Căn Bản Trung Quán Luận- Thánh Thiên Bồ Tát chú giải

Kim Cang Thoi Luan

Registered
Phật tử
Tham gia
13 Thg 8 2018
Bài viết
932
Điểm tương tác
210
Điểm
43
nagarjuna-nagas2.JPG
Phẩm thứ 21: QUÁN VỀ THÀNH HOẠI
(Gồm 20 kệ)
Hỏi: Tất cả việc thế gian hiện rõ là tướng hoại diệt. Thế nên có hoại chăng?
Đáp: Lìa thành và cùng thành
Trong đó không có hoại
Lìa hoại và cùng hoại
Trong đó không có thành.
*Hoặc có thành hoặc không thành đều không có hoại.
-Hoặc có hoại hoặc không hoại đều không có thành. Vì sao?
Nếu như lìa nơi thành
Làm sao mà có hoại
Như lìa sinh có tử
Việc ấy tức không đúng.
Nếu thành hoại cùng có
Thì sao có thành hoại
Như sinh tử thế gian
Cùng lúc đều không đúng.
Nếu như lìa nơi hoại
Làm sao nên có thành
Vô thường chưa từng có
Lúc nào rời khỏi pháp.
*Nếu lìa thành thì không có hoại. Vì sao?
-Vì “nếu lìa thành” mà có hoại thì “không nhân nơi thành” có hoại, hoại ấy tức “không nhân”.
-Lại, không có pháp thành mà có thể hoại. Vì sao?
-Vì thành là do các duyên hợp, hoại là do các duyên tan.
-“Nếu lìa thành” có hoại, vậy không thành thì cái gì sẽ hoại.
-Như không có bình thì không thể nói là bình vỡ.
-Thế nên lìa thành không có hoại.
-“Nếu cho chung với thành có hoại” thì cũng không đúng. Vì sao?
-“Vì pháp trước thành riêng” mà sau có hợp, “pháp hợp không lìa khác”.
-“Nếu hoại lìa khác” thì “hoại ấy không có nhân”.
-Vì vậy chung với thành cũng không có hoại.
-Nếu lìa hoại chung với hoại không có thành, hoặc lìa hoại có thành, thì thành ấy là thường, thường thì không có tướng hoại.
-Nhưng thật sự thì không thấy có pháp nào thường, không có tướng hoại.
-Vậy nên lìa hoại không có thành.
-Nếu cho chung với hoại có thành thì cũng không đúng.
-Vì thành và hoại trái nhau, làm sao trong một lúc cùng có.
-Như người không thể cùng một lúc vừa có tóc vừa không có tóc.
-Thành và hoại cũng như vậy.
-Do thế chung với hoại có thành, việc ấy là không đúng. Vì sao?
-Vì nếu cho người phân biệt pháp nói trong thành luôn có hoại, việc ấy là không đúng. Vì sao?
-Vì nếu trong thành luôn có hoại, thì không thể có pháp trụ. Nhưng thật sự là có trụ.
-Thế nên nếu lìa hoại chung với hoại thì không thể có thành.
Lại nữa,
Thành hoại chung, không thành
Lìa cũng không có thành
Cả hai đều không thể
Làm sao mà có thành.
*Nếu thành và hoại chung nhau cũng không có thành.
-Lìa nhau cũng không có thành.
-Nếu chung nhau thành, thì hai pháp trái nhau làm sao một lúc cùng có.
-Nếu lìa nhau thì “không nhân”, hai môn đều không thành, làm sao sẽ có thành, nếu có thì nên nói.

Hỏi: “Hiện có pháp của tướng tận diệt”, pháp của “tướng tận diệt ấy cũng nói là tận”, cũng nói là “không tận”. Như thế tức nên có thành, hoại chăng?
Đáp: Tận tức không có thành
Không tận cũng không thành
Tận tức không có hoại
Không tận cũng không hoại.
*Các pháp trong ngày đêm niệm niệm luôn diệt tận, trôi qua như dòng nước không dừng trụ, đó tức gọi là tận.
-Việc ấy không thể chấp giữ, không thể nói nêu, như dợn nắng (Dương diệm) không có tánh quyết định có thể thủ đắc.
-Như vậy, diệt tận không có tánh quyết định làm sao phân biệt được để nói là có thành.
-Vì thế nói tận cũng không thành.
-Thành không có nên không có hoại.
-Do vậy nói tận cũng không có hoại.
-Lại, niệm niệm sinh diệt luôn nối tiếp không dứt, nên gọi là không [cùng] tận.
-Như thế pháp quyết định thường trụ không dứt làm sao phân biệt được để nói nay là lúc thành.
-Vì thế nói không tận cũng không có thành.
-Do thành không có nên không có hoại.
-Do thế nói không tận cũng không có hoại.
-Suy tìm như vậy thật sự là không thể thủ đắc, nên không có thành hoại.

Hỏi: Xin gác lại việc thành hoại. “Chỉ khiến có pháp” thì có lỗi gì?
Đáp: Nếu lìa nơi thành hoại
Là cũng không có pháp
Nếu lại lìa nơi pháp
Cũng không có thành hoại.
Lìa thành hoại không có pháp:
-Nếu “pháp không thành không hoại”, thì pháp ấy hoặc là không có, hoặc là thường.
-Nhưng “ở thế gian không có pháp thường”, nên ông nói lìa thành hoại có pháp là không đúng.

Hỏi: “Nếu lìa pháp”, chỉ “có thành hoại”, thì có lỗi gì?
Đáp: Lìa pháp mà có thành hoại là cũng không đúng. Vì sao?
-Vì nếu lìa pháp thì cái gì thành cái gì hoại.
Lại nữa,
Nếu tánh pháp là không
Cái gì có thành hoại
Nếu như tánh chẳng không
Cũng không có thành hoại.
-Nếu tánh của các pháp là không, đã không thì đâu có thành hoại.
-Nếu tánh của các pháp chẳng không, đã chẳng không thì quyết định có, cũng không thể có thành hoại. Lại nữa,
Nếu thành hoại là một
Việc ấy tức không đúng
Thành hoại nếu là khác
Việc ấy cũng không đúng.
-Suy tìm thành hoại là một tức không thể được. Vì sao?
-Vì có tướng khác, vì có vô số phân biệt.
-Lại, thành hoại là khác cũng không thể được. Vì sao?
-Vì không có riêng biệt, vì cũng không có nhân. (nhân cho nhau)
Lại nữa,
Nếu cho do mắt thấy
Mà có sinh có diệt
Thì đó là si vọng
Mà thấy có sinh diệt.
-Nếu cho do mắt thấy có sinh diệt, thì vì sao dùng ngôn thuyết để phá?
-Việc ấy là không đúng. Vì sao?
-Vì mắt thấy có sinh diệt, tức là do ngu si điên đảo.
-Phải thấy tánh của các pháp là không, không có quyết định (không có tự tánh), như huyễn như mộng.
-Nhưng phàm phu do nhân duyên điên đảo đời trước chiêu cảm có mắt ấy, đời nay do nhân duyên nhớ tưởng phân biệt, nên nói mắt thấy có sinh diệt.
-Trong đệ nhất nghĩa thật không có sinh diệt.
-Việc này đã luận phá và nói rộng trong phẩm Tướng.
Lại nữa,
Từ pháp không sinh pháp
Cũng không sinh “phi pháp” (chẳng pháp)
Từ phi pháp không sinh
Pháp cùng với phi pháp.
*Từ pháp không sinh pháp:
-Là “nếu pháp trước đi đến” “sinh pháp sau”, hoặc “pháp trước diệt mất” “pháp sau sinh”, cả hai đều không đúng.
-Từ “pháp sinh pháp”, hoặc đi đến, hoặc diệt mất, tức là “không có nhân”. (nhân cho nhau)
-Không có nhân thì rơi vào chấp đoạn thường.
-Nếu “nói pháp trước đi đến”, nên gọi là từ pháp sinh pháp.
-Vì pháp ấy đến rồi mà gọi là sinh, thế tức là thường.
-Lại sinh rồi lại sinh.
-Lại cũng là “không có nhân” mà sinh. Việc ấy là không đúng.
-Nếu nói pháp trước đã diệt mất, nên gọi là từ pháp sinh pháp, tức là “mất nhân là pháp sinh” “không có nhân”.
-Thế nên từ pháp trước diệt mất cũng không sinh pháp sau.
-Từ pháp không sinh phi pháp:
-Phi pháp gọi là không có gì.
-Pháp gọi là có.
-Làm sao từ có tướng sinh ra không tướng.
-Do thế “từ pháp” không sinh “phi pháp” (chẳng pháp).
-Từ phi pháp không sinh pháp:
-Phi pháp gọi là không có gì.
-Không có làm sao sinh ra có.
-Nếu từ không sinh có, tức là không có nhân.
-Không nhân là có lỗi lớn.
-Thế nên không từ “phi pháp” (chẳng pháp) sinh pháp.
-Không từ phi pháp sinh phi pháp:
-Phi pháp gọi là không có gì.
-Làm sao từ không có gì sinh ra không có gì.
-Như sừng thỏ không sinh lông rùa.
-Vì vậy không từ phi pháp sinh phi pháp.


Hỏi: Pháp và phi pháp tuy có vô số phân biệt nên không sinh, chỉ pháp có thể sinh pháp chăng?
Đáp: Pháp không từ tự sinh
Cũng không tha sinh
Không từ tự, tha sinh
Làm sao mà có sinh.
*Pháp khi chưa sinh thì không hiện có.
-Lại tức tự nó không sinh, nên pháp không tự sinh.
-Nếu pháp chưa sinh tức cũng không có tha (cái khác).
-Không có cái khác nên không thể nói từ tha sinh.
-Lại pháp chưa sinh thì không có tự, không có tự nên cũng không có tha, cộng chung thì cũng không sinh.
-Nếu cả ba cách đều không sinh thì làm sao nói từ pháp có pháp sinh?
Lại nữa,
Nếu có người thọ pháp
Tức rơi nơi đoạn thường
Nên biết pháp được thọ
Là thường là vô thường.
*Người thọ pháp là người phân biệt cho đó là thiện, là bất thiện, là thường, là vô thường v.v...
-Người ấy tất rơi vào hoặc thường kiến, hoặc đoạn kiến. Vì sao?
-Vì pháp được thọ có hai thứ là thường hoặc vô thường. Cả hai đều không đúng. Vì sao?
-Vì nếu thường tức rơi vào biên thường.
-Nếu vô thường tức rơi vào biên đoạn.



Hỏi: Người thọ pháp hiện có
Không rơi nơi đoạn thường
Vì nhân quả nối tiếp
Không đoạn cũng không thường.
*Có người tuy tín thọ, phân biệt nói các pháp nhưng không rơi vào đoạn thường. Như kinh nói năm ấm là vô thường, khổ, không, vô ngã nhưng không rơi vào đoạn diệt. Tuy nói tội phước vô lượng kiếp số không mất, nhưng không phải chấp thường. Vì sao? Vì pháp ấy là nhân quả thường sinh diệt nối tiếp nên qua lại không dứt. Vì sinh diệt nên không thường, vì nối tiếp nên không đoạn.
Đáp: Nếu nhân quả sinh diệt
Nối tiếp mà không đoạn
Vì diệt lại không sinh
Nhân tức là đoạn diệt.
*Ông cho các pháp vì là nhân quả nối tiếp nên không đoạn không thường.
-Nhưng nếu pháp diệt thì nó đã diệt rồi, không còn sinh nữa, tức là “nhân” đã đoạn.
-Nếu “nhân” đã đoạn thì làm sao có nối tiếp, vì pháp đã diệt không sinh.
Lại nữa,
Pháp trụ nơi tự tánh
Không nên có có không
Niết-bàn diệt nối tiếp
Tức rơi vào đoạn diệt.
*Khi pháp quyết định ở trong tướng có của nó, bấy giờ không có tướng không.
-Như bình quyết định tại tướng bình, khi ấy không có tướng hoại mất.
-Tùy lúc có bình thì không có tướng hoại mất.
-Lúc không có bình cũng không có tướng hoại mất. Vì sao?
-Vì không có bình thì không có gì để hoại.
-Do nghĩa ấy nên tướng hoại diệt không thể có.
-Nhưng lìa diệt cũng không có sinh. Vì sao?
-Vì sinh và diệt nhân đối đãi nhau nên có.
-Lại có các cái lỗi như chấp thường v.v...
-Do thế không thể nơi một pháp mà có cả có, không.
-Lại ông trước nói, vì nhân quả sinh diệt nối tiếp nên tuy thọ các pháp nhưng không rơi vào chấp đoạn chấp thường. Việc ấy là không đúng. Vì sao?
-Vì ông nói nhân quả nối tiếp nên có ba hữu nối tiếp.
-Diệt sự nối tiếp ấy gọi là Niết-bàn.
-Nếu như vậy thì khi đạt Niết-bàn là rơi vào đoạn diệt, do diệt ba hữu nối tiếp.
Lại nữa,
Nếu hữu đầu đã diệt
Tức không có hữu sau
Hữu đầu nếu không diệt
Cũng không có hữu sau.
*Hữu đầu là sinh mạng của đời này. Hữu sau là sinh mạng của đời vị lai.
-Nếu hữu đầu diệt tiếp có hữu sau, tức là hữu sau ấy “không có nhân”, nên việc ấy là không đúng.
-Vì thế không thể nói hữu đầu diệt là có hữu sau.
-Nếu hữu đầu không diệt cũng không thể có hữu sau. Vì sao?
-Vì nếu hữu đầu chưa diệt mà có hữu sau, tức là trong một lúc có hai hữu, việc ấy là không đúng.
-Thế nên hữu đầu không diệt không có hữu sau.
Căn Bản Trung Quán Luận- Long Thọ Bồ Tát, Thánh Thiên Bồ Tát chú giải

Hỏi: Hữu sau không do hữu đầu diệt mà sinh, chẳng do không diệt mà sinh, thì chỉ sinh trong khi diệt chăng?
Đáp: Nếu khi hữu đầu diệt
Mà hữu sau được sinh
Khi diệt là một hữu
Khi sinh là một hữu.
*Nếu khi hữu đầu diệt, hữu sau sinh, tức là hai hữu cùng có nơi một lúc, một hữu là khi diệt, một hữu là khi sinh.

Hỏi: Khi diệt khi sinh đều có hai hữu là không đúng. Nhưng hiện thấy hữu đầu khi diệt có hữu sau sinh thì thế nào?
Đáp: Nếu nói về sinh diệt
Mà cho cùng một lúc
Thì nơi ấm này chết
Tức nơi ấm này sinh.
*Nếu khi sinh khi diệt một lúc không có hai hữu, mà cho khi hữu đầu diệt có hữu sau sinh, thế thì hiện nay có thể tùy nơi thân năm ấm nào chết tức ở nơi thân năm ấm đó sinh, không thể ở nơi thân năm ấm khác sinh. Vì sao?
-Vì người chết tức là người sinh.
-Như thế chết và sinh là hai pháp trái nhau, không thể cùng có trong một lúc một xứ.
-Thế nên ông trước nói khi sinh khi diệt, trong một lúc không có hai hữu, chỉ hiện chỉ thấy khi hữu đầu diệt có hữu sau sinh, việc ấy là không đúng.
Lại nữa,
Trong ba đời tìm hữu
Nối tiếp không thể được
Nếu trong ba đời không
Sao có hữu nối tiếp.
*Ba hữu là dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu.
-Trong sinh tử vô thỉ, do không có trí chân thật nên luôn có ba hữu nối tiếp.
-Nay ở trong ba đời suy tìm kỹ không thể thủ đắc.
-Nếu trong ba đời không có ba hữu, thì ở nơi xứ nào có ba hữu nối tiếp.
-Nên biết có ba hữu nối tiếp đều do từ ngu si điên đảo nên có, trong chân thật không có.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Kim Cang Thoi Luan

Registered
Phật tử
Tham gia
13 Thg 8 2018
Bài viết
932
Điểm tương tác
210
Điểm
43
nagarjuna-nagas2.JPG

Phẩm thứ 22: QUÁN VỀ NHƯ LAI
(Gồm 16 kệ)
Hỏi: Các bậc tôn quý trong tất cả thế gian chỉ có Đức Như Lai Chánh Biến Tri hiệu là Pháp vương, bậc Nhất thiết trí (biết hết tất cả hay là toàn tri) tức là thật có chăng?
Đáp: *Nay nên suy nghĩ kỹ, nếu có nên giữ lấy. Nếu không có thì giữ lấy gì. Vì sao?
Vì Như Lai là: Không phải ấm, lìa ấm
Đây, kia không tương tại
Như Lai không có ấm
Xứ nào có Như Lai.
*“Nếu Như Lai thật có”, thì “năm ấm là Như Lai hay là lìa năm ấm có Như Lai.”
-Hay là trong Như Lai có năm ấm.
-Hay là trong năm ấm có Như Lai.
-Hay là Như Lai có năm ấm?
-Hết thảy đều không đúng.
* “Năm ấm không phải là Như Lai”. Vì sao? “Vì năm ấm là tướng sinh diệt.”
-“Nếu Như Lai là năm ấm, thì Như Lai tức là tướng sinh diệt.”
-“Nếu là tướng sinh diệt thì Như Lai tức có các lỗi như vô thường, đoạn diệt v.v...Lại người thọ là Như Lai, pháp thọ là năm ấm”,
- “Nếu người thọ và pháp thọ là một thì không đúng”.
-Thế nên Như Lai không phải là năm ấm.
-Lìa năm ấm cũng không có Như Lai. Vì sao?
-“Vì nếu lìa năm ấm mà có Như Lai”, thì “Như Lai không có tướng sinh diệt”.
-“Nếu như vậy thì Như Lai có lỗi là thường còn v.v…”
-Lại không thể dùng các căn như mắt, tai v.v... để thấy biết, nhưng việc ấy là không đúng.
-“Vì vậy nên biết lìa năm ấm cũng không có Như Lai”.
-Lại, trong Như Lai cũng không có năm ấm. Vì sao?
-Vì “nếu trong Như Lai có năm ấm”, thì “như trong đồ đựng có hoa quả, trong nước có cá”, như thế Như Lai và năm ấm khác nhau.
*”Nếu khác nhau thì có lỗi Như Lai là thường [hằng] như trên”.
-Vì thế nên biết trong Như Lai không có năm ấm.
-Lại, trong năm ấm cũng không có Như Lai. Vì sao?
-Vì “nếu trong năm ấm có Như Lai, như trên giường có người, trong đồ đựng có sữa.”
-Như vậy tức có biệt dị (biệt dị=khác biệt), nên cũng có lỗi như trên.
-Thế nên trong năm ấm không có Như Lai.
-Lại, Như Lai cũng không có năm ấm. Vì sao?
-Vì nếu Như Lai có năm ấm, như có con, như thế tức Như Lai và năm ấm khác nhau.
-Nếu như vậy thì cũng có lỗi như trên.
*Do thế nên biết Như Lai không có năm ấm.
-Như thế theo năm cách ấy tìm Như Lai không thể “thủ đắc” (không thể được), vậy thế nào là Như Lai?
Căn Bản Trung Quán Luận Long Thọ Bồ Tát, Thánh Thiên Bồ Tát chú giải.

Hỏi: Nghĩa cầu tìm Như Lai như thế là không thể được. Nhưng
năm ấm hòa hợp là có Như Lai?
Đáp:
Ấm hợp có Như Lai
Tức không có tự tánh
Nếu không có tự tánh
Sao nhân nơi tha tánh.
*Nếu Như Lai do năm ấm hòa hợp mà có, tức là Như Lai không
có tự tánh. Vì sao?
-Vì "nhân" nơi "năm ấm hòa hợp mà có."
Căn Bản Trung Quán Luận Long Thọ Bồ Tát,Thánh Thiên Bồ Tát chú giải.

Hỏi: Như Lai không do tự tánh mà có thì chỉ “nhân nơi tha tánh” mà có?
Đáp: *Nếu không có tự tánh thì làm sao nhân nơi tha tánh để có. Vì sao?
-Vì tha tánh cũng không có tự tánh.
-Lại vì “không nhân nơi đối đãi nhau” nên tha tánh cũng không thể được.
-Vì không thể được nên không gọi là tha.
Lại nữa,
Pháp nếu nhân tha sinh ,
Tức là không phải ngã ,
Nếu pháp không phải ngã ,
Sao gọi là Như Lai.
*Nếu pháp nhân nơi các duyên sinh tức không có ngã.
-Như “nhân nơi năm ngón” nên “có nắm tay”.
-Nắm tay ấy không có tự thể (độc lập có).
-Như vậy “nhân nơi năm ấm” gọi là ngã, ngã ấy tức không có tự thể (độc lập có).
-Ngã có nhiều tên gọi. Hoặc gọi chúng sinh, người, trời, Như Lai v.v...
*Nếu “Như Lai nhân nơi năm ấm mà có”, tức “Như Lai không có tự tánh”,
-Không có tự tánh nên không có ngã,
-Nếu không có ngã làm sao nói là Như Lai.
-Vì thế trong kệ nói:
Pháp nếu nhân tha sinh, Tức là không phải ngã, Nếu pháp không phải ngã, Sao gọi là Như Lai.
Lại nữa,
Nếu không có tự tánh
Làm sao có tha tánh
Lìa tự tánh, tha tánh
Gì gọi là Như Lai.
*Nếu “không có tự tánh” thì “tha tánh cũng không thể có”.
-Vì “nhân nơi tự tánh” nên “gọi là tha tánh”.
-Cái này không nên cái kia không.
-Do đấy tự tánh, tha tánh cả hai đều không.
-Nếu lìa tự tánh, tha tánh thì cái gì là Như Lai?
Lại nữa,
Nếu không nhân năm ấm
Trước đã có Như Lai
Do nay thọ năm ấm
Tức gọi là Như Lai.
Nay thật không thọ ấm
Lại không pháp Như Lai
Nếu do không thọ, không
Nay tức làm sao thọ.
Nếu như chưa có thọ
Chỗ thọ không gọi thọ
Không có pháp không thọ
Mà gọi là Như Lai.
Nếu ở trong một, khác
Như Lai không thủ đắc
Năm cách tìm cũng không
Làm sao trong thọ có.
Lại chỗ thọ năm ấm
Không từ tự tánh có
Nếu không từ tự tánh
Làm sao có tha tánh.
*Nếu nói khi chưa thọ năm ấm, trước đã có Như Lai,
- Thì Như Lai ấy nay nên thọ năm ấm, thành Như Lai,
-Nhưng thật sự khi chưa thọ năm ấm, trước không có Như Lai,
-Bây giờ làm sao được thọ.
-Lại, “người không thọ năm ấm” thì “năm ấm không gọi là thọ”, không có không thọ mà gọi là Như Lai. ---Lại, trong tướng một – khác, tìm cầu Như Lai không thể được.
-Trong “năm ấm theo năm cách tìm cầu Như Lai cũng không thể được”.
-Nếu như vậy làm sao ở trong năm ấm nói là có Như Lai.
-Lại, “năm ấm được thọ không từ tự tánh có”.
-Nếu cho từ tha tánh có, nhưng nếu không từ tự tánh có, làm sao từ tha tánh có được. Vì sao?
-Vì không có tự tánh nên tha tánh cũng không.
-Lại nữa,
Do các nghĩa như vậy
Thọ không, người thọ không
Vì sao lại lấy không
Nói không là Như Lai.
*Theo nghĩa ấy suy nghĩ, thọ và người thọ đều không.
-Nếu đã đều là không, làm sao lấy thọ không ấy để gọi không là Như Lai.
Căn Bản Trung Quán Luận-Long Thọ Bồ Tát,Thánh Thiên Bồ Tát chú giải.

Hỏi: Luận chủ cho thọ không, người thọ không, vậy nhất định là có không ấy chăng?
Đáp: Không đúng. Vì sao?
Không tức không thể nói
Chẳng không không thể nói
Cùng, chẳng cùng, không nói
Chỉ do giả danh nêu.
*Các pháp không tức không thể nói.
-Các pháp chẳng không cũng không thể nói.
-Các pháp không và chẳng không cũng không thể nói.
-Các pháp chẳng phải không chẳng phải chẳng không cũng không thể nói. Vì sao?
-Vì chỉ để phá sự trái nhau nên giả danh mà nói.
-Tư duy chánh quán như vậy thì đối với thật tướng của các pháp không nên dùng các vấn nạn để vấn nạn. Vì sao?
Trong tướng tịch diệt không
Bốn tướng thường, vô thường v.v…
Trong tướng tịch diệt không
Bốn tướng biên, vô biên v.v…
*Thật tướng của các pháp là tịch diệt vi diệu như thế. Chỉ do nơi đời quá khứ khởi bốn thứ tà kiến, cho thế gian là hữu thường, thế gian là vô thường, thế gian là thường - vô thường, thế gian là không phải thường không phải vô thường, còn trong tịch diệt thì không có việc ấy. Vì sao?
-Vì thật tướng của các pháp là hoàn toàn thanh tịnh, không thể chấp giữ.
-Pháp không hãy còn không thọ nhận huống gì là có bốn thứ kiến.
-Bốn thứ kiến ấy đều nhân nơi thọ sinh.
-Thật tướng của các pháp không có chỗ nhân nơi thọ.
-Bốn thứ kiến đều cho kiến giải của mình là hơn, kiến giải của người khác là kém.
-Thật tướng của các pháp không có phân biệt kia đây.
-Thế nên trong tịch diệt không có bốn thứ kiến.
-Như nhân nơi đời quá khứ có bốn thứ kiến, thì nhân nơi đời vị lai khởi bốn thứ kiến cũng như vậy.
-Đó là khởi thế gian là hữu biên, thế gian là vô biên, thế gian là hữu biên - vô biên, thế gian là không phải hữu biên không phải vô biên.

Hỏi: Nếu phá Như Lai như vậy thì không có Như Lai chăng?
Đáp:
Người tà kiến sâu dày
Tức nói không Như Lai
Như Lai tướng tịch diệt
Phân biệt có cũng sai.
Tà kiến có hai thứ: (1) Phá an vui của thế gian. (2) Phá đạo Niết-bàn.
Phá an vui của thế gian: Là tà kiến thô, nói không có tội phước, không có quả báo của tội phước, không có Hiền Thánh như Như Lai v.v…, khởi tà kiến ấy bỏ thiện làm ác, tức là phá an vui của thế gian.
Phá đạo Niết-bàn: Là tham chấp nơi ngã, phân biệt có không, khởi thiện diệt ác. Khởi thiện nên được sự vui của thế gian. Phân biệt có không nên không được Niết-bàn. Vì thế nếu nói không có Như Lai đó là tà kiến sâu dày, làm mất sự vui của thế gian, huống gì là được Niết-bàn. Nếu nói có Như Lai cũng là tà kiến. Vì sao? Vì Như Lai là tướng tịch diệt mà lại khởi các thứ phân biệt. Thế nên ở trong tướng tịch diệt phân biệt có Như Lai, cũng là không đúng.
Trong tánh không như thế
Tư duy cũng không thể
Như Lai diệt độ rồi
Phân biệt nơi có không.
*Thật tướng của các pháp là tánh không,
-Tức không nên đối với Như Lai sau khi diệt độ tư duy, phân biệt hoặc có, hoặc không, hoặc cũng có cũng không.
-Như Lai từ trước tới nay rốt ráo là không, huống gì là sau khi diệt độ.
Như Lai vượt hý luận
Nhưng người sinh hý luận
Hý luận phá mắt tuệ
Là đều không thấy Phật.
*Hý luận là nhớ nghĩ chấp giữ tướng, phân biệt kia đây, nói Phật diệt độ, không diệt độ v.v...
-Người ấy vì bị hý luận che khuất mắt tuệ, nên không thấy pháp thân Như Lai.
-Trong phẩm Như Lai này, ở đầu, giữa, cuối, tư duy tìm tánh định của Như Lai đều không thể được.
Vì thế kệ nói: Tánh hiện có Như Lai
Tức là tánh thế gian
Như Lai không có tánh
Thế gian cũng không tánh.
*Trong phẩm này suy lường cầu tìm thấy tánh của Như Lai tức là tánh của tất cả thế gian.

Hỏi: Thế nào là tánh của Như Lai?
Đáp: Như Lai không có tánh đồng với thế gian không tánh.
 

Kim Cang Thoi Luan

Registered
Phật tử
Tham gia
13 Thg 8 2018
Bài viết
932
Điểm tương tác
210
Điểm
43
nagarjuna-nagas2.JPG
Phẩm thứ 23: QUÁN VỀ ĐIÊN ĐẢO
(Gồm 24 kệ)
Hỏi: Từ nhớ tưởng phân biệt
Sinh ra tham, sân, si
Tịnh, bất tịnh điên đảo
Đều từ các duyên sinh.
*Kinh nói nhân nơi tịnh bất tịnh điên đảo nhớ tưởng phân biệt sinh ra tham, sân, si. Vì thế nên biết có tham, sân, si chăng?
Đáp: Nếu nhân tịnh, bất tịnh
Điên đảo sinh ba độc
Ba độc tức vô tánh
Nên phiền não không thật.
*Nếu các phiền não nhân nơi điên đảo về tịnh bất tịnh nhớ tưởng phân biệt sinh, tức chúng không có tự tánh.
-Do đó các phiền não ấy không thật.
Lại nữa,
Ngã, pháp có hay không
Việc ấy trọn không thành
Không ngã, các phiền não
Có, không cũng không thành.
*Ngã không có nhân duyên, hoặc có, hoặc không, để có thể thành.
-Nay không có ngã thì các phiền não làm sao do hoặc có hoặc không để có thể thành. Vì sao?
Ai có phiền não này
Đó tức là không thành
Nếu lìa ngã mà có
Phiền não tức không thuộc.
*Phiền não là thứ có thể làm não hại người khác.
-Kẻ não hại người khác là chúng sinh.
-Nhưng chúng sinh ấy nơi tất cả xứ suy tìm đều không thể có được.
-Nếu cho lìa chúng sinh chỉ có phiền não, thì phiền não không có đối tượng thuộc về.
-Hoặc cho tuy không có ngã, nhưng các phiền não thuộc về tâm thì việc ấy cũng không đúng. Vì sao?
Như thân kiến năm cách
Tìm cầu không thể được
Phiền não nơi tâm cấu
Năm cách tìm không được.
*Như thân kiến, trong năm ấm theo năm cách tìm cầu đều không thể có được.
-Các phiền não cũng như vậy, trong tâm cấu theo năm cách tìm cầu đều không thể có được.
-Lại theo năm cách tìm cầu tâm cấu trong các phiền não cũng không thể có được.
Lại nữa,
Điên đảo tịnh, bất tịnh
Tức là không tự tánh
Sao nhân hai thứ này
Mà sinh các phiền não.
*Điên đảo về tịnh bất tịnh là điên đảo gọi là hư vọng tức không có tự tánh.
-Không có tự tánh thì không có điên đảo.
-Nếu không có điên đảo làm sao nhân nơi điên đảo khởi các phiền não?

Hỏi: Sắc, tiếng, hương, vị, xúc
Và pháp là sáu thứ
Sáu thứ như thế đó
Là gốc của ba độc.
*Sáu nhập này v.v... là gốc của ba độc (tham, sân, si). Nhân nơi sáu nhập ấy sinh ra điên đảo về tịnh bất tịnh. Nhân nơi điên đảo về tịnh bất tịnh sinh tham, sân, si?
Đáp: Sắc, tiếng, hương, vị, xúc
Và pháp Thể sáu thứ
Đều không, như mộng, huyễn
Như thành Càn-thát-bà.
Trong sáu thứ như thế
Có gì tịnh, bất tịnh
Giống như người huyễn hóa
Cũng như cảnh trong gương.
*Sắc, tiếng, hương, vị, xúc, pháp, tự thể của chúng khi chưa hòa hợp với tâm thì không, không có sở hữu, như dợn nắng, như mộng, như người biến hóa, như hình tượng trong gương, chỉ dối gạt tâm, không có tướng định.
-Như vậy trong sáu nhập đâu có tịnh bất tịnh.
Lại nữa,
Không nhân nơi tướng tịnh
Tức không có bất tịnh
Nhân tịnh có bất tịnh
Vì vậy không bất tịnh.
*Nếu không “nhân nơi tịnh” thì trước đó “không có bất tịnh”, vậy “nhân đâu để nói bất tịnh”?
-Do vậy không có bất tịnh.
Lại nữa,
Không nhân nơi bất tịnh
Tức cũng không có tịnh
Nhân bất tịnh có tịnh
Vì vậy không có tịnh.
*Nếu không nhân nơi bất tịnh, trước đó không có tịnh, vậy nhân nơi gì để nói tịnh?
-Vì thế không có tịnh.
Lại nữa,
Nếu như không có tịnh
Do đâu mà có tham
Nếu không có bất tịnh
Do đâu mà có sân.
*Vì không có tịnh, bất tịnh tức không sinh tham, sân.

Hỏi: Kinh nói có bốn điên đảo như chấp thường v.v… Nếu trong vô thường thấy thường đó gọi là điên đảo. Còn nếu trong vô thường thấy vô thường thì không phải là điên đảo. Ba điên đảo kia cũng như vậy. Vì có điên đảo nên người điên đảo cũng phải có. Vì sao nói hết thảy đều không?
Đáp: Đối vô thường chấp thường
Đó gọi là điên đảo
Trong không, không có thường
Xứ nào có chấp thường.
*Nếu đối với vô thường chấp thường gọi là điên đảo, còn đối với tánh không của các pháp không có thường, vậy trong đó xứ nào có điên đảo chấp thường?
-Ba điên đảo kia cũng như vậy.
Lại nữa,
Nếu ở trong vô thường
Chấp vô thường, không đảo
Trong không, không vô thường
Đâu có phi điên đảo.
*Nếu chấp vô thường nói là vô thường không gọi là điên đảo.
-Nhưng trong tánh không của các pháp không có vô thường.
-Vì vô thường không có nên cái gì là phi điên đảo?
-Ba điên đảo kia cũng như vậy.
Lại nữa,
Bị chấp, người chấp, chấp
Và pháp dùng chấp trước
Đều là tướng tịch diệt
Là sao có chấp trước.
*Bị chấp gọi là vật. Người chấp là tác giả. Chấp trước là nghiệp. Pháp được dùng chấp trước gọi là việc được dùng.
-Tất cả đều là tánh không, là tướng tịch diệt, như trong phẩm Quán về Như Lai đã nói.
-Vì thế không có chấp trước.
Lại nữa,
Nếu không có pháp chấp
Nói tà là điên đảo
Nói chánh không điên đảo
Ai có việc như vậy.
*Chấp trước gọi là nhớ tưởng phân biệt về đây - kia, có - không v.v...
-Nếu không có sự chấp trước ấy, thì ai là tà, điên đảo, ai là chánh, không điên đảo?
Lại nữa,
Có đảo, không sinh đảo
Không đảo, không sinh đảo
Người đảo không sinh đảo
Không đảo cũng chẳng sinh.
Nếu nơi khi điên đảo
Cũng không sinh điên đảo
Ông nên tự quán xét
Ai sinh nơi điên đảo.
*Người đã điên đảo tức lại không sinh điên đảo, vì đã điên đảo rồi.
-Người không điên đảo cũng không điên đảo, do không có điên đảo.
-Ngay khi điên đảo cũng không điên đảo, vì có hai lỗi.
-Ông nay nên trừ bỏ tâm kiêu mạn, khéo tự quán xét ai là người điên đảo.
Lại nữa,
Các điên đảo không sinh
Làm sao có nghĩa ấy
Đã không có điên đảo
Sao có người điên đảo.
*Vì dùng nhiều thứ nhân duyên để phá điên đảo, nên rơi vào chấp về không sinh.
-Người kia vì tham chấp về không sinh nên cho không sinh là thật tướng của điên đảo.
Thế nên kệ nói:
-Làm sao gọi không sinh là thật tướng của điên đảo.
-Cho đến pháp vô lậu hãy còn không gọi là tướng không sinh, huống gì cho điên đảo là tướng không sinh.
-Do điên đảo không có nên đâu có người điên đảo.
-Nhân nơi điên đảo mới có người điên đảo.
Lại nữa,
Nếu thường, lạc, ngã, tịnh
Mà chúng là có thật
Thì thường, lạc, ngã, tịnh
Không phải là điên đảo.
*Nếu thường, lạc, ngã, tịnh là bốn sự thật có tánh, thì thường lạc ngã tịnh ấy không phải là điên đảo.
-Vì sao? Do sự nhất định có thật, vì sao nói điên đảo.
-Nếu cho thường, lạc, ngã, tịnh bốn sự điên đảo là không có,
-Thì vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh là bốn điều nên thật có, tức không gọi là điên đảo.
-Vì trái với điên đảo, nên nói là không điên đảo, việc ấy là không đúng. Vì sao?
Nếu thường, lạc, ngã, tịnh
Nhưng thật sự không có
Vô thường, khổ, bất tịnh
Tức là cũng nên không.
*Nếu thường, lạc, ngã, tịnh là bốn sự thật mà không có, do không có nên bốn sự vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã cũng không thể có. Vì sao?
-Vì “không cùng nhân nơi đối đãi”.
Lại nữa,
Điên đảo như vậy diệt
Vô minh tức cũng diệt
Do vì vô minh diệt
Nên các hành cũng diệt.
*Như thế, theo nghĩa ấy vì diệt các điên đảo nên vô minh, là căn bản của mười hai nhân duyên cũng diệt.
-Do vô minh diệt nên ba thứ hành nghiệp cho đến già chết v.v... đều diệt.
Lại nữa,
Nếu tánh phiền não thật
Mà có người hệ thuộc
Làm sao có thể đoạn
Ai đoạn được tánh ấy.
*Nếu các phiền não tức là điên đảo mà thật có tánh, thì làm sao có thể đoạn dứt và ai có thể đoạn được tánh đó.
-Nếu cho các phiền não đều là hư vọng, không có tánh, nên có thể đoạn dứt thì cũng không đúng. Vì sao?
Nếu phiền não hư vọng
Không tánh, không hệ thuộc
Làm sao có thể đoạn
Ai hay đoạn không tánh.
*Nếu các phiền não hư vọng không có tánh, tức không có đối tượng thuộc về, làm sao có thể đoạn và ai có thể đoạn pháp không tánh?
 

Kim Cang Thoi Luan

Registered
Phật tử
Tham gia
13 Thg 8 2018
Bài viết
932
Điểm tương tác
210
Điểm
43
nagarjuna-nagas2.JPG
Phẩm thứ 25: QUÁN VỀ NIẾT BÀN
(Gồm 24 kệ)
Hỏi: Nếu các pháp đều “không”
Không sinh cũng không diệt
Thì đoạn gì, diệt gì
Để gọi là Niết-bàn.
*Nếu tất cả pháp là không, tức không sinh không diệt.
-Nếu không sinh không diệt thì đoạn cái gì, diệt cái gì để gọi là Niết-bàn?
-Thế nên tất cả không thể là không, vì các pháp chẳng không nên mới đoạn các phiền não, diệt năm ấm, gọi là Niết-bàn?
Đáp: Nếu các pháp “chẳng không”
Thì không sinh không diệt
Vậy đoạn gì, diệt gì
Để gọi là Niết-bàn?
*Nếu tất cả thế gian chẳng không, thì không sinh không diệt, vậy đoạn gì, diệt gì để gọi là Niết-bàn?
-Vì thế hai môn có không đều không phải đưa đến Niết-bàn.
Gọi là Niết-bàn, tức:
Không đắc cũng không đến
Không đoạn cũng không thường
Không sinh cũng không diệt
Đó gọi là Niết-bàn.
*Không đắc: Là đối với hành, đối với quả không có đối tượng thủ đắc.
-Không đến: Là không có nơi chốn có thể đến.
-Không đoạn: Là năm ấm từ trước giờ là rốt ráo không, nên khi đắc đạo vào Niết-bàn vô dư cũng không có đối tượng được đoạn.
-Không thường: Là nếu có pháp có thể phân biệt thủ đắc tức gọi là thường.
-Niết-bàn thì vắng lặng không có pháp để có thể phân biệt, nên không gọi là thường.
-Không sinh không diệt cũng như vậy.
-Tướng như thế gọi là Niết-bàn.
-Lại nữa, kinh nói: Niết-bàn chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải có không, chẳng phải chẳng có chẳng phải chẳng không, không thọ tất cả pháp, bên trong vắng lặng, gọi là Niết-bàn. Vì sao?
Niết-bàn không gọi có
Có tức tướng già chết
Trọn không có pháp có
Lìa nơi tướng già, chết.
*Mắt thấy tất cả vạn vật đều sinh diệt, là tướng già chết.
-Niết-bàn nếu là có tức nên có tướng già chết, việc ấy là không đúng.
-Thế nên Niết-bàn không gọi là có.
-Lại không thấy lìa sinh diệt già chết, riêng có pháp định gọi là Niết-bàn.
-Nếu Niết-bàn là có, tức nên có tướng sinh diệt già chết.
-Do lìa tướng già chết, nên gọi là Niết-bàn.
Lại nữa,
Nếu Niết-bàn là có
Niết-bàn tức hữu vi
Trọn không có một pháp
Gọi là pháp vô vi.
*Niết-bàn không phải là có. Vì sao?
-Vì tất cả vạn vật từ các duyên sinh đều là pháp hữu vi, không có một pháp gọi là pháp vô vi.
-Tuy giả gọi pháp thường là vô vi, nhưng dùng lý để suy thì pháp vô thường hãy còn không có huống gì là pháp thường, là pháp không thể thấy, không thể thủ đắc.
Lại nữa,
Nếu Niết-bàn là có
Vì sao gọi không thọ
Các pháp đều từ thọ
Nên gọi là có pháp.
*Nếu cho Niết-bàn là pháp có, thì kinh không nên nói: “Không thọ gọi là Niết-bàn”. Vì sao?
-Vì không có pháp nào, là không thọ mà có.
-Vì thế Niết-bàn không phải là có.


Hỏi: Nếu có không phải là Niết-bàn, vậy không nên là Niết bàn chăng?
Đáp: Có còn không Niết-bàn
Huống gì là không có
Niết-bàn “không có” “có”
Xứ nào nên có không.
*Nếu có không phải là Niết-bàn thì không có làm sao là Niết bàn. Vì sao?
-Vì nhân nơi có nên mới có không.
-Nếu không có làm sao có không.
-Như kinh nói: “Trước có nay không tức gọi là không”, Niết-bàn thì không như vậy. Vì sao?
-Vì không phải là pháp có rồi sau biến làm không.
-Thế nên không có cũng không thành Niết-bàn.
Lại nữa,
Nếu không là Niết-bàn
Vì sao gọi không thọ
Chưa từng có không thọ
Mà gọi là không pháp.
*Nếu cho không có là Niết-bàn, thì kinh không nên nói: “Không thọ gọi là Niết-bàn”. Vì sao?
-Vì không có cái gì không thọ mà gọi là pháp không có.
-Do thế nên biết Niết-bàn không phải là không có.

Hỏi: Nếu Niết-bàn chẳng phải là có, chẳng phải là không, vậy những gì là Niết-bàn?
Đáp: Chấp thọ các nhân duyên
Luân chuyển trong sinh tử
Không thọ các nhân duyên
Đó gọi là Niết-bàn.
*Vì không nhận biết như thật về điên đảo nên nhân nơi năm thọ ấm qua lại nơi sinh tử.
-Nếu nhận biết như thật về điên đảo thì không còn chấp thọ, nhân nơi năm thọ ấm qua lại nẻo sinh tử.
-Năm ấm không có tánh, không còn nối tiếp, nên gọi là Niết-bàn.
Lại nữa,
Như trong kinh Phật nói
Đoạn hữu đoạn phi hữu
Cho nên biết Niết-bàn
Chẳng có cũng chẳng không.
*Hữu là ba hữu, phi hữu là ba hữu đã đoạn dứt.
-Phật dạy là đoạn hữu, phi hữu ấy gọi là Niết-bàn, nên biết Niết-bàn chẳng phải có cũng chẳng phải không.

Hỏi: Hoặc có hoặc không có đều không phải là Niết-bàn. Nay có không cùng hợp là Niết-bàn chăng?
Đáp: Nếu cho nơi có không
Cùng hợp là Niết-bàn
Có không tức giải thoát
Việc ấy là không đúng.
*Nếu cho nơi có không hợp lại là Niết-bàn, tức hai sự có không hợp lại là giải thoát.
-Việc ấy là không đúng. Vì sao?
-Vì hai sự có không là trái nhau, làm sao hợp cùng ở một xứ.
Lại nữa,
Nếu cho nơi có không
Hợp là thành Niết-bàn
Thì Niết-bàn là thọ
Cả hai từ thọ sinh.
*Nếu cho có không hợp lại thành Niết-bàn, thì kinh không nên nói Niết-bàn là không thọ. Vì sao?
-Vì hai sự có không đều từ nơi thọ sinh, cùng nhân nơi nhau mà có.
-Do vậy hai sự có không không thể hợp làm Niết-bàn.
Lại nữa,
Có không cùng hợp thành
Sao gọi là Niết-bàn
Niết-bàn là vô vi
Có không là hữu vi.
*Hai sự có không hợp chung không thể gọi là Niết-bàn, vì Niết-bàn là vô vi, còn có không là hữu vi.
-Thế nên có không không phải là Niết-bàn.
Lại nữa,
Hợp hai sự có, không
Sao gọi là Niết-bàn
Hai sự không đồng xứ
Như sáng tối không chung.
*Hai sự có không không thể gọi là Niết-bàn. Vì sao?
-Vì có, không là trái nhau, không thể cùng ở một xứ, như tối và sáng không
có cùng một lúc.
-Vì vậy khi có thì không không, khi không thì không có, làm sao có không cùng hợp gọi là Niết-bàn.

Hỏi: Nếu có không hợp chung không phải là Niết-bàn, thì nay chẳng phải có chẳng phải không nên là Niết-bàn chăng?
Đáp: Nếu chẳng phải có, không
Gọi đó là Niết-bàn
Chẳng phải có, không này
Lấy gì để phân biệt.
*Nếu Niết-bàn là chẳng phải có chẳng phải không, vậy chẳng phải có chẳng phải không ấy nhân vào đâu để phân biệt?
-Vì thế nói chẳng phải có chẳng phải không là Niết-bàn, việc ấy là không đúng.
Lại nữa,
Phân biệt chẳng có, không
Như vậy là Niết-bàn
Nếu có và không thành
Chẳng có, chẳng không thành.
*Ông phân biệt chẳng phải có chẳng phải không là Niết-bàn, việc ấy là không đúng. Vì sao?
-Vì nếu có và không thành Niết-bàn, vậy sau đấy chẳng phải có chẳng phải không thành Niết-bàn.
-Nhưng trái với có gọi là không, trái với không gọi là có.
-Có và không ấy, ngay trong câu kệ thứ ba đã phá.
-Vì có và không còn không có, làm sao có chẳng phải có chẳng phải không.
-Thế nên Niết-bàn không phải là chẳng phải có, không phải là chẳng phải không.
Lại nữa,
Như Lai sau diệt độ
Chẳng nói có cùng không
Cũng chẳng nói có không
Phi có và phi không.
Như Lai còn tại thế
Chẳng nói có và không
Cũng chẳng nói có không
Phi có và phi không.
*Hoặc sau khi Như Lai diệt độ, hoặc hiện tại, có Như Lai cũng không thọ, không có Như Lai cũng không thọ, cũng có Như Lai cũng không Như Lai cũng không thọ, chẳng phải có Như Lai chẳng phải không Như Lai cũng không thọ.
-Do không thọ nên không phân biệt Niết-bàn là có, không v.v...
-Lìa Như Lai thì ai sẽ đắc Niết-bàn, lúc nào, xứ nào?
-Dùng pháp gì nói là Niết-bàn.
-Thế nên tìm tướng Niết-bàn trong tất cả lúc, tất cả thứ, đều không thể có được.
Lại nữa,
Niết-bàn cùng thế gian
Không có chút phân biệt
Thế gian cùng Niết-bàn
Cũng không chút phân biệt.
*Do nhân duyên năm ấm nối tiếp qua lại nên gọi là thế gian.
-Nhưng tánh của năm ấm là rốt ráo không, là vắng lặng, không thọ, nghĩa này trước đã nói.
-Do tất cả pháp chẳng sinh chẳng diệt, nên thế gian cùng Niết-bàn không có phân biệt, Niết-bàn cùng thế gian cũng không có phân biệt.
Lại nữa,
Thật tế của Niết-bàn
Và thật tế thế gian
Hai thật tế như vậy
Không mảy may sai biệt.
*Suy tìm rốt ráo thật tế của thế gian và Niết-bàn là thật tế không sinh, vì bình đẳng không thể thủ đắc, nên không có mảy may sai biệt.
Lại nữa,
Có, không sau Phật diệt
Các kiến nương Niết-bàn
Hữu biên như thường đoạn
Nương vị lai, quá khứ.
*Sau khi Như Lai diệt độ có Như Lai, không Như Lai, cũng có Như Lai cũng không Như Lai, chẳng phải có Như Lai chẳng phải không Như Lai.
-Thế gian hữu biên, thế gian vô biên, thế gian cũng hữu biên cũng vô biên, thế gian chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên; thế gian thường, thế gian vô thường, thế gian cũng thường cũng vô thường, thế gian chẳng phải thường chẳng phải vô thường.
-Trong ba loại mười hai kiến chấp ấy, bốn kiến chấp về sau khi Như Lai diệt độ Như Lai có không v.v... là dựa vào Niết-bàn mà khởi.
-Bốn kiến chấp về thế gian hữu biên vô biên v.v... là dựa vào đời vị lai mà khởi.
-Bốn kiến chấp về thế gian thường vô thường v.v... là dựa vào đời quá khứ mà khởi.
-Như Lai sau khi diệt độ, là có hay không có v.v... đều không thể thủ đắc, Niết-bàn cũng như vậy.
-Như thế gian đời trước - đời sau, hữu biên - vô biên, thường - vô thường đều không thể thủ đắc, Niết-bàn cũng như vậy.
-Do thế nên nói thế gian và Niết-bàn không có sai khác.
Lại nữa,
Tất cả pháp đều không
Sao có biên, không biên
Cũng biên cũng không biên
Phi có phi không biên.
Cái gì là một, khác
Sao có thường, vô thường
Cũng thường cũng vô thường
Phi thường phi vô thường.
Các pháp không thủ đắc
Diệt tất cả hý luận
Không người cũng không xứ
Phật cũng không nói gì.
*Tất cả pháp, tất cả thời, tất cả chủng loại, vì từ các duyên sinh nên rốt ráo không, không có tự tánh.
-Trong pháp như vậy, cái gì là hữu biên, ai là hữu biên, cái gì là vô biên, cũng hữu biên cũng vô biên, chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên, ai là chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên.
-Cái gì là thường, ai là thường, cái gì là vô thường, cũng thường cũng vô thường, chẳng phải thường chẳng phải vô thường, ai là chẳng phải thường chẳng phải vô thường.
-Cái gì thân tức là thần ngã, cái gì thân khác thần ngã.
-Sáu mươi hai tà kiến như thế đối với rốt ráo không đều không thể có được.
-Những gì có sở đắc đều dứt, hý luận đều diệt.
-Vì hý luận diệt nên thông đạt thật tướng của các pháp, được đạo an ổn.
-Từ phẩm Quán nhân duyên đến đây, phân biệt suy tìm các pháp, có cũng không, không có cũng không, vừa có vừa không cũng không, chẳng phải có chẳng phải không cũng không.
-Đó gọi là thật tướng của các pháp, cũng gọi là Như, Pháp tánh, Thật sự, Niết-bàn.
-Thế nên Đức Như Lai không lúc nào, không ở xứ nào vì người nói tướng định của Niết-bàn.
-Do thế, nên nói các thứ có sở đắc đều dứt, hý luận đều diệt.
 

Kim Cang Thoi Luan

Registered
Phật tử
Tham gia
13 Thg 8 2018
Bài viết
932
Điểm tương tác
210
Điểm
43
nagarjuna-nagas2.JPG
Phẩm thứ 26: QUÁN VỀ MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN
(Gồm 9 kệ)
Hỏi: Ông nói về đạo đệ nhất nghĩa trong giáo pháp Đại thừa. Nay tôi muốn nghe nói về pháp Thanh văn hội nhập đạo đệ nhất nghĩa?
Đáp: Chúng sinh bị si che
Là sau khởi ba hành
Do khởi các hành ấy
Theo hành đọa sáu nẻo.
Vì nhân duyên các hành
Thức thọ thân sáu đường
Vì có thức chấp trước
Làm tăng trưởng danh sắc.
Do danh sắc tăng trưởng
Nhân đấy sinh sáu nhập
Căn trần thức hòa hợp
Nên sinh ra sáu xúc.
Nhân nơi sáu xúc ấy
Tức sinh ra ba thọ
Do nhân nơi ba thọ
Mà sinh ra khát ái.
Nhân ái có bốn thủ
Nhân thủ mà có hữu
Nếu người thủ không chấp
Tức giải thoát, không hữu.
Do hữu nên có sinh
Từ nhân duyên ấy
Kết thành ấm khổ lớn.
Đó gọi là sinh tử
Căn bản của các hành
Kẻ vô minh tạo tác
Người trí thì không tạo.
Do việc này được diệt
Việc này tức không sinh
Thân năm ấm vắng lặng
Như thế là chân diệt.
*Hàng phàm phu vì bị vô minh che mờ, nên do nghiệp thân, miệng, ý khởi các hành đưa đến thọ thân sau trong sáu nẻo.
-Theo các hành đã khởi có thượng, trung, hạ nên thức tùy các hành nhập vào sáu nẻo thọ thân.
-Do nhân duyên chấp trước của thức nên có danh sắc tích tập.
-Vì danh sắc tích tập nên có sáu nhập.
-Vì nhân duyên sáu nhập nên có sáu xúc.
-Do nhân duyên sáu xúc nên có ba thọ.
-Vì nhân duyên ba thọ nên sinh khát ái.
-Do nhân duyên khát ái nên có bốn thủ.
-Khi bốn thủ chấp giữ thì do nghiệp thân, miệng, ý dấy khởi tội phước khiến cho ba hữu của đời sau nối tiếp.
-Từ hữu nên có sinh.
-Từ sinh mà có già chết.
-Từ già chết nên có ưu bi khổ não, vô số các thứ hoạn nạn, chỉ có tập hợp thân năm ấm đại khổ.
-Do thế nên biết chính vô trí của kẻ phàm phu là cội gốc dấy khởi các hành nghiệp đưa đến sinh tử.
-Người trí không dấy khởi hành, vì thấy như thật, tức vô minh diệt.
-Do vô minh diệt nên các hành cũng diệt.
-Vì nhân diệt nên quả cũng diệt.
-Do có trí tu tập quán mười hai nhân duyên sinh diệt như vậy nên sinh diệt diệt.
-Do sinh diệt diệt nên cho đến năm ấm sinh già chết ưu bi đại khổ đều chánh diệt như thật.
-Chánh diệt là rốt ráo diệt.
-Nghĩa sinh diệt của mười hai nhân duyên này như trong Tu-đa-la, A-tỳ-đàm đã nói rộng.
 

Kim Cang Thoi Luan

Registered
Phật tử
Tham gia
13 Thg 8 2018
Bài viết
932
Điểm tương tác
210
Điểm
43
nagarjuna-nagas2.JPG

Phẩm thứ 27: QUÁN VỀ TÀ KIẾN
(Gồm 31 kệ)
Hỏi: Đã nghe nói pháp Đại thừa phá tà kiến. Bây giờ muốn nghe nói pháp Thanh văn phá tà kiến?
Đáp: Ta nơi đời quá khứ
Là có hay là không
Kiến chấp thế gian thường v.v…
Nương đời quá khứ khởi.
Ta nơi đời vị lai
Có tạo hay không tạo
Các kiến như hữu biên v.v…
Nương đời vị lai khởi.
*Ta nơi đời quá khứ, là có hay không, là vừa có vừa không, là chẳng phải có chẳng phải không.
-Đó là các kiến chấp như chấp thường v.v... dựa nơi sự quán sát đời quá khứ mà khởi.
-Ta nơi đời vị lai, là có hay không có, là vừa có vừa không có, là chẳng phải có chẳng phải không có.
-Đó là các kiến chấp như thế gian hữu biên vô biên v.v... do dựa nơi sự quán sát đời vị lai mà khởi.
-Các kiến chấp như vậy, vì nhân duyên gì gọi là tà kiến?
-Sự việc ấy nay sẽ nói:
Đời quá khứ có ngã
Việc ấy không thể được
Ngã trong đời quá khứ
Không tạo ngã đời này
Nếu cho ngã tức là
Nhưng thân có tướng khác
Vậy nếu lìa nơi thân
Xứ nào riêng có ngã.
Lìa thân ngã có không
Việc ấy là đã thành
Nếu cho thân tức ngã
Hoặc đều không có ngã.
Nhưng thân không là ngã
Vì tướng thân sinh diệt
Vậy làm sao do thọ
Để tạo nơi người nhận.
Nếu lìa thân có ngã
Việc ấy tức không đúng
Không thọ mà có ngã
Thật sự không thể được.
Hiện ta không lìa thọ
Cũng chẳng tức là thọ
Mà cũng chính là thọ
Đây tức nghĩa quyết định.
*Ngã có mặt nơi đời quá khứ, việc ấy là không đúng. Vì sao?
-Vì trong đời trước chẳng tức tạo ta trong đời này,
-Vì nếu ngã nơi đời trước chính là ta của đời nay - thì có lỗi chấp thường.
-Nếu chấp thường thì có vô lượng lỗi. Vì sao?
-Ví như người do nhân duyên tu phước nên được sinh nơi xứ trời, sau lại làm người.
-Nếu ngã nơi đời trước tức là ngã trong đời nay, thì trời tức là người.
-Lại như người do nhân duyên tạo nghiệp tội nên làm Chiên-đà-la, sau lại làm người Bà-la-môn.
-Nếu ngã nơi đời trước tức là ngã trong đời nay, thì Chiên-đà-la tức là Bà-la-môn.
-Ví như Bà-la-môn Đề-bà-đạt ở nước Xá-vệ, đi đến thành Vương-xá cũng gọi là Đề-bà-đạt, không do đi đến thành Vương-xá mà khác trước.
-Nếu đời trước làm thân trời đời sau làm thân người thì trời tức là người, Chiên-đà-la tức là Bà-la-môn.
-Sự việc như vậy là không đúng. Vì sao?
-Vì trời không tức là người, Chiên-đà-la không tức là Bà-la-môn.
-Có các lỗi về chấp thường như thế.
-Nếu cho: Ngã nơi đời trước không tạo ta của đời nay, như người khi giặt áo gọi là người giặt áo, khi cắt cỏ gọi là người cắt cỏ.
-Nhưng người giặt áo và người cắt cỏ tuy không khác, nhưng người này chẳng tức là người kia.
-Cũng như vậy, khi ngã thọ thân trời thì gọi là trời.
-Khi ngã thọ thân người thì gọi là người.
-Ngã không khác nhưng thân có khác.
-Việc ấy là không đúng. Vì sao?
-Vì nếu trời tức là người thì không nên nói trời làm người.
-Như người giặt áo đối với người cắt cỏ là khác hay không khác.
-Nếu không khác, thì người giặt áo nên tức là người cắt cỏ.
-Như vậy trời đời trước tức là người, Chiên-đà-la tức là Bà-la-môn, và ngã cũng có lỗi chấp thường.
-Nếu khác, thì người giặt áo tức không làm người cắt cỏ.
-Như thế trời không làm người, vậy ngã cũng vô thường, vô thường là tướng vô ngã.
-Vì thế không được nói tức là. (Trời tức là người).

Hỏi: Ngã tức là chỉ “nhân nơi thọ” nên phân biệt là trời là người. Thọ gọi là thân năm ấm. Do nhân duyên của nghiệp nên phân biệt thân năm ấm này là trời, năm ấm kia là người, là Chiên-đà-la, là Bà- la-môn. Nhưng thật sự ngã không phải trời, không phải người, không phải Chiên-đà-la, không phải Bà-la-môn. Cho nên không có các lỗi vừa nói chăng?
Đáp: *Việc ấy là không đúng. Vì sao?
-Vì nếu thân làm trời, làm người, làm Chiên-đà-la, làm Bà-la-môn không phải ngã, thì lìa thân riêng có ngã.
-Hiện tại những việc tội phước sinh tử qua lại đều là thân không phải là ngã.
-Do nhân duyên tạo tội nên bị đọa vào ba đường ác.
-Do nhân duyên tu phước nên sinh nơi ba đường thiện.
-Hoặc các việc khổ, vui, giận, mừng, lo, sợ v.v... đều là thân không phải ngã, thì dùng ngã làm gì.
-Như trị tội người thế tục thì không can dự tới người xuất gia.
-Do nhân duyên của năm ấm nối tiếp, tội phước không mất, nên mới có giải thoát.
-Nếu các việc ấy đều là thân, không phải là ngã, thì dùng ngã làm gì?

Hỏi: Tội phước v.v... đều nương nơi ngã, vì ngã có sự nhận biết, còn thân thì không có sự nhận biết. Người nhận biết nên là ngã. Do nhân duyên khởi nghiệp tạo ra tội phước là pháp tạo tác, nên biết phải có tác giả. Tác giả là ngã. Thân là đối tượng được sử dụng của ngã, cũng là trụ xứ của ngã. Ví như ông chủ nhà, dùng cỏ cây, đất gỗ v.v… làm nhà tự vì thân, nên tùy sự sử dụng của thân mà làm nhà có tốt xấu. Ngã cũng như vậy. Theo nghiệp thiện ác đã tạo mà mang thân tốt xấu. Sáu đường sinh tử đều do ngã tạo tác. Thế nên thân tội phước đều thuộc nơi ngã. Ví như ngôi nhà chỉ thuộc ông chủ, không thuộc người khác.
Đáp: *Thí dụ ấy không đúng. Vì sao?
-Vì ông chủ nhà có thân hình, có xúc chạm, có sức lực nên có thể giữ được nhà.
-Còn cái ngã của ông nói đó là vô hình, không xúc chạm, không có sức tạo tác, tự không có sức tạo, cũng không thể khiến người khác tạo.
-Nếu ở thế gian có một pháp vô hình, không có xúc chạm, nhưng có thể có đối tượng tạo tác, thì có thể tin thọ, biết có tác giả.
-Nhưng việc ấy không đúng.
-Nếu ngã là tác giả, thì không nên tự tạo việc khổ.
-Nếu là người nhớ nghĩ thì có thể tham việc an vui không nên quên mất.
-Nếu ngã không tự tạo khổ nhưng khổ cứ ép sinh, thì tất cả việc khác đều cũng tự nó sinh không phải là ngã tạo.
-Nếu sự thấy là ngã, thì mắt có thể thấy sắc, mắt nên là ngã.
-Nếu mắt thấy nhưng không phải là ngã, thì trái với câu trước nói sự thấy là ngã.
-Lại, nếu sự thấy là ngã, thì ngã không thể nghe tiếng, ngửi mùi v.v... Vì sao?
-Vì mắt là sự thấy, nhưng mắt không thể nghe tiếng ngửi mùi v.v... do thế nói ngã là sự thấy, việc ấy là không đúng.
-Nếu cho như người cắt cỏ dùng liềm cắt cỏ, ngã cũng như vậy, dùng tay chân nên có thể có sự tạo tác, thì thí dụ ấy không đúng. Vì sao?
-Vì nay lìa cái liềm có riêng người cắt cỏ, còn lìa thân tâm thì các căn không có sự tạo tác riêng.
-Nếu cho tác giả tuy không phải là do mắt, tai tạo được, nhưng cũng có tác giả, thế thì con của thạch nữ cũng có thể tạo tác.
-Như thế thì tất cả các căn đều nên là vô ngã.
-Nếu cho mắt bên phải thấy vật, mắt bên trái nhận biết, nên biết riêng có người thấy, thì việc ấy cũng không đúng.
-Hiện tại tay bên phải tập luyện, tay bên trái thì không thể.
-Vậy nên không riêng có tác giả.
-Nếu riêng có tác giả, thì tuy tay bên phải tập luyện, tay bên trái cũng nên có khả năng, nhưng thật sự là không có, vì thế lại không có tác giả.
-Lại nữa, người chấp có ngã nói: Khi thấy người khác ăn quả chua, từ nơi miệng mình nước miếng chảy ra, đó là tướng ngã, thì nói thế cũng không đúng.
-Vì sao? Vì đó là lực của nhớ nghĩ không phải là lực của ngã.
-Lại, đây cũng là nhân duyên phá bỏ ngã.
-Như người ở giữa chúng, hổ thẹn vì nước miếng chảy ra, nhưng nó cứ chảy, không được tự do.
-Vậy nên biết là không có ngã.
-Lại nữa, nếu có tội lỗi điên đảo thì đời trước là cha, đời nay làm con, giữa cha con chỉ thân có khác nhau nhưng ngã là một, như từ nhà này đi đến nhà khác, cha vẫn là cha, không vì đi đến nhà khác nên lại có khác.
-Nếu có ngã thì cha và con nên là một, như vậy tức có lỗi lớn.
-Nếu nói: Không có ngã trong năm ấm nối tiếp, cũng có lỗi, thì việc ấy không đúng. Vì sao?
-Vì năm ấm tuy nối tiếp, hoặc có khi hữu dụng, hoặc có khi vô dụng.
-Như nước nho, đối với người xuất gia giữ giới thì được phép uống (hữu dụng), nhưng rượu nho thì không được phép uống (vô dụng).
-Nếu biến rượu nho thành rượu đắng trị bệnh thì lại được phép uống (hữu dụng).
-Năm ấm nối tiếp cũng như vậy, hoặc hữu dụng hoặc vô dụng.
-Như thế, nếu đầu cuối có một, thì có lỗi như vậy, còn năm ấm nối tiếp thì không có lỗi như thế.
-Song năm ấm hòa hợp giả gọi là ngã, không có quyết định.
-Như kèo cột hòa hợp nên có nhà, lìa kèo cột thì không riêng có nhà.
-Như vậy, năm ấm hòa hợp nên có ngã, nếu lìa năm ấm thì thật không riêng có ngã.
-Thế nên ngã chỉ có danh giả, không có định thật (không có tự tánh).
-Ông trước nói lìa thọ riêng có người thọ, dùng thọ để phân biệt người thọ là trời là người, đó đều không đúng.
-Nên biết chỉ có pháp thọ, không riêng có người thọ.
-Nếu nói lìa thọ riêng có ngã là không đúng.
-Vì nếu lìa thọ riêng có ngã, thì làm sao có thể nói được về tướng ngã ấy.
-Nếu không có tướng để có thể nêu bày thì lìa thọ không có ngã.
-Nếu nói lìa thân không có ngã, thân ấy là ngã, thì cũng không đúng. Vì sao?
-Vì thân năm ấm có tướng sinh diệt, còn ngã thì không như thế.
-Lại nữa, làm sao cho thọ tức là người thọ.
-Nếu cho lìa thọ có người thọ thì cũng không đúng.
-Vì nếu không thọ năm ấm mà có người thọ, thì có thể lìa năm ấm có người thọ như các căn mắt v.v… có thể có được, nhưng thật sự là không thể có được,
-Vì thế nên ta không lìa thọ, cũng không tức là thọ, cũng chẳng phải là không thọ, cũng lại chẳng phải là không. Đây là nghĩa định.
-Vì thế nên biết, ngã có mặt trong đời quá khứ, việc ấy là không đúng. Vì sao?
Ngã quá khứ không tạo
Việc ấy tức không đúng
Ngã trong đời quá khứ
Khác nay cũng không đúng.
Nếu cho là có khác
Lìa kia nên có nay
Ngã trụ đời quá khứ
Mà nay ngã tự sinh.
Như vậy tức đoạn diệt
Mất quả báo của nghiệp
Kia làm nhưng đây nhận
Có những lỗi như thế.
Trước không mà nay có
Trong ấy cũng có lỗi
Ngã tức là pháp tạo
Và cũng là không nhân.
*Ngã trong đời quá khứ không tạo ra ngã hiện nay, nói vậy là không đúng. Vì sao?
-Vì ngã trong đời quá khứ cùng với ngã nơi đời này không khác.
-Nếu ngã của đời nay cùng với ngã của đời quá khứ là khác, thì có thể lìa ngã kia mà có ngã nay.
-Lại, ngã của đời quá khứ cũng có thể trụ nơi thân quá khứ kia, còn thân này tự lại sinh.
-Nếu như vậy tức rơi vào biên đoạn diệt, mất quả báo của các nghiệp.
-Lại người kia tạo tội, người này thọ báo.
-Nên nói ngã đời nay khác ngã đời trước tức có nhiều thứ lỗi lầm như thế.
-Lại, nếu nói ngã ấy nên trước không có nhưng nay có là cũng có lỗi.
-Vì ngã ấy là pháp tạo tác, cũng là không nhân mà sinh.
-Thế nên nói: Ngã nơi đời quá khứ không tạo ra ngã đời nay, việc ấy là không đúng.
Lại nữa,
Như trong đời quá khứ
Chấp có ngã, không ngã
Hoặc vừa có, vừa không
Việc ấy đều không đúng.
*Như vậy, các tà kiến suy tìm trong đời quá khứ chấp có ngã, không có ngã, cũng có ngã cũng không có ngã, chẳng phải có ngã chẳng phải không có ngã.
-Những tà kiến như vậy, vì trước nói lỗi nơi nhân duyên nên đều không đúng.
Ngã nơi đời vị lai
Là tạo là không tạo
Các kiến chấp như thế
Đều đồng đời quá khứ.
*Ngã nơi đời vị lai là tạo hay là không tạo.
-Bốn trường hợp như thế đều có lỗi, giống như bốn trường hợp chấp ngã trong đời quá khứ.
Lại nữa,
Nếu trời tức là người
Tức rơi vào thường kiến
Trời tức là không sinh
Vì pháp thường chẳng sinh.
*Nếu trời tức là người, thì đó là thường.
-Nếu trời không sinh trong loài người sao gọi là người?
-Pháp thường thì không sinh, nên nói thường cũng không đúng.
Lại nữa,
Nếu trời khác với người
Đó tức là vô thường
Nếu trời khác người sinh
Tức là không nối tiếp.
*Nếu trời khác với người, thế tức là vô thường.
-Vô thường thì có lỗi đoạn diệt, như trước đã nói.
-Nếu trời khác với người thì không có nối tiếp.
-Nếu có nối tiếp thì không thể nói trời khác với người.
Lại nữa,
Nếu nửa trời, nửa người
Tức rơi vào hai biên
Thường cùng với vô thường
Việc ấy tức không đúng.
*Nếu chúng sinh một nửa thân là trời, một nửa thân là người, như thế thì có cả thường, vô thường.
-Nửa trời là thường, nửa người là vô thường.
-Nhưng việc ấy là không đúng. Vì sao?
-Vì có lỗi một thân có hai tướng.
Lại nữa,
Nếu thường và vô thường
Cả hai đều cùng thành
Như vậy tức nên thành
Không phải thường, vô thường.
*Nếu thường và vô thường cả hai đều thành, sau đấy thành không phải là thường không phải là vô thường, vì trái với thường và vô thường.
-Nhưng nay thật sự là thường và vô thường không thành, nên không phải là thường không phải là vô thường cũng không thành.
-Lại nữa, nay nói sinh tử vô thỉ thì cũng không đúng. Vì sao?
Nếu pháp định có đến
Cùng quyết định có đi
Sinh tử tức vô thỉ
Nhưng sự ấy thật không.
*Nếu pháp quyết định có chỗ từ kia lại đây, có chỗ từ đây đi đến kia, thì sinh tử tức nên vô thỉ.
-Nhưng dùng trí tuệ suy tìm, không thấy pháp có chỗ từ kia lại đây cùng có chỗ từ đây đi đến kia, nên nói sinh tử là vô thỉ, việc ấy cũng không đúng.
Lại nữa,
Nay nếu không có thường
Làm sao có vô thường
Cũng thường cũng vô thường
Không phải thường, vô thường.
*Nếu như vậy, do trí tuệ suy tìm, không thấy có pháp có thể là thường, vậy làm sao có pháp vô thường, vì nhân nơi thường nên có vô thường.
-Nếu thường và vô thường đều không có, làm sao có cũng thường cũng vô thường.
-Nếu không có cũng thường cũng vô thường, làm sao có không phải là thường không phải là vô thường, vì nhân nơi cũng thường cũng vô thường, nên có không phải là thường không phải là vô thường.
-Vì vậy nương dựa nơi đời quá khứ, khởi bốn trường hợp chấp thường, vô thường v.v..., việc ấy là không đúng.
-Nương dựa nơi đời vị lai, khởi tà kiến chấp bốn trường hợp ngã và thế giới là hữu biên, vô biên v.v..., việc ấy cũng không được. Nay đây sẽ nói. Vì sao?
Nếu thế gian hữu biên
Làm sao có đời sau
Nếu thế gian vô biên
Làm sao có đời sau.
*Nếu thế gian là hữu biên thì không thể có đời sau, nhưng nay thật sự là có đời sau, vậy nên nói thế gian hữu biên là không đúng.
-Nếu thế gian vô biên thì cũng không thể có đời sau, nhưng thật sự là có đời sau, thế nên nói thế gian vô biên cũng không đúng.
-Lại nữa, cả hữu biên, vô biên đều không thể có được. Vì sao?
Năm ấm thường nối tiếp
Cũng như ngọn đèn sáng
Vì vậy nên thế gian
Không hữu biên, vô biên.
*Từ năm ấm lại sinh năm ấm.
-Năm ấm ấy thứ lớp nối tiếp, như từ các duyên hòa hợp có ngọn đèn sáng.
-Nếu các duyên hết thì đèn cũng tắt.
-Nếu các duyên không hết thì đèn không tắt.
-Nếu duyên hết thì đèn tắt.
-Vì vậy không thể nói thế gian hữu biên, vô biên.
Lại nữa,
Nếu năm ấm trước hoại
Không nhân năm ấm ấy
Là sinh năm ấm sau
Thế gian tức hữu biên.
Nếu ấm trước không hoại
Cũng không nhân ấm ấy
Mà sinh năm ấm sau
Thế gian tức vô biên.
*Nếu năm ấm trước hoại, không nhân nơi năm ấm ấy lại sinh năm ấm sau, như vậy thì thế gian là hữu biên.
-Nếu năm ấm trước hoại rồi, không còn sinh tiếp năm ấm khác, đó gọi là biên.
-Biên là chỉ cho thân sau cùng.
-Nếu năm ấm trước không hoại và không nhân nơi năm ấm ấy sinh ra năm ấm sau, thì thế gian là vô biên, vô biên tức là thường.
-Nhưng thật sự thì không phải như vậy.
-Vậy nên nói thế gian vô biên là không đúng.
-Thế gian có hai thứ: thế gian của quốc độ và thế gian của chúng sinh.
-Ở đây là nói về thế gian của chúng sinh.
Lại nữa, như trong Tứ Bách Quán nói:
Pháp chân và người nói
Người nghe khó gặp được
Như vậy tức sinh tử
Phi hữu biên vô biên.
*Do nhân duyên không đạt được pháp chân nên sinh tử qua lại không có biên vực.
-Nếu khi được nghe pháp chân đạt đạo, thì không thể nói là vô biên.
-Nay sẽ tiếp phá cũng hữu biên cũng vô biên.
Thế gian nửa hữu biên
Thế gian nửa vô biên
Tức là cũng hữu biên
Cũng vô biên, không đúng
*Nếu thế gian một nửa hữu biên, một nửa vô biên, tức nên là cũng hữu biên cũng vô biên.
-Nếu như vậy là một pháp có hai tướng, việc ấy là không đúng. Vì sao?
Người thọ năm ấm kia
Vì sao phá một phần
Một phần lại không phá
Việc ấy tức không đúng.
Thọ cũng lại như thế
Vì sao phá một phần
Còn một phần không phá
Việc này cũng không đúng.
*Người thọ năm ấm vì sao một phần phá (vì vô thường), một phần không phá (vì thường), như vậy là không đúng.
-Nói cũng thường cũng vô thường cũng không đúng.
-Đối với năm ấm được thọ cũng như vậy.
-Vì sao một phần phá một phần không phá.
-Vì một pháp có hai tướng là thường và vô thường đều có lỗi.
-Thế nên nói thế gian cũng hữu biên cũng vô biên tức không đúng.
-Nay sẽ phá chẳng phải là hữu biên chẳng phải là vô biên.
Vừa hữu biên, vô biên
Cả hai được thành lập
Phi hữu, phi vô biên
Tức là cũng nên thành.
*Trái với hữu biên nên có vô biên.
-Như trái với dài nên có ngắn.
-Trái với có, không nên có cũng có cũng không.
-Trái với cũng có cũng không nên có chẳng phải là có chẳng phải là không.
-Nếu cũng hữu biên cũng vô biên quyết định thành, tức nên có chẳng phải là hữu biên chẳng phải là vô biên. Vì sao?
-Vì nhân nơi đối đãi nhau mà có.
-Trên đã phá câu thứ ba là cũng hữu biên cũng vô biên, nay làm sao có câu thứ tư chẳng phải là hữu biên chẳng phải là vô biên, do không có đối đãi nhau.
Lại nữa,
Tất cả pháp rỗng lặng
Vậy xứ nào, thời nào
Ai khởi các kiến chấp
Nói thế gian là thường v.v…
Trên đã dùng pháp
Thanh văn phá các tà kiến.
*Nay trong pháp Đại thừa này thì nói các pháp từ trước đến giờ rốt ráo là tánh không.
-Ở trong pháp tánh không như vậy, không có người, không có pháp, không thể sinh ra tà kiến, chánh kiến.
-Xứ là đất đai, thời gian là số ngày tháng năm.
-Ai là người, đó gọi là thể của các kiến chấp.
-Nếu quyết định có kiến chấp thường, vô thường v.v... tức phải có người xuất sinh ra kiến chấp ấy.
-Nay phá ngã nên không có người sinh ra kiến chấp ấy.
-Phải có nơi chốn, nhưng sắc pháp là thứ hiện thấy được hãy còn có thể phá huống gì là thời gian, phương hướng.
-Nếu có các kiến chấp thì phải có thật thể nhất định, nếu có thật thể nhất định thì không thể phá.
-Nhưng từ trước nay đã dùng vô số nhân duyên để phá kiến chấp, vì thế nên biết các kiến chấp không có tự thể nhất định, vậy làm sao sinh ra, như kệ nói:
Vậy xứ nào thời nào,
Ai khởi các kiến chấp.
Cù Đàm, bậc Đại Thánh
Từ bi nói pháp ấy
Tất trừ mọi kiến chấp
Con nay cung kính lễ.
*Tất cả kiến chấp tóm lược có năm kiến (Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ), nói rộng có sáu mươi hai kiến. Vì để phá trừ các kiến ấy nên Phật thuyết pháp. Đấng Thánh chủ Cù Đàm là bậc trí tuệ vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Thế nên con cung kính đảnh lễ.
 

Kim Cang Thoi Luan

Registered
Phật tử
Tham gia
13 Thg 8 2018
Bài viết
932
Điểm tương tác
210
Điểm
43
nagarjuna-nagas2.JPG

Chẳng sinh cũng chẳng diệt
Chẳng thường cũng chẳng đoạn
Chẳng một cũng chẳng khác
Chẳng đến cũng chẳng đi.
Nói pháp nhân duyên ấy
Khéo trừ các hý luận
Con cúi đầu lễ Phật
Bậc thuyết pháp đệ nhất.


Phẩm thứ 1: QUÁN VỀ NHÂN DUYÊN

(Gồm 16 kệ)

Hỏi: Vì sao tạo Luận này?
Đáp: *Vì có người nói: Vạn vật từ trời Đại tự tại sinh.
-Có người cho: Từ trời Vĩ nữu sinh.
-Có người nêu: Từ sự hòa hợp sinh.
-Có người biện: Từ thời sinh.
-Có người nói: Từ thế tánh sinh.
-Có người cho: Từ biến hóa sinh.
-Có người nêu: Từ tự nhiên sinh.
-Có người biện: Từ vi trần sinh.
-Có những sai lầm như vậy nên bị rơi vào tà kiến như không nhân, nhân tà, đoạn, thường v.v... và các thuyết ngã, ngã sở, không nhận biết được chánh pháp.
-Đức Phật muốn đoạn trừ các tà kiến ấy khiến nhận biết pháp Phật, nên trước hết ở trong pháp Thanh văn thuyết giảng mười hai nhân duyên, sau lại vì những người đã hành tập, có tâm trí lớn, có khả năng thọ nhận pháp thâm diệu, dùng pháp Đại thừa nói về tướng của nhân duyên.
-Nghĩa là hết thảy pháp chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng một, chẳng khác v.v... rốt ráo không, không sở hữu.
-Như trong kinh Bát-nhã Ba-la-mật nói: Phật bảo Tôn giả Tu-bồ-đề: “Bồ-tát khi an tọa nơi đạo tràng, quán mười hai nhân duyên như hư không, không thể cùng tận”.
-Năm trăm năm sau Phật diệt độ, vào thời tượng pháp, căn tánh của con người trở nên ám độn, chấp trước sâu nơi các pháp, đi tìm tướng quyết định của mười hai nhân duyên, năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, không hiểu ý của Phật, chỉ chấp vào văn tự.
-Nghe trong pháp Đại thừa nói rốt ráo không, không biết vì nhân duyên gì nên không, tức sinh tâm kiến chấp, nghi ngờ: “Nếu tất cả rốt ráo không, làm sao phân biệt có tội phước báo ứng v.v…, và như vậy tức không có thế đế, đệ nhất nghĩa đế?”.
-Chấp giữ tướng không ấy, nên khởi tâm tham đắm đối với nghĩa rốt ráo không sinh ra nhiều thứ lỗi lầm.
-Vì những lý do như vậy, nên Bồ-tát Long Thọ đã tạo Trung Luận này.

Chẳng sinh cũng chẳng diệt
Chẳng thường cũng chẳng đoạn
Chẳng một cũng chẳng khác
Chẳng đến cũng chẳng đi.
Nói pháp nhân duyên ấy
Khéo trừ các hý luận
Con cúi đầu lễ Phật
Bậc thuyết pháp đệ nhất.
*Dùng hai kệ tán thán Phật này tức đã lược nói về đệ nhất nghĩa đế.

Hỏi: Các pháp là vô lượng vì sao chỉ lấy tám việc (chẳng sinh, chẳng diệt v.v...) này để phá?
Đáp: *Pháp tuy vô lượng nhưng lược nói tám việc cũng đủ phá hết tất cả pháp.
-Chẳng sinh: Là vì các Luận sư có nhiều thuyết khác nhau về tướng sinh.
-Có người nói nhân và quả là một.
-Có người nói nhân và quả là khác.
-Hoặc cho trong nhân trước đã có quả.
-Hoặc cho trong nhân trước không có quả.
-Hoặc cho chính tự Thể sinh.
-Hoặc cho từ cái khác sinh.
-Hoặc cho do tự và tha cùng sinh.
-Hoặc cho do hữu sinh.
-Hoặc cho do không sinh.
-Những thuyết nói về tướng sinh của vạn vật như vậy đều không đúng.
-Việc này sau sẽ nói rộng.
-Vì tướng sinh nhất định không thể thủ đắc nên nói chẳng sinh.
-Chẳng diệt: Là nếu không sinh thì đâu có gì để diệt.
-Vì không sinh không diệt nên sáu việc còn lại cũng không.

Hỏi: Không sinh không diệt đã phá hết tất cả pháp, vì sao còn nói thêm sáu việc kia?
Đáp: Vì để thành tựu nghĩa chẳng sinh chẳng diệt.
-Có người không nhận nghĩa chẳng sinh chẳng diệt, chỉ tin nhận nghĩa chẳng thường chẳng đoạn.
-Nếu tìm hiểu sâu về nghĩa chẳng thường chẳng đoạn tức là nghĩa chẳng sinh chẳng diệt. Vì sao?
-Vì các pháp nếu thật có tức chẳng nên không.
-Trước có nay không tức là đoạn.
-Nếu trước sẵn có tánh tức là thường.
-Thế nên nói chẳng thường chẳng đoạn, liền nhập vào nghĩa chẳng sinh chẳng diệt.
-Có người tuy nghe nói bốn thứ (chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng thường, chẳng đoạn) phá trừ các pháp, nhưng còn bốn môn (một, khác, đến, đi) để thành lập các pháp, việc ấy cũng không đúng.
-Nếu là một thì không duyên.
-Nếu là khác thì không tương tục.
-Sau đây sẽ phá từng loại.
-Thế nên lại nói chẳng một, chẳng khác.
-Có người tuy nghe nói sáu thứ (chẳng sinh - chẳng diệt, chẳng thường - chẳng đoạn, chẳng một - chẳng khác) phá trừ các pháp, nhưng còn dùng đến và đi để thành lập các pháp.
-Đến là cho các pháp đến từ trời Tự Tại, hoặc thế tánh, hoặc vi trần v.v... Đi là trở về lại xứ cũ.
-Lại nữa, vạn vật không có sinh. Vì sao?
-Vì thế gian hiện thấy.
-Thế gian mắt thấy kiếp ban sơ lúa chẳng sinh. Vì sao?
-Vì lìa lúa của kiếp ban sơ thì lúa hiện nay không thể có được.
-Nếu lìa lúa nơi kiếp ban sơ mà lúa hiện nay có mới gọi là có sinh ra, nhưng thật sự thì không như vậy.
-Thế nên chẳng sinh.

Hỏi: Nếu chẳng sinh thì phải diệt?
Đáp: Chẳng diệt. Vì sao?
-Vì thế gian hiện thấy.
-Thế gian mắt thấy lúa nơi kiếp ban sơ chẳng diệt, nếu diệt thì nay không thể có lúa.
-Nhưng thật sự là có lúa.
-Thế nên chẳng diệt.

Hỏi: Nếu chẳng diệt thì phải thường?
Đáp: Chẳng thường. Vì sao?
-Vì thế gian hiện thấy.
-Thế gian mắt thấy vạn vật chẳng thường.
-Như khi hạt lúa mọc mầm thì hạt lúa biến hoại.
-Thế nên chẳng thường.

Hỏi: Nếu chẳng thường thì phải đoạn?
Đáp: *Chẳng đoạn. Vì sao?
-Vì thế gian hiện thấy.
-Thế gian mắt thấy vạn vật chẳng đoạn.
-Như từ hạt lúa có mầm.
-Thế nên chẳng đoạn.
-Nếu đoạn thì không thể nối tiếp.

Hỏi: Nếu như vậy vạn vật là một chăng?
Đáp: *Chẳng một. Vì sao?
-Vì thế gian hiện thấy.
-Thế gian mắt thấy vạn vật chẳng một.
-Như hạt lúa không làm mầm, mầm không làm hạt lúa.
-Nếu hạt lúa làm mầm, mầm làm hạt lúa, mới là một.
-Nhưng thật sự thì không như vậy.
-Thế nên chẳng một.

Hỏi: Nếu chẳng một thì phải khác?
Đáp: Chẳng khác. Vì sao?
-Vì thế gian hiện thấy.
-Thế gian mắt thấy vạn vật chẳng khác.
-Nếu khác thì vì sao phân biệt đây là mầm lúa, cành lúa, lá lúa, không nói đây là mầm cây, cành cây, lá cây?
-Thế nên chẳng khác.

Hỏi: Nếu chẳng khác thì phải có đến?
Đáp: Chẳng đến. Vì sao?
-Vì thế gian hiện thấy.
-Thế gian mắt thấy vạn vật chẳng đến.
-Như mầm trong hạt lúa không từ đâu đến.
-Nếu đến thì mầm ấy phải từ xứ khác đến, như chim đến đậu trên cây.
-Nhưng thật sự thì không như vậy.
-Thế nên chẳng đến.

Hỏi: Nếu chẳng đến thì phải có đi?
Đáp: Chẳng đi. Vì sao?
-Vì thế gian hiện thấy.
-Thế gian mắt thấy vạn vật chẳng đi.
-Nếu có đi thì nên thấy mầm từ hạt lúa đi ra, như rắn từ trong hang bò ra.
-Nhưng thật sự thì không như vậy. Thế nên chẳng đi.

Hỏi: Ông tuy đã giải thích về nghĩa chẳng sinh chẳng diệt v.v... nhưng tôi muốn nghe luận thuyết của người tạo luận?
Đáp: Các pháp chẳng tự sinh
Cũng chẳng từ tha sinh
Chẳng cùng, chẳng không nhân
Thế nên biết không sinh.
*Chẳng tự sinh là vạn vật không có từ tự Thể sinh, nhất định phải chờ đủ các nhân duyên mới sinh ra.
-Lại nữa, nếu từ tự Thể sinh thì một pháp có hai Thể:
-Một là đối tượng được sinh.
-Hai là chủ thể sinh.
-Nếu lìa nhân khác chỉ từ tự Thể sinh thì không có nhân không có duyên, lại sinh lại có sinh sinh, tức là vô cùng.
-Vì tự không nên tha cũng không. Vì sao?
-Vì có tự nên mới có tha.
-Nếu không từ tự sinh thì cũng không từ tha sinh.
-Tự và tha cùng sinh tức có hai lỗi là lỗi về tự sinh và lỗi về tha sinh như trên.
-Nếu không có nhân mà có vạn vật thì đó là thường, việc ấy là không đúng, vì không nhân thì không quả.
-Nếu không nhân mà có quả thì hành bố thí, trì giới nên bị đọa vào địa ngục, còn hành mười điều ác, năm tội nghịch nên được sinh nơi xứ trời, do không có nhân.
Lại nữa,
Như tự tánh các pháp
Không ở trong các duyên
Vì tự tánh không có
Nên tha tánh cũng không.
*Tự tánh của các pháp không ở trong các duyên, chỉ do các duyên hòa hợp nên có được tên gọi.
-Tự tánh chính là tự Thể.
-Trong các duyên không có tự tánh.
-Vì trong các duyên không có tự tánh nên không tự sinh.
-Tự tánh không có nên tha tánh cũng không có. Vì sao?
-Vì nhân nơi tự tánh mới có tha tánh.
-Tha tánh đối với cái khác cũng là tự tánh.
-Nếu phá tự tánh tức phá tha tánh.
-Thế nên không thể từ tha tánh sinh.
-Nếu phá nghĩa tự tánh sinh, tha tánh sinh, tức là phá nghĩa tự tánh, tha tánh cùng sinh.
-Còn nói không nhân sinh thì có lỗi lớn.
-Nói có nhân hãy còn bị phá huống gì là nói không nhân.
-Ở trong bốn cách (tự sinh, tha sinh, cùng sinh, không nhân sinh) trên, tìm tướng sinh không thể thủ đắc.
-Do vậy nói không sinh.


Hỏi: Người A-tỳ-đàm nói: Các pháp từ bốn duyên sinh nay vì sao nói không sinh? Bốn duyên là gì?
Đó là: Nhân duyên, Thứ đệ duyên
Duyên duyên, Tăng thượng duyên
Bốn duyên sinh các pháp
Lại không duyên thứ năm.
*Tất cả duyên hiện có đều thâu vào trong bốn duyên.
-Do bốn duyên ấy vạn vật được sinh khởi.
-Nhân duyên: Là chỉ cho hết thảy pháp hữu vi.
-Thứ đệ duyên: Là chỉ cho tâm, tâm sở pháp nơi quá khứ, hiện tại, trừ tâm, tâm sở pháp tối hậu của vị A-la-hán quá khứ, hiện tại.
-Sở duyên duyên và Tăng thượng duyên: Là chỉ cho tất cả pháp.
Đáp: Quả là từ duyên sinh
Hay từ phi duyên sinh
Duyên ấy là có quả
Hay là không có quả?
*Nếu cho có quả thì quả ấy từ duyên sinh hay từ phi duyên sinh?
-Nếu cho từ duyên sinh ra thì trong duyên ấy đã có quả hay không có quả?
-Cả hai đều không đúng. Vì sao?
Vì: Nhân pháp nào sinh quả
Pháp ấy gọi là duyên
Nếu quả ấy chưa sinh
Sao không gọi phi duyên?
*Các duyên không có quyết định. Vì sao?
-Nếu quả chưa sinh thì khi ấy không gọi nó là duyên.
-Chỉ khi mắt thấy quả từ duyên sinh nên gọi đó là duyên, duyên thành do nơi quả, vì quả có sau, duyên có trước.
-Nên nếu khi chưa có quả thì đâu được gọi là duyên.
-Như cái bình do đất nước hòa hợp nên có cái bình sinh ra.
-Vì thấy cái bình nên biết đất nước là các duyên của cái bình.
-Vậy nếu khi bình chưa sinh thì sao không gọi đất nước v.v… là phi duyên?
-Thế nên biết quả không từ duyên sinh.
-Duyên hãy còn không sinh huống là phi duyên.
Lại nữa,
Quả trước ở trong duyên
Có không đều không thể
Trước không làm duyên gì
Trước có đâu cần duyên.
*Trong duyên, trước chẳng phải có quả, chẳng phải không quả.
-Nếu trước đã có quả thì không gọi là duyên, vì quả đã có trước.
-Nếu trước không có quả thì cũng không gọi là duyên, vì không sinh ra vật gì khác.

Hỏi: Đã phá chung tất cả nhân duyên. Bây giờ muốn nghe phá từng duyên một.
Đáp: Nếu quả chẳng có sinh
Cũng lại chẳng không sinh
Cũng không có không sinh
Đâu được nói có duyên.
*Nếu duyên có thể sinh ra quả thì nên có ba loại: Hoặc đã có quả, hoặc không có quả, hoặc có và không có quả.
-Như trong kệ trước nói: Ở trong duyên, nếu trước đã có quả thì không nên gọi là sinh, vì trước đã có.
-Nếu trước không có quả thì không nên nói là sinh, vì trước đã không có.
-Như vậy duyên và không duyên giống nhau, vì có duyên hay không có duyên quả cũng không sinh.
-Có và không có tức là nửa có nửa không, cả hai đều có lỗi.
-Lại có và không có trái nhau, không có và có trái nhau, đâu được trong một pháp có hai tướng.
-Ba loại như vậy tìm tướng sinh của quả không thể thủ đắc thì sao nói có nhân duyên.
Về Thứ đệ duyên:
Quả nếu khi chưa sinh
Thì không thể có diệt
Pháp diệt đâu thể duyên
Nên không Thứ đệ duyên.
*Các tâm, tâm sở pháp ở trong ba đời thứ lớp sinh.
-Tâm tâm sở hiện tại diệt lại làm thứ đệ duyên cho tâm tâm sở vị lai phát sinh.
-Vậy khi pháp vị lai chưa sinh thì nó làm thứ đệ duyên cho cái gì?
-Nếu pháp vị lai đã có thì liền sinh đâu cần đến thứ đệ duyên.
-Tâm, tâm sở hiện tại không có lúc nào trụ, nếu không trụ thì đâu có thể làm thứ đệ duyên.
-Nếu có trụ thì chúng không phải là pháp hữu vi. Vì sao?
-Vì hết thảy pháp hữu vi luôn có tướng hoại diệt.
-Nếu diệt thì không thể làm thứ đệ duyên.
-Nếu cho pháp diệt rồi mà vẫn có tức là thường, thường thì không có tội phước.
-Nếu cho khi diệt có thể làm thứ đệ duyên thì khi diệt một nửa diệt, một nửa chưa diệt, không có pháp thứ ba gọi là khi diệt.
-Lại, Phật dạy: Tất cả pháp hữu vi niệm niệm diệt, không có một giây phút dừng trụ.
-Vậy làm sao nói pháp hiện tại có một phần sắp diệt, một phần chưa sắp diệt?
-Ông cho trong một niệm không có một phần sắp diệt, một phần chưa sắp diệt, thế là ông tự phá giáo pháp của ông.
-Trong luận A-tỳ-đàm của các ông nói: “Có pháp diệt, có pháp không diệt. Có pháp sắp diệt, có pháp chưa sắp diệt”.
-Pháp sắp diệt là pháp hiện tại, sắp muốn diệt.
-Pháp chưa sắp diệt là chỉ tất cả pháp hiện tại khác và pháp quá khứ, vị lai, pháp vô vi, trừ pháp hiện tại sắp diệt, đó gọi là pháp chưa sắp diệt.
-Thế nên không có Thứ đệ duyên.
Về Sở duyên duyên:
Pháp chân thật vi diệu
Như chư Phật đã nói
Đối pháp không duyên này
Làm sao có duyên duyên.
*Phật dạy các pháp Đại thừa, hoặc có sắc không sắc, có hình không hình, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi, khi các pháp tướng nhập nơi pháp tánh thì tất cả đều không, không tướng, không duyên, ví như muôn sông chảy vào biển hòa đồng một vị.
-Đó là pháp thật đáng tin.
-Còn các pháp Phật nói ra để thích nghi theo căn cơ, không thể xem là thật.
-Thế nên không có Sở duyên duyên.
Về Tăng thượng duyên:
Các pháp không tự tánh
Nên không có tướng có
Nói là có việc ấy
Việc ấy có không đúng.
*Kinh nói mười hai nhân duyên, vì việc này có nên việc kia có, việc ấy là không đúng. Vì sao?
-Vì các pháp từ các duyên sinh, nên tự nó không có tánh nhất định.
-Tự nó không có tánh nhất định nên không có tướng có.
-Tướng có không có, vậy làm sao nói do việc ấy có nên việc kia có?
-Do đấy không có Tăng thượng duyên.
-Phật tùy theo chỗ phàm phu phân biệt về có không nên nói các duyên.
Lại nữa,
Trong nhân duyên lược, rộng
Tìm quả không thể được
Trong nhân duyên nếu không
Thì sao từ duyên sinh.
*Lược: Là ở trong nhân duyên hòa hợp không có quả.
-Rộng: Là trong mỗi mỗi duyên cũng không có quả.
-Nếu trong nhân duyên lược hoặc rộng đều không có quả thì làm sao nói quả từ nhân duyên xuất sinh? Lại nữa,
Nếu cho duyên không quả
Mà quả từ duyên ra
Sao quả ấy không từ
Trong phi duyên sinh ra?
*Nếu trong nhân duyên tìm quả không thể có được, nhưng quả từ nhân duyên xuất sinh, vậy sao quả ấy không từ trong phi duyên xuất sinh?
-Như trong đất không có bình, nhưng vẫn sinh ra bình, vì sao không từ trong sữa sinh ra bình?
Lại nữa,
Nếu quả từ duyên sinh
Duyên ấy không tự tánh
Từ vô tự tánh sinh
Đâu phải từ duyên sinh.
Quả không từ duyên sinh
Chẳng từ phi duyên sinh
Do quả không thật có
Duyên, phi duyên cũng không.
*Quả từ các duyên sinh nhưng các duyên ấy không có tự tánh.
-Nếu không có tự tánh thì không có pháp, không có pháp thì đâu có thể sinh, thế nên quả không từ duyên sinh.
-Không từ phi duyên sinh là vì phá duyên nên nói phi duyên, chứ thật không có pháp phi duyên, nên không từ phi duyên sinh.
-Nếu không từ duyên sinh, không từ phi duyên sinh thì không có quả.
-Vì quả không có nên duyên và phi duyên cũng không có.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)

    TOP 5 Tài Thí

    Bên trên