót, chẳng ngạI khó hiểu, chẳng bầy đôi phần mũi giáo, tám hướng thọ địch, rõ ràng có con đường xuất thân, có cơ hãm hổ, thoát khỏI tình kiến của ngườI. Vì thế nói “ Đạo Ngô múa hốt ngườI đồng hiểu, Thạch Củng giương cung tác giả am”. Lý ấy nếu không thầy ấn thọ, toan đem pháp gì đàm huyền? Tuyết Đậu theo sau nêu lên vì ngườI tụng ra

TỤNG
Lão Tân Khai
Đoan dích biệt
GiảI đạo ngân uyển lý thạnh tuyết
Cửu thập lục cá ưng tự tri
Bất tri khước vấn thiên biên nguyệt
Đề Bà tông, Đề Bà tông
Xích phan chi hạ khởI thanh phong.

NGHĨA
Lão Tân Khai
Quả thật khác
Khéo nói chén bạc đựng đầy tuyết
Chín mươi sáu thứ nên tự tri
Chẳng biết lạI hỏI bên trờI nguyệt
Tông Đề Bà, tông Đề Bà
DướI lá cờ đỏ gió mát lành .

GIẢI TỤNG
Tân Khai là tên thiền viện. Lão Tân Khai là Ba Lăng . “Ba Lăng quả thật khác” là lờI tán thán của Tuyết Đậu. Khác ở chỗ nào? Tất cả ngôn ngữ đều là Phật pháp mà chỉ có câu của Ba Lăng được chấp nhận?
Thế nào là Đề Bà tông ? - Chén bạc đựng tuyết
Thật là trong lành thay. Khéo dùng tâm không , dụng lờI không mà thắng. Cả 96 thứ ngoạI đạo tự biết mình, đều đến nương dướI ngọn cờ đỏ, vớI ngọn gió mát lành. Còn nếu không biết thì sao? thì hỏI nguyệt bên trời.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 14

TẮC 14

VÂN MÔN: GIÁO LÝ MỘT DỜI

CÔNG ÁN:
Tăng hỏI Vân Môn :
- Thế nào là giáo lý một đờI ?
Vân Môn đáp :
- Đối một nói.

GIẢI THÍCH :
Trong dòng thiền tông, muốn biết nghĩa thực tánh phảI quán thờI tiết , nhân duyên. Đúng thờI, phảI duyên mớI nói. Như vậy mớI có kết quả. Vì vậy nên mớI “ Truyền riêng ngoài giáo” . Đức Phật trong 49 năm thuyết pháp, trảI 360 hộI bàn về đốn – tiệm, quyền – thật , gọI đó là giáo lý một đời. Vị tăng này đưa ra hỏI Vân Môn “ Thế nào là giáo lý một đờI?” Vân Môn sao không vì y giảI thích rành rẽ, lạI nhằm y nói “ đốI một nói”? Cả một đạI tạng giáo chỉ tiêu biểu bằng có ba chữ. Bốn phương, tám mặt không có chỗ cho ông đào xớI. Nhiều ngườI diễn giảI là : Sum la vạn tượng đều là sở ấn của một pháp nên nói “ ĐốI một nói”. Hoặc nói rằng : Chỉ là nói một pháp kia. Quả thật không có chút nào dính dáng. Chẳng những không hiểu lạI vào địa ngục như tên bắn. Đâu chẳng biết ý cổ nhân không phảI thế. Vì thế nói “Thịt tan, xương nát chửa đền xong, một câu thấu suốt siêu ngàn ức”, thật là kỳ đặc. Thế nào là “ Giáo lý một đờI?” chỉ tiêu được câu “ĐốI một nói” liền về nhà ngồI an ổn. Nếu tiêu chẳng được, hãy lắng nghe phân xử

TỤNG
ĐốI nhất thuyết
Thái cô tuyệt
Vô khổng thiết chùy trùng hạ khiết
Diêm phù thọ hạ tiếu ha ha
Tạc dạ ly long áo giác chiết
Biệt biệt
Thiều Dương lão nhân đắc nhất quyết.

NGHĨA
ĐốI một nói
Rất cô tuyệt
Chùy sắt không lỗ thêm hạ chốt
DướI cộI diêm phù cườI ha ha
Đêm qua ly long sừng bẻ gẫy
Khác khác
Lão nhân Thiều Dương được một mảnh.

GIẢI TỤNG
“ ĐốI một nói, rất cô tuyệt” Tuyết Đậu khen như thế cũng chưa tới. Câu này riêng thoát, không trước, không sau như đứng trên bờ cao muôn trượng, như trước quân trận trăm muôn, không có chỗ cho ông vào. Vân Môn hạ câu này như giáng xuống một chùy sắt, không có lỗ cho ông thấu. lạI còn chốt gài cứng ngắc. Không thẩm thấu, không nhúc nhích gì được, MọI lý luận , tình giảI đều vô hiệu. Nếu hiểu tự nhiên hiểu, tức khắc hiểu. NgườI xưa nói “ Muốn được thân thiết, chớ đem hỏI đến hỏI. HỏI tạI chỗ đáp, đáp tạI nơi hỏI”. Nếu thâm nhập được thì “ DướI cộI diêm phù cườI ha ha. Đêm qua bẻ gẫy sừng ly long”. Theo kinh Phật thì ở phía nam châu này có một cây bằng vàng, cao, rộng bảy ngàn do tuần, dướI gốc có một đống vàng cao hai mươi do tuần. Cây này gọI là cây Diêm – Phù, ánh ra ánh sáng xanh , vàng này gọI là vàng diêm phù đàn, châu này gọI là châu Diêm Phù Đề.
Nếu thấu “Đối một nói” thì như đứng dưới gốc cây Diên Phù, kho báu trong tay. Thấu được cũng như đã bẻ gẫy được sừng con ly long.
Tuy nhiên sao Tuyết Đậu còn bảo “khác! Khác! Lão nhân Thiều Dương được một mảnh “ Khác ở chỗ nào? TạI sao lão nhân Thiều Dương lạI không được trọn vẹn, mà chỉ được một mảnh? Thử nói mảnh kia ở chỗ nào? Nói được liền sâu được mình vào cùng vớI lão nhân Thiều Dương.

ĐốI một nói là đốI chính mình mà diễn tả.
Nhưng ngườI đốI chính mình là ai?
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 15

TẮC 15

VÂN MÔN : ĐẢO MỘT NÓI

LỜI DẪN:
Đao giết ngườI, kiếm sống ngườI là phong qui từ thượng cổ cũng là chỗ xu yếu của thờI nay . Hiện đây xem cái gì là đao giết ngườI, kiếm sống ngườI, thử cử xem.

CÔNG ÁN
Tăng hỏI Vân Môn:
- Khi chẳng phảI cơ trước mắt, cũng chẳng phảI sự trước mắt thì thế nào?
Vân Môn đáp :
- Đảo một nói

GIẢI THÍCH
Vị tăng này quả là hàng tác gia, khéo hỏI thế ấy. Tham vân gọI là thỉnh ích. Câu hỏI này là câu trình giảI (trình bầy cái thấy của mình) cũng gọI là câu tàng phong (dấu mũi nhọn) Nếu không phảI Vân Môn thì chẳng kham đáp được. Vân Môn có thủ đoạn này, kia đã đem hỏI đến thì bất đắc dĩ phảI đáp. Vì cớ sao? BởI hàng tác gia tông sư, như gương sáng tren đài, Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán. Cổ nhân nói : muốn được thân thiết, chớ đem hỏI đến hỏi. TạI sao? Vì hỏI ở chỗ đáp, đáp tạI chỗ hỏi. Từ trước chư thánh đâu từng có một pháp cho ngườI. Ở đâu có Thiền để nói cho ông. Nếu ông chẳng tạo nghiệp địa ngục thì chẳng chiêu quả địa ngục. Nếu ông chẳng tạo nhân thiên đường , tự nhiên chẳng thọ quả thiên đường. Tát cả nghiệp nhân tự làm tự chịu. NgườI xưa đã vì ông phân biệt giảI nói rõ ràng. Nếu luận việc này thì chẳng ở trong ngôn cú. Nếu ở trong ngôn cú thì ba thừa, mườI hai phần giáo há không phảI là ngôn cú sao? Đâu cần Tổ Sư từ Ấn sang. Tắc trước nói “ ĐốI một nói” tắc này lạI nói “ Đảo một nói”. Chỉ đổI một chữ sao lạI có ngàn muôn sai biệt? Thử nói cái quái lạ ấy ở chỗ nào? Vị tăng hỏI “ Khi chẳng phảI cơ trước mắt, cũng chẳng phảI sự trước mắt thì thế nào?” là một câu hỏI hay, sao Vân Môn chẳng đáp lờI y lạI bảo “ Đảo một nói” ? Vân Môn một lúc đập nát y. Đến trong ấy nói “ Đảo một nói” cũng là trên da thịt lành khoét làm thương tích. Vì sao? Đến trong ấy thì không còn ngôn cú, mà lạI còn hỏI “ Khi chẳng phảI cơ trước mắt, chẳng phảI sự trước mắt thì thế nào?” chẳng phảI là trên da thịt lành khoét thành thương tích hay sao? Đúng là “ đảo một nói ”.

TỤNG
Đảo nhát thuyết
Phân nhất tiết
Đồng sanh đồng tử vị quân quyết
Bát vạn tứ thiên phi phụng mao
Tam thập tam nhân nhập hổ huyệt
Biệt , biệt.
Nhiễu nhiễu, thông thông thủy lý nguyệt

NGHĨA
Đảo một nói
Chia một mảnh
Đồng sanh đồng tử vì anh giảI
Tám vạn bốn ngàn không phụng mao
Ba mươi ba ngườI vào hang cọp
Riêng biệt
Lăng xăng lộn xộn trăng trong nước

GIẢI TỤNG
Tuyết Đậu quả là bậc tác gia, nghe câu hỏI là biết ngườI vào cửa, bởI vậy mớI “chia một mảnh” , cùng ngườI kia nắm tay đồng hành, dám cùng ông đồng sanh đồng tử, lặn lộI vào chốn bùn nhơ ngôn cú chỉ cốt vì ông gỡ niêm, mở trói, nhổ đinh tháo chốt. Nếu chẳng phảI ngườI toàn cơ thấu thoát, được đạI tự tạI đâu dám như thế. Chỉ vì ngườI kia chưa được tự tạI. Động Sơn nói nhận rõ ngườI hướng thượng, cần xem ba thứ rỉ chảy (sấm lậu) :
Tình rỉ chảy là trí còn nhị biên, chỗ thấy thiên, khô
Kiến rỉ chảy là cơ chẳng lìa vị (còn chấp chỗ chứng), rơi trong biển độc.
Ngữ rỉ chảy là thể diệu mất tông (huệ nhiều định ít), cơ lầm chung thủy (tâm tánh sai lệch). Ba thứ rỉ chảy này nên tự biết. Ngoài ra còn tam huyền: Thể trung huyền, cú trung huyền, huyền trung huyền. Cổ nhân đến cảnh giớI này, toàn cơ đạI dụng, gặp sanh cùng ông đồng sanh, gặp tử cùng ông đồng tử. Trong miệng cọp nằm ngang, mặc ông mang đi ngàn dặm, muôn dặm. chỉ vì trước đã trót phóng câu.
ThờI nhà Tống có Tạ Phụng làm Vương phủ Thường thị, bác học văn tài không ai sánh kịp. khi Vương Mẫu là Ân Thúc Nghi chết, con Tạ Phụng là Tạ Siêu Tông làm bài văn tấu. Tống Võ Đế xem văn rất tán thưởng, khen rằng Siêu Tông có Phụng mao. Cho nên nói ai có phụng mao là chỉ ngườI đó có tài xuất chúng.
Ngày xưa trong hộI Linh Sơn, Thế Tôn đưa cành hoa sen lên, không ai biết là tông chỉ gì, chỉ có Tổ Ca Diếp chúm chím cườI, do đó Tuyết Đậu nói “ Tám vạn bốn ngàn không phụng mao” Về sau Tổ Ca Diếp truyền thừa cho đến khi pháp vào Trung Hoa , cả thẩy ba mươi ba vị Tổ Tây Thiên. Nên Tuyết Đậu nói “ Ba mươi ba ngườI vào hang cọp “, vì chẳng vào hang cọp sao bắt được cọp con.
Vân Môn thuộc hạng ngườI khéo hay đồng sanh đồng tử. Tông sư thì phảI vì ngườI như thế. PhảI được bảy việc tùy thân mớI được đồng sanh đồng tử : Cao thì đè xuống, thấp thì nâng lên. Ở trên ngọn cao chót vót thì đưa vào cỏ rậm, ở trong cỏ rậm thì đưa lên ngọn cao chót vót. Không đủ thì cho, Nếu ông vào vạc dầu sôi, lò lửa đỏ thì ta cũng vào vạc dầu lò lửa. Chỉ cần mở niêm- cởI trói, nhổ đinh- tháo chốt, cởI dây dàm – gỡ yên cương, gỡ cái đồ mang trên sừng cho ông.
Hòa Thượng Bình Điền có bài tụng rất hay

TỤNG
Linh quang bất muộI
Vạn cổ huy du
Nhập thử môn lai
Mạc tồn tri giải.

NGHĨA
Linh quang chẳng tốI
Sáng rỡ muôn đờI
Vào được cửa này
Chẳng còn tri giải.

Câu “ Riêng riêng, lăng xăng, lộn xộn trăng trong nước” là Tuyết Đậu bảo hãy tự mình ngộ sanh cơ, chớ theo ngữ cú của người. Nếu ông theo ngườI, chính là lăng xăng lộn xộn trăng trong nước. Làm sao được bình ổn ?


GHI CHÚ
phần có màu do nguời viết giải thích thêm
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 16

TẮC 16

CẢNH THANH : CƠ THỐT TRÁC

LỜI DẪN
Đạo không ngang tắt, ngườI đứng cô nguy, pháp chẳng kiến văn, nói nghĩ xa bặt. Nếu hay ra khỏI rừng gai góc, khéo mở được cái trói buộc của Phật Tổ , được chỗ ruộng đất ổn mật. Chư thiên không biết cúng dường hoa, ngoạI đạo không thấy cửa để lén ngó. Trọn ngày đi mà chưa từng đi, trọn ngày nói mà chưa từng nói. Bèn khả dĩ tự do tự tại. Xoay cái cơ thốt – trác, dụng cây kiếm sống – chết. Dù được như thế, cần phảI biết lập phương tiện giáo hóa, một tay nâng lên, một tay đè xuống vẫn được đôi phần. Nếu là việc trên bổn phận còn chẳng dính dáng. Thế nào là việc bổn phận, thử cử xem?

CÔNG ÁN
Tăng hỏI Cảnh Thanh :
- Học nhân thốt, thỉnh thầy trác .
Cảnh Thanh bảo
- LạI được sống chăng?
Tăng thưa:
- Nếu chẳng sống, bị ngườI cườI chê.
Cảnh Thanh bảo :
- Cũng là kẻ ở trong cỏ.

GIẢI THÍCH:
Cảnh Thanh kế thừa Tuyết Phong. Sư cùng Bổn Nhơn, Huyền sa, sơ sơn Thái Nguyên Phù đồngthờI yết kiến Tuyết Phong, được yếu chỉ. Sau sư thường dùng cơ thốt – trác để khai thị kẻ hậu học, khéo hay ứng cơ thuyết pháp.
Gà mẹ ấp trứng, khi gà con đủ ngày đủ tháng, liền kêu (gọI là thốt) chiếp chiếp. Gà mẹ nghe con kêu liền mổ (tức là trác) vỏ trứng cho gà con chui ra. Cũng thế, thiền nhân theo học, công phu đã lâu, còn một chút nghi vấn, bèn đem hỏI thầy ( tức là thốt). Thầy nhân đó chỉ điểm (tức là trác) để học nhân bùng vỡ khốI nghi đó mà kiến đạo.
Vị tăng này hiểu việc trong nhà mớI nói “ Học nhân thốt, thỉnh thầy trác”. Câu này trong Tông Tào Động gọI là “ Tá sự minh cơ “ nghĩa là mượn sự việc mà làm rõ Thiền cơ. Vì sao như thế? – Con kêu mẹ mổ tự nhiên đúng lúc. Cảnh Thanh cũng khéo, tay chân tương ưng, tâm mắt chiếu nhau, liền đáp “ LạI được sống chăng?” ý nói như gà con ra khỏI vỏ , được sống. Vị tăng kia cũng khéo , biết cơ biến, dướI một câu có khách có chủ, có chiếu có dụng , có chết có sống, liền thưa “Nếu chẳng sống bị ngườI cườI chê”. Cảnh Thanh bảo “ Cũng là kẻ trong cỏ”. Vị tăng này đã biết hỏI như thế sao lạI bảo là “ kẻ trong cỏ “? Bậc tác gia phảI có nhãn mục như thế. Chớp nháng như làn điện chớp, kết liền được hay chẳng được. Nếu được như vậy liền thấy tạI sao Cảnh Thanh nói “ Kẻ ở trong cỏ”.
Hòa thượng Nam Viện dạy chúng
- Các nơi đủ con mắt thốt trác đồng thờI mà không đủ cái dụng thốt trác đồng thời.
Có vị tăng ra hỏI :
- Thế nào là cái dụng thốt trác đồng thờI?
Nam Viện bảo :
- Tác gia chẳng thốt trác, thốt trác đồng thờI mất.
Tăng thưa :
- Vẫn là chỗ nghi của con.
- TạI sao là chỗ nghi của ông?
Tăng thưa
- Mất.
Nam Viện liền đánh, Vị tăng không chấp nhận, Nam Viện đuổI ra. Vị tăng này sau đến trong hộI Vân Môn nhắc lạI thoạI này, có ngườI nói “ Cây gậy của Nam Viện gãy ” vị tăng bỗng nhiên có tỉnh. (Hãy nói ý tạI chỗ nào? ) Vị tăng trở lạI yết kiến Nam Viện, Nam Viện vừa tịch. Đến yết kiến Phong Huyệt, Tăng vừa lễ bái, Phong Huyệt hỏI
- Có phảI vị tăng khi tiên sư còn sống hỏI thốt trác đồng thờI đó chăng?
Tăng thưa “ PhảI “ .Phong Huyệt hỏI
- Khi ấy ông hiểu thế nào?
- Con buổI đầu giống như ngườI đi trong ánh đèn.
- Ông đã hiểu.
Hãy nói là đạo lý gì? TạI sao vị tăng nói “con buổI đầu giống như ngườI đi trong ánh đèn” thì Phong Huyệt bảo “ Ông đã hiểu “?
Sau này Thúy Nham nói “ Nam Viện toan tính chuyện trong màn, đâu ngờ đất rộng ngườI thưa, quá ít kẻ tri âm.
Phong Huyệt nói “ Nam Viện khi ấy đợI y mở miệng , đánh ngay xương sống xem y làm gì?”
Nếu thấy được công án này là thấy chỗ vị tăng kia cùng Cảnh Thanh thấy nhau. Nhưng các ông làm sao khỏI được Cảnh Thanh nói “ Kẻ ở trong cỏ”. Tuyết Đậu tụng

TỤNG
Cổ Phật hữu gia phong
ĐốI dương tao biếm bác
Tử mẫu bất tương tri
Thị thùy đồng thốt trác
Trác giác du tạI xác
Trùng tao phác
Thiên hạ nạp tăng đồ danh mạo

NGHĨA
Cổ Phật có gia phong
ĐốI nêu bị lột, đuổI
Mẹ con chẳng biết nhau
Thì ai cùng thốt trác
Mổ biết vẫn trong vỏ
LạI bị vỗ
Thiền tăng thiên hạ mạo danh theo.

GIẢI TỤNG
Cổ Phật có gia phong, là gia phong gì? Đó là “ Trên trờI, dướI đất chỉ ta là hơn hết”. Từ khi Phật mớI ra đờI đi bảy bước đã nêu bày gia phong đó rồi. Ai là ngườI đạt được đạo này , một tay tát cạn biển đông, một đạp xô ngã Tu Di. Đạo lý này như đống lửa lớn, đến gần thì cháy hết mặt mày, như kiếm Thái A , hươi lên thì tán thân mất mạng. Chẳng có chỗ cho tình giải. Ai vừa khởI cơ thốt trác liền bị lột toát, đuổI đi. Tuyết Đậu chỉ hai câu đầu là đã tụng xong. Nhưng lạI vì ngườI mà làm sắn bìm, rơi trong cỏ, nói: Khi con kêu, mẹ mổ thì ai đồng kêu, mổ? Vì không biết nên mớI thành ra mẹ con chẳng biết nhau Dù cho con kêu mẹ mổ thì vẫn còn là trong vỏ trứng. Hương Nghiêm nói :
Con kêu mẹ mổ,
Con biết không vỏ
Mẹ con đều quên
Ứng duyên chẳng tốI
Đồng đạo xướng hòa
Diệu huyền độc cước.

Những câu trên đã rõ nghĩa, riêng câu chót “ Diệu huyền độc cước “nghĩa là cùng chung chỗ đứng.
Trong công án, Học nhân hỏI là “ Thốt” , Cảnh Thanh trả lờI “ LạI được sống chăng” là trác. Còn vị tăng trả lờI “ Nếu chẳng sống bị ngườI chê cườI” là chữ biết trong Tụng của Tuyết Đậu. Nhưng vì sao Tuyết Đậu lạI nói “Còn trong vỏ”? Chỗ này, Cảnh Thanh nói “ cũng là kẻ trong cỏ”, còn Tuyết Đậu nói “ Còn trong vỏ” và bảo “lạI bị vỗ
, cả thẩy thiền tăng theo danh mạo” Đến đây Tuyết Đậu tự chẳng khỏI theo danh mạo , lạI làm lụy đến cả thẩy thiền tăng.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 17

TẮC 17

HƯƠNG LÂM: NGỒI LÂU SANH MỆT

LỜI DẪN:
Chặt đinh, chém sắt mớI đáng làm bổn phận Tông sư, né tên tránh đao đâu thể làm tác gia thông phương. Chỗ dùi châm chẳng vào hãy gác lạI, Khi sóng dậy ngập trờI thì thế nào? Thử cử xem.

CÔNG ÁN :
Tăng hỏI Hương Lâm :
- Thế nào là ý Tổ Sư từ tây sang?
Hương Lâm đáp :
- NgồI lâu sanh nhọc.

GIẢI THÍCH :
Hương Lâm nói ngồI lâu sanh nhọc lạI hiểu chăng? Nếu hiểu được thì trên đầu trăm cỏ dứt hết can qua, nếu chẳng hiểu thì lắng nghe phân xử. Cổ nhân đi hành cước chọn lựa bạn đồng hành để vạch cỏ xem gió (Bát thảo chiêm phong) buông vọng, hướng chân. Khi ấy Vân Môn thịnh hóa ở Quảng Nam, Hương Lâm thường ra đất Thục đồng thờI vớI Nga Hồ, Cảnh Thanh, trước đến tham vấn Báo Từ ở Hồ Nam, sau mớI đến trong hộI Vân Môn làm thị giả mườI tám năm. Ở chỗ Vân Môn, thân được nghe. Sư tuy ngộ trễ, nhưng quả là bậc đạI căn khí. Trong mườI tám năm ở cạnh, Vân Môn thường kêu “ thị giả Viễn “. Sư vừa đáp “ dạ “ Vân Môn hỏI “ là cái gì ?“ Khi ấy Hương Lâm cũng hạ ngữ, trình kiến giảI song trọn chẳng khế hợp. Một hôm sư bỗng nhiên la “ Con đã hộI “. Vân Môn bảo “ Sao chẳng nói một câu hướng thượng xem?” Sư ở thêm ba năm. Trong thất, Vân Môn phóng những đạI cơ biện, hơn phân nửa vì thị giả Viễn. Vân Môn phàm có một lờI, một câu trọn nhằm vào thị giả Viễn. Sau này Hương Lâm trở về đất Thục, trụ trì chùa Hương Lâm ở Thanh Thành. Hòa thượng Tộ là thầy Tuyết Đậu, khi ấy nghe Hương Lâm giáo hóa thạnh hành nên cũng đến tham lễ. Vân Môn tuy tiếp độ ngườI vô số, nhưng sau này chỉ có phái Hương Lâm là còn thạnh hành. Sư trở về Tứ Xuyên trụ viện bốn mươi năm, đến tám mươi tuổI mớI thiên hóa. Sư thường nói : “Ta bốn mươi năm mớI thành một mảnh”. Sư nói “ Đi hành cước, tham tầm tri thức, cần phảI để mắt mà đi, phảI phân đen trắng, thấy cạn sâu mớI được. Trước cần phảI lập chí, Đức Thích Ca khi còn tu nhân phát một lờI, một niệm đều là lập chí”. Sau này có vị tăng đến hỏI :
- Thế nào là một ngọn đèn trong thất?
Hương Lâm đáp
- Ba ngườI làm chứng, rùa thành trạch.
Tăng lạI hỏI :
- Thế nào là việc của kẻ áo nạp?
Hương Lâm đáp :
- Tháng chạp lửa cháy núi.
Đúng là cắt đầu lưỡI ngườI trong thiên hạ, không có chỗ cho ý thức bám, không cho ông suy tính đạo lý. Tăng hỏI
- Thế nào là ý Tổ Sư từ Tây sang?
- NgồI lâu sinh nhọc.
Đáng gọI là lờI không vị, câu không vị, nói không vị lấp bít miệng ngườI, không có chỗ cho ông há miệng. Nếu thấy liền thấy, nếu chẳng thấy , tốI kỵ khởI giảI hội.
Tuyết Đậu nhân gió thổI lửa, làm bài tụng

TỤNG
Nhất cá, lưỡng cá, thiên vạn cá
Thoát khước lung đầu tá giác đà
Tả chuyển, hữu chuyển tùy hậu lai
Tử Hồ yếu đả Lưu Thiết Ma

NGHĨA
Một cái, hai cái, ngàn muôn cái
Lột bỏ dây dàm, tháo yên cương
Xoay tả, xoay hữu tùy kẻ sau
Tử Hồ cần đánh Lưu Thiết Ma.

GIẢI TỤNG
Tuyết Đậu quả là con cháu trong nhà, đưa ra cho ông thấy, nếu hộI liền hộI, như ánh chớp, nếu không thì cũng không cho tình giải. Hai câu “ Một cái, hai cái, ngàn muôn cái. Lột bỏ dây dàm tháo yên cương” sạch trọI, thong dong, chẳng bị sanh tử ô nhiễm, chẳng bị tình giảI thánh phàm trói buộc. Trên không có chỗ nương theo, dướI không chấp nhơn ngã. Nhất như dường thể Hương Lâm, Tuyết Đậu là những ngàn muôn cái. Nhẫn đến mọI ngườI trên quả đất đều như thế, Phật trước, Phật sau thảy như thế.
Khi xưa Tử Hồ cùng Triệu Châu, Trường Sa Cảnh Sầm tham vấn Nam Tuyền. Khi ấy bà Lưu Thiết Ma (Thiết ma có nghĩa là mài sắt) cất am dướI núi Qui. mồm miệng lanh lợI, hỏI một đáp mườI. Các nơi đều nể bà. Một hôm Tử Hồ đến tham vấn , hỏI :
- Có phảI là Lưu Thiết Ma chăng?
Thiết Ma đáp
- Chả dám
Tử Hồ hỏI :
- Mài bên trái hay mài bên phảI ?
Thiết Ma đáp
- Hòa thượng chớ điên đảo.
Tử Hồ theo tiếng kêu liền đánh.
Trong công án của Hương Lâm, nếu hiểu được thế nào là “ ngồI lâu sinh nhọc ” thì mặc tình xoay phảI, xoay trái. Còn nếu chẳng hộI thì cần đánh như Lưu Thiết Ma.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 18

TẮC 18

HUỆ TRUNG QUỐC SƯ : THÁP VÔ PHÙNG

CÔNG ÁN
Hoàng Đế Túc Tông hỏI Quốc Sư Huệ Trung:
- Sau khi Quốc Sư trăm tuổI có cần vật gì?
Quốc Sư tâu :
- Vì lão tăng xây cái tháp Vô Phùng.
Vua hỏI :
- Xin thầy cho kiểu tháp.
Quốc sư im lặng giây lâu, hỏI :
- Hiểu chăng?
Vua nói :
- Chẳng hiểu
Quốc sư tâu :
- Tôi có đệ tử phó pháp là Đam Nguyên hiểu rõ việc này.
Sau khi Quốc sư tịch, vua vờI Đam Nguyên hỏI ý này thế nào. Đam Nguyên tâu:

Phía nam sông Tương, phía bắc cái đầm (Tuyết Đậu nói: một tay vỗ chẳng kêu)
Ở giữa vàng ròng đầy một nước (Tuyết Đậu nói: Núi hình cây gậy)
DướI cây không bóng nên đồng thuyền ( TĐ nói Sông trong biển lặng)
Trên điện lưu ly không trí thức (TĐ nói: nêu rồI vậy)

GIẢI THÍCH:
ĐờI Đường, kinh đô cũ là Trường An bị An Lộc Sơn chiếm cứ, phảI dờI đô sang Lạc Dương. Khi Túc Tông lên ngôi thì Sư Huệ Trung đang trụ am trên núi Bạch Nhai thuộc Đặng Châu, hơn bốn mươi năm không xuống núi. Niên hiệu Thượng Nguyên năm thứ hai vua sai sứ mờI Huệ Trung nhập nộI, tôn làm Quốc Sư, đãi theo lễ thầy trò rất là kính trọng. Quốc sư thường vì vua diễn nói đạo Vô Thượng. Đến khi ĐạI Tông lên ngôi, lạI mờI Quốc Sư ở chùa Quang Trạch mườI sáu năm, tùy cơ nói pháp. Niên hiệu ĐạI Lịch thứ mườI, Quốc Sư thiên hóa. Khi Quốc sư sắp vào Niết Bàn từ giã ĐạI Tông. ĐạI Tông hỏI “ Quốc sư sau khi trăm tuổI có cần vật gì không?” Chỉ là một câu hỏI bình thường mà ông già không gió nổI sóng nói “ Vì lão tăng xây cái tháp Vô Phùng”. ĐạI Tông quả là tay tác gia, liền nói “ Thỉnh thầy cho kiểu tháp”. Quốc sư im lặng giây lâu , nói “ Hiểu chăng?” Kỳ quái thật, cái này thật khó tham cứu. Quốc sư bị vua một cái tát, miệng liền như tấm biển. Song tuy như thế, nếu chẳng phảI ông già này thì đã té nhào rồi. Lắm ngườI nói : Chỗ Quốc sư không nói chính là kiểu tháp. Nếu hiểu thế ấy, một tông Đạt Ma mất sạch. Nếu bảo im lặng là phảI thì kẻ câm cũng hộI thiền. Há chẳng thấy ngoạI đạo hỏI Phật “ Chẳng hỏI có lờI, chẳng hỏI không lờI”. Thế Tôn im lặng giây lâu . NgoạI đạo lễ bái khen ngợI “ Thế Tôn đạI từ, đạI bi vẹt đám mây mờ cho con, khiến con được vào ” Khi ngoạI đạo đi rồI, A Nan hỏI Phật “ NgoạI đạo sở chứng gì mà nói được vào?” Thế Tôn đáp “ Như ngựa hay ở thế gian, vừa thấy bóng roi liền chạy”. Đa số ngườI nhắm vào chỗ yên lặng mà hiểu, thật có gì là phải. Ngũ Tổ niêm rằng “ Mặt trước là trân châu, mã não, mặt sau là mã não, trân châu. Bên đông là Quán Âm, Thế Chí. Bên tây là Văn Thù, Phổ Hiền. khoảng giữa có một cái phan bị gió thổI kêu hồ lô, hồ lô”. ( Thân thường ở trong Phật cảnh, trước mặt sau lưng đều như châu báu. Cùng các đại Bồ-Tát làm bạn đồng hành. Ngoài hiện hình tượng, tâm thường trống rỗng ). Quốc sư hỏI vua “ Hiểu chăng?” . Vua nói “chẳng hiểu”. Hãy nói cái chẳng hiểu này của vua vớI cái chẳng hiểu của Võ Đế là đồng hay khác? Giống thì giống mà phảI thì chưa phải. Quốc sư nói “ Tôi có đệ tử phó pháp là Đam nguyên thông hiểu việc này, xin vờI đến hỏI “. Tuyết Đậu niêm “ Một tay vỗ chẳng nên kêu”. Việc ĐạI Tông chẳng hiêu thì gác lạI, Đam Nguyên lạI hiểu chăng? Ngũ Tổ, tiên sư niêm “ Ông là thầy một nước sao chẳng nói lạI đẩy qua đệ tử?” . Sau khi Quốc sư thiên hóa, vua vờI Đam Nguyên đến hỏI ý chỉ này thế nào. Đam Nguyên lạI vì Quốc sư nói Hồ, nói Hán, nói đạo lý, tự nhiên hiểu lờI nói của Quốc sư. Đam Nguyên làm bài tụng

Phía nam sông Tương, phía bắc cái đầm
Khoảng giữa có vàng ròng đầy một nước
DướI cây không bóng nên đồng thuyền
Trên điện lưu ly không tri thức.
Đam nguyên khi làm thị giả Quốc sư tên Ứng Chơn, sau trụ chùa Đam nguyên.

Khi ấy Ngưỡng Sơn có đến tham vấn Đam Nguyên. Trước khi tham vấn Đam nguyên, Ngưỡng Sơn có tham vấn thiền sư Tánh Không. Có vị tăng hỏI Tánh Không : “Thế nào là ý Tổ sư từ tây sang?” Tánh Không đáp “ Như ngườI ở dướI giếng sâu, chẳng nhờ một tấc dây mà kéo ra được”. Tăng thưa “ Gần đây hòa thượng Xướng ở Hồ Nam cũng vì ngườI nói đông nói tây”. Tánh Không gọI “ Sa di, Lôi cái tử thi này ra”. Sau Ngưỡng Sơn đem hỏI Đam Nguyên “ Thế nào kéo ngườI trong giếng ra được?” Đam Nguyên bảo “ Dốt, kẻ si! Ai ở trong giếng?” Ngưỡng Sơn chẳng hội. Sau đến Qui Sơn, sư lạI hỏI thế. Qui Sơn gọI “ Huệ Tịch!”, sư ứng thanh dạ. Qui Sơn bảo “ kìa ra rồI” . Ngưỡng Sơn đạI ngộ.Sau sư nói : “ Ta ở chố Đam Nguyên được thể, chỗ Qui Sơn được dụng”.

Bài tụng này,nhiều ngườI hiểu lầm nói :
Phía nam sông Tương, phía bắc cái đầm ; là nói tương đàm, tranh luận.
Giữa có vàng ròng đầy một nước: là nói giữa hai ngườI, ý tưởng như vàng ròng
DướI cây không bóng nên đồng thuyền : Vua như cái cây che mát thiên hạ, ngồI nói chuyện ngang hàng vớI vua là đồng thuyền.
Trên điện lưu ly không tri thức: là vua không hiểu nên nói trên điện ngọc không tri thức.
Hiểu thế ấy thật chẳng ra ngoài tình kiến. Nếu xét đến bốn chuyển ngữ của Tuyết Đậu thì làm sao thích hợp. Thử nói
Phía nam sông Tương, phía bắc cái đầm: ông làm sao hiểu ?
Giữa có vàng ròng đầy một nước: ông làm sao hiểu ?
DướI cây không bóng nên đồng thuyền: Ông làm sao hiểu ?
Trên điện lưu ly không tri thức: Ông làm sao hiểu ?
Cũng chỉ là cái ấy.
- Phía nam sông Tương, phía bắc cái đầm : là ở đâu đó, không xác định được nơi chốn, vì có chỗ nào mà chẳng phải. Tuyết Đậu nói “ Một tay vỗ chẳng kêu”. Chẳng phảI, nó là độc nhất, nhưng muôn ngàn âm điệu.
- Giữa có vàng ròng đầy một nước. Thử chỉ xem chỗ nào là giữa ? Tuyết Đậu nói “ núi hình giống cây gậy ” ý nói núi vàng ròng đó từ cây gậy mà ra “ Bách trượng can đầu tu tiến bộ, Thập phương thế giớI thị toàn thân”.
- DướI cây không bóng nên đồng thuyền. Cây này chẳng phảI che mát ngườI trong thiên hạ, mà che chở vạn tượng, vạn vật trong tam thiên đạI thiên thế giới. Và mọI thứ đều bình đẳng, vô sai biệt. Tuyết Đậu nói “ Sông trong biển lặng” Nếu không được sông trong biển lặng làm sao soi thấy tam thiên đạI thiên thế giớI?
- Trên điện lưu ly không tri thức : Tâm kết thành một khốI, một phiến, trong suốt, không một niệm mống khởi. Tuyết Đậu nói “ Niêm rồI vậy ” nghĩa là được như vậy thì xong.
Đoạn sau riêng tụng tháp Vô Phùng

TỤNG
Vô Phùng tháp
Kiến hoàn nan
Trừng đàm bất hứa thương long bàn
Tằng lạc lạc
Ảnh đoàn đoàn
Thiên cổ. vạn cổ dữ nhân khan.

NGHĨA
Tháp Vô Phùng
Càng khó thấy
Đầm trong chẳng cho rồng to cuộn
Từng lộng lẫy
Bóng tròn tròn
Ngàn xưa, muôn xưa cho ngườI xem.

GIẢI THÍCH
Vô là không, phùng là gặp. đã vô phùng, không gặp thì làm sao thấy? Bình thường riêng bầy chẳng giấu mà còn chẳng thấy. Nhưng khi cần thấy lạI càng khó thấy hơn. “ Đầm trong chẳng cho rồng to cuộn “ .Rồng thiêng hằng chẳng muốn cho ngườI gặp. Rồng nằm chẳng chọn chỗ nước đọng. Chỗ không, có trăng, nước lặng. Chỗ có, không gió cũng dậy sóng. Rồng lạI hằng sợ đầm trong biếc. Lọai đầm này, dù cho nước dậy mênh mông, sóng bủa ngập trờI cũng chẳng ở trong đó uốn khúc. Vũ trụ là một đầm nước trong biếc, làm sao thấy được rồng thiêng?
Tròn, sáng vằng vặc, lộng lẫy, ngàn xưa, muôn xưa vần riêng bầy chẳng dấu, mà chẳng ai thấy, như rồng thiêng vậy.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 19

TẮC 19

CÂU CHI ĐƯA MỘT NGÓN TAY

LỜI DẪN
Động một hạt bụI là thâu gồm cả đạI địa
Một đóa hoa khai, thế giớI nổI lên.
Nếu khi hoa chưa khai, bụI chưa động thì mắt bám vào đâu?
Vì thế nói
Như chém một cuộn tơ, chếm một nhát là chém trọn.
Như nhuộm một cuộn tơ, nhuộm một chéo là nhuộm hết.
Chỉ như nay
Hết thẩy sắn, bìm đều cắt đứt, vận xuất của báu nhà mình thì:
Thấp cao ứng khắp, sau trước không sai, mõi mỗI đều hiện thành.
Nếu chưa được như vậy, xem lấy văn sau.

CÔNG ÁN
Hòa thượng Câu Chi, phàm có ngườI hỏI, chỉ đưa lên một ngón tay.

GIẢI THÍCH
Nếu nhằm trên đầu ngón tay hiểu thì cô phụ Câu Chi. Nếu chẳng nhằm trên đầu ngón tay hiểu thì giống như đúc gang làm đồ dùng. Hiểu cũng thế ấy, không hiểu cũng thế ấy, cao cũng thế ấy, thấp cũng thế ấy, phảI cũng thế ấy, quấy cũng thế ấy. Do đó nói “ Một hạt bụI dấy lên thì quả đất trọn thâu, một đóa hoa chớm nở thì thế giớI lừng dậy. Viên Minh nói “ Lạnh thì khắp trờI, khắp đất đều lạnh, nóng thì khắp trờI, khắp đất đều nóng, núi sông đạI địa thấu tột huỳnh tuyền, van tượng sum la thông tận hư không”. hãy nói là vật gì được kỳ quái thế ấy? Nếu biết được thì chẳng tiêu một cái ấn tay. Nếu biết chẳng được thì chướng ngạI dẫy đầy.
Hòa thượng Câu Chi ngườI Kim Hoa, Vụ Châu. BuổI đầu trụ am, có một ni cô tên Thực Tế đến am, đi thẳng vào chẳng lột nón, cầm tích trượng đi nhiễu giường thiền ba vòng, nói
- Nói được thì ta giở nón.
HỏI như thế ba lần, Câu Chi không đáp được, Vị ni liền đi. Câu Chi nói
- TrờI đã chiều, cô hãy nghỉ lạI.
Ni cô nói
- Nói được thì ta ở lạI.
Câu Chi cũng không đáp được. Vị ni liền đi. Câu Chi than
- Ta tuy mang hình trượng phu mà không có khí trượng phu.
Toan bỏ am đi các nơi tham thỉnh, làm ngườI hành cước tôi luyện. Đêm ấy sơn thần đến mách
- Chẳng cần rờI chỗ này, ngày mai có nhục thân Bồ-Tát đến vì hòa thượng nói pháp.
Quả thật, ngày hôm sau có hòa thượng Thiên Long đến am. Câu Chi đón tiếp, thưa rõ việc hôm qua. Thiên Long liền đưa một ngón tay chỉ lên, Câu Chi bỗng nhiên đạI ngộ. BởI Câu Chi bình thường trịnh trọng, chuyên chú nên thùng thông dễ lủng đáy. Sau này có ai hỏI sư liền đưa một ngón tay lên.
Trường Khánh nói
- Thức ăn ngon chẳng cần vớI ngườI bụng no .
Huyền Sa nói
- Ta khi ấy nếu thấy liền bẻ gẫy ngón tay.
Huyền Giác nói :
- Huyền Sa nói như thế là ý làm sao?
Vân Cư Tích nói :
- Huyền Sa nói như thế là thừa nhận hay không thừa nhận sư? Nếu thừa nhận sao lạI đòi bẻ gẫy ngón tay? Nếu không thừa nhận thì Câu Chi lỗI tạI chỗ nào?
Tiên sư Tào Sơn nói :
- Chỗ thừa nhận của Câu Chi quá sơ sài. Chỉ nhận được một cơ một cảnh , nhẩy lên được một bậc liền vỗ tay quơ múa, thấy Tây Viên rất là kỳ quái.
Huyền Giác lạI nói
- Câu Chi lạI ngộ hay chưa? Vì sao chỗ thừa đương quá sơ sài? Nếu là chẳng ngộ vì sao ông nói Bình sanh chỉ dùng một ngón tay thiền mà chẳng hết ?Hãy nói ý Tào Sơn
tạI chỗ nào?
Đương thờI thì Câu Chi chẳng hộI, đến sau khi ngộ, phàm có ai hỏI chỉ đưa một ngón tay, vì sao ngàn ngườI, muôn ngườI bủa vây ông chẳng được? đập phá chẳng vỡ? Nếu ông lấy ngón tay để hiểu, quyết định chẳng thấy ý cổ nhân. LoạI thiền này dễ tham mà khó hội. NgườI ngày nay , có ai hỏI đến là đưa ngón tay lên, đưa nắm tay lên, chỉ là lộng tinh hồn. Cần phảI thấu cốt thấu tủy, thấy thấu mớI được.
Trong am Câu Chi có một cậu bé, ra ngoài bị ngườI hỏI “Bình thường hòa thượng lấy pháp gì dạy người?” Đứa be đưa một ngón tay lên. Trở về nó thưa lạI vớI hòa thượng. Câu Chi lấy dao chặt ngón tay nó. Đau quá nó kêu khóc, bỏ chạy. Câu Chi gọI một tiếng, nó xoay đầu lạI, Câu Chi đưa ngón tay lên , nó hoát nhiên khai ngộ. Hãy nói nó thấy được đạo lý gì?
Đến khi sắp tịch, sư nói vớI chúng :
- Ta được một ngón thiền của Thiên Long, bình sanh dùng chẳng hết, cần hiểu chăng? Sư đưa một ngón tay lên liền hóa.
Sau này Minh Chiêu – con rồng một mắt– hỏI sư thúc Thâm ở chùa Quốc ThớI
- ngườI xưa nói Câu Chi chỉ niệm ba hàng chú liền được danh siêu tất cả ngườI Làm sao vì ngườI niệm ba hàng chú?
Thâm cũng đưa một ngón tay lên. Chiêu Thưa
- Chẳng nhân ngày nay đâu biết được khách Qua Châu ấy.
Hãy nói ý thế nào ?
Hòa thượng Đả Địa Bí Ma chỉ dùng một cây gậy, bình sanh có ngườI hỏI liền đập đất một cái. Sau có ngườI dấu mất cây gậy, lạI hỏI
- Thế nào là Phật?
Sư chỉ hả miệng. Thế cũng là một đờI dùng chẳng hết.
Thiền sư Vô Nghiệp nói
- Tổ sư xem cõi này có căn khí đạI thừa, riêng truyền tâm ấn, vạch bày lốI mê. NgườI được chẳng chọn ngu hay trí , phàm cùng thánh, vả lạI đa hư chẳng bằng thiểu thật.
Bậc đạI trượng phu hiện nay cần phảI thôi hết đi, chóng dứt muôn duyên đi, vượt khỏI dòng sinh tử, thoát ra cung cách thường tình, dù có quyến thuộc trang nghiêm chẳng cầu tự được. Vô Nghiệp một đờI, phàm ai hỏI điều gì chỉ nói “ Chớ vọng tưởng”. Vì thế nói :Một chỗ thấu, ngàn muôn chỗ đồng thờI thấu , một cơ sáng ngàn muôn cơ đồng thờI sáng. NgườI thờI nay thảy chẳng thế ấy, chỉ thích thả dong ý theo tình giảI, chẳng hiểu chỗ tinh yếu của cổ nhân . Kia vẫn có bộ máy nhanh , chỗ xoay chuyển khéo, tạI sao chỉ dùng một ngón tay? PhảI biết Câu Chi đến trong đây có chỗ thâm mật vì ngườI. Cốt hiểu được bớt nhọc sức biết mấy. LạI Viên Minh nói : Lạnh thì khắp trờI, khắp đất đều lạnh, nóng thì khắp trờI khắp đất đều nóng. Núi sông thông suốt cô nguy, vạn tượng sum la triệt để hiểm tuấn. Chỗ nào được ngón tay thiền này?

TỤNG
ĐốI Dương thâm ái lão Câu Chi
Vũ trụ không lai cánh hữu thùy ?
Tằng hướng thương minh hạ phù mộc
Dạ đào tương cộng tiếp manh qui.

NGHĨA
ĐốI Dương rất thích lão Câu Chi
Vũ trụ (từ )không (đến) nay có những gì?
Từng đến bể sâu thả cây nổI
Sóng đêm cùng tiếp gã rùa mù

GIẢI TỤNG
Tuyết Đậu thông hiểu văn chương, phàm là công án lạ lùng, kỳ đặc, riêng thích liền tụng. Hai câu “ ĐốI Dương rất thích lão Câu Chi ; Vũ trụ (từ) không (đến) nay có những gì?” Tuyết Đậu thích lão Câu Chi ở cái gì? Vũ trụ từ khởI thủy đến nay sự sự vô số, sum la vạn tượng, thế mà lão Câu chi chỉ dùng có một ngón đến suốt đời. Chỉ một ngón đó thôi, lão vào biển cả sinh tử, thả một khúc cây bộng, nổI trôi để đón con rùa mù nào hữu duyên lọt vào bộng cây của lão về nơi bờ giác.
Bậc đạI thiện tri thức tiếp được một ngườI, như rồng, tợ cọp, dạy y đến thế giớI có Phật làm chủ khách. Đến thế giớI không Phật ngồi đoạn yếu tân (không hiểu). Tiếp được con rùa mù dùng làm gì?

chữ yếu tân có nghia cái gì vừa quan trọng(yếu) và luôn luôn mới (tân) cho nên chữ này có thể là ý tuởng.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
Tắc 20

TẮC 20

THÚY VI THIỀN BẢN

LỜI DẪN :
Bồi non đắp núi, va tường, chạm vách, dừng tư, ngưng cơ một trường khổ khuất. Hoặc có kẻ lật nghiêng bể cả, đạp ngã Tu Di, hét tan mấy trắng, đạp nát hư không , liền đó nhằm một cơ, một cảnh, ngồI cắt đầu lưỡI ngườI trong thiên hạ , không có chỗ cho ông ghé bên. Hãy nói từ trước đến nay ngườI nào từng làm thế ấy ? thử cử xem?

CÔNG ÁN :
Long Nha hỏI Thúy Vy :
- Thế nào là ý Tổ sư từ tây sang?
Thúy vi bảo :
- Đem thiền bản lạI đây cho ta.
Long Nha đem thiền bản lạI cho thúy vi. Thúy vi nhận lấy liền đánh. Long Nha nói :
- Đánh thì cứ đánh, nhưng không có ý Tổ sư từ tây sang.
Long Nha lạI đến hỏI Lâm Tế:
- Thế nào là ý Tổ sư từ tây sang?
Lâm Tế bảo :
- Đem bồ đoàn lạI đây cho ta.
Long Nha lấy bồ đoàn đem lạI cho Lâm Tế. Lâm Tế nhận liền đánh. Long Nha nói :
- Đánh thì cứ đánh, nhưng không có ý Tổ sư.

GIẢI THÍCH :
Long Nha trước tham vấn nơi Thúy Vi, Lâm Tế, sau tham Đức Sơn, hỏI
- Học nhân cầm kiếm Mạt Da toan lấy đầu thầy thì thế nào?
Đức Sơn đưa đầu nói
- Đây!
Long Nha nói :
- Đầu thầy rơi !
Đức Sơn cườI chúm chím rồI thôi.
Kế Long Nha đến Động Sơn, Động Sơn hỏI
- Vừa rờI chỗ nào?
Long Nha thưa:
- RờI Đức Sơn.
Động Sơn hỏI :
- Đức Sơn có ngôn cú gì?
Long Nha thuật lạI việc trước. Động Sơn hỏI :
- Ông ấy nói gì?
- Thưa thầy không nói.
- Chớ bảo không nói. Thử đem cái đầu Đức Sơn trình lão tăng xem.
Long Nha nhân nơi đây tỉnh ngộ, bèn thắp hương, vọng về Đức Sơn lễ bái sám hối. Đức Sơn nghe , nói
- Lão già Động Sơn này không biết tốt xấu, kẻ này chết đã lâu rồI, cứu được dùng vào việc gì? Mặc y gánh đầu lão tăng chạy quanh trong thiên hạ.

Thiền sư Hiệt ở Qui Sơn nói :” Thúy Vi, Lâm Tế đáng gọI là bổn phận Tông sư, Long Nha là bậc vạch cỏ xem gió, chẳng ngạI làm mô phạm cho người sau “. Sau khi Long Nha trụ viện, có vị tăng hỏI : “ Đương thờI hòa thượng lạI chấp nhận hai vị tôn túc chăng?” Long Nha đáp “ Nhận tức nhận, chỉ là không có ý Tổ sư tây sang ”. Long Nha xem trước, ngó sau hợp bệnh cho thuốc . ĐạI Qui ắc không thế, đợI y hỏI : đương thờI hòa thượng lạI chấp nhận hai vị tôn túc chăng? Rõ, chẳng rõ cũng mặc, nhằm ngay xương sống đánh. Chẳng những đỡ vững Thúy Vi, Lâm Tế cũng chẳng cô phụ ngườI hỏi.

Thiền sư Thông ở Thạch Môn nói :
“ Long Nha không ngườI tát được vẫn đáng bị thiền tăng móc một con mắt”.

Tuyết Đậu nói :
“ Lâm Tế, Thúy Vi chỉ biết nắm đứng, chẳng biết buông ra, nếu tôi đương thờI làm Long Nha, đợI sư đòi bồ đoàn, thiền bản, liền nắm đưa lên ném ngay mặt”.

Thiền sư GiớI ở núi Ngũ Tổ nói :
“ Hòa thượng được mặt dài thế ấy” hoặc nói “Tổ sư bị đất dính đầu “.

Thiền sư Tân ở Hoàng Long nói :
“ Long Nha đoạt trâu của ngườI cầy, cướp cơm của ngườI đói, đã sáng thì sáng vậy, nhân sao lạI không có ý Tổ sư tây sang? Hiểu chăng? Đầu gậy có mắt sáng như nhật, cần biết vàng ròng trong lửa xem. ĐạI phàm kích dương yếu diệu, đề xướng tông thừa , nhằm dướI cơ thứ nhất rõ được , khả dĩ ngồI cắt đầu lưỡI ngườI trong thiên hạ. Nếu do dự thì rơi vào cơ thứ hai. Hai ông già này tuy nhiên đánh gió đập mưa kinh thiên động địa, vẫn chẳng từng đánh được kẻ mắt sáng. NgườI xưa tham thiền quá nhiều cay đắng lập chí khí trượng phu , vượt sông, qua núi tham kiến tôn túc”.

Long Nha phát câu hỏI “ Thế nào là ý Tổ sư từ tây sang?” Thúy Vi nói “ Đem thiền bản lạI cho ta”. Long Nha đem thiền bản lạI, Thúy Vi nhận liền đánh. Long Nha khi lấy thiền bản lạI, há chẳng biết Thúy Vi muốn đánh sư sao? Cũng chẳng được nói là sư chẳng hội. Vì sao lạI đem thiền bản lạI cho Thúy Vi? Hãy nói nếu khi ấy thừa đương được thì phảI làm sao? Sư chẳng nhắm đến chỗ nước sống dùng, tự dấn mình vào chỗ nước chết để làm kế sống, một bề làm chủ tể, nói “ đánh mặc đánh, không có ý Tổ Sư tây sang” . Sư lạI chạy sang Hà Bắc tham Lâm Tế, vẫn câu hỏI như trước. Lâm Tế bảo “ Đem bồ đoàn lạI cho ta”. Sư đem bồ đoàn lạI, Lâm Tế nhận liền đánh. Sư nói “ đánh mặc đánh, nhưng không có ý Tổ sư”. Thử hỏI hai vị tôn túc, không cùng nguồn , ( Lâm Tế đệ tử Hoàng Bá dòng Mã Tổ, Thúy Vi đệ tử dòng Dược Sơn) sao chỗ đáp lại giống nhau? chỗ dụng cùng một thứ ?

Sau sư trụ viện, có vị tăng hỏI “ Đương thờI hai vị tôn túc, hòa thượng thừa nhận hay chẳng thừa nhận?” Long Nha nói “ Thừa nhận thì thừa nhận, nhưng không có ý Tổ sư tây sang”. Đúng là trong bùn có gai. Buông ra cho ngườI đã rơi vào cơ thứ hai. Lão già này nắm được đứng, chỉ được làm đồ đệ trong tông Tào Động. Nếu là đồ đệ Lâm Tế, Đức Sơn phảI biết riêng có chỗ sống. Nếu là sơn tăng thì không thế, nói vớI y “ nhận thì chưa nhận, nhưng không có ý Tổ sư tây sang”.

Tăng hỏi Đại Mai: Thế nào là ý Tổ sư Tây sang?
Đại Mai đáp : Tây sang không có ý.
Diêm Quan nghe, nói : Một cái quan tài, hai cái tử thi
Huyền Sa nghe, nói : Diêm Quan là bậc tác gia.
Tuyết Đậu nói: Ba cái cũng có.
Vị tăng này hỏI ý Tổ sư tây sang, sao lạI nói vớI ý Tây sang không có ý? Đó là câu chết. Nếu hiểu như thế sẽ rơi vào tử thủy. Vì thế mớI nói : Cần tham câu sống, chớ tham câu chết. Câu sống tiến được, vĩnh kiếp chẳng quên, câu chết tiến được, tự cứu chẳng xong. Long Nha nói thế ấy hẳn là toàn thiện.
Đương thờI hai vị tôn túc đòi thiền bản, bồ đoàn, Long Nha chẳng phảI không biết ý kia, song cần dùng được việc trong hông, ngực của mình, phảI làm như thế. Quả là dùng được quá tuyệt. Long Nha hỏI thế ấy, hai vị tôn túc đáp thế ấy, vì sao lạI không có ý Tổ sư Tây sang? Trong này phảI biết riêng có chỗ kỳ đặc. Tuyết Đậu tụng

TỤNG
Long Nha sơn lý long vô nhãn
Tử thủy hà tằng chấn cổ phong
Thiền bản, bồ đoàn bất năng dụng
Chỉ ưng phân phó dữ Lô Công.

DỊCH
Trong núi Răng Rồng, rồng không mắt
Nước chết đâu từng chấn cổ phong
Thiền bản, bồ đoàn không dụng được
Thôi thì phân phó cho Lô Công.

GIẢI TỤNG
Tuyết Đậu cứ theo khoản kết án. Hãy nói ý ở chỗ nào? Chỗ nào là không mắt ? chỗ nào là nước chết ? Đầm trong chẳng cho rồng to cuộn, nước chết đâu từng có rồng to. Đâu chẳng thấy nếu là rồng sống phảI đến chỗ nước dậy mênh mang, sóng to ngập trời. Chỗ tử thủy chưa từng có rồng, làm sao chấn chỉnh được Phật pháp theo phong thái ngườI xưa ?
Long Nha hỏI ý Tây sang, các Tổ bảo mang thiền bản, bồ đoàn đến, rõ ràng đã tặng rồng xanh. Chỉ vì sư không biết cưỡI nên không thể dụng được vậy. Việc này còn phảI đợI nhân duyên, thờI tiết đến mớI được, vì vậy mớI phảI bàn giao cho Tạo Hóa tức Lô Công.

TỤNG
Lô Công phó liễu diệt hà bằng
Tọa ỷ hưu tương kế Tổ đăng
Kham đốI mộ vân qui vị hiệp
Viễn sơn vô hạn, bích tằng tằng

NGHĨA
Giao phó Lô Công chẳng có bằng
NgồI lưng không thẳng dẹp thiền đi
Kham đốI mây chiều về rảI rác
Non xa lớp lớp biếc lê thê.

GIẢI THÍCH
Giao phó cho Lô Công cũng chưa chắc gì đến thời tiết sẽ tỏ ngộ. Nếu còn giảI đãi, biếng lườI thì chẳng có tư cách gì mà nốI được Tổ đăng.
Những câu sau có hai nghĩa:
Đó là cảnh giớI của thiền nhân. Không còn việc gì phảI làm cả, hoàn toàn vô vi, tâm như gương sáng, phản chiếu toàn vũ trụ.
Nhưng cũng vẫn chưa xong. Chưa gom về làm một được, và vẫn còn nhiều chướng ngại ở trước.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên