CẨM NANG TU ÐẠO (Hòa Thượng Quảng Khâm)

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.
K

kequaduong

Guest

F. Một Niệm Cách Biệt


Nếu bạn không chịu thể hội Ðạo, thì tuy là thầy tu, tâm bạn vẫn còn vất vưởng ở ngoại cảnh, xoay chuyển theo cảnh giới và sự việc bên ngoài; như thế vẫn còn rất nguy hiểm.

Trong chùa cũng đầy dẫy chuyện thị phi, trắng đen, đẹp xấu. Kẻ có trình độ thì nghĩ rằng: "Chờ tôi tu khá khá, tôi sẽ lại độ các vị." Kẻ không hiểu biết thì sẽ làm những việc hư, kết oán cừu thêm. (Ý nói là xem bạn có thể chuyển biến được ngoại cảnh hay không.)

Nếu có ai muốn hại bạn, bạn nên suy nghĩ: "Có lẽ là hồi xưa mình có làm hại hắn ta; bây giờ mình không nên gây thêm oán cừu, mà phải độ hắn."

Chuyện gì cũng có nhân quả, dù là việc nhỏ như một cây kim, một sợi chỉ, một lời nói--tất cả đều có nhân quả.

Ðừng bao giờ tập thói cố chấp.

Có người hỏi: Cái bát của tôi bị bể; phải chăng cái bát cơm của tôi cũng mất luôn? (Ý nói là bát bể, thì phải chăng cũng hết tu.)

Hòa-Thượng đáp: Ðừng nên chấp trước. Nếu cái bát của cô bị người ta làm bể, rồi cô nhân việc đó mà oán hận, muốn trả thù kẻ kia, thì rõ ràng là chỉ vì cái bát mà cô tạo oán cừu, gây hận thù với người khác vậy!

Khi nghiệp chướng ập tới, vô minh, phiền não dấy khởi, nếu bạn không có chánh-niệm thì tà-niệm sẽ nổi lên. Khi ấy, thấy ai bạn cũng gai mắt, bực dọc; thấy việc gì bạn cũng không hài lòng. Bạn chỉ muốn cuốn gói đi ở chùa khác; hoặc bạn cảm thấy đời tu vô vị, không có ý nghĩa gì, chỉ muốn hoàn tục cho xong chuyện.

Bạn biết chăng; chỉ cần bạn nổi một niệm phiền não lên là bạn đã sai rồi, không cần phải bàn tới việc bạn có đúng lý hay không !

Ðừng tìm coi người ta có lỗi lầm hay không. Bạn phải tự thắp sáng cõi lòng, chiếu rọi tâm mình, hồi quang phản chiếu, xét xem mình đã làm tốt chưa.

Tu là sửa đổi chính mình dựa theo Chân lý, chứ không phải dựa vào người khác. Do đó, bạn phải cung kính, tôn trọng Tam-Bảo (hiện thân của Chân lý).

Hễ là chúng sanh thì ai cũng có lỗi lầm hư xấu; song hễ ngày nào biết sám hối, biết ăn năn sửa đổi, thì tốt liền. Dù là loài nở ra từ trứng, hoặc sanh ra từ thai bào, từ chỗ ẩm thấp hay từ sự biến hóa--tất cả đều có Phật-tánh. Nhiều thứ súc sinh tánh rất linh thông, hơn cả con người nữa; song, chỉ tội là chúng không biết nói để chúng ta hiểu mà thôi.

Bạn nhận thức được điều xấu của mình, đó là một việc rất tốt.

Là người, ai ai cũng đầy một bụng phiền não; nếu không tự biết lỗi thì làm sao tu ? Do đó, tu chính là từ đây, từ sự nhận thức này mà trừ khử phiền não. Nếu không vậy, mỗi ngày bạn cứ như cũ, chẳng thay đổi gì--cứ ăn, ngủ, làm việc, không tu để ngộ Ðạo; thì tới già bạn vẫn hệt như bây giờ, mà đầu óc thì đầy nhóc những phiền não.

Bạn cả ngày chỉ đầy dẫy niệm xấu, không có một chút chánh niệm; bạn không nghĩ về sắc (thứ có hình tướng như sắc đẹp, áo quần, tiền bạc, chùa chiền, cơm canh...), thì cũng nghĩ tới thứ vô sắc (có tên mà không có hình thể như danh, lợi, sung sướng, hưởng thụ, ý niệm, tư tưởng...).

Hễ bạn tranh chấp, đấu tranh, cãi vã, tính toán hơn thua, thì tâm bạn không sao được yên. Ðừng cho rằng người khác sai, mình đúng. Họ không sai, không lỗi đâu; mà chính bạn đã không biết tu hành. Chỉ vì lòng bạn có phiền não, tức bực, khó chịu, oán hờn, nên tâm mới không yên ổn. Cứ để sự việc trôi qua thì nó sẽ tan biến, và bạn mới có được chánh-niệm.

Người ta chê bai bạn xấu, bạn hư; bạn chớ nổi nóng, bực dọc, khó chịu. Họ khen bạn hay, bạn tốt; bạn đừng vui sướng, cao hứng. Trong cái dở luôn có cái hay, trong cái tốt luôn xen lẫn cái xấu.

Kẻ nào khen ngợi, ve vuốt, tăng bốc bạn; kẻ đó không phải là vị thầy tốt, không phải là bậc minh-sư. Những ai nguyền rủa, mắng chửi bạn bất kể bạn đúng hay sai; họ mới chính là những bậc minh-sư. Lúc họ xử tệ với bạn chính là lúc họ giúp bạn thành tựu.

Nếu khi bị chèn ép, xử tệ, mà bạn nghĩ rằng: "Các ngài khinh thường tôi như vậy; song, tôi vẫn cứ tu để các ngài hiểu"; thì bạn là người có chí khí; và như vậy, ắt có ngày bạn sẽ thành công.

Bạn đúng lý mà y sai; cứ để cho y làm gì thì làm, coi như bạn là sai lầm vậy. (Vì bạn có giải thích, có tranh cãi tới đâu, y cũng không thèm nghe; vậy cãi có ích gì ?) Ðó chính là bạn biết làm chủ chính mình, không bị người ngoài hay sự việc làm lay chuyển.

Những cảnh giới mà bạn tiếp xúc bây giờ đều là do những hạt giống bạn trồng xưa kia, bây giờ chúng hiện ra thôi.

Thấy người tại gia mặc áo quần đẹp đễ (tức là một thứ cảnh), thì có kẻ tự nghĩ: "Mình đi tu sao mà khổ thế này ? Cái gì cũng không có, chỉ được mặc ba cái áo nâu sồng thô sơ này..."; có kẻ lại nghĩ khác: "Ôi! Trong cõi Ta-Bà khổ não này chỉ có ăn mặc đẹp đẽ đến thế mà thôi; có gì là hay, lạ đâu ?"

Nhiều nữ tín đồ khi chưa xuất gia thì nhồi phấn, thoa son, kẻ mắt, vẽ mày...; bây giờ mấy cô làm Ni-cô ở đây, chẳng ai còn vậy, coi tốt hơn.

Hai người, một cô xấu xí, một cô đẹp tuyệt. Cô xấu xí thì biết mình xấu nên đánh phấn đánh son, trang điểm tươm tất lắm. Song, càng trang điểm bao nhiêu, càng xấu bấy nhiêu; không bằng để tự nhiên.

Tu hành cần có năng lực chịu đựng--chịu khổ, chịu ăn cơm đạm, chịu mặc áo thô.

Ðời này, thế giới vật chất phong phú, muốn gì có nấy rất dễ dàng. Nhiều thứ, do kỹ thuật tiến bộ nên không còn cần dùng tới tay chân nữa nên vô cùng tiện nghi.

Là kẻ xuất gia tu hành, các bạn phải quan sát, suy tư về tấm gương tu hành của chư Tổ hồi xưa. Theo bước chân các ngài mà tu thì mới chấm dứt được sanh tử.

Tôi (Hòa-Thượng) xuất gia tu hành không phải vì mục đích hưởng thụ; tôi muốn tu sao cho việc ăn uống, ngủ nghỉ, áo quần thật đơn giản. Tôi thà là bị xã hội coi thường, cho rằng tất cả mọi thứ ở đây không thể bì được với người đời còn hơn.

Khi được xã hội trọng vọng, thì giữa họ và mình sẽ sinh ra mối dây tình cảm, yêu mến, và rồi sẽ đưa tới nỗi khổ phải xa cách nhau; kết quả là tạo thạnh vòng luân hồi luẩn quẩn. Khi bạn bị xã hội khinh rẻ, coi thường, thì bạn sẽ bớt lòng phan duyên (thích lấy cái này, sở hữu cái kia, giao kết với người này người nọ để trục lợi), bớt tâm vọng tưởng (cứ nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác, không hết chuyện này đến chuyện khác, không dứt), và dễ chuyên tâm dụng công hơn.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

K

kequaduong

Guest

4. Ðộ Người


A. Biết điều tốt của thí chủ

Khi thí chủ quý trọng bạn, họ mới cúng dường. Vì thế, bạn nên có lòng tri ân, cảm kích, mà tu hành cho đàng hoàng.

Như các bạn ăn mặc đơn sơ, đạm bạc, lại dám xả thân làm việc công quả cho chùa; người ngoài nhìn bạn họ sẽ nhận thấy rằng: "Các vị tu sĩ này thật làm tôi cảm động; họ biết xả thân vì Ðạo, vì chùa..." và tự nhiên họ muốn cúng dường bạn. Như thế, vô hình trung, bạn đã độ họ, khiến họ trồng căn lành trong ruộng phước đức. Ðây chính là hoằng Pháp, lợi sinh vậy.

Người tu phải chịu cực chịu khổ, không được chấp trước vào quan niệm về "tôi" và cái "của tôi", rồi sanh ra tật thích chải chuốt cho đẹp đẽ, ăn uống cho ngon lành, và muốn mọi sự phải cho tiện nghi, sung túc. Thân mặc áo nâu sòng cho sạch sẽ, chỉnh tề là đủ; bởi kẻ xuất gia mà sống quá sướng, quá hưởng thụ thì không người tại gia nào muốn cúng dường cả. Người tu mà biết chịu cực, sống kham khổ, thì thí chủ mới khâm phục, mới muốn cúng dường. Ðời sống chỉ cần có cơm ăn no, có áo mặc ấm là đủ lắm rồi.

Người xuất gia: chân đạp đất của tín thí, đầu đội trời của tín thí, thân mặc áo thí chủ cho, miệng ăn cơm thí chủ cúng, ngủ ở phòng thí chủ xây. Cứ tính là mỗi ngày bạn tu được một trăm đồng tiền công đức. Hễ bạn khởi tâm động niệm khiến thân miệng ý không thanh tịnh, thì khấu trừ đi ba mươi đồng. Thêm vào là tiền ăn uống đáng giá ba mươi đồng, tiền trú ngụ là hai mươi đồng, tiền ăn mặc đáng năm mươi đồng; tổng cộng là một trăm ba mươi đồng tiền công đức. Ðấy, công đức tu hành bạn làm ra trong ngày không đủ để trả những phí tổn trên; vậy thì bạn còn có công đức gì nữa? Tín chủ cúng dường khó tiêu lắm.

Muốn Tăng-đoàn trang nghiêm, bản thân mình phải trang nghiêm. Bất cứ ở chỗ nào, lúc nào, mình cũng phải trang nghiêm. Thí dụ khi tụng Kinh, nếu người ta thấy chư Tăng, Ni vô cùng trang nghiêm, thì tự nhiên họ sẽ sanh lòng tín ngưỡng đối với Ðạo, và không coi Phật giáo là thứ tiêu cực nữa.
 
K

kequaduong

Guest

B. Tiếp đãi tín đồ


Bồ-tát là kẻ độ chúng sanh, do đó mình phải rộng kết duyên lành với chúng sanh. Hiện tại tôi còn sống, khi người ta tới bái kiến tôi thì các bạn phải ráng kết thiện duyên với họ. Thấy tín đồ nào, bạn cũng nên tiếp đón, chào hỏi; song không được phan duyên (dùng thủ đoạn tình cảm để kiếm lợi lộc riêng tư), không được cống cao ngã mạn, rằng "Tôi là người xuất gia, các vị chỉ là kẻ tại gia." Bạn phải hiểu rằng tất cả mọi phí tổn cho sinh hoạt hàng ngày như ăn, ở, mặc của tôi đều là do thí chủ cúng dường mà ra.

Khi có người kết duyên xấu với thí chủ, các bạn chớ có bị người ấy ảnh hưởng, khiến mình cũng kết duyên xấu với thí chủ. Bạn phải có năng lực nhận định phải trái, phải tự làm chủ chính mình; bởi chúng ta cần rộng kết duyên lành.

Cho nên nói: "Vị thành Phật, tiên kết nhân duyên"; nghĩa là khi chưa thành Phật, trước hết, phải kết duyên lành với mọi người.

Khi có tín đồ lại chùa, bạn hãy khéo dùng lời lành tiếp đãi họ, mời họ lạy Phật, ăn cơm, đi dạo coi chùa. Ðó chính là kết duyên lành, và cũng là cách tu hành. Ðiều cốt yếu nhất là đừng bày đặt ra vẻ thanh cao, "ta đây là Thầy". Cái đó không phải là tu hành gì cả. Tín đồ là kẻ đang tu học, bạn là người tu thì phải hành Ðạo Bồ-tát. Không nên tu thứ hành vi xấu; phải tập cử chỉ tốt. Khi có kẻ bất lương đến chùa, bạn đừng để ý tới y là xong. Ðừng nên cằn nhằn, cũng đừng chửi rủa người khác hoài. Tu hành thì phải tu cho tới lúc có trí huệ; bấy giờ, hễ đụng chuyện gì, bạn cũng thấu suốt được ngay. Khi đó, nói chuyện gì bạn cũng có thể nói một cách viên dung. Khi mình đã đứng vững rồi, kẻ khác sẽ do đó mà sanh lòng hoan hỷ tiếp nhận lời bạn, mà bạn cũng không tạo nghiệp.

Tín đồ mang vật phẩm đến cúng dường, đó là vì họ muốn cầu phước. Vì vậy, dù vật nhỏ như một ngọn cỏ, bạn cũng phải vui vẻ tiếp nhận. Nếu khi thấy họ đem những thứ tốt đẹp lại cúng dường, rồi bạn sanh ra tham lam, thì bạn không thể ngộ Ðạo được. Khi có người mang thức ăn dở đến, bạn đem nấu lại cho ngon lành, thì đó là bạn tu cả phước lẫn huệ. Nếu bạn không biết xử lý một cách thích đáng, ngược lại, cứ trách móc thí chủ đã cúng thức ăn hư thối; thì đó là tự bạn nổi phiền não và tự bạn tạo khẩu nghiệp mà thôi !

Dù là người trong gia đình hay bà con của mình tới chùa ăn cơm, mình cũng nên khuyên họ cúng dường tiền cơm cho chùa để họ có quan niệm đúng đắn (về nhân quả, nghiệp báo.)

Bạn nên lân mẫn, thương hết mọi chúng sanh; hãy nghĩ rằng họ và mình chỉ là một. Thí chủ lại tu, lại trồng thiện căn; mình phải lấy tâm Bồ-đề, tâm từ bi đối với họ mới đúng.

Khi ai đang nói, bạn chớ ngắt lời hoặc nói xen vào. Chờ họ nói xong, mình hãy nói; đó gọi là lễ phép. Khi ứng tiếp, nói chuyện với thí chủ, bạn chỉ nên nói về Phật-pháp. Khi họ muốn nói chuyện thế tục, bạn hãy xin lỗi mà nói rằng: "Tôi không có thì giờ, xin mời bạn lên lễ Phật, hay tản bộ dạo chơi." Khi gặp kẻ xấu, bạn chớ để ý tới y là tốt nhất; bởi vì hai đồng tiền mà đập vào nhau thì chắc chắn phải kêu lẻng kẻng !

Quan hệ với người đời: bất quá họ chỉ xã giao mà thôi. Vì vậy, khi bạn ứng tiếp họ, tâm bạn phải biết tự chủ, luôn có Phật-pháp (soi sáng). Không nên cùng người thế tục đàm luận chuyện đời. Hãy đem Phật-pháp lại so sánh.

Nói những chuyện khôi hài song song đầy ý vị Phật-pháp sẽ làm người nghe đỡ phiền não.

Kẻ tu hành mà không nói Phật-pháp, lại đi đàm luận thế sự; đó nào phải là bổn phận của người xuất gia. Khi người tu mà còn nói chuyện trần tục của người đời, tức là y chưa đoạn được tục khí (thói quen trần tục); thế thì làm sao y đủ tư cách bàn tới hai chữ "tu hành"?
 
K

kequaduong

Guest

C. Sự nghiệp của Bồ-tát


Mỗi vị Thầy đều có một phương pháp độ sinh khác nhau; do vậy, bạn chớ tùy tiện chê bai, phê bình. Bởi nếu làm vậy, bạn sẽ tạo ảnh hưởng không tốt đối với lòng tin Phật-pháp của kẻ khác. Việc này có nhân quả đấy !

Vì muốn độ chúng sanh nên mình phải hằng thuận, phải chiều theo chúng sinh, cũng giống như mình đánh lừa đứa nhỏ (vì muốn cứu mạng nó) vậy; mà phần lớn là để chúng sinh trồng căn lành trong ruộng phước.

Tôi không đòi hỏi gì cả. Chúng sanh thấy tôi thì sinh lòng hoan hỷ; song, bản thân tôi, tôi không hề biết đến.

Làm việc gì mình cũng phải rõ suốt chân lý của việc ấy thì mới lãnh đạo, dẫn dắt được người ta. Nếu mình không thông suốt chân lý, làm sao dẫn dắt kẻ khác ?!

Hiện tại, người tu cần dùng Phật-pháp và sự thật để chỉ đạo, giáo hóa chúng sanh. Không vậy thì mọi việc đều biến thành thế tục; mình chẳng những không thể tùy thuận ai được mà lại còn mất đi lòng độ lượng nữa.

Hoằng Pháp, lợi sinh: đây không phải là việc nói suông. Chỉ cần bạn tu trì cho tốt, thì tự nhiên khi nhìn bạn, ai cũng sanh lòng hoan hỷ, cung kính.

(Ví như Hòa-thượng Quảng Khâm: Ngài không hề xuống núi song kẻ ngưỡng mộ và quy y Ngài thì nhiều không xiết.)

Hoằng Pháp, lợi sinh tức là cần mình hy sinh thân xác này.

Bạn phải làm một vị Bồ-tát. Không thể cho mình tốt là đủ, rồi mặc kệ kẻ khác. Phải coi kẻ khác là trọng yếu, còn mình thì sao cũng được. Phải làm lợi ích tha nhân. Khi bạn chỉ làm lợi ích cho riêng mình thì vô minh, phiền não của bạn sẽ đầy dẫy.

Người xuất gia lấy lòng nhân từ làm gốc, lấy phương tiện làm dụng, lấy lòng đại bi làm thể. Tất cả (mọi căn lành, mọi pháp môn...) đều từ lòng từ bi mà phát sinh.

GIA, ví như tập khí, thói quen, vô minh, phiền não, những chủng tử xấu của mình. QUÔC, ví như đại chúng. Mình phải trị gia trước, rồi mới trị quốc sau. Nghĩa là trước hết, bạn hãy trừ sạch mọi thói hư tật xấu, vô minh phiền não của mình; rồi sau đó đem đức hạnh ra cảm hóa kẻ khác, "thống lý đại chúng."
 
K

kequaduong

Guest

5. Ðiểm tốt của việc tu


Xuất gia là việc đại hiếu. Bạn cần phải báo đáp bốn ân lớn (ơn cha mẹ, ơn thí chủ, ơn chư Phật, ơn Thầy), và cứu độ ba đường khổ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh). Bạn sẽ độ thoát cha mẹ mình trong muôn vàn kiếp, không phải chỉ có cha mẹ đời này mà thôi.

Bộ áo người tu không phải ai ai cũng mặc được. Chỉ có kẻ phước-khí mới mặc đặng.

Một kẻ xuất gia, dù y không tu hành gì lắm, chỉ biết ăn chay trường, không sát sinh, không có tội lỗi lớn, thì kiếp sau y có thể đầu thai làm người lại và tu hành tiếp. Y sẽ không bị rớt vào ba đường khổ hay bốn loại sanh (sanh ra từ trứng, từ thai, từ nơi ẩm ướt, hay từ sự biến hóa).

Hỏi:

Khi một kẻ xuất gia phá Giới, phạm tội ác vô biên, bị rớt vào địa ngục, phải chăng y còn tệ hơn kẻ tại gia ? Như vậy, chi bằng tu tại gia tốt hơn ?

Ðáp:

Xuất gia tu vẫn tốt hơn ! Tuy y (kẻ xuất gia) bị đọa lạc, song khi y chịu hết quả báo, y có thể trở lại tu hành.
Chắc chắn rồi y cũng xuất gia, bởi y đã trồng ít nhiều căn lành rồi.
(Một kẻ ngoại đạo, nếu đem so sánh, còn kém hơn một người xuất gia phá giới).

Kẻ có căn cơ, thì sau khi đi tu, y hiểu rõ mọi chuyện, thể hội được điểm tốt cũng như điểm xấu giữa người xuất gia và người tại gia. Có kẻ chẳng bao giờ thể hội được điều ấy.

Sở dĩ bạn không thể nhìn thấy, không thể biết được điểm tốt của việc xuất gia, là vì bạn còn nghiệp chướng.
Nếu nghiệp chướng ấy không tiêu trừ, thì khi bạn lâm chung, chúng sẽ hiện ra.

Nhìn hời hợt thì kẻ xuất gia chỉ biết ăn ngày ba bữa, làm vài chuyện này nọ.
Kỳ thật, xuất gia là vì muốn trừ khử lòng tham lam,sân giận, si mê và tiêu trừ nghiệp chướng.

Có người nói:

Mấy Thầy ăn chay nên nói luận điệu của kẻ ăn chay; nếu ai cũng đi tu thì xã hội sẽ ra sao ?

Hòa-thượng đáp:

Ai ai cũng đi tu thì chúng ta cùng nhau vãng sinh Thế-giới Cực-lạc ở Tây-phương; như thế không phải là càng tốt hay sao ?
 
K

kequaduong

Guest

6. Ðạo Cao Một Tấc, Ma Cao Một Thước


Nghiệp ác mình tạo ra từ nhiều kiếp thì cao ngất như núi.
Ðời này, khi mình đi tu, những ác nghiệp ấy có thể xuất hiện.
Do đó, có lúc mình cảm thấy cái nghiệp sau khi xuất gia lại nhiều hơn lúc còn tại gia.
Bấy giờ, mình cần có sức lực mạnh mẽ để vượt qua.
Nếu mình không hàng phục được phiền não, lại khởi tâm động niệm, thì sẽ tạo thêm nghiệp mới.

Xuất gia tu hành là việc không tầm thường.

Việc xuất gia thì nhiều lắm.
Khi những kẻ oán, thân, chủ nợ (ở kiếp trước) đến đòi nợ, thì mình sanh bệnh hoặc gặp đủ thứ chuyện rắc rối kéo tới.
Nếu mình chẳng vượt qua được thì không cách gì an lòng tu Ðạo đặng.
Do đó, khi bạn bệnh khổ, hãy tự khuyến khích, sách tấn chính mình.
Lạy Phật, niệm Phật nhiều hơn thì nghiệp chướng sẽ tiêu tan.

Kẻ tại gia nhìn (sinh hoạt người tu) nhưng không hiểu, nên cho là người tu khổ sở lắm.
Ðối với kẻ có Ðạo-tâm không kiên cố, thì y coi đời tu như là cuộc sống ở địa ngục trần gian;
y luôn cảm thấy việc gì cũng không tốt và không tự tại, lại sanh phiền não nhiều.
Có nhiều vị tuy Ðạo-tâm kiên cố hơn, song do hạt giống xấu gieo trồng từ nhiều kiếp trước, nên tuy nghe Sư-phụ giảng dạy mà không để vào lòng gì cả.
Ảnh hưởng của trần gian thế tục đối với họ thì còn nặng nề, sâu đậm lắm.

Ở chùa mình, các bạn còn thấy người tới từ mọi nơi: nào là tướng mạo thế này, hình sắc thế kia... đủ cả.
Những Tăng, Ni trẻ tuổi thì ý niệm về tình cảm yêu đương còn nặng nề lắm.
Khi thấy những cặp trai gái đến, nếu các vị bị cảnh tượng ấy làm tâm dao động, rồi sanh lòng ước muốn, ưa thích, thì các vị sẽ dứt mất Ðạo-tâm (tâm tu hành).
Nếu các vị nhận định tâm trạng ưa thích của mình là tội lỗi, thì mới có Ðạo-tâm.

Kẻ xuất gia trẻ tuổi thời nay thật rất nguy hiểm.
Họ rất dễ bị ngoại cảnh làm thay đổi chí hướng.
Những kẻ nửa đời xuất gia (tức là đã kết hôn rồi), thì đã nếm hết mùi đời, nên đối với ngoại cảnh, họ có phần nào tự chủ hơn.
Song le, nếu người trẻ tuổi xuất gia mà chịu tu hành đàng hoàng, thì trí huệ sẽ khai mở, rất dễ thành tựu.
 
K

kequaduong

Guest

7. Ni Chúng


Người nữ thiếu tu hành 500 đời. Nếu biết tu, các cô có thể ngay thân này, đời này được giải thoát.
Song các cô đừng quá coi trọng tấm thân: ăn no là tốt rồi, mặc ấm là đủ thôi, không cần ngủ thì chớ ngủ.
Không làm như vậy thì chỉ có tham lam, tán loạn, mất Ðạo-tâm mà thôi!

Sanh làm thân người nữ song được xuất gia, được gặp bậc đại Thiện-tri-thức, lại được ở nơi đạo tràng mà yên ổn tu hành; các cô phải cảm nhận là mình vạn phần may mắn!
Các cô nên mau mau tu trì, sửa đổi bản tánh nóng nảy, trừ bỏ ý nghĩ xấu ác, thay đôi quan niệm sai lầm xưa kia.

Ðài Loan vẫn còn tốt là vì các cô còn có thể xuất gia.
Nếu không, e rằng người nữ trong xã hội chỉ đọa lạc mà thôi.
Nay các cô xuất gia rồi, nếu còn không chịu tu, thì biết kiếp sau các cô có còn được thân người để tu hành nữa không?

Ðừng cho rằng các cô tu như vậy là cực khổ lắm, rồi sanh lòng ghét cái này, bực cái kia, thấy việc gì cũng sai cũng trật; lại nghĩ: "Thôi, đi phứt cho rồi!"
Song, các cô đi, mà biết đi đâu? Cũng không thể đi lấy chồng, bởi như vậy, rốt cuộc chỉ thêm đau khổ như sống ở địa ngục mà thôi ! (1)

Nhiều cô đã mắc phải căn bịnh trầm trọng - bệnh nhiều tình cảm.
Các cô không được tái phạm cái trò tình cảm dây dưa ấy, như là thích ngủ chung với nhau.
(Nếu cô này không chịu ngủ chung với cô kia, thì bị cô kia nói cô này không tốt với cô).
Các cô phải ngủ riêng, tách rời một chút. Nếu các cô cứ cố chấp hoài thì chính là tà đó !

Người nữ mà xuất gia được là chuyện khó rồi; sao các cô còn đòi hỏi đi đây đi đó để tham phỏng, học hỏi này nọ ?
Chỉ cần các cô học hỏi chính mình (lúc khởi tâm động niệm, lúc có tham, sân, si, ngạo mạn, tà kiến).
Các thầy thì mới nên đi tham phỏng học hỏi.

Các cô phải hết sức tránh nói chuyện với người nam giới, với các Thầy.

------

(1) Khi Hòa-thượng Quảng Khâm (83 tuổi) muốn nhập niết bàn, Ngài có nói: "Các ni cô ở Ðài Loan không thể chịu khổ - khổ ở đây ám chỉ mọi thứ khổ, ví như làm các thứ khổ hạnh, tu nhẫn nhục, hay lúc tinh tấn niệm Phật, lạy Phật... mà thân thể bệnh khổ, sức - các cô không chịu nổi khổ cực, thì không cách gì chứng đắc được cả!"
 
K

kequaduong

Guest

Chương VII: Xuất gia và Tại gia



1. Tại gia:

Tham lam, quyến luyến mọi thứ ở trần gian thì bạn sẽ mãi luân hồi trong bốn loài (sanh ra từ trứng, từ bào trai, từ nơi ẩm ướt, từ sự biến hóa).

Mọi thứ trong xã hội đều là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Khi chưa xuất gia, ai cũng gieo trồng đủ thứ hạt giống của cõi trần gian tục lụy.

Người đời ai cũng mong cầu hưởng thụ vật chất, ai cũng yêu thích đẹp đẽ; ăn mặc tươm tất.
Người giàu thì có năng lực truy đuổi những thứ ấy;
kẻ không tiền thì cũng vì những thứ ấy mà lặn lội truy cầu.

Hễ ai tham những thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thì sẽ có phần luân hồi trong bốn loài.

Người đời bị ngũ dục làm mê mờ. Chỉ vì muốn ăn ngon nên sát sanh để nuôi dưỡng thân mạng.
Họ không biết rằng ăn thịt chúng sanh tức là ăn thịt chính họ.
Bởi, ăn một cân thịt, bạn nhất định phải trả 16 lượng; đây là việc bạn không thể trốn tránh đặng.
Do đó, cả một đời, người đời cứ phải trả nợ, đòi nợ; đời đời kiếp kiếp không thể thoát khỏi luân hồi.
Huống chi những miếng thịt họ ăn có khi là thịt của chúng sinh mà xưa kia đã từng là cha mẹ của họ.
Làm sao tâm mình có thể bất nhẫn đến như vậy ?

Kẻ tại gia sát sanh để ăn thịt; chúng sinh bị giết đều là họ hàng quyến thuộc của họ trong nhiều kiếp trước. "Mày giết tao, tao sẽ giết mày;" cứ vậy mà có luân hồi sinh tử.
Những người tại gia không hiểu biết, thiếu nhận thức, cho rằng nếu họ không sinh con đẻ cái thì mạng họ khổ lắm; tự than thở rằng mình không được như gia đình kẻ khác, con cái đầy nhà.
Họ nào ngờ rằng, không con cái tức là ít oan gia, nợ nần.
 
K

kequaduong

Guest

2. Xuất gia: Báo đền bốn ân lớn


Hiếu thảo với chư Phật, chư Tổ, thì mới là có hiếu với cha mẹ.

Bạn hãy khéo léo dùng mọi cách cho cha mẹ bạn hiểu Ðạo. Nếu có lòng thành, tối thiểu họ sẽ được sanh lên cõi Trời.

Là kẻ xuất gia, mình phải độ thoát bà con họ hàng của mình. Tối thiểu, hãy làm cho họ tin Phật, ăn chay trường, không sát sinh; như thế mới viên mãn bổn phận của mình.

Ân cha mẹ sinh thành dưỡng dục lớn lắm, nếu không xuất gia tu hành thì khó đền đáp công ơn này. Ðó là vì giữa cha mẹ và con cái vốn có thứ ân oán lẫn thân tình đan kết từ nhiều đời.

Xuất gia muốn báo đáp bốn ân lớn thì bạn phải độ thoát cha mẹ bạn, khiến họ liễu sanh tử. Song cha mẹ nào phải chỉ có ở đời này thôi đâu; mà cha mẹ có từ nhiều đời trước nữa, bất quá mình không biết đó thôi. Không tu thì làm sao hiểu đặng kiếp trước mình có nhiều cha mẹ như vậy ? Song bạn chớ khởi lòng thương nhớ cha mẹ; hồi tưởng những kỷ niệm ấy đều là thứ sanh tử.

Làm cha mẹ, ai cũng muốn con mình lấy vợ, sinh con, hệt như họ vậy - một cuộc đời đầy dẫy thương yêu, khổ, não. Nếu bạn, kẻ tu hành, mà ham thích những việc ấy, thì sau này bạn sẽ tha hồ đóng vở tuồng ấy. Ðây là những "màn kịch" mà bạn có thể diễn vô cùng tự nhiên, không cần phải học cách lễ, nghĩa, liêm, sĩ gì cả. Khi đọa lạc làm súc sinh, bạn sẽ diễn những tấn tuồng ấy tự nhiên hơn nữa.

Cha mẹ càng tốt với bạn bao nhiêu, là họ càng có ân oán nhân duyên với bạn bấy nhiêu.

Quan điểm của người tu thật khác xa so với quan điểm của người đời: Cha mẹ càng thương yêu bạn, thì khi lâm chung, họ sẽ bịn rịn, không buông bỏ bạn được. Song le, bạn chớ vì thế mà sanh phiền não, trách móc cha mẹ bạn.

Hãy chuyên tâm tu Ðạo. Nếu không, bạn sẽ rơi vào vòng tình cảm yêu ghét, chịu cái khổ xa cách người mình thương mến; rồi do đó bị cuốn hút vào chuỗi luân hồi sanh tử. Thật nguy hiểm lắm !

Bạn chớ chấp trước (quyến luyến) cha mẹ, bà con, anh em trong đời này. Họ đều là những chủ nợ, những kẻ có ân oán với bạn từ nhiều kiếp trước cả.

Mỗi người đều do nhân quả nên sinh ra; rồi vì nhân quả nên chết đi. Cha mẹ, bà con của mình đều ở trong vòng luân hồi; do đó, mình phải mau mau tu hành để độ thoát họ.

Mình vì nghiệp nên sinh ra, song chớ vì nghiệp mà chết đi.

Phải tu - trên đền bốn ân lớn, dưới độ ba đường khổ. Tự mình phải tu cho đặng giải thoát thì mới có chỗ thành tựu.
 
K

kequaduong

Guest

3. Ở Ðời Và Ði Tu


Cha mẹ sinh ra ta song họ không biết ta từ đâu lại. Bây giờ mình phải tìm cho ra con đường sanh tử mà mình đã từ đó tới; có nghĩa là mình phải liễu thoát sanh tử.

Ở đời thì bất quá mình chỉ ăn ngày ba bữa rồi trôi theo dòng sinh tử mà thôi.

Người đời cả ngày bận rộn làm việc là chỉ vì truy cầu danh lợi, địa vị, vì muốn hưởng thụ vật dục, ăn ngon, mặc đẹp, ở sướng.

Người tu có làm việc thì cũng là để huấn luyện nội tâm. Do đó, công việc không cần quá nhiều, không nên gấp gáp; cũng không cần ai khen ngợi mình; không truy cầu, ước muốn bất cứ thứ gì. Chỉ mặc bộ áo của Tây-phương Cực-lạc mà thôi.

Ðối với người tu, cảnh giới hoặc ngoại cảnh càng xấu thì càng tốt. Người tu càng trải nhiều gian khổ càng tốt. Ðó là điểm khác biệt giữa người tu và người đời.

Người tại gia có nỗi khổ mà người xuất gia cũng có nỗi khổ. Người đời khổ là vì họ không có được cái nhìn sáng suốt; người xuất gia khổ là vì muốn liễu sanh tử, muốn ra khỏi luân hồi.

Người đời ngày ngày đều quay đi quay lại đeo đuổi mấy thứ tài, sắc, danh, thực, thùy (tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, hưởng thụ hoặc ngủ nghỉ), và luôn bị ngoại cảnh làm ô nhiễm tâm tánh; hoàn toàn không làm chủ chính mình.

Người tu thì cần rửa sạch những thứ cấu bẩn ấy. Kẻ tu dù đời sống có chật vật, song tâm an ổn, sáng suốt là đủ.

Khi còn ở đời, ai cũng chạy theo thứ hoa hòe bề ngoài. Có tiền thì sung sướng, không tiền thì khổ sở. Thế nên tính toán mọi cách để kiếm tiền. Rồi khi lòng truy cầu ham muốn nổi dậy thì tâm tánh sẽ hôn ám mê muội, hệt như kẻ say rượu vậy. Mọi việc ở đời đều không ra ngoài sự truy cầu, ham muốn; ai ai cũng vì kiếm ăn để sống cả.

Do đó, người xuất gia phải luôn phát khởi chánh niệm, suy tư đúng với chân lý; phải nói Pháp của Phật, như vậy mới giải thoát được.

Người tu chúng ta đừng nên tham lam thì mới trừ được phiền não, sân giận, si mê. Không nên có phong cách như người đời: ăn thì phải ăn ngon, ngủ thì phải ngủ đủ.

Người tu tự gọi mình là "bần tăng" (sư nghèo), là vì nếu cuộc sống càng giản dị bao nhiêu thì sự tu hành càng có tương ưng bấy nhiêu, chứ chẳng phải là càng giàu có sung túc hơn đâu. Nếu không như thế, cứ để lòng tham lam tồn tại, không chịu trừ khử; thì dù bạn nói mình tu hành, song vọng tưởng, phiền não từ lòng tham ấy vẫn ùn ùn kéo tới.

Người xuất gia và người đời khác nhau xa lắm. Người tu chẳng nói "đúng" hay "không đúng"; bởi "đúng" họ cũng nhận, mà "không đúng" họ cũng nhận. Cứ như vậy mà bạn tu hạnh Nhẫn-nhục, thì từ từ bạn sẽ trừ được ngã tướng.

Ở ngay giữa xã hội mà tu (ám chỉ kẻ tại gia), thì không dễ tu. Bởi vì áp lực của kẻ chung quanh sẽ làm bạn phải đồng ý theo họ; nếu không, họ sẽ công kích bạn. Do đó, người xuất gia thì tu có dễ dàng hơn.

Khi đã từng trải qua sóng gió trên trường đời, rồi mới vô chùa tiến tới một bước tu hành, làm hạnh Nhẫn-nhục, thì bạn dễ hòa đồng với kẻ khác lắm.

Hãy phát lòng tin, rằng: "Tôi nhất định phải thành Phật!" Nói ra như thế tức là có chí hướng thành Phật, thì bạn mới có động cơ khiến mình tinh tấn tu trì.
 
K

kequaduong

Guest

Ðừng luôn khoe khoang, nói về chính mình, vì cái bản ngã sẽ làm chướng ngại việc tu.

Ngoài đời, bạn thích mặc áo quần đẹp đẽ, song vô chùa thì những thứ ấy không còn thích hợp nữa. Ở chùa, bạn mặc thứ y phục mà không người đời nào muốn mặc. Thói quen nóng nảy, giận dữ của bạn cũng phải sửa đổi một chút mới được. Cứ tu, thì bạn sẽ cảm biết thấu suốt mọi sự.

Xuất gia: có chánh niệm. Ngoài đời: chẳng có chánh niệm.

Ði tu và ở đời khác nhau.

Sinh hoạt của người đời giống hệt như ban ngày nằm mộng, mà ban đêm cũng là mộng "chiêm bao giấc mộng sanh tử luân hồi".

Người đời có thể hưởng thụ khoái lạc, đi chơi đâu đó, xem ra như là sung sướng lắm. Song khi cơn vui qua rồi thì đầu óc lại quay cuồng với đủ thứ vọng tưởng, phiền não; tâm không thanh tịnh đặng.

Người tu tuy áo quần, ăn uống, chỗ ở đều chẳng sung sướng gì, nhưng hễ khi làm xong việc gì mình cũng có thể ngồi xuống xếp bằng tĩnh tọa, niệm Phật, tu trì, tâm thần thanh tịnh, không phiền não, tức là có thể đưa tới chánh niệm.

Áo quần, chỗ ở, ăn uống tuy không sung túc, song mình tu hành thì có sự thanh tịnh. Khi tâm mình không có vấn vương mọi thứ, mọi việc gì; cứ mỗi ngày đều đều như vậy; thì đó là chốn thanh tịnh. Người đời chỉ có thể ở trong chốn Ngũ-trược, xấu ác mà thôi.

Nhiều người đời hy vọng con cái mình có nhiều bạn bè trai gái, thì họ mới vui. Song con cái đối với cha mẹ thì không chút lễ nghĩa gì, mà cha mẹ cũng thì cũng rất dễ dãi với con cái. Nếu người xuất gia mà còn thói quen thế tục, thích kết nhiều bè bạn, thì sau này sẽ còn nhiều "màn kịch" để họ diễn nữa.

Ở đời đa số con cái ai cũng ỷ lại cha mẹ, nên không biết trời đất to lớn ra sao. Khi xuất gia thì xung quanh toàn là sư huynh sư đệ; người nào lo làm tròn bổn phận người nấy, mà mình cũng phải lo làm công việc được giao phó. Do đó, ai cũng có tánh tự lập.

Làm người mà chịu đi tu thì mới đáng giá. Bởi vì nếu không vậy, mình cứ ở xã hội, lập gia đình, sinh con đẻ cái, đến chết vẫn không buông xả được, và cũng không thanh thản ra đi đặng.

Người đời lấy khổ làm vui; đến lúc già rồi thì sợ chết, không buông xả đặng con cháu.

Người xuất gia chúng ta tuy tu Khổ-hạnh, song nếu vừa làm, vừa niệm Phật, thì lâu ngày chày tháng, mình sẽ thể hội được mọi chuyện trong sáu nẻo luân hồi. Khi ấy, mình sẽ sung sướng là đã may mắn được xuất gia.

Niệm Phật nhiều, đủ, thì trí huệ sẽ khai phát, sẽ giác ngộ; đến khi già mình sẽ không sợ chết vì mình đã có một Thế-giới Cực-lạc ở Tây-phương để tới

Nghiệp chướng của các bạn chồng chất như núi cao; không xuất gia thì bạn nào có cảm giác tới nó. Nhữ kẻ thiếu hiểu biết ngoài đời thì luôn luôn đi trên con đường tạo nghiệp. Người xuất gia thì đi con đường hết nghiệp, tiến thẳng tới Thế-giới Cực-lạc.

Cổ nhân dạy: "Một tấc Ðạo, chín tấc ma" (tức là Ðạo thì ít mà ma hay nghiệp chướng thì nhiều). Do đó, người tu càng tiến bước thì bao thứ ác niệm, thói hư tật xấu, từ nhiều đời trước sẽ nổi lên. Lúc ấy, bạn phải càng chịu khó chịu khổ hơn nữa thì mới từ từ làm nghiệp chướng tiêu tan. Ðến khi lâm chung, sen vàng sẽ hiện ra rước bạn về Tây Phương.

Người đời thì làm sao hiểu đặng, do đó họ cứ ngày ngày đeo đuổi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp - ngày ngày tạo nghiệp. Ðến khi lâm chung, quỷ La-sát hiện ra bắt họ, thì họ không đi cũng chẳng đặng.

Bây giờ mình không xuất gia tu hành, thì khi già mình cũng như cha mẹ mình: đầy dẫy phiền não, rồi rớt vào vòng luân hồi. Do đó, xuất gia là phải rồi ! Các bạn không nên chấp trước, chẳng chịu học tấm gương của kẻ đi trước.
 
K

kequaduong

Guest

Chương VIII: Cảnh Giới Của Chúng Sanh



1. Tâm Chúng Sanh

Vọng tưởng không có chủ tể. Phật (mới là bậc) có chủ tể.

Tu làm sao mà về già càng tu càng không quái ngại.
Hễ muốn vãng sanh thì chỉ nhắm mắt như ngủ là đi ngay.
Chúng ta đêm nào ngủ cũng tựa như cái xác chết, chẳng biết chuyện gì xảy ra xung quanh.
Sáng tỉnh dậy, mở mắt ra là lập tức bắt đầu tiến trình chấp trước; nhìn cái này là 'của ta', thấy cái kia là 'của mình'...

Các bạn không thể thấy được những thứ vô hình hài, vô sắc tướng; do đó không có hứng thú, không thích chúng.
Vì vậy, các bạn chỉ ham thích truy cầu thứ có sắc tướng mà thôi.

Lúc cha mẹ sinh bạn, bạn nào hay biết gì.
Khi lớn lên một chút thì bạn bị 'dính bụi trần', chấp chặt quan niệm về cái ngã liền.
Hễ chấp trước quan niệm về cái ngã thì sẽ có phiền não ngay. Song le,

'Xưa nay không một vật,

Làm sao dính bụi trần ?'


Những vị ở cõi Trời thấy chúng ta giống hệt như mấy con giòi đen, thứ giòi ở trong cầu tiêu. Ðức Phật A-Di-Ðà phát 48 đại nguyện là để tiếp độ mình tới Thế-giới Cực-Lạc; song mình cứ một mực tham luyến cõi Ta-Bà, cho khổ là vui, hệt như mấy con giòi đen (cho cầu tiêu ô uế là nơi đầy thú vị)!

Mình thấy cầu tiêu hôi hám không chịu nổi nên muốn vớt mấy con giòi ra, thả chúng vào chỗ nước trong trẻo. Song lũ giòi ấy lại tham luyến cái cầu tiêu ô uế hơn mọi thứ, thà chết chứ không chịu đi đâu cả !

Con người ta học làm điều xấu thì rất dễ; còn học làm chuyện tốt thì khó lắm.

Bốn loài chúng sanh hễ ăn no rồi thì ngủ, tâm lúc nào cũng tán loạn.
 
K

kequaduong

Guest

2. Thói Quen, Tập Khí


Kẻ thẳng thắn dễ khai mở trí huệ.

Cá tánh của mỗi người rất quan trọng.

Tánh tình tốt, hiền hòa, thì đi tới đâu cũng hòa đồng được với mọi người, tùy thuận được người khác. Song tùy thuận cũng có hạn lượng; bởi vì đối với kẻ làm việc xấu thì mình không thể tùy thuận làm theo, mà phải kiên định lập trường, nguyên tắc hành động.

Bản thân con người thì không xấu ác gì; chỉ có thói quen, tập khí là hư xấu.
Ai cũng có thói hư tật xấu, chỉ khác là kẻ ít người nhiều mà thôi.
Chỉ cần bạn hướng tâm tu Ðạo là đủ.
Hễ bạn có thể tha thứ cho ai, thì hãy tha thứ ngay.
Ðừng bao giờ cho người ta là hư xấu.

Anh A có thói hút thuốc, đi đâu cũng phì phà khói thuốc.
Anh B thì có thói đa nghi, lúc nào cũng nghi ngờ này nọ.
Có lần A hút trước mặt B. Anh B tức giận, nghi rằng anh A khinh khi mình; thế là hai đàng sanh ra cãi vã, xung đột.
May có anh C biết thói quen của hai người, nên đến giải hòa; khiến đôi bên từ đó sửa đổi, bỏ thói hút thuốc, bỏ tánh đa nghi.

Bởi vậy, thói xấu mà mình không tự nhận biết để sửa đổi, thì chỉ gây phiền não cho kẻ khác.
Tâm đa nghi chỉ hại mình, chướng ngại việc tu.
Khi thấy ai bất hòa, xung khắc, thì bạn chớ đổ dầu vào lửa khiến sự tình thêm rắc rối; mà phải luôn tìm cách giải hòa!

Có kẻ hay phê bình, chỉ trích, hoặc nói xấu người khác. Thật ra, y không tự hiểu việc làm của y là sai, mà y cũng không cố ý muốn chỉ trích, nói này nói nọ. Chẳng qua là do thói quen xấu mà y đã huân tập từ vô lượng kiếp về trước thúc đẩy, khiến y bất giác làm vậy.

Trước kia có một người, khi nói chuyện với ai anh ta cũng luôn nhìn ngang liếc dọc, làm ra vẻ thần bí; khiến người khác khi nhìn anh ta thì họ có cảm giác như anh ta đang nói xấu ai đó. Kỳ thực, nào phải vậy. Ðó chỉ là thói quen xấu mà thôi.

Do đó, làm việc gì bạn cũng phải tự tại, tự nhiên; nếu không, bạn có thể rước đủ thứ phiền hà vô ích vào thân.
 
K

kequaduong

Guest

3. Danh lợi và Chậm Chạp


Mỗi người, ai cũng đầy một bụng phiền não.

Xưa kia ở Ðại Lục (Trung Hoa), hễ người nào càng cố công tu hành, càng có căn cơ, thì càng bị thử thách nhiều lắm. Có kẻ cố ý dùng đủ thái độ vô lý lại chèn ép, khiêu khích người ấy. Hoặc có kẻ thấy người ấy gần hoàn thành một công trình gì đó thì tới phá hoại cho sụp đổ tan tành. Tuy nhiên, phải xem căn cơ của người ấy thế nào rồi mới thử thách đặng. Nếu thử thách kẻ không có căn cơ, bản lãnh, thì y sẽ sanh phiền não.

Ở Ðài Loan thì khó mà thử thách ai. Bởi vì hầu hết các Ni-cô đều xuất thân từ mái nhà ấm cúng của cha mẹ, quen thói nhõng nhẽo; cho nên đối với họ, chỉ phải dùng toàn phương pháp thế gian mà thôi.

Ðời xưa, có vị Sư Phụ muốn thử coi công phu tu hành của đệ tử. Ngài bảo đệ tử mang ngược dép lại.

Kẻ có căn cơ, trí huệ, liền quỳ xuống; thì Sư-Phụ từ bi chỉ dạy. Kẻ ngu si thì quả thật mang dép ngược lại ngay. Còn kẻ không có căn cơ thì lập tức nổi đóa, sinh phiền não; cho rằng Sư-Phụ sai lầm, cố ý làm cho y phiền não.

Khi kẻ có căn cơ nghe bạn nói về y (phê bình, chỉ trích, mắng nhiếc), thì y biết rằng đó chính là lời Sư-Phụ y đang dạy dỗ; do đó, y biết cầu sám hối.

Khi kẻ thiếu căn cơ nghe bạn nói về y, thì y lập tức đấu khẩu, hỏi gặng vì sao bạn dám nói động đến y; và rồi y sanh lòng tức tối, phiền não. Y sẽ nghĩ tới mái nhà ấm cúng của cha mẹ y, nào là được ăn ngon, mặc đẹp, lại được đi học..., những tấn tuồng cũ kỹ khiến y sẽ đọa lạc mãi trong luân hồi.

Hễ việc gì tới mà mình tỉnh ngộ, thấu triệt, thì mình là kẻ có căn cơ. Kẻ không có căn cơ thì việc gì (trái ý muốn, trái sở thích) đến với y, y đều sanh phiền não, bực bội.

Kẻ không có căn cơ thì phiền não cả đống. Dù bạn cố ý giải thích, y cũng không thể hiểu.

Không trừ phiền não thì chánh niệm (sự suy tư đúng với chân lý hay Phật lý) không thể hiện tiền.

 
K

kequaduong

Guest

Chương IX: Nhân Quả và Sám Hối


1. Nhân Quả

Chỉ biết ăn uống mà không biết tu hành, thì ăn nhiều vào, khó mà tiêu (nghiệp) đặng.

Vì sao con người luân hồi? Bởi vì Thất Tình (bảy thứ tình cảm hay trạng thái tâm lý), Ngũ dục quá nặng nề.

Khi bị Thất tình và Ngũ dục làm mê hoặc, thì cả ngày người ta chỉ biết truy đuổi tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, quyền vị, ăn uống, hưởng thụ và ngủ nghỉ. Phiền não cũng theo đây mà sinh, rồi từ đó tạo đủ thứ nghiệp.

Ðừng cho rằng không có luân hồi. Có! Rất khổ!

Khi xưa, hai ngài Hàn Sơn và Thập Ðắc (hóa thân của Bồ-tát Văn Thù và Phổ Hiền) thấy người ta đang làm lễ cưới thì vỗ tay cười lớn, nói rằng: 'Bạn thấy chàng rể cưới bà ngoại của anh ta không? Xem kìa, tụi nó ăn thịt cô, dì của chúng đấy!'

Mấy người kia nghe vậy liền mắng hai Ngài rằng: 'Hòa Thượng điên cuồng! Nói bậy!'

Nhưng khi Ngài Hàn Sơn kêu tên một con heo, thì con heo ấy chạy tới phía Ngài liền: xác nhận là có luân hồi rồi!

Những ai thích đẹp đẽ, đi giày cao gót, thì sau này (quả báo của tập khí đó) y tự nhiên sẽ đầu thai làm ngựa, không cần phải mang giày gì cả!

Một người cứ ăn cho thật no thì đầu óc hôn trầm, cứ muốn ngủ. Hễ ngủ nhiều quá thì sau này (quả báo) làm thân rắn.

Con trâu tuy làm việc cực nhọc mà nó lại không biết làm sao để thoát khổ. Làm thân trâu là nghiệp báo do kiếp trước làm quan (công chức, nhân viên nhà nước) không thanh bạch, không liêm khiết (ăn hối lộ), nên kiếp này phải trả nợ.

Có một người làm quan, rồi đem tiền của (kiếm được do làm việc bất chánh) trốn ra ngoại quốc. Cuối cùng y phải trả quả báo, đầu thai làm trâu ở Ðài Loan này.

'Một đời làm quan xấu,

Chín kiếp làm trâu đền nợ'.

Con trâu thì có hai sừng, mà cọp cũng phải kiêng sợ. Dần dần một ngày kia con trâu cũng sẽ hiểu biết. Như trâu cày ruộng bây giờ, cũng là giúp đỡ mình vậy.

Khi ai làm điều gì tốt, thì bạn đồng ý, tán thành với y. Song khi làm không tốt mà bạn cũng tánh thành, thì tội bạn sẽ tăng lên gấp bội.

Phải biết trân quý giấy trắng (có thể viết chữ). Hễ tờ giấy nào có viết chữ kinh điển thì đừng vất trong thùng rác; nên đốt nó đi. Ðây cũng là một thứ đức hạnh.

Hãy giữ gìn những chữ viết trên giấy hay trên áo; dù là một chữ nhỏ cũng phải quí giữ nó. Chữ thêu trên áo thì nên cắt ra rồi đốt đi, đừng vất vào thùng rác. Biết quý trọng chữ như vậy thì (quả báo) mới biết đọc chữ. Ðó cũng là một đức hạnh vậy!

Xưa kia, cổ nhân dạy trung, hiếu, lễ, nghĩa, liêm, sỉ; do đó sản sinh ra rất nhiều bậc Thánh. Ngày nay, không ai dạy về những đạo đức nhân nghĩa ấy nữa, nên thời đại trở nên hỗn loạn. Do đó, đối với các sách kinh, luận dạy về đạo đức cổ xưa ấy, mình phải biết quý trọng.

Ðồ vật tốt mà bạn không biết sử dụng cho đúng đắn, đàng hoàng (không biết giữ gìn, bảo trì), rồi làm nó hư đi; thì đó là lỗi bạn. Bạn phải gánh chịu hậu quả hoặc quả báo.

Khi xử lý, quyết định thi hành, hoặc tiến hành bất kỳ công việc gì, bạn phải hết sức cẩn thận, bởi vì cái gì cũng có nhân quả. Ví như những thức còn ăn được mà bạn lại vất đi hoặc để cho thiu thối, thì bạn phải chịu quả báo của việc làm ấy. Nhân quả thì không sai chạy mảy may, và không ai có thể chịu dùm quả báo của bạn:

Việc sanh tử của người nào thì người nấy lo; Cơm, ai ăn thì người đó no!

Có đồ vật tốt thì chớ làm cho nó hư hỏng. (Ðừng cố ý làm hư; đừng lơ là, thiếu cẩn thận, thiếu tinh thần trách nhiệm; hoặc không chịu học hỏi phương cách đúng đắn để sử dụng hay bảo trì; cũng đừng chểnh mảng, bê bối, coi rẻ, chẳng quý trọng tài vật.)

Phật, Bồ Tát, La Hán, Trời, Người, A-Tu-La, Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, đều là do người mà ra. Hễ ai tu hành đàng hoàng thì sanh vào đường tốt; tu bê bối, phạm Ngũ Giới, thì đọa lạc đường ác.
 
K

kequaduong

Guest

2. Sám Hối


Khó được thân người; khó được nghe Phật Pháp. Nay được thân người, phải gắng tu hành cho đàng hoàng.

Những vị ở Trời tuy hưởng phước đức, song hễ họ khởi một ý niệm xấu thì sẽ bị đọa lạc. Ðối với chúng ta, nếu mình có phạm tội lỗi, chỉ cần thành tâm sám hối thì cũng sẽ được trong sạch như người vô tội vậy. Cõi Người là cõi tu hành tốt nhất: được nghe Phật Pháp, được biết cách làm sao để tu.

Khi ý niệm xấu khởi lên, nếu bạn chưa nói ra và chưa làm theo nó, thì bạn có thể sám hối trong lòng, quyết không tái phạm.

Hỏi: Khó mà giữ ý nghiệp cho thanh tịnh, vì thói hư tật xấu tiêm nhiễm, tích tập từ kiếp vô thủy, nay gặp duyên xấu nên tự nhiên hiện khởi. Lúc ý niệm xấu ấy khởi lên, mình tức khắc sám hối, thì có phải chịu quả báo xấu không?

Ðáp: Ý niệm ác chỉ mới nghĩ trong tâm, nếu sám hối liền thì không có quả báo xấu lại. Nếu ý niệm xấu đã thể hiện ra nơi miệng (khẩu nghiệp), hoặc mình đã thực hành nó rồi (thân nghiệp), thì sẽ phải chịu quả báo. Mỗi giây mỗi phút mình phải có tâm sám hối; có tâm sám hối thì ý niệm lành mới khởi lên đặng.

Nói với người tu thì phải xem căn cơ của họ ra sao rồi mới nói.

Ví như đối với kẻ có căn cơ thì mình nói: 'Phạm tội lỗi rồi, bạn có thể sám hối. Tội do tâm tạo ra, vì vậy hãy thành tâm mà sám hối.' Như thế thì người kia tuy có tội lỗi, song y có thể sám hối rồi trở lại thanh tịnh: không còn tái phạm, dụng tâm tu Chánh Ðạo.

Ðối với những kẻ không có căn cơ, mình nói thế không ổn. Bởi vì dạy họ như vậy, họ cho rằng cứ việc mặc tình tạo tội lỗi, rồi tâm sám hối là xong ngay! Vì thế họ vĩnh viễn không cách gì thành tâm sửa đổi lỗi lầm được, dù cho họ có sám hối mãi hoài!

Giới luật có đặt ra trường hợp ngoại lệ, không phải phạm nguyên tắc. Bạn phải học cho kỹ để tránh hiểu lầm.

Nếu bạn vô ý phạm lỗi thì có thể sám hối. Cố ý phạm lỗi thì không thể sám hối (Vô ý phạm lỗi là chỉ lúc chưa xuất gia, chưa biết Giới Luật. Cố ý phạm lỗi là chỉ sau khi đã xuất gia rồi). Sám hối một thứ tội gì đó không được vượt quá ba lần (nghĩa là không được tái phạm quá ba lần).

Ðối với ý-nghiệp thì mình không sợ niệm ác khởi lên: chỉ sợ là mình thức tỉnh, nhận biết nó chậm mà thôi. Do đó, hễ vừa khởi ác niệm thì phải lập tức sám hối ngay.

Một khi đã phạm lỗi, mình phải luôn nhận rằng: 'Tôi làm lỗi'; rằng 'Tôi xin sám hối'; rằng 'Xin bạn hãy dạy tôi.' Ðừng sanh phiền não thì mới hết ngã tướng, và không có ý niệm xấu ác dấy khởi.

Một kẻ càng tu hành bao nhiêu, càng luôn có cảm giác là y cần phải sám hối bấy nhiêu.

Cá lớn ăn cá nhỏ. Con người cũng như cá lớn: cái gì cũng ăn, dù là thịt cọp cũng ăn luôn; vì thế nên nghiệp chướng sâu dày. Nếu không khéo thành tâm sám hối, lạy Phật cho nhiều, thì đến lúc Ðức Di Lặc hạ sinh ở cõi này (ý nói là trải qua một thời gian lâu lắm), mình cũng không có chút căn lành gì đâu.

Nếu biết tu hành, lạy Phật nhiều nhiều, cầu nguyện sám hối, rộng trồng căn lành, thì biết đâu tới lúc Ðức Di Lặc hạ sinh, mình có thể được làm đệ tử của Ngài!
 
K

kequaduong

Guest

Chương X: Lời Cuối




1. Thời Ðại Ðã Thay Ðổi Rồi !

Thầy giáo ngày nay và ngày xưa khác nhau xa lắm.

Thời Hán, thầy giáo thì kính trọng đạo đức, lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Thời nay, thầy giáo bản thân không làm xong (không đủ đức độ). Phật học ngày nay cũng kém xa ngày xưa.

Hồi xưa ai cũng coi trọng lễ, nghĩa, liêm, sỉ; do đó mới có bậc Thánh Nhân xuất hiện.

Ðời nay không ai những điều ấy là giá trị, vì vậy xã hội ngày càng hỗn loạn. Do đó mình phải có thái độ cung kính đối với kinh điển.

Ngày xưa có người họa sĩ có thể vẽ hình mặt trời hệt như thật, đến độ người ta có thể đem lúa ra phơi dưới bức tranh ! Có kẻ vẽ con chim vô cùng sống động, đến độ nó có thể bay thật sự ! Sở dĩ họ làm như thế được là do tu luyện mà ra.

Người thời nay ai mà vẽ được con chim biết bay thực sự ? Ai ai cũng ỷ lại vào kỹ thuật máy móc hoặc hóa học chế biến cả !

Hiện nay, Phật-giáo trên toàn thế giới đại thể thì có hoằng Pháp, truyền bá. Song le, tuy đạo Phật phổ biến như vậy, nhưng lại rất khó tìm được kẻ chân chánh tu hành. Cũng có kẻ sớm đến với Ðạo, thiện căn khá tốt; song, kẻ xuất gia thì vẫn ít.

Xưa kia, ở chùa bên Ðại Lục (Trung Quốc), việc xuất gia không có dễ dàng đâu. Hễ vừa đi tu là bạn phải làm việc lao động tay chân ở chùa một thời gian (khổ công như cày ruộng, cuốc đất..), rồi sau đó mới được phép làm những việc nhẹ trong chùa.

Ở Ðài Loan (Trung Hoa), việc xuất gia rất phổ biến, rất bình thường; và phần lớn là căn cứ theo học vấn mà xét việc xuất gia.

Ở Ðại Lục xưa kia, xuất gia là để liễu thoát sanh tử: do đó, tu hành cực khổ, học cái khổ hạnh của Phật, Bồ Tát để tu luyện bản thân. Tại Ðại Lục, kẻ xuất gia phải chịu làm việc lao tác cực khổ (khổ hạnh) trong ba năm; có chịu cực khổ thì mới giải thoát được !

Người nay và người xưa khác nhau xa: cổ nhân, Ðạo-tâm có mười phần; người đời nay, Ðạo-tâm chỉ có một phần.

Người tại gia hay xuất gia đời nay sinh hoạt sung sướng, tốt lắm. Khi cuộc sống quá sung sướng thì sẽ sinh ra nhiều tai nạn. Chấp trước vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thì bịnh hoạn cũng sẽ nhiều hơn.

Ăn cơm đạm, mặc áo thô: tu hành là cứ ở đây mà dụng công. Song hiện tại, ai ai cũng nghiên cứu việc ăn ngon, mặc đẹp. Cả ngày bận rộn vì mấy chuyện ấy. Mình nguyện muốn tiêu nghiệp chướng, nay biến thành tiêu hao mất phước huệ; rồi thì nghiệp chướng cũng theo đó mà ùa tới thôi.

Xưa kia cơm, canh, rau cải, thật giản dị - cứ việc bỏ hết vào luộc là xong (gọi là La-hán thái). Giờ đây, ai cũng chú ý, kén chọn việc ăn uống đến độ người xuất gia ăn còn ngon hơn cả kẻ thế tục nữa !

Hồi xưa, ở Ðại Lục, các thầy tu ở chùa mặc thì mặc áo vải bố (thứ vải mặc làm đám tang) nhuộm thành màu xám; ăn thì ăn cháo lỏng như nước lã (do đó chén bát không cần phải rửa kỹ), cộng thêm một chút đồ ăn giản dị; chứ không phải như các bạn bây giờ được ăn cơm trắng, lại có đủ món, nhiều món ăn như vậy.

Chùa chiền ở Trung Hoa xưa kia, hễ ai để đồ đạc bừa bãi thì chùa đều gom góp, tịch thâu lại, bất kể là của ai. Nếu bạn muốn tìm đồ mình mất thì phải đi hỏi Thầy Quản-lý.

Ở chùa bên Trung Hoa khi xưa, khi có ai phạm lỗi lầm, Thầy Quản-lý không cần phải nói dông dài gì cả, mà chỉ việc viết tên người ấy lên bảng bố cáo; người ấy đọc được là tự động rời chùa ngay.

Thời nay, Thầy Quản-lý có tới nói lỗi lầm của bạn (để mời bạn cuốn gói), bạn (chẳng những không thèm nghe) lại còn tranh chấp cãi vã với thầy ấy nữa; thật là sai lệch quá xa !
 
K

kequaduong

Guest

2. Khai Thị Ngộ Nhập


Tự mình sanh phiền não, tự mình phải giải mở. Hãy đem lời Sư-Phụ khai thị ra áp dụng.

Sư-Phụ khai thị nhiều như vậy, giờ đây xem bạn thọ trì ra sao.

Kẻ biết nghe, khai thị mới có ích. Kẻ không biết nghe, khai thị cũng vô dụng.

Nghe giảng khai thị, không luận là nghe nhiều hay nghe ít, mà là coi xem nghe vào hay không vào (tâm). Nghe vào tâm rồi thì phải biết áp dụng.

Bạn nghe lời khai thị của Sư-Phụ hay quá. Song hay là Sư-Phụ hay (chứ không phải bạn hay). Vẫn phải cần bạn đem thực hành.

Các bạn lạy tôi làm Thầy; tôi dạy các bạn Phật Pháp. Khi tôi không còn ở đời, các bạn phải theo thứ Pháp này mà tu hành thì Ðạo-tâm mới kiên cố, con đường xuất gia mới viên mãn.

Khi học Phật Pháp, bạn nghe Sư-Phụ khai thị cho một câu thì tự mình phải làm sao giác ngộ, lãnh hội được câu ấy. Không phải cần nhiều lời. Khi lời nhiều thì các bạn vẫn còn bị xoay chuyển.

Hỏi: Sau khi Sư-Phụ viên tịch, nếu chúng con tưởng nhớ Sư-Phụ thì phải làm sao ?

Một thầy (Thầy Truyền Vân) phát biểu: 'Chính Phật-tánh của Sư-Phụ nói Pháp, khai thị cho chúng ta; chứ không phải là cái thân giả hợp của Ngài. Có nhớ tưởng tới Ngài thì mình hãy phát tâm dũng mãnh, tinh tấn tu hành!'

Lời tôi giảng là nhắm thẳng vào các bạn. Ðừng nghĩ rằng tôi nói lỗi xấu của riêng bạn hay của người nào đó, rồi sinh ra phiền não, bực bội.

Nếu bạn có lỗi thì hãy tự thừa nhận, sám hối, phản tỉnh, sửa đổi tánh nết, hành vi.

Cứ thường chấp trước thì dễ sinh phiền não. Bạn có phiền não, rồi lại ảnh hưởng, làm kẻ khác cũng bực bội, rồi cả đại chúng đều sinh loạn. Thế thì làm sao 'thống lý đại chúng' làm cho mọi người hoà hợp ? Phải sửa mình, tề gia trước, rồi sau mới trị quốc, sửa người được.

Kẻ có tánh thẳng thắn thì tuy lời nói không êm tai, không dễ nghe cho cho lắm, song bạn chớ cho là lời xấu ác. Có kẻ ăn nói hay ho lắm, song tâm thì không tốt gì cả. Do đó, bạn phải chú ý, phải hiểu suốt tâm lý nhân tình.

Nhiều khi kẻ trực tâm lời nói không có ý xấu gì cả, song người nghe thì cong vạy, khúc mắc, xuyên tạc; thậm chí còn cho rằng anh ta suy nghĩ phức tạp lắm nữa.

Ðừng nên nghe người bừa bãi. Ðừng nghe bên này nghe bên nọ rồi không biết ai đúng ai sai. Khi tâm bạn không tự làm chủ thì dễ thành tán loạn, dấy vọng tưởng, sinh phiền não.

Nghe cũng phải biết cách: cần nghe Phật Pháp, chớ nghe chuyện thế tục.

Nghe Phật pháp thì được giải thoát, không còn ngã tướng, không còn cái 'tôi'. Nghe chuyện trần tục tức là có chuyện thị phi, phát sinh ra tướng ngã (có 'tôi', có 'anh'; có 'đúng', có 'sai'). Ðó là chủng tử xấu, về sau khó tẩy trừ.

Lời nói đúng sự thật thì bạn mới nên nghe. Lời không đúng chân lý mà bạn nghe vào, thì có thể gieo ảnh hưởng xấu cho kẻ khác, mà tự mình phải gánh chịu quả báo.

Kẻ biết nghe, thì chỉ một hai lời nói là y hiểu ngay; không cần phải kể lể rườm rà.

Khi xưa mấy thầy giảng kinh, họ đều dành lại một phần để người nghe tự tìm hiểu và thể hội. Họ không giảng hết, cũng không kể chuyện cổ tích dài dòng.

Kẻ có căn cơ, thì bạn nói gì là y nghe ngay. Kẻ không có căn cơ thì khi nghe bạn nói, y liền tán dóc, lép nhép không ngừng.

Tự mình phải giác ngộ bản lai diện mục của mình. Nghe (giảng khai thị) chỉ là cảnh giới của Lục trần mà thôi.
 
K

kequaduong

Guest

3. Pháp Ngữ


Hỏi: Mỗi ngày trì Chú, lạy Phật, lại tu thêm Pháp-Hoa Tam-Muội, song tâm vẫn còn lăng xăng, tạp nhạp là vì sao ?

Ðáp: Mình không tự chủ thì không xong. Chuyên tâm niệm Phật, trì Giới, lạy Phật là đủ !

Hễ công việc, sự tình càng nhiều thì bạn càng chấp trước, tâm càng không an định. Ðừng chấp trước vào cái hay cái tốt của kẻ khác. Kẻ có căn cơ thì khi nhìn điều xấu xa của người, y biết vận dụng (tránh phạm cùng lỗi) để tu tiến bộ hơn. Kẻ không có khả năng thì chỉ sinh thêm phiền não.

Muốn định tâm, rất khó. Do đó phải tìm cái tâm bất sanh bất diệt, đừng tìm những thứ sanh diệt bên ngoài. Cần tìm cái mà xưa nay tự-tánh sẵn có. Tất cả mọi thứ nghe được, thấy được, ở bên ngoài, đều không dính dấp gì tới mình (chân-tánh) cả.

Hình tướng người Tỳ-Khưu là hình tướng Phật. Hễ thấy thầy Tỳ-Khưu tới, bạn nên lập tức chắp tay đón chào, lễ lậy. Không cần phải phân biệt, đánh giá thầy này có tu hành, thầy kia không tu hành.

Biết tụng niệm, gõ khánh, đánh chuông là việc rất tự nhiên; không cần để tâm học tập. Khi trí huệ khai mở thì tự nhiên bạn biết làm ngay.

Trong Tam Giáo (Nho, Lão, Phật), thì Nho-giáo dạy đạo đức, lễ, nghĩa, trung, hiếu. Lão giáo tuy cũng dạy tu Ðạo, song không dạy Phật-lý (chân lý cứu cánh), nên không giải thoát. Cuối cùng chỉ có quy nạp về Phật-môn Tịnh-Ðộ (của Phật-giáo), cầu vãng sanh, thì mới liễu thoát sanh tử.

Phật-giáo và Lão-giáo (Ðạo-giáo) rất khác biệt nhau. Tu đạo Phật là vì liễu sanh tử. Tu đạo Lão là để trường sanh bất lão. Song, dù sống tới trăm ngàn tuổi vẫn không phải cứu cánh, vì không thoát được sanh tử.

Trong đạo Lão cũng có nhiều người tu rất tinh tấn, chứng được thân La-hán (như Lã-Ðông-Tân, Hán-Chung-Ly); song, thân La-Hánh của họ không phải cứu cánh. Các vị La-hán bên Phật giáo thì đã đoạn được hai thứ kiến-hoặc và tư-hoặc (Kiến và Tư hoặc là hai thứ si mê của cái nhìn và của tâm tư khiến mình không thấy được Phật-tánh. Hai thứ si mê này rất thâm sâu vì được hình thành và nuôi dưỡng từ nhiều đời nhiều kiếp bởi thói quen và chủng tử ô nhiễm lầm lẫn rằng thật có cái 'ta' và vạn pháp), siêu thoát luân hồi. Bên Ðạo-giáo, nhiều vị được thân La-hán cũng không phải chết, có khi họ sống trong núi đến hàng trăm năm.

Chúng ta cốt yếu cần tu để giải thoát sanh tử. Do đó, mình cần phải xả thân, đừng sợ cái thân này cực khổ. Phải nhớ rằng, tu đạo Phật là tu để ba nghiệp (thân, khẩu, ý - hành động, lời nói, ý nghĩ) được thanh tịnh, sáu căn được trong sạch, thoát khỏi cái khổ cả sanh, già, bệnh, chết.
 
K

kequaduong

Guest

4. Lời Của Thầy Truyền Văn


Ðừng chấp trước tốt, xấu. Ðừng rớt vào cực đoan (nhị biên: vui-buồn, hay-dở, đúng-sai...), Nếu chấp trước vào chuyện xấu, thì vĩnh viễn bạn sẽ bị tắc nghẽn ở chỗ ấy, không thể tiến bộ. Ví như bạn có làm lỗi lầm gì, trong tâm cảm thấy rất thống khổ, hối hận; rồi cứ âu sầu mãi, không thể mở rộng tấm lòng. Nếu bạn cứ mãi ôm chặt chuyện dĩ vãng, thì không thể nào an tâm tu Ðạo được.

Mọi việc đều là huyễn hóa (như hình ảnh, cảnh tượng hiện ra trong bọt xà-bông), đều là không thật. Việc đã qua rồi thì thôi. Cứ chấp chặt, ôm ấp mãi thì chỉ phiền não.

Nguyện thì phát ở trong lòng: không phải đem ra nói. Lòng cần nghị lực, theo nguyện mà làm.

Gặp cảnh tốt hay xấu, chớ có phản ứng ra ngoài mặt: trong lòng biết là đủ.

Sư-Phụ dạy rằng Ngài giống như một cây cầu. Ngài đã đi trước, dựng lên cái cầu để mình đi qua. Ngài không dám tự cho rằng Ngài dạy ai cả. Ngài nói Ngài chỉ kể lại những kinh nghiệm trong quá trình tu hành cho mình nghe, để mình nghiên cứu, học hỏi mà thôi ./.


HẾT
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.
Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên