Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh (kinh cầu đắc giới thể)

Kim Cang Thoi Luan

Registered
Phật tử
Tham gia
13 Thg 8 2018
Bài viết
932
Điểm tương tác
210
Điểm
43
botatdiatang-darani.jpg


KINH CHIÊM SÁT NGHIỆP BÁO THIỆN ÁC
Quyển Thượng

Đời Tùy Tam tạng Pháp Sư: BỒ ĐỀ ĐĂNG Người nước Ấn Độ, dịch Phạn Văn
ra Hán văn.
Việt dịch: THÍCH THIỆN THÔNG

Tôi nghe như vầy: Một thời đức Phật, Đấng Nhất Thiết Trí, ở thành Vương Xá, trong núi Linh Thứu, dùng sức thần thông, thị hiện đạo tràng thanh tịnh trang nghiêm, rộng rãi vô ngại, cùng với vô lượng vô biên đại chúng câu hội, diễn nói Pháp môn Căn Tụ (1) rất sâu.

Bấy giờ trong hội có một Bồ Tát, tên là Kiên Tịnh Tín (2) từ tòa đứng dậy, sửa lại y phục, vén áo vai mặt, cung kính chắp tay, bạch lên đức Phật: Kính bạch Thế Tôn! Nay con ở giữa chư đại chúng đây, muốn có chỗ hỏi, thưa thỉnh Thế Tôn, cúi mong Thế Tôn rủ lòng cho phép? Đức Phật dạy rằng: Này thiện nam tử! Tùy chỗ ông hỏi, Như Lai có thể giải nói cho ông.

Ngài đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín thưa: Như đức Thế Tôn trước đây có nói: “Ta nhập diệt rồi, đến sau thời kỳ Chính Pháp chấm dứt (3) Tượng Pháp sắp hết (4) sang thời Mạt Pháp (5) vào thời kỳ này, chúng sinh phước mỏng, nhiều sự suy buồn, quốc độ xảy ra rối loạn hoài hoài, tai họa nhiều lần nổi lên khắp nơi, (6) đủ thứ ách nạn, toàn những sợ sệt bức xúc chúng sinh. Đệ tử Như Lai, đa số đánh mất niệm lành của mình, chỉ nuôi lớn thêm tham, giận, ganh tỵ, ngã mạn v.v…Giả sử có người, làm được những điều, giống như thiện Pháp, (7) thì cũng chỉ cầu lợi dưỡng tiếng khen theo người thế gian, lấy đó làm đích, chẳng thể chuyên tâm tu Pháp xuất yếu (8) trong thời kỳ này, chúng sinh khắp nơi, nhìn thấy trong đời tai biến loạn ly, lòng họ khiếp nhược, lo sợ thân mình và những quyến thuộc chẳng được áo cơm để nuôi thân mạng. Do những nhân duyên đầy dẫy các thứ chướng ngại như thế, cho nên đối với Chính Pháp của Phật, căn tính của họ, trở nên chậm lụt, đức tin ít ỏi, người chứng được đạo cực kỳ hiếm có, đến đỗi lần lần, đối với Ba thừa, những người thành tựu đức tin căn bản lại cũng rất hiếm. Những người tu học thiền định thế gian, mà phát sinh những năng lực thần thông, như biết kiếp trước của mình v.v… lần lượt chẳng còn. Vào thời Mạt Pháp, lâu xa như vậy, người chứng đạo quả, người được đức tin, người được thiền định, thần thông v.v… hoàn toàn không có…”(9). Kính bạch Thế Tôn! Con vì thời đại ác trược sau này, khi Tượng Pháp sắp hết, và vì chúng sinh căn lành nhỏ nhoi trong thời Mạt Pháp, xin hỏi Như Lai, bày phương tiện nào, mở mang chỉ dẫn hàng đệ tử Phật, khiến sinh lòng tin, được trừ suy buồn? Bởi các chúng sinh, gặp thời đại ác, nhiều chướng ngại nên họ thoái tâm lành. Đối với nhân quả của Pháp thế gian và Pháp xuất thế, phần nhiều nghi ngờ, chẳng thể bền lòng, chuyên cầu thiện Pháp, chúng sinh như vậy đáng thương đáng cứu. Tâm đại từ bi của đức Thế Tôn bao la vô tận, trí biết tất cả, xin khởi phương tiện, dạy rõ điều này, khiến lìa lưới nghi, trừ các chướng ngại, thêm được đức tin, nương theo các thừa mà mau được giải thoát.

Đức Phật bảo ngài Kiên Tịnh Tín rằng: Lành thay! Lành thay! Ông hỏi việc này hay lắm, rất vừa ý ta! Nay trong hội này, có đại Bồ Tát tên là Địa Tạng, ông nên đem việc này, thưa hỏi với Người. Vị Bồ Tát ấy sẽ vì ông mà dựng lập phương tiện, mở bày diễn nói, để ông mãn nguyện. Khi đó Bồ Tát Kiên Tịnh Tín bạch Phật: Kính bạch Thế Tôn! Như Lai là đấng đại trí vô thượng, ý gì đức Phật chẳng nói, lại muốn để cho Bồ Tát Địa Tạng diễn nói việc này? Đức Phật bảo Ngài Kiên Tịnh Tín: Ông chớ có sinh tư tưởng cao hạ, Bồ Tát Địa Tạng, từ khi phát tâm tu hành đến nay, đã hơn vô lượng vô biên bất khả tư nghì A tăng kỳ kiếp, từ lâu Người đã chứng vào biển Nhất Thiết Trí, công đức tràn đầy, chỉ vì nương sức đại tự tại và thệ nguyện xưa mà khéo hóa hiện, ứng thân mười phương. Dù rằng dạo khắp tất cả cõi nước, khởi dụng độ sinh, nhưng với đời ác năm trược, riêng Người là làm lợi ích giáo hóa sâu dày hơn cả. Lại cũng nương sức huân tập, thệ nguyện thuở xưa, mà Người nhận lấy sự nghiệp giáo hóa chúng sinh có nhân đáng độ.

Bồ Tát Địa Tạng, từ mười một kiếp trở lại đây, luôn luôn trang nghiêm thế giới Ta Bà, thành thục chúng sinh, do đó, trong đại hội này, thân tướng của Người đoan nghiêm, oai đức thù thắng. Chỉ trừ Như Lai, ngoài ra không ai có thể hơn nổi. Vả lại bao nhiêu sự nghiệp giáo hóa nơi thế giới này, trừ những vị Đại Bồ Tát như Văn Thù Sư Lợi, Quán Thế Âm, ngoài ra không ai có thể sánh kịp. Cũng bởi bản thệ và nguyện lực xưa của Bồ Tát này, là nhanh chóng thỏa mãn tất cả nguyện cầu của khắp chúng sinh, hay diệt tất cả tội nặng, hay trừ các thứ chướng ngại cho khắp chúng sinh, để họ hiện đời được sự an ổn.

Lại nữa, Bồ Tát Địa Tạng, được mệnh danh là “Đấng khéo nói Pháp an ủi chúng sinh” Nghĩa là khéo nói những Pháp rất sâu có thể mở mang, dẫn dắt những người vừa mới tu học, phát khởi ý chí cầu Pháp Đại thừa, khiến chẳng khiếp nhược. Bởi những nhân duyên như vậy cho nên, nơi thế giới này, chúng sinh khát ngưỡng, chịu sự giáo hóa, đắc độ của Người, do đó mà ta để cho Người nói.

Khi ấy, Bồ Tát Kiên Tịnh Tín đã hiểu được ý của Phật, ngay đó Ngài liền mở lời khuyến thỉnh đức Địa Tạng rằng:
- Hay thay đấng Đại Sĩ cứu đời! Hay thay đấng Đại Trí khai đạo! Như điều tôi hỏi về những chúng sinh trong đời ác trược, dùng phương tiện gì giáo hóa chỉ dẫn, cho họ lìa khỏi các thứ chướng ngại, được vững niềm tin? Nay đức Như Lai muốn để cho Ngài nói phương tiện đó, xin Ngài phải thời, thương xót nói cho. Lúc đó Ngài Đại Bồ Tát Địa Tạng nói với Ngài Kiên Tịnh Tín rằng: - Này thiện nam tử! Hãy khéo lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói: - Thời gian sau khi đức Phật diệt độ, trong đời ác trược, những vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, nam nữ cư sĩ, đối với những điều nhân quả thế gian và xuất thế gian, như chưa có được đức tin quyết định, chẳng thể tu học về tưởng vô thường, về ý tưởng khổ, ý tưởng vô ngã, ý tưởng bất tịnh…

Những Pháp quán ấy chẳng thể thành tựu, chẳng thể siêng năng quán bốn Thánh đế, hoặc là Pháp quán mười hai nhân duyên, hoặc là những Pháp quán bất sinh bất diệt…Do chẳng siêng quán những Pháp như vậy, cuối cùng chẳng thể không tạo tội lỗi, thuộc mười điều ác căn bản. Đối với công đức của Phật, Pháp, Tăng, và những cảnh giới nhiệm mầu của ngôi Tam Bảo, chẳng hay chuyên lòng tin tưởng sâu sắc, đối trong ba thừa, đều không định hướng… Những hạng người trên, nếu có bất cứ thứ chướng duyên nào, thì mối lo lắng càng thêm tăng trưởng, hoặc nghi, hoặc hối. Đối với mọi điều, tâm chẳng sáng tỏ, cầu nhiều, lo nhiều, lắm chuyện rằng buộc, làm việc bất định, tư tưởng rối loạn, phế tu đạo nghiệp. Hàng đệ tử Phật, người nào có sự chướng nạn như thế, nên dùng phương pháp xem Tướng Mộc Luân (10) mà chiêm nghiệm xét nét. Nghiệp nhân tốt xấu của những đời trước, cũng như những sự khổ vui lành dữ hiện tại đời này, duyên hợp mà có, duyên hết thì tan, nghiệp nhóm theo tâm, tướng hiện quả khởi, chẳng mất, chẳng hư, tương ứng với nhau, không hề sai lạc. Hãy nên như vậy, chiêm nghiệm kỹ càng nghiệp báo tốt xấu, rồi tự nhắc nhở nơi lòng của mình. Đối với việc nào có chỗ nghi ngờ, thì lấy theo đó quyết định rõ rệt.

Là đệ tử Phật, hãy nên học tập phương pháp Chiêm Sát Tướng Mộc Luân này, hết lòng nương theo việc được xem xét, thì không điều nào mà chẳng thành tựu. Chẳng nên vứt bỏ phương pháp nói trên, trở lại theo đuổi những thứ bói quẻ, hoặc là những việc chiêm tướng lành dữ của người thế gian, rồi sinh ham đắm, ưa thích học tập. Nếu thích học tập, thì rất chướng ngại Thánh đạo Bồ Đề.

- Này thiện nam tử! Muốn học cách làm Tướng Mộc Luân thì, trước phải khắc gỗ, cỡ như ngón út, dài dưới một tấc (11) chính giữa mảnh gỗ, bốn mặt bằng nhau, đầu hai mảnh gỗ, nhọn lần lần ra, ngửa tay gieo qua chỗ sạch bên cạnh, khiến cho chuyển đổi, nhân vì nghĩa này mệnh danh là Luân. Lại nương tướng này, có thể phá hỏng lưới nghi chấp tà trong tâm chúng sinh, chuyển sang đường chính, đến chốn an ổn, nên gọi là Luân (12). Về Tướng Mộc Luân, thì có tất cả ba thứ khác nhau. Thế nào là ba? - Một là Luân tướng biểu thị nghiệp chủng thiện ác sai biệt đã tạo đời trước. Luân này có mười. - Hai là Luân tướng biểu thị nghiệp chủng chứa nhóm trong những đời trước, hoặc xa hoặc gần, tạo nghiệp mạnh yếu, lớn nhỏ khác nhau, Luân này có ba. - Ba là Luân tướng biểu thị thọ báo, sai biệt cả trong ba đời, Luân này có sáu. Như muốn xem xét những nghiệp ác sai biệt đã tạo đời trước, thì phải khắc gỗ ra làm mười Luân, y mười Luân này viết ghi danh từ của mười thiện nghiệp, cứ mỗi thiện nghiệp, chủ ở một luân, ghi ở một mặt. Kế lấy mười ác nghiệp, viết đối diện lại với mười thiện nghiệp, khiến cho cân đối, mỗi luân cũng ghi ở tại một mặt. Về mười thiện nghiệp chính là cội rễ tất cả điều thiện, có thể tóm nhiếp tất cả thiện Pháp khác. Về mười ác nghiệp, cũng là cội rễ tất cả điều ác, có thể tóm nhiếp tất cả ác Pháp khác. Nếu muốn chiêm quẻ Tướng Mộc Luân này, trước hết phải học sự dốc lòng thành, lễ chung tất cả chư Phật mười phương, nhân đó lập nguyện: Nguyện cho tất cả chúng sinh mười phương, đều được nhanh chóng gần gũi cúng dường, thưa hỏi lãnh nhận Chính Pháp của Phật. Kế đó nên học sự dốc lòng thành, kính lạy mười phương tất cả Pháp tạng, nhân đó lập nguyện: Nguyện cho tất cả chúng sinh mười phương, đều được nhanh chóng thọ trì đọc tụng, tu hành đúng Pháp, vì người diễn nói. Kế nữa phải học sự dốc lòng thành, kính lạy mười phương tất cả Hiền Thánh, nhân đó lập nguyện: Nguyện cho tất cả chúng sinh mười phương, đều được nhanh chóng, gần gũi cúng dường, phát tâm Bồ Đề, đến bất thoái chuyển.

Sau đó nên học sự dốc lòng thành, kính lạy nơi Ta, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, nhân đó lập nguyện: Nguyện cho tất cả chúng sinh mười phương, mau được trừ diệt đi nghiệp ác, lìa các chướng ngại, những vật nuôi thân đều được đầy đủ. Lạy như thế rồi, tùy chỗ có được hương hoa v.v…nên sắm cúng dường, trong khi cúng dường, hành giả phải nên nhớ nghĩ tất cả Phật, Pháp, Tăng Bảo, thể thường khắp giáp, hiện hữu khắp nơi. Nguyện cho những món hương hoa dâng cúng, đồng với Pháp tính, xông khắp tất cả cõi nước mười phương của các đức Phật, rộng làm Phật sự.

Lại nghĩ mười phương tất cả món cúng, lúc nào cũng có. Nay tôi sẽ dùng tất cả những thứ hoa hương, chuỗi ngọc, tràng phan, bảo cái, những món trân quý, các thứ âm nhạc, đèn đuốc sáng tỏ, món ăn, thức uống, y phục, mền nệm, thuốc thang v.v… cho đến bao nhiêu những món trang nghiêm cúng dường tận khắp mười phương, mà mình có thể hình dung nhớ tưởng, đều cùng chung với tất cả chúng sinh, dâng hiến cúng dường. Lại nên nghĩ đến người nào sắm sửa những món cúng dường trong các thế giới, ta đều tùy hỷ, người nào chưa thể sắm sửa cúng dường, nguyện được dẫn dắt tu Pháp cúng dường. Lại nguyện thân ta, có thể nhanh chóng, đến khắp tất cả cõi nước mười phương, ở mỗi mỗi chỗ Phật, Pháp, Tăng Bảo, đều dùng tất cả những món trang nghiêm, với khắp chúng sinh, đồng đem dâng hiến, cúng dường tất cả Pháp thân, sắc thân, xá lợi, hình tượng, chùa viện, tháp miếu, tất cả Phật sự của các đức Phật. Cúng dường tất cả bao nhiêu tạng Pháp và chỗ thuyết Pháp. Cúng dường tất cả chư Hiền Thánh Tăng, nguyện con cùng với tất cả chúng sinh, tu hành cúng dường như thế xong rồi, lần lần thành tựu sáu ba la mật, bốn vô lượng tâm, biết sâu các Pháp xưa nay vắng lặng, không sinh, không diệt, nhất vị bình đẳng (13), lìa niệm, thanh tịnh, rốt ráo tròn đầy.

Lại một lần nữa buộc tâm một chỗ, riêng cúng dường Ta, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, bằng cách xưng danh, hoặc tụng niệm thầm, nhất tâm xưng rằng: Nam Mô Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Xưng danh như vậy đủ một nghìn lần. Qua một nghìn niệm rồi, bạch lời như vầy: Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát! Đại từ đại bi, cúi mong Bồ Tát hộ niệm cho con và tất cả chúng sinh, mau trừ các chướng, thêm lớn đức tin thanh tịnh, khiến cho những điều xem xét hiện nay, khế hợp tương xứng đối với sự thật… Nói lời ấy rồi, sau đó tay cầm mộc luân (14) ở trên vật sạch, gieo qua một bên.

Cách thức như thế, muốn xem cho mình, hoặc xem cho người, cũng đều như vậy, người xem nên biết. Người muốn chiêm sát tướng mộc luân đây, tùy nghiệp được hiện, đều phải mỗi mỗi quan sát kỹ lưỡng suy tư nghiệm xét. Hoặc là thuần đủ cả mười điều thiện, hoặc là thuần đủ cả mười điều ác, hoặc thiện ác xen lẫn, hoặc thuần thiện chẳng đủ, hoặc thuần ác chẳng đủ. Nghiệp nhân như vậy, giống loại chẳng đồng, tập khí, quả báo mỗi thứ mỗi khác, như đức Thế Tôn đã nói rộng rãi nơi nhiều Kinh khác. Phải nên nhớ nghĩ, suy ngẫm quan sát nghiệp chủng được hiện, cùng với những việc quả báo khổ vui, lành dữ trải qua trong hiện đời này, như tương xứng với nghiệp tập phiền não (đang nhận), đó mệnh danh là khế hợp. Nếu chẳng tương xứng, phải biết đó là chẳng hết lòng thành, mà là luống sai. - Nếu chiêm tướng mộc luân, mà nghiệp thiện, nghiệp ác đều chẳng hiện ra, thì người này đã chứng tâm sáng suốt của trí vô lậu. Hãy nên chuyên cầu xuất ly thế Pháp, chớ ưa nhận lại quả báo thế gian, những nghiệp hữu lậu, lần lượt nhỏ yếu, chẳng còn tăng trưởng, cho nên chẳng hiện. Trường hợp thuần thiện chẳng đủ, thuần ác chẳng đủ thì hai hạng người này, những gì về nghiệp thiện, nghiệp ác của họ chẳng hiện, đều là nhỏ yếu, chưa dẫn đến quả, do đó chẳng hiện.

- Nếu đời sau này, những vị đệ tử của đức Như Lai, một khi chiêm nghiệm quả báo thiện ác, được tương ưng rồi, đối với những món thuộc năm thứ dục (15), khi được xứng ý, chớ tự dễ duôi, rồi khởi buông lung, liền nên xét nghĩ “Ta được như vầy, là do thiện nghiệp đã tạo đời trước, cho nên ngày nay được phước báo này, nay ta càng phải tiến tu thêm nữa, chẳng nên dừng nghỉ”. Nếu gặp ách nạn, hoặc là những sự suy não chẳng lành, rối rắm, lo sợ, chẳng được vừa ý, phải nên cam chịu, chớ nên nghi hối mà thoái tu thiện nghiệp, liền nên xét nghĩ: “Nghiệp ác thế này, chỉ do đời trước ta đã gây tạo, cho nên bây giờ mắc báo như thế. Nay ta phải nên sám hối ăn năn những nghiệp ác đó, cũng như chuyên tu Pháp môn đối trị và tạo nghiệp lành thêm, không được dừng lại hay biếng lười phóng túng, nếu chẳng như thế, chỉ càng thêm sự chứa nhóm các thứ khổ tụ mà thôi…” Trên đây gọi là phương pháp Chiêm sát bằng Tướng Mộc Luân, thuộc cách thứ nhất.

- Thiện nam tử! Nếu muốn chiêm sát nghiệp được chứa nhóm xa gần, trong đời quá khứ về trước, những nghiệp đã tạo, mạnh yếu, lớn nhỏ sai khác thế nào, lại nên khắc gỗ ra làm ba luân, biểu thị ba nơi: Thân, Khẩu, Ý. Mỗi luân chủ một nơi, viết chữ vào đó. Lại nơi mỗi luân, chính giữa một mặt, viết vào đường gạch, hơi lớn và dài, cho đến chí mí. Kế mặt thứ ba, rạch một nét khác, hơi to và sâu. Đến mặt thứ tư cũng khắc một nét cho lớn và cạn. Cần nên biết rằng, nghiệp thiện trang nghiêm, cũng tương tự như vẽ vời tô điểm. Nghiệp ác suy hại, giống như gạch bỏ. Gạch nào dài lớn, tượng trưng cho sự chứa thiện vốn đã từ lâu trở lại, thiện nghiệp đã làm, mạnh mẽ bén nhạy, việc làm tăng thêm. Gạch nào nhỏ ngắn, tượng trưng cho sự chứa thiện trở lại, vốn còn gần, cạn, chỉ mới tập tành, nền tảng chậm chạp, việc làm mỏng manh. Nét khắc nào mà, vừa to vừa sâu, tượng trưng cho những tập quán xấu ác, từ lâu trở lại, việc làm tăng thêm, dư họa cũng dày. Nét khắc nào mà, vừa to vừa cạn, tượng trưng cho sự thoái tu thiện Pháp, trở lại đây gần, mà mới tập tành theo những ác pháp, những nghiệp đã tạo, cũng chưa đến nỗi tăng thượng lên lắm. Hoặc là dù có khởi nghiệp ác nặng, nhưng từng hối cải, đó được gọi là những điều ác nhỏ.

- Này thiện nam tử! Nếu như chiêm sát luân tướng lần đầu, thì chỉ mới biết thiện ác sai biệt đã tạo đời trước, nhưng chẳng thể biết tập quán chứa nhóm lâu xa hay gần, cũng như chưa thể biết nghiệp đã tạo là mạnh hay yếu, hoặc lớn hay nhỏ. Thế nên cần phải, chiêm sát luân tướng lần thứ hai nữa (16). Nếu như chiêm sát luân tướng lần hai, thì phải căn cứ nghiệp được phát hiện trong luân tướng đầu. Nghĩa là: Nếu thuộc nơi thân thì gieo luân tướng có ghi chữ thân. Nếu thuộc về khẩu, thì gieo luân tướng có ghi chữ khẩu. Nếu thuộc về ý, thì gieo luân tướng có sẵn chữ ý. Chẳng được đem tất cả tướng của ba luân, gieo chung một lần, phải tùy theo nghiệp. Chú ý nên nhớ từng nghiệp thiện ác, căn cứ theo luân thuộc về nghiệp nào thì gieo riêng luân đó, để chiêm cho đúng.

- Lại nữa, nếu trong luân tướng, chiêm lần thứ nhất, chỉ được điều tốt nơi thân, mà trong luân tướng chiêm lần thứ hai, lại được điều xấu nơi thân, như vậy gọi là lòng không chí thành, chẳng được khế hợp, gọi là sai luống. - Lại nữa, chẳng tương ưng là: trong mười luân tướng xem lần thứ nhất, được nghiệp bất sát (chẳng giết), hay nghiệp thâu đạo (trộm cướp), ý trước chú mục xem nghiệp bất sát, nhưng trong luân tướng chiêm lần thứ hai, được ác nơi thân, đó cũng gọi là chẳng được khế hợp.

- Lại nữa, nếu thấy hiện tại, từ khi sinh ra cho đến bây giờ, chẳng ưa nghiệp sát, không tạo tội giết, chỉ có ý là còn chủ nghiệp sát, nhưng trong luân tướng chiêm lần thứ hai, được thân đại ác, đó cũng gọi là chẳng được khế hợp. Từ đó suy ra, trong nghiệp của khẩu, hay nghiệp của ý, nghĩa chẳng tương ưng lại cũng như vậy, cần phải biết rõ. Ngài Đại Bồ Tát Địa Tạng lại bảo Ngài Kiên Tịnh Tín: - Này thiện nam tử! nếu đời sau này các hạng chúng sinh, muốn cầu thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết; Vừa mới phát tâm tu tập thiền định, trí tuệ vô tướng, cần phải xem trước, nghiệp ác đã tạo trong những đời trước, nhiều ít, nhẹ nặng thế nào, nếu như nghiệp ác nhiều và sâu dày, thì chẳng được học ngay Pháp thiền định, trí tuệ, trước hết cần phải tu Pháp sám hối. Tại vì sao thế? - Người này đời trước, tập khí ác tâm mạnh mẽ bén nhạy, cho nên hiện tại, ắt tạo nhiều ác, hủy phạm trọng cấm, cho nên nếu chẳng sám hối, khiến được thanh tịnh, mà lập tức tu thiền định trí tuệ, thì người đó sẽ có nhiều chướng ngại, chẳng thể thành công. Hoặc bị thất tâm, lầm lạc, cuồng loạn, hoặc bị tà ma ngoại đạo quấy rối, hoặc thâu nạp pháp tà, thêm lớn ác kiến, thế nên trước hết, phải tu Sám Pháp.

Một khi giới thể đã được thanh tịnh, hay tội nặng đời trước, được nhẹ mỏng rồi, ắt lìa các chướng.
- Thiện nam tử! Hành giả muốn tu Pháp sám hối, thì nên ở chỗ vắng, tùy năng lực mình, mà trang nghiêm một tịnh thất vừa phải, trong thất tôn trí tượng Phật, Bồ Tát, để Kinh Sám, treo phan lọng lụa, chuẩn bị hương hoa để dùng cúng dường, tắm gội thân thể, giặt sạch y phục, chớ cho hôi hám. Mỗi ngày ba lần, ở trong thất ấy, ba thời xưng niệm danh hiệu sám hối. Một lòng kính lạy bảy đức Phật quá khứ và năm mươi ba đức Phật, kế đó tùy mười phương mà mỗi mỗi lạy chung. Vận tâm lạy khắp nơi có sắc thân Xá Lợi, hình tượng, tháp miếu, và những Phật sự của tất cả chư Phật. Kế lại lạy chung tất cả chư Phật mười phương ba đời. Lại nên vận tâm, lễ khắp mười phương tất cả Pháp tạng. Lại nên vận tâm, lạy khắp tất cả chư Hiền Thánh Tăng trong khắp mười phương. Sau đó, riêng xưng danh thêm (17) và đỉnh lễ Ta, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Lễ như vậy rồi, cần phải nói về những tội đã tạo, một lòng ngưỡng bạch: “Cúi mong mười phương chư Đại Từ Tôn, chứng biết hộ niệm cho con sám hối, chẳng còn tạo lại. Xin nguyện con và tất cả chúng sinh, mau được trừ diệt những tội từ vô lượng kiếp trở lại, mười thứ nghiệp ác, bốn thứ tội nặng, năm tội đại nghịch, tà kiến điên đảo, chê bai Tam Bảo, tội nhất xiển đề v.v…”

Khi đó hành giả lại nên xét nghĩ: tính tội như vậy, chỉ là từ tâm hư vọng, điên đảo mà khởi, không có thật thể nhất định, để có thể nắm bắt và thể của nó vốn là rỗng lặng.

Nguyện cho tất cả chúng sinh đều mau thấu đạt bản tâm, diệt hẳn gốc tội.

Kế lại phát lời nguyện khuyến thỉnh: Xin nguyện mười phương tất cả Bồ Tát, vị nào chưa thành Vô thượng Chính Giác, xin nguyện vị ấy mau thành Chính Giác. Vị nào đã thành, xin nguyện thường trụ mãi trên thế gian, để chuyển Pháp luân, không vào Niết Bàn.

Kế lại phát lời nguyện tùy hỷ: Nguyện con và khắp tất cả chúng sinh, rốt ráo lìa hẳn thứ tâm ganh tỵ, tất cả cõi nước trong khắp ba đời, những người tu học được các công đức và được thành tựu, con đều tùy hỷ.

Kế lại phát lời nguyện hồi hướng: Nguyện những công đức mà con đã tu, nếu có lợi ích cho khắp chúng sinh, đều xin hồi hướng về Nhất Thiết Trí, đến thành Niết Bàn.

Phát những lời nguyện hồi hướng đó rồi, hành giả bước qua bên cạnh tịnh thất, ngồi thẳng nhất tâm hoặc niệm lớn tiếng, hoặc là niệm thầm danh hiệu của Ta. Hành giả phải nên tiết giảm ngủ nghỉ. Nếu bị hôn trầm che mờ tâm tính, thì nên trở vào đạo tràng trong thất, kinh hành niệm tụng (Trên đây là nói ban ngày). Kế đến là phần giờ giấc ban đêm: - Nếu có đèn nến thắp sáng ban đêm, cũng nên ba thời cung kính cúng dường, sám hối phát nguyện. Nếu chẳng thể sắm đèn nến sáng sủa, phải nên thường trực ở trong tịnh thất, một lòng tụng niệm, hằng ngày thực hành Pháp sám như vậy, chớ lười bỏ phế. Nếu người có sẵn nền tảng thiện nghiệp xa xôi đời trước, mà tạm thời gặp nhân duyên xấu ác, rồi tạo điều ác, thì tội chướng nhẹ, tâm của người ấy mạnh mẽ lanh lợi, ý lực hùng dũng, trải qua bảy ngày liền được thanh tịnh, trừ các chướng ngại. Các hạng chúng sinh, nghiệp có dày mỏng, cho nên căn tính có lanh, có chậm, sai khác không lường. Hoặc có những người,sau hai mươi bảy ngày thì được thanh tịnh. Có người trải qua hai mươi mốt ngày, cho đến trải qua bốn mươi chín ngày, bèn được thanh tịnh. Nếu như người nào, quá khứ hiện tại, đều có các thứ tội nặng tăng trưởng, phải qua trăm ngày mới được thanh tịnh, hoặc hai trăm ngày, cho đến trải qua một nghìn ngày sau, mới được thanh tịnh. Nếu người căn tính cực kỳ chậm lụt, tội chướng sâu nặng, cần phải luôn luôn phát tâm dõng mãnh, chẳng đoái tưởng đến việc tiếc thân mạng, thường xuyên xưng niệm, sớm tối kinh hành, nhiễu quanh tượng Phật giảm bớt ngủ nghỉ, lễ sám phát nguyện, vui tu cúng dường, chẳng lười chẳng bỏ, dù cho mất mạng, cũng chẳng dừng thoái. Tinh tấn như thế trong một nghìn ngày, quyết được thanh tịnh. - Thiện nam tử! Nếu muốn biết được tướng thanh tịnh thì: Bắt đầu từ khi tu hành sám Pháp, qua sau bảy ngày, phải nên mỗi bữa, vào lúc sáng sớm, lấy tướng mộc luân thuộc lớp thứ hai (18) để đủ trong tay, gieo luôn ba lần. Nếu thân, khẩu, ý đều là thuần thiện, người ấy được gọi là thanh tịnh lại. Về đời sau này, các hạng chúng sinh, người nào có thể tu hành Sám Pháp, thì quá khứ từ trước, lâu xa trở lại, ở trong Phật Pháp, đời nào đã từng tu tập thiện Pháp, tùy người đó tu những công đức gì, thì nghiệp cũng có dày mỏng, đủ thứ khác lạ, do đó những hạng người kia trong lúc được sự thanh tịnh, tướng cũng chẳng đồng. Hoặc có chúng sinh, khi được ba nghiệp thuần thiện, bèn liền được thêm các thứ tướng hảo. Hoặc có chúng sinh, khi được tướng trạng ba nghiệp lành vừa, thì trong một ngày đêm, lại thấy ánh sáng đầy thân của mình.

Hoặc nghe có mùi hương thơm lạ mà nơi thân ý thơi thới, hoặc có mộng lành, mộng thấy thân Phật đến để chứng minh, tay xoa đầu mình, khen rằng “Lành thay! Ngươi nay thanh tịnh, Ta đến chứng minh cho ngươi”. Hoặc nằm mơ thấy, thân vị Bồ Tát đến để chứng giám. Hoặc mộng thấy rõ hình tượng đức Phật phóng ra ánh sáng để vì chứng minh…(19). Nếu người chưa được tướng ba nghiệp lành, mà chỉ trước đó thấy nghe những việc như vậy, rồi cho là mình sám có kết quả, thì đó chính là, hư vọng dối ngụy, chẳng phải tướng lành vậy. Nếu người từng có gốc lành xuất thế, tùy sự nhiếp thọ của họ mạnh lanh, thì Ta lúc đó, tùy chỗ đáng độ mà vì hiện thân, phóng ánh từ quang, khiến họ an ổn, lìa những nghi sợ, hoặc hiện những thứ thần thông biến hóa, hoặc lại khiến họ tự nhớ những việc lành dữ đã tạo trong những kiếp trước, hoặc lại tùy họ ưa những Pháp gì, liền vì nói những giáo Pháp thâm yếu, ngay đó người ấy hướng về thừa nào, tức được đức tin quyết định vững chắc, hoặc lần lần chứng quả vị Sa Môn (20).
- Lại nữa, nếu chúng sinh nào, mặc dù chưa thấy hóa thân của Ta, biến đổi nói Pháp, hễ siêng tu học với lòng chí thành, khiến thân, khẩu, ý được tướng thanh tịnh rồi, Ta cũng hộ niệm, khiến chúng sinh ấy mau được tiêu diệt các thứ chướng ngại, Thiên Ma Ba Tuần (21) chẳng đến phá hoại, cho đến tất cả những quỷ thần của chín mươi lăm thứ tà sư ngoại đạo (22) cũng chẳng đến quấy nhiễu, và năm món cái (23) lần lượt nhẹ mỏng, kham nổi tu tập thiền định trí tuệ.

- Lại nữa, nếu đời sau này, các hạng chúng sinh, tuy chẳng vì cầu thiền định trí tuệ của đạo xuất yếu, hễ gặp những thứ hoạn nạn tai ách, nghèo nàn khốn khổ, lo rầu bức bách, cũng nên cung kính, lễ lạy cúng dường Tam Bảo, ăn năn tội ác đã tạo và thường phát nguyện. Trong tất cả thời, trong tất cả chỗ, siêng lòng xưng niệm danh hiệu của Ta với lòng chí thành, cũng sẽ mau thoát các thứ suy não, bỏ thân này rồi, sinh về chỗ lành. -

Lại nữa, thời đại sau này, các hạng chúng sinh tại gia xuất gia, muốn cầu thọ giới thanh tịnh vi diệu, nhưng trước đó tạo tội nặng tăng thượng, chẳng được phép thọ, cũng phải như trên, tu Pháp sám hối với lòng chí thành. Khi được tướng lành của thân, khẩu, ý rồi, liền hãy khá thọ.

Nếu chúng sinh ấy muốn tu tập theo đạo lý Đại thừa, và cầu thọ những giới trọng căn bản của bậc Bồ Tát, hay nguyện thọ chung tất cả giới cấm xuất gia tại gia, nghĩa là: Nhiếp Luật nghi giới, Nhiếp Thiện Pháp giới, Nhiếp chúng sinh giới, nhưng chẳng tìm được giới sư giỏi khéo, có thể giải rộng Tạng Pháp Bồ Tát tu hành trước kia, phải nên dốc lòng, ở trong đạo tràng, cung kính cúng dường, ngưỡng bạch mười phương chư Phật, Bồ Tát, cung thỉnh chư Phật làm thầy truyền giới, chư Đại Bồ Tát làm bậc Tôn chứng, một lòng lập nguyện, kể rành mười tướng, trước hết nói mười giới trọng căn bản, kế đến nêu chung ba thứ tụ giới, tự thệ mà thọ, đây cũng đắc giới.

- Lại nữa, các hạng chúng sinh về đời vị lai, muốn cầu xuất gia, hoặc xuất gia rồi, lại chẳng thể gặp giới sư giỏi đúng và thanh tịnh Tăng, tâm họ nghi ngờ, chẳng được đúng Pháp thọ những giới cấm. Hễ có khả năng, học sự phát tâm cầu đạo Vô Thượng và cũng làm cho thân, khẩu, ý được thanh tịnh rồi, song những người ấy còn chưa xuất gia, hãy nên cạo tóc, mặc vào pháp y, lập nguyện như trên, tự thệ mà thọ ba tụ luật nghi của giới Bồ Tát. Đó mệnh danh là được đầy đủ giới Ba La Đề Mộc Xoa (24) của người xuất gia, gọi là Tỳ kheo, hay Tỳ kheo ni. Sau đó liền phải tìm tòi học hỏi Luật tạng Thanh Văn và Luật tạng kiết tập của Bồ Tát thừa, thọ trì đọc tụng, quán xét tu hành.

Nếu tuy xuất gia, mà tuổi người ấy chưa đầy hai mươi, phải nên trước thệ nguyện thọ mười giới căn bản của Bồ Tát, và thọ những giới riêng của Sa di hay Sa di ni, liền phải gần gũi, cúng dường cung cấp hầu hạ bậc đã xuất gia kỳ cựu, vị này trước đã học Đại thừa tâm và thọ đủ giới. Sa di mới thọ, thỉnh cầu vị này làm thầy y chỉ, thỉnh xin dạy dỗ, tu hành oai nghi, như những phép tắc của một Sa di hay Sa di ni. Nếu chẳng thể gặp người nào như thế, thì chỉ nên gần gũi những vị Bồ Tát tu về Luận tạng mà đọc tụng suy ngẫm, quán xét tu hành, hãy siêng cúng dường Phật, Pháp, Tăng Bảo. Nếu Sa di ni tuổi đã mười tám, cũng nên tự thệ thọ sáu giới Pháp của một Thức Xoa trong Tạng Tỳ ni, và phải học hỏi tất cả tụ giới của Tỳ kheo ni. Lúc tuổi người đó tròn đủ hai mươi, mới có thể tổng thọ Ba tụ tịnh giới của một Bồ Tát, như trên đã nói. Sau đó được gọi Tỳ kheo, Tỳ kheo ni. Nếu chúng sinh nào, tuy học sám hối mà chẳng hay hết lòng, chẳng được triệu chứng mộng thấy tướng hảo, giả sử tác Pháp, tưởng mình thọ giới, chẳng gọi đắc giới.

Bấy giờ Ngài Kiên Tịnh Tín hỏi Ngài Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát: - Bạch Đấng Đại Sĩ! Về sự chí tâm, tính cách sai biệt, có bao nhiêu thứ? Những sự chí tâm nào, có thể cảm triệu mộng thấy tướng lành? Ngài Địa Tạng đáp: - Này thiện nam tử! Nói về chí tâm, tóm tắt có hai, những gì là hai? Một là: chí tâm cầu nguyện của người vừa mới phát tâm học tập. Hai là: chí tâm của người nhiếp ý tinh chuyên thành tựu dõng mãnh. Được sự chí tâm thứ hai, có thể gặt hái kết quả mơ thấy tướng lành. Hai sự chí tâm này lại có ba thứ khác nhau giữa hạ, trung, thượng. Những gì là ba? Một là nhất tâm, nghĩa là hệ niệm tư tưởng một chỗ, không cho tán loạn, tâm trụ tỏ rõ. (bậc hạ). Hai là tâm dõng mãnh, ấy là chuyên cần, không hề biếng trễ, chẳng tiếc thân mạng. (bậc trung). Ba là thâm tâm, nghĩa là tương ưng với Pháp (25) rốt ráo chẳng thoái. (bậc thượng).

Nếu người tu tập Pháp sám hối này, cho đến chẳng được chí tâm bậc hạ, thì trọn chẳng thể có sự cảm triệu tướng tốt thanh tịnh. Trên đây là nói phương pháp Chiêm Sát Luân Tướng thứ hai. - Này thiện nam tử! Nếu muốn chiêm sát sự chịu quả báo sai khác ba đời, lại phải khắc gỗ ra làm sáu luân. Nơi sáu luân này lấy các con số: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18 ghi vào trong đó. Mỗi số chủ một mặt, mỗi luân viết ba mặt, mỗi mặt một số, số ghi thứ lớp không cho lộn lạo. Nên biết, những số như thế, đều từ số Một mà khởi, lấy Một làm gốc. Cái tướng của những con số như vậy, tượng trưng cho nhóm sáu căn của khắp tất cả chúng sinh, đều từ cảnh giới Nhất Thật Tướng Tự Tính Thanh Tịnh Tâm của Như Lai Tạng mà khởi. Nương nơi cảnh giới (chân vọng hòa hợp) của Nhất Thật Tướng, lấy đó làm gốc. Nghĩa là nương cảnh giới của Nhất Thật Tướng, sẵn có vô minh, chẳng rõ Nhất Chân Pháp Giới, nhận lầm cái nhớ nghĩ tư duy, mà hiện ra cảnh giới hư vọng, rồi phân chấp đắm, chứa nhóm mãi thành nhân duyên của nghiệp, sinh các giác quan, như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nương vào sáu căn bên trong, đối với sáu trần bên ngoài, là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà khởi ra nhận thức của sáu giác quan, hoặc nghịch, hoặc thuận, chẳng nghịch, chẳng thuận (26) thành ra 18 cảm thọ.

- Nếu đời sau này, hàng đệ tử Phật, đối với sự thọ quả báo ba đời, người nào có ý, muốn giải quyết nghi, phải nên ba lần, gieo tướng mộc luân cách thứ ba này, chiêm sát bằng cách tính số cộng lại, căn cứ tổng số mà xem, để định thiện ác. Các tướng quả báo thiện ác ba đời để xem như vậy, gồm có 189 thứ.

Những gì là 189 thứ?

1. Cầu Thượng thừa sẽ được bất thoái chuyển.
2. Cầu quả được chứng, hiện tại sẽ chứng.
3. Cầu Duyên Giác thừa, được không thoái chuyển.
4. Cầu Thanh Văn thừa, được bất thoái chuyển.
5. Cầu sức thần thông, được sự thành tựu.
6. Tu bốn phạm hạnh (27) được sự thành tựu.
7. Tu thiền thế gian, được sự thành tựu.
8. Giới nào muốn thọ, là được Diệu giới.
9. Giới nào từng thọ, được đầy đủ giới.
10. Cầu Thượng thừa nhưng đức tin chưa trụ.
11. Cầu Duyên Giác thừa nhưng đức tin chưa vững.
12. Cầu Thanh Văn thừa nhưng đức tin chưa vững.
13. Người được chiêm sát chính là bạn lành.
14. Tùy nghe những gì đều đúng Chính Pháp.
15. Người được chiêm sát chính là bạn ác.
16. Tùy nghe những gì đều sai Chính Pháp.
17. Người đang được xem có đức thật sự.
18. Người đang được xem không có thật đức.
19. Nghĩa được tu quán là không sai lầm.
20. Nghĩa được tu quán là bị lầm lộn.
21. Những gì đọc tụng là không lầm lộn.
22. Những gì đọc tụng là bị lầm lộn.
23. Những hạnh được tu chẳng bị sai lầm.
24. Những gì thấy nghe, đều là tướng lành.
25. Có sở chứng gì đều là chân thật.
26. Có học những gì đều là sai lầm.
27. Những gì thấy nghe, chẳng phải tướng lành.
28. Có chứng ngộ gì đều chẳng phải chính.
29. Có kết quả gì, là do tà thần giúp giữ.
30. Nói giỏi điều gì, là trí tà biện bác.
31. Biết chỗ huyền diệu, chẳng phải sức người.
32. Nên trước tập quán đường lối sáng suốt.
33. Nên tập đường lối thiền định trước đó.
34. Xem chỗ được học, không bị chướng ngại.
35. Xem chỗ được học, là điều thích nghi.
36. Xem chỗ được học, chẳng phải thích nghi.
37. Xem chỗ được học, là đã tu tập đời trước.
38. Xem chỗ được học, chẳng phải đời trước tu tập.
39. Xem chỗ được học, khéo tăng trưởng lên.
40. Xem chỗ được học, là phương tiện nhỏ.
41. Xem chỗ được học, không sự tiến thú.
42. Quả gì mong cầu, hiện tại chưa được.
43. Cầu xuất gia thì sẽ được ra đi.
44. Mong cầu nghe Pháp sẽ được chỉ dạy.
45. Cầu những quyển Kinh sẽ được đọc tụng.
46. Hãy xem việc làm đều là ma sự.
47. Xem những việc đã làm đều thành tựu.
48. Xem việc được làm, chẳng được thành tựu.
49. Cầu giàu của cải, sẽ được sung thạnh.
50. Cầu địa vị quan sẽ được kết quả.
51. Cầu sống lâu sẽ được thêm tuổi thọ.
52. Cầu tiên đạo thế gian, sẽ được kết quả.
53. Xem chỗ học vấn, đạt được nhiều chỗ.
54. Xem chỗ học vấn, ít đạt kết quả.
55. Tìm thầy, tìm bạn, được như ý muốn.
56. Tìm đệ tử, được như ý.
57. Tìm cha mẹ, được như ý muốn.
58. Cầu con trai con gái, được như ý.
59. Tìm thê thiếp như ý.
60. Tìm bạn đồng học, được như ý muốn.
61. Xem lại những gì lo lự, được hòa hợp.
62. Người được xem, tâm họ mang hờn giận.
63. Mong người không giận, sẽ được hoan hỷ.
64. Cầu sự hòa hợp, được như ý muốn.
65. Tâm của người được xem thì hoan hỷ.
66. Người mình nghĩ đến, sẽ được gặp gỡ.
67. Người mình nghĩ đến, chẳng được gặp lại.
68. Người được mời gọi, sẽ được nhóm đến.
69. Người bị chê ghét, được rời khỏi họ.
70. Người mình kính mến, sẽ được gần họ.
71. Quán Pháp ly dục, ý được tập trung.
72. Quán Pháp ly dục, ý chẳng tập trung.
73. Người được mời gọi, họ sẽ chẳng đến.
74. Người được hẹn trước, chắc chắn sẽ đến.
75. Người được hẹn trước, ở lại không đến.
76. Người đang được xem, được sự an lành.
77. Người đang được xem, hiện chẳng an lành.
78. Người đang được xem, đã không còn thân.
79. Người mình trông gặp, sẽ được gặp họ.
80. Những gì mình đang tìm, được gặp lại.
81. Những gì cầu nghe, sẽ được lợi lành.
82. Những gì mong tìm thấy, chẳng như ý.
83. Xem chỗ bị nghi, chính là đúng thật.
84. Xem lại chỗ bị nghi, là chẳng thật.
85. Người đang được xem, chẳng còn hòa hợp.
86. Cầu làm Phật sự, sẽ được kết quả.
87. Cầu những món cúng, sẽ được kết quả.
88. Tìm những của cải, sẽ được như ý.
89. Tìm của nuôi thân, ít được kết quả.
90. Có cầu những gì, thảy đều sẽ được.
91. Có cầu những gì, thảy đều chẳng được.
92. Có cầu những gì, ít được kết quả.
93. Có cầu những gì, đều được như ý.
94. Có cầu những gì, liền được nhanh chóng.
95. Có cầu những gì, chẳng được nhanh chóng.
96. Có những mong cầu, nhưng bị tổn thất.
97. Có cầu những gì, sẽ được lợi lành.
98. Có cầu những gì, nhưng sẽ chịu khổ.
99. Xem vật bị mất, sẽ tìm lại được.
100. Xem vật bị mất, chẳng tìm lại được.
101. Xem vật bị mất, tự trở về lại.
102. Cầu lìa ách nạn, được thoát ách nạn.
103. Cầu khỏi bệnh hoạn, sẽ được trừ lành.
104. Xem những việc đã qua, không chướng ngại.
105. Xem những việc đã qua, có chướng ngại.
106. Xem nơi đang ở, được dừng ở yên.
107. Xem nơi đang ở, chẳng được bình an.
108. Nơi vừa mới đến, được sự an vui.
109. Nơi vừa mới đến, là có ách nạn.
110. Nơi vừa mới đến, là lưới của ma.
111. Nơi vừa mới đến, khó thể khai hóa.
112. Nơi vừa mới đến, có thể khai hóa.
113. Nơi vừa mới đến, tự được lợi ích.
114. Con đường dạo qua, không bị não hại.
115. Con đường dạo qua, có bị não hại.
116. Vua dân ác, nên đói kém nổi lên.
117. Vua dân ác, nên nhiều bệnh ôn dịch.
118. Vua dân tốt, nên nước được giàu vui.
119. Vua vô đạo, nên nước tai hại lớn.
120. Vua tu đức, tai nạn loạn ly diệt.
121. Vua làm ác, nước sắp bị phá hoại.
122. Vua tu thiện, nước được xây dựng lại.
123. Xem chỗ dạo qua, được khỏi các nạn.
124. Xem chỗ dạo qua, chẳng thoát khỏi nạn.
125. Nơi đang được ở, mọi người an ổn.
126. Nơi đang được ở, có sự chướng ngại.
127. Tụ lạc đang ở, mọi người chẳng yên.
128. Là nơi nhàn tịnh, không có ác nạn.
129. Xem ra quái lạ, nhưng không tổn hại.
130. Xem ra quái lạ, có sự tổn hại.
131. Xem ra quái lạ, tinh tấn thì an.
132. Giấc mộng được thấy, không gây tổn hại.
133. Giấc mộng được thấy, có sự tổn hại.
134. Giấc mộng được thấy, tinh tấn thì an.
135. Giấc mộng được thấy, là một lợi lành.
136. Thấy chướng loạn đó, nhưng mau được lìa.
137. Thấy chướng nạn đó, lần lần được lìa.
138. Thấy chướng loạn đó, mà chẳng lìa khỏi.
139. Thấy chướng loạn đó, nhứt tâm là trừ.
140. Thấy nạn đang bị, nhưng mau được thoát.
141. Thấy nạn đang bị, lâu mới được thoát.
142. Thấy nạn đang bị, chịu nhiều suy não.
143. Thấy nạn đang bị, tinh tấn sẽ thoát.
144. Thấy nạn đang bị, biết mạng sắp chết.
145. Thấy bệnh đang mắc, rất chẳng nên điều trị.
146. Thấy bệnh đang mắc, chẳng phải người phá.
147. Thấy bệnh đang mắc, hợp với phi nhân.
148. Thấy bệnh đang mắc, có thể trị liệu.
149. Thấy bệnh đang mắc, khó thể trị liệu.
150. Thấy bệnh đang mắc, tinh tấn là lành.
151. Thấy bệnh đang mắc, phải khổ lâu dài.
152. Thấy bệnh đang mắc, tự động sẽ lành.
153. Thấy bệnh đang mắc, đến thầy khám mới trị nổi.
154. Thấy bệnh được chữa, là trị đúng pháp.
155. Thuốc đang được uống, sẽ được hiệu lực.
156. Thấy bệnh đang mắc, được trừ lành hẳn.
157. Thầy được tìm đến, chẳng thể trị liệu.
158. Cách được trị liệu, là chữa trị sai.
159. Thuốc đem cho uống, chẳng được hiệu lực.
160. Thấy bệnh đang mắc, là mạng sắp chết.
161. Đó là trong đường địa ngục mà đến.
162. Từ trong con đường súc sinh mà đến.
163. Từ trong con đường ngã qủy mà đến.
164. Từ trong con đường A tu la mà đến.
165. Từ trong nhân loại mà đến.
166. Từ trong loài trời mà tái sinh đến.
167. Từ trong những người tại gia mà đến.
168. Từ trong hàng ngũ xuất gia mà đến.
169. Đã từng gặp Phật cúng dường mà đến.
170. Từng gần cúng dường Hiền Thánh mà đến.
171. Từng được nghe Pháp rất sâu mà đến.
172. Bỏ thân này rồi, sẽ vào địa ngục.
173. Bỏ thân rồi, sẽ đọa làm súc sinh.
174. Bỏ thân rồi, sẽ đọa làm ngã qủy.
175. Bỏ thân rồi, sẽ làm A tu la.
176. Bỏ thân rồi, sẽ sinh vào nhân đạo.
177. Bỏ thân rồi, làm vua trong loài người.
178. Bỏ thân rồi, sẽ sinh lên cõi trời.
179. Bỏ thân rồi, sẽ làm vua cõi trời.
180. Bỏ thân rồi, sẽ nghe Pháp rất sâu.
181. Bỏ thân rồi, được xuất gia tu học.
182. Bỏ thân rồi, sẽ được gặp Thánh Tăng.
183. Bỏ thân rồi, sinh lên trời Đâu Suất.
184. Bỏ thân rồi, sinh Tịnh độ của Phật.
185. Bỏ thân rồi, liền được thấy đức Phật.
186. Bỏ thân rồi, sẽ trụ vào thừa dưới(Thanh Văn)
187. Bỏ thân rồi, sẽ trụ vào thừa giữa (Duyên Giác)
188. Bỏ thân rồi, sẽ chứng được đạo quả.
189. Bỏ thân rồi, liền được bậc Thượng thừa.

- Này thiện nam tử! Đó gọi là những tướng sai biệt của 189 thứ quả báo lành dữ. Cách chiêm sát như thế, đều tùy sự chú ý và tùy tâm của người được xem đến. Nếu các số cộng, với ý người tương xứng, thì không sai lạc. Các số cộng, gieo cho người nào, mà con số thành với việc tâm đang chú trọng theo đuổi để xem, kết quả không tương xứng, ấy là chẳng hết lòng thành, như thế gọi là hư luống. Người nào gieo ba lần mà không thấy hiện số, là kẻ ấy đã được “vô sở hữu” (không gì để vướng mắc). - Lại nữa! Thiện nam tử! Nếu tự phát ý xem cho người khác đang chịu quả báo, thì sự việc cũng đồng như vậy. Nếu có người nào chẳng thể tự chiêm, mà đến cầu thỉnh muốn xem cho họ, phải nên cân nhắc, quán xét tâm mình, có tham danh lợi thế gian hay không, bên trong ý có thanh tịnh hay không, sau mới có thể quy kính tu hành, cúng dường như trước dốc lòng phát nguyện, vì họ chiêm sát, chẳng nên tham cầu danh lợi thế gian, như việc làm của những hạng thầy tà, để tự phương hại, rối loạn cho người. Nếu xét trong tâm chẳng được thanh tịnh, dầu cho chiêm sát, nhưng chẳng tương xứng, chỉ là sai lầm một cách hư luống mà thôi. - Lại nữa, các hạng chúng sinh về đời sau này, bất cứ việc gì được chiêm sát đến, mà chẳng đạt được kết quả tốt lành, việc cầu chẳng được, nhiều sự lo âu, lúc bị bức bách, lo rầu sợ sệt, phải nên sớm tối thường nên tụng niệm danh hiệu của Ta. Nếu luôn chí thành thì việc chiêm sát, sẽ được tốt lành, cầu gì được nấy, hiện đời lìa khỏi những sự suy buồn.

KINH CHIÊM SÁT NGHIỆP BÁO THIỆN ÁC Hết quyển thượng


 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Kim Cang Thoi Luan

Registered
Phật tử
Tham gia
13 Thg 8 2018
Bài viết
932
Điểm tương tác
210
Điểm
43
Trích nguyên văn quyển Thượng nói: "Ngài Đại Bồ Tát Địa Tạng lại bảo Ngài Kiên Tịnh Tín: - Này thiện nam tử! nếu đời sau này các hạng chúng sinh, muốn cầu thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết; Vừa mới phát tâm tu tập thiền định, trí tuệ vô tướng, cần phải xem trước, nghiệp ác đã tạo trong những đời trước, nhiều ít, nhẹ nặng thế nào, nếu như nghiệp ác nhiều và sâu dày, thì chẳng được học ngay Pháp thiền định, trí tuệ, trước hết cần phải tu Pháp sám hối. Tại vì sao thế? - Người này đời trước, tập khí ác tâm mạnh mẽ bén nhạy, cho nên hiện tại, ắt tạo nhiều ác, hủy phạm trọng cấm, cho nên nếu chẳng sám hối, khiến được thanh tịnh, mà lập tức tu thiền định trí tuệ, thì người đó sẽ có nhiều chướng ngại, chẳng thể thành công. Hoặc bị thất tâm, lầm lạc, cuồng loạn, hoặc bị tà ma ngoại đạo quấy rối, hoặc thâu nạp pháp tà, thêm lớn ác kiến, thế nên trước hết, phải tu Sám Pháp."



*Ngày nay tình trạng hiểu sai ý Phật như kinh nói ~NẠP PHÁP TÀ~. Dùng Phật kinh hiểu sai, do hiểu sai, nên hành sai cuối cùng bị khổ của Tam Ác Đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh) dài lâu. Đều do tướng nghiệp lực quá nặng, phước báu cạn cợt chiêu cảm. Phật Bồ Tát, vì hạng trung, hạ căn thời Mạt pháp thuyết đại sám hối pháp môn, khiến họ lìa khổ được vui, quả thật là sự từ bi, hộ niệm của Phật, Bồ Tát cho thời đại trược ác này.
 

Kim Cang Thoi Luan

Registered
Phật tử
Tham gia
13 Thg 8 2018
Bài viết
932
Điểm tương tác
210
Điểm
43
botatdiatang-darani.jpg

Cúng nước

Dâng hương

(Xá)

Đảnh lễ Phật 3 lễ

(Xá)

(Quỳ xuống, chắp tay trang nghiêm)

Nhất thiết cung kính, nhất tâm kính lễ

Thập phương thường trụ Tam Bảo

(Quỳ lễ)

Nghiêm trì hương hoa

Cúng dường như pháp

Nguyện khói hương thơm này

Biến mãn khắp mười phương

Cúng dường tất cả Phật

Tôn pháp các Hiền Thánh

Vô biên trong cõi Phật

Lợi ích làm Phật sự.

Tất cả Phật, Pháp, Tăng bảo

Thể thường biến mãn

Đều hiện hữu khắp nơi

Nguyện khiến hương hoa này

Đồng như các pháp tánh

Phổ huân tất cả các cõi Phật

Cúng dường làm Phật sự

Dụng cụ cúng dường tất cả mười phương

Lúc nào cũng có.

Hôm nay con xin đem tất cả các Hương hoa, Anh lạc, Tràng phan, Bảo cái, các Trang sức quý báu vi diệu, vô số Âm nhạc, Ánh sáng, Đèn nến, Ẩm thực, Y phục, Ngọa cụ, Thuốc men cho đến tất cả những dụng cụ cúng dường trang nghiêm tận khắp mười phương, mà mình có thể hình dung nhớ tưởng, đều cùng chung với tất cả chúng sanh, phụng hiến cúng dường. Trong các thế giới có người tu cúng dường, hôm nay con xin tùy hỷ, nếu người chưa tu cúng dường, nguyện được dẫn dắt khiến họ tu cúng dường.

Lại nguyện thân con nhanh chóng có thể biến khắp các cõi nước, ở mỗi nơi có Phật – Pháp – Tăng, đều dùng tất cả những dụng cụ trang nghiêm, cùng với tất cả chúng sanh phụng hiến, cúng dường cho tất cả Pháp thân, Sắc thân, Xá lợi, Hình tượng, Phù đồ, Miếu tháp và tất cả các Phật sự của chư Phật.

Cúng dường tất cả Pháp tạng và nơi thuyết pháp.

Cúng dường tất cả Hiền Thánh Tăng chúng.

Nguyện cùng với tất cả chúng sanh, tu hành cúng dường như thế, dần dần được thành tựu Lục Ba La Mật, Tứ Vô Lượng Tâm, hiểu sâu tất cả pháp vốn tịch tĩnh, không sanh, không diệt, một vị bình đẳng, lìa niệm thanh tịnh, cứu cánh viên mãn.

Cúng dường xong, tất cả cung kính. (Quỳ lễ)

(Đứng lên, chắp tay trang nghiêm)





KHỞI THỈNH TAM BẢO, CHƯ THIÊN



Nhất tâm phụng thỉnh: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
(Đọc 3 lần rồi lễ 1 lễ)

Nhất tâm phụng thỉnh: Nam mô Tỳ Bà Thi đẳng quá khứ thất Phật
(Đọc 3 lần rồi lễ 1 lễ)

Nhất tâm phụng thỉnh: Nam mô Phổ Quang Phật đẳng ngũ thập tam Phật
(Đọc 3 lần rồi lễ 1 lễ)

Nhất tâm phụng thỉnh: Nam mô Nhất thiết chư Phật sở hữu Sắc thân, Xá lợi, Hình tượng, Phù đồ, Miếu tháp, nhất thiết Phật sự
(Đọc 3 lần rồi lễ 1 lễ)

Nhất tâm phụng thỉnh: Nam mô Thập Phương Tam Thế Nhất Thiết Chư Phật
(Đọc 3 lần rồi lễ 1 lễ)

Nhất tâm phụng thỉnh: Nam mô Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh Vi Diệu Pháp Tạng
(Đọc 3 lần rồi lễ 1 lễ)

Nhất tâm phụng thỉnh: Nam mô Thập Phương Nhất Thiết Pháp Tạng
(Đọc 3 lần rồi lễ 1 lễ)

Nhất tâm phụng thỉnh: Nam mô Thập Phương Nhất Thiết Hiền Thánh
(Đọc 3 lần rồi lễ 1 lễ)

Nhất tâm phụng thỉnh: Nam mô Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát
(Đọc 3 lần rồi lễ 1 lễ)

Nhất tâm phụng thỉnh: Nam mô Biến Kiết Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát
(Đọc 3 lần rồi lễ 1 lễ)

Nhất tâm phụng thỉnh: Nam mô Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát
(Đọc 3 lần mỗi lần lễ 1 lễ)

Nhất tâm phụng thỉnh: Phạm Thích Tứ Vương, Thiên Long Bát Bộ, Tăng Già Lam Nội, Hộ Chánh Pháp Giả, Nhất Thiết Thánh Chúng.
(Đọc 3 lần rồi xá 1 xá)

(Quỳ xuống – Chắp tay)

Duy nguyện Đức Thích Ca từ phụ, thất Phật Thế Tôn, ngũ thập tam Phật, tất cả các bậc giác ngộ, tha tâm đạo nhãn, thấy nghe vô ngại, thần thông tự tại, quang lâm đạo tràng, nhiếp thủ chúng con, khiến thành tịnh tín. (Đọc 3 lần – 1 lễ)

Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Tôn Kinh, tất cả mười phương, Pháp tạng thanh tịnh, cùng chân Pháp tánh, trọn khắp hư không, hiển hiện đạo tràng nhận con cúng dường. (3 lần – 1 lễ)

Kiên Tịnh Tín Bồ Tát, Biến Kiết Bồ Tát, cùng Quán Thế Âm Bồ Tát, mười phương tất cả Hiền Thánh, không xả từ bi, quang lâm Pháp tọa, thương xót ủng hộ, chứng minh hành pháp của con. (3 lần – 1 lễ)

Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, là bậc cứu thế, là bậc dẫn dắt đại trí tuệ, luôn dùng lời nhẹ nhàng an ủi, nhanh chóng diệt trừ các chướng ngại, tăng trưởng lòng tin hiểu sâu chắc. Đại từ đại bi, không rời bổn nguyện, phóng đại quang minh, tròn đầy sở nguyện cho con. (3 lần – 1 lễ)

(Đứng lên – chắp tay)

Hộ Pháp Thiên Long, Già Lam chơn tể, tùy thuận lời thỉnh của con, giữ vững đạo tràng, ngăn các ma chướng, thị hiện kiết tường, khiến sở tu của con, tự tại thành tựu. (3 lần – xá)



TÁN – LỄ TAM BẢO

Con nghe trong biển chánh biến tri, ân đức chân thật vô biên, độ thoát các hữu tình, tâm hoan hỷ kính lễ. Từng tu vô lượng phước, nay được lễ Thế Tôn, nguyện trong vô lượng kiếp, thường tu pháp cúng dường.

Nhất tâm đảnh lễ Quá Khứ Tỳ Bà Thi Phật
Nhất tâm đảnh lễ Thi Khí Phật
Nhất tâm đảnh lễ Tỳ Xá Phù Phật
Nhất tâm đảnh lễ Câu Lưu Tôn Phật
Nhất tâm đảnh lễ Câu Na Hàm Mâu Ni Phật
Nhất tâm đảnh lễ Ca Diếp Phật
Nhất tâm đảnh lễ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nhất tâm đảnh lễ Phổ Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Phổ Minh Phật
Nhất tâm đảnh lễ Phổ Tịnh Phật
Nhất tâm đảnh lễ Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật
Nhất tâm đảnh lễ Chiên Đàn Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Ma Ni Tràng Phật
Nhất tâm đảnh lễ Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật
Nhất tâm đảnh lễ Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật
Nhất tâm đảnh lễ Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Huệ Cự Chiếu Phật
Nhất tâm đảnh lễ Hải Đức Quang Minh Phật
Nhất tâm đảnh lễ Kim Cang Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Đại Cường Tinh Tấn Dõng Mãnh Phật
Nhất tâm đảnh lễ Đại Bi Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Từ Lực Vương Phật
Nhất tâm đảnh lễ Từ Tạng Phật
Nhất tâm đảnh lễ Chiên Đàn Khốt Trang Nghiêm Thắng Phật
Nhất tâm đảnh lễ Hiền Thiện Thủ Phật
Nhất tâm đảnh lễ Thiện Ý Phật
Nhất tâm đảnh lễ Quảng Trang Nghiêm Vương Phật
Nhất tâm đảnh lễ Kim Hoa Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật
Nhất tâm đảnh lễ Hư Không Bảo Hoa Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật
Nhất tâm đảnh lễ Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Bất Động Trí Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Hàng Phục Chúng Ma Vương Phật
Nhất tâm đảnh lễ Tài Quang Minh Phật
Nhất tâm đảnh lễ Trí Huệ Thắng Phật
Nhất tâm đảnh lễ Di Lặc Tiên Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật
Nhất tâm đảnh lễ Thế Tịnh Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật
Nhất tâm đảnh lễ Nhật Nguyệt Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Nhật Nguyệt Châu Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Huệ Tràng Thắng Vương Phật
Nhất tâm đảnh lễ Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương Phật
Nhất tâm đảnh lễ Diệu Âm Thắng Phật
Nhất tâm đảnh lễ Thường Quang Tràng Phật
Nhất tâm đảnh lễ Quan Thế Đăng Phật
Nhất tâm đảnh lễ Huệ Oai Đăng Vương Phật
Nhất tâm đảnh lễ Pháp Thắng Vương Phật
Nhất tâm đảnh lễ Tu Di Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Tu Ma Na Hoa Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương Phật
Nhất tâm đảnh lễ Đại Huệ Lực Vương Phật
Nhất tâm đảnh lễ A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Vô Lượng Âm Thanh Vương Phật
Nhất tâm đảnh lễ Tài Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Kim Hải Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Phật
Nhất tâm đảnh lễ Đại Thông Quang Phật
Nhất tâm đảnh lễ Nhất Thiết Pháp Tràng Mãn Vương Phật.
Nhất tâm đảnh lễ Đông Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu Sắc thân, Xá lợi, Hình tượng, Phù đồ, Miếu tháp, nhất thiết Phật sự.
Nhất tâm đảnh lễ Đông Nam Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu Sắc thân, Xá lợi, Hình tượng, Phù đồ, Miếu tháp, nhất thiết Phật sự.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu Sắc thân, Xá lợi, Hình tượng, Phù đồ, Miếu tháp, nhất thiết Phật sự.
Nhất tâm đảnh lễ Tây Nam Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu Sắc thân, Xá lợi, Hình tượng, Phù đồ, Miếu tháp, nhất thiết Phật sự.
Nhất tâm đảnh lễ Tây Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu Sắc thân, Xá lợi, Hình tượng, Phù đồ, Miếu tháp, nhất thiết Phật sự.
Nhất tâm đảnh lễ Tây Bắc Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu Sắc thân, Xá lợi, Hình tượng, Phù đồ, Miếu tháp, nhất thiết Phật sự.
Nhất tâm đảnh lễ Bắc Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu Sắc thân, Xá lợi, Hình tượng, Phù đồ, Miếu tháp, nhất thiết Phật sự.
Nhất tâm đảnh lễ Đông Bắc Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu Sắc thân, Xá lợi, Hình tượng, Phù đồ, Miếu tháp, nhất thiết Phật sự.
Nhất tâm đảnh lễ Hạ Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu Sắc thân, Xá lợi, Hình tượng, Phù đồ, Miếu tháp, nhất thiết Phật sự.
Nhất tâm đảnh lễ Thượng Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu Sắc thân, Xá lợi, Hình tượng, Phù đồ, Miếu tháp, nhất thiết Phật sự.
Nhất tâm đảnh lễ Thập Phương Tam Thế Nhất Thiết Chư Phật.
Nhất tâm đảnh lễ Thập Phương Nhất Thiết Pháp Tạng. (Đọc 3 lần mỗi lần lễ 1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh Vi Diệu Pháp Tạng.
Nhất tâm đảnh lễ Thập Phương Nhất Thiết Hiền Thánh. (Đọc 3 lần mỗi lần lễ 1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nhất tâm đảnh lễ Biến Kiết Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nhất tâm đảnh lễ Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. (Lễ 1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. (Lễ 1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. (Lễ 1 lễ – xá)
(Quỳ xuống – chắp tay)

TU HÀNH SÁM HỐI

Con và chúng sanh, từ vô thuỷ đến nay, thường bị tội nặng của ba nghiệp sáu căn làm chướng ngại, nên không thấy được chư Phật, không biết sự quan trọng của việc xuất ly sanh tử, thuận theo sanh tử, không biết giáo lý vi diệu. Mặc dù nay đã biết, nhưng do con cùng chúng sanh đều bị tất cả tội nặng làm chướng ngại. Giờ đây con đối trước Bồ Tát Địa Tạng, mười phương chư Phật, rộng vì chúng sanh mà quy mạng sám hối. Duy nguyện gia hộ, khiến cho con và chúng sanh tội chướng tiêu diệt. (Quỳ lễ)

Rộng vì tất cả chúng sanh khắp pháp giới, nguyện đoạn trừ ba chướng, quy mạng sám hối. (Quỳ lễ)

Con cùng chúng sanh từ vô thỉ đến nay do tham ái kiến chấp:

Trong lòng suy tính ngã – nhân
Ngoài lại thêm bạn xấu
Không chút tùy hỷ các việc thiện của người
Duy chỉ có ba nghiệp, tạo ra nhiều tội chướng
Việc tuy không rộng, nhưng ác tâm lan tràn
Ngày đêm liên tục, không hề gián đoạn
Che giấu lỗi lầm, không muốn người biết
Không sợ quả báo trong ác đạo
Không có chút hổ thẹn
Không đoái hoài nhân quả.
Vì thế ngày nay:

Tin sâu nhân quả
Sanh lòng hổ thẹn
Sanh tâm khiếp sợ ác đạo
Phát lồ sám hối
Đoạn tâm tương tục
Phát tâm Bồ đề, đoạn ác tu thiện
Tinh cần sách tấn ba nghiệp, sửa đổi tội nặng trong quá khứ
Tùy hỷ Phàm Thánh dù chút thiện nhỏ
Niệm mười phương chư Phật có đại phước huệ, có thể cứu bạt cho con cùng tất cả chúng sanh, từ trong biển sanh tử vô tận, đến bờ của Tam đức.
Từ vô thỉ đến nay, không biết tánh của các pháp vốn không tịch, nên tạo quá nhiều tội ác. Nay biết không tịch, con vì chúng sanh, cầu đạo Bồ Đề, rộng tu các điều thiện, đoạn tất cả điều ác.
Duy nguyện hết thảy Tam Bảo, Địa Tạng Bồ Tát, từ bi nhiếp thọ, nghe con sám hối: (Quỳ lễ)

Con đệ tử:……………………….. chí tâm sám hối:

Con và chúng sanh tự tánh thanh tịnh, nhất thật cảnh giới đồng thể chư Phật. Nhưng do vô minh si ám huân tập nhân duyên, nên hiện ra cảnh giới hư vọng, khiến chúng con sanh tham trước, chấp trước cái Ta và của Ta, huân tập các ác pháp, sáu căn ba nghiệp, tạo nhiều tội chướng: thập ác ngũ nghịch, trọng nan khinh giá, chướng tuệ chướng định, chướng chư giới phẩm, dẫn đến luân hồi khổ ải, mãi không có ngày ra khỏi. Giả như muốn tu hành, nhưng quá nhiều nghi chướng, hoặc bị ngoại ma quấy nhiễu, hoặc gặp tà kiến, không đủ trợ duyên, tịnh tín không thành.

Nay gặp Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, khéo nói lời an ủi, mở đám mây đen mê hoặc, gột tẩy âu lo trong tâm con, cầu ai sám hối.

Duy nguyện thập phương chư đại Từ tôn, chứng tri hộ niệm, nay con sám hối, không tạo lại nữa. Nguyện con cùng tất cả chúng sanh, nhanh chóng trừ diệt từ vô lượng kiếp đến nay, thập ác tứ trọng, ngũ nghịch điên đảo, huỷ báng Tam Bảo, tội nhất xiển đề. Tội tánh như vậy, vốn là không tịch, nhưng từ hư vọng khởi tâm điên đảo, chẳng thực sự có định huống chi là chứng đắc.

Nguyện tất cả chúng sanh, nhanh chóng đạt được bổn tâm, vĩnh viễn diệt trừ tội căn.


Sám hối xong, quy mạng lễ Tam Bảo. (Quỳ lễ)

PHÁT KHUYẾN THỈNH NGUYỆN

Con đệ tử:………………… chí tâm khuyến thỉnh:

Nguyện hết thảy Bồ Tát trong mười phương nếu chưa thành chánh giác, nguyện mau thành chánh giác. Nếu đã thành chánh giác, nguyện thường trú tại thế, chuyển chánh Pháp luân, không nhập Niết bàn.

Khuyến thỉnh xong, quy mạng lễ Tam Bảo. (Quỳ lễ)



PHÁT TÙY HỶ NGUYỆN

Con đệ tử:………………………… chí tâm tùy hỷ:

Nguyện con và tất cả chúng sanh, xả bỏ rốt ráo vĩnh viễn tâm đố kỵ. Đối với tất cả công đức tu học và sự thành tựu của các cõi nước trong ba đời, thảy đều tùy hỷ.

Tùy hỷ xong, quy mạng lễ Tam Bảo. (Quỳ lễ)







PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG

Con đệ tử:………………….. chí tâm hồi hướng:

Nguyện đem tất cả Công đức mà con tu được, làm lợi ích cho tất cả Chúng sanh, đồng hướng đến Phật trí, đến thành Niết Bàn.

Hồi hướng xong, quy mạng lễ Tam Bảo. (Lễ)



PHÁT NGUYỆN THÊM VÀ ĐOAN TỌA TỊNH THẤT, XƯNG NIỆM DANH HIỆU

Con đệ tử:…………………. chí tâm phát nguyện:

Nguyện mười phương Tam Bảo, Địa Tạng Từ Tôn, thương xót hộ trì, cứu bạt chủng tế, khiến thế giới này, tiêu trừ thiên tai động loạn, chánh pháp lưu thông, khắp cả đều sanh tịnh tín, không gặp các chướng ngại, vĩnh viễn đoạn trừ ma đạo và tà tri tà kiến.

Con và chúng sanh, mau chóng diệt trừ trọng tội, hiện đời xa lìa sầu bi khổ não, cuộc sống sung túc, tam tụ giới căn rốt ráo thanh tịnh, hai loại quán đạo ứng niệm hiện tiền, tam muội tổng trì, thần thông phương tiện, tứ nhiếp lục độ, tất cả đều viên thành, liễu ngộ tự tâm nhất thật cảnh giới, bỏ thân khỏi thế giới này, sanh tại Phật tiền, đối diện Di Đà, thân cận chư Phật, được Phật thọ ký trở lại trần lao, phổ độ quần mê đồng quy mật tạng.

Phát nguyện xong, quy mạng lễ Tam Bảo. (Lễ)

(Đứng lên, chắp tay)



TAM QUY Y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đại đạo, phát lòng vô thượng. (Lễ)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. (Lễ)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy vô ngại.

Hòa Nam Thành Chúng. (Lễ – Xá)

(Lễ 3 lễ – xá)

Sau đó ngồi qua bên cạnh tịnh thất xưng niệm danh hiệu: Nam Mô Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên