Đường Vào Bồ Tát Hạnh

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Lời Giới Thiệu
Geshe Kelsang Gyatso

Bộ luận trứ danh nhan đề Nhập Bồ Tát Hạnh (Phạn: Bodhisattvacharyavatara) là một kiệt tác của Bồ tát Tịch Thiên (Phạn: Shantideva), một bậc cao tăng lừng lẫy của Phật giáo Ấn Độ vào thế kỷ thứ tám. Bộ Thánh điển này là một cẩm nang thực tiển, hướng dẫn chúng ta làm thế nào để thể nhập, thăng tiến, và hoàn thành con đường đi đến Phật quả. Nó là sự cô đọng tất cả lời dạy của Đức Bổn Sư, và chỉ dẫn một cách rất rõ ràng phương cách làm thế nào để áp dụng lời dạy của Đức Thế Tôn vào cuộc sống thực tiển hằng ngày.

Bộ sách này của ngài Tịch Thiên đã là một nguồn khích lệ (Anh: inspiration) mạnh mẽ cho những tác phẩm Phật giáo vĩ đại khác, chẳng hạn như quyển Tám Bài Kệ Huấn Luyện Tâm Thức (Anh: Eight Verses of Training the Mind) của ngài Langri Tangpa thuộc dòng Kadampa, và quyển Bảy Điểm Huấn Luyện Tâm Thức (Anh: Training the Mind in Seven Points) của Bồ tát Chekhawa. Hai quyển sách này giảng giải phương cách tán thán công đức của người khác, tu tập pháp quán “sự bình đẳng giữa mình và người”, “trao đổi mình và người”, cách thực tập “cho và nhận”, và phương cách chuyển đổi nghịch cảnh thành phương tiện giải thoát. Tất cả lời giáo huấn này đều được trích lục từ quyển Nhập Bồ Tát Hạnh của ngài Tịch Thiên. Rất nhiều hành giả phái Kadampa đã thuộc nằm lòng những lời dạy của ngài, và ngài Tsong Khapa cùng cácđệ tử cũng đã từng nhiệt liệt tán thán kiệt tác này của Bồ tát Tịch Thiên.

Qua sự học hỏi nhiều kinh điển Phật giáo có thể làm cho chúng ta trở thành những học giả nổi tiếng, thế nhưng, nếu chúng ta không chịu áp dụng những lời dạy của Đức Phật ---- Pháp ---- vào trong cuộc sống hằng ngày, thì sự hiểu biết Phật pháp của chúng ta sẽ mãi mãi nông cạn, và chúng ta sẽ không có đủ năng lực để giải quyết những vấn đề cho chính mình cùng những người chung quanh. Nếu chỉ hy vọng rằng những kiến thức suông về Phật pháp sẽ giải quyết vấn đề phiền lụy trong cuộc sống, thì cũng giống như người bệnh hy vọng được lành bệnh chỉ bằng cách đọc những toa thuốc, mà không chịu uống thuốc, như ngài Tịch Thiên đã nói trong phẩm thứ năm, kệ 109:

Pháp, phải cung kính hành,
Chỉ nói không ích gì!
Nếu chỉ đọc sách thuốc,
Bệnh tật làm sao lành?


----------------------------
Mến,
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Mỗi người trong chúng ta đều rất khẩn thiết mong muốn xa lìa những vấn đề khổ đau và phiền lụy. Chúng ta thường thường tìm cách giải quyết vấn đề này bằng những phương tiện vật chất bên ngoài, thế nhưng, dù chúng ta có thành công cách mấy trên phương diện vật chất ---- bất luận chúng ta đạt được sự giàu có, thế lực, danh vọng bao nhiêu đi chăng nữa ---- chúng ta sẽ không bao giờ tìm được sự giải thoát vĩnh viễn khỏi sự khổ đau và phiền lụy của cuộc đời. Phiền não, bệnh hoạn, khổ đau, và phiền lụy không hiện hữu ở phía ngoài tâm của chúng ta, mà chúng chỉ là những “cảm giác khó chịu” (Anh: unpleasant feeling), và những cảm giác này
đều là những biểu hiện khác nhau của cái tâm. Chỉ có phương pháp hoán chuyển tâm thức mới có thể giúp chúng ta vĩnh viễn trừ diệt những phiền não và hệ lụy này. Những phương pháp đó đã được giải thích một cách tỉ mỉ trong quyển sách này của ngài Bồ tát Tịch Thiên.
Trên thực tế, tất cả những vấn đề mà chúng ta va chạm hằng ngày đều phát sinh từ sự tự cao và chấp trước ---- quan niệm sai lầm đề cao quá đáng sự quan trọng của chính mình. Thế nhưng, vì chúng ta không hiểu rõ điều này, chúng ta thường thường đổ lỗi cho những người chung quanh về những vấn đề của chính chúng ta, và điều này chỉ làm cho sự kiện trở nên trầm trọng. Từ hai quan niệm sai lầm căn bản này đã phát khởi những vọng tưởng khác, chẳng hạn như sân hận và tham luyến, làm cho vấn đề của chúng ta càng lúc càng trở nên phức tạp. Chúng ta khẳng định có thể giải quyết tất cả vấn đề này bằng cách thành tâm tu tập những lời dạy được trình bày trong quyển sách này. Ít nhất, chúng ta phải nên ghi nhớ nằm lòng những bài kệ mà chúng ta nhận thấy rằng có ích lợi nhất, và sau đó suy tư tường tận về ý nghĩa của chúng cho đến khi tâm chúng ta trở nên tĩnh lặng và trong sáng. Chúng ta phải nên bảo trì tình trạng này một cách liên tục không gián đoạn. Nếu thực tập như vậy, chúng ta sẽ dần dần thể nghiệm sự an lạc và ý nghĩa của cuộc đời.
--------------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Chúng ta nên đọc quyển sách này với một tâm thái hoan hỷ, chuyên chú và khách quan. Một điều cũng rất quan trọng là chúng ta nên gia tăng sự thể hội của mình bằng cách đọc thêm các sách chú giải, chẳng hạn như quyển Meaningful to Behold. Qua sự thành tâm tu tập những điều dạy trong đây, chúng ta có thể chuyển đổi
bản tánh của mình ---- sự quan tâm tự ngã chuyển thành tâm thái từ bi, kiến giải lầm lạc chuyển thành trí tuệ sâu sắc, và cuộc sống phàm tục ích kỷ chuyển thành cuộc sống Bồ tát lợi tha. Theo hướng đi này, chúng ta sẽ dần dần đạt đến tâm thái tuyệt đối an lạc của sự giác ngộ, và đây chính là ý nghĩa chân thật của cuộc sống con người.

Tiểu Sử Bồ Tát Tịch Thiên (Sách Đạt Cát Kham Bố thuật )

Theo truyền thuyết, Tịch Thiên là thái tử của nước Hiền Cương ở miền nam Ấn Độ, tên là Tịch Khải, cha ngài là vua Thiện Khải. Từ nhỏ ngài đã rất tin tưởng Phật pháp, tôn kính Tam bảo, rất có lòng từ bi đối với họ hàng quyến thuộc, cùng với tất cả mọi người chung quanh, và thường hay bố thí giúp đỡ họ. Lúc nhỏ, ngài đã có một kiến thức vượt xa mọi người, và đã am hiểu nhiều loại học vấn, kỹ nghệ thế gian. Ngài đến cầu học với một vị hành giả Du già tên Cổ Tô Lỗ, cầu khẩn tu học “Văn Thù Sư Lợi Nhuệ Lợi Trí Thành Tựu Pháp”, sau một giai đoạn tinh tiến tu trì đã thấy được Bổn tôn (các vị cổ đức Ấn Độ, như ngài Luận sư Trí Tác Tuệ, Tôn giả Atisa, v.v..., đều công nhận rằng ngài Tịch Thiên là hóa thân của Đức Văn Thù. Tôn giả Atisa trong quyển Bồ Đề Đạo Đăng Luận có viết: “Luận sư Tịch Thiên đích thân gặp được Bồ tát Văn Thù, được sự gia trì của ngài và đã liễu ngộ chân đế”, lại có một vị luận sư tên Bố Trát cũng đã thuật lại tương tự như vậy).
Sau khi vua Thiện Khải băng hà, quần thần bèn chuẩn bị đại lễ đăng quang cho thái tử. Vào đêm trước khi đại lễ cử hành, thái tử nằm mộng thấy Bồ tát Văn Thù. Trong giấc mộng, Đức Văn Thù ngồi trên ngai vàng mà thái tử Tịch Khải sắp đăng cơ, ngài nói với thái tử: “Này con yêu, đây là bảo tòa của ta, ta là thượng sư của con, nếu con cùng ngồi một chỗ với ta, e rằng không hợp.” Lại có truyền thuyết cho rằng thái tử nằm mộng thấy Đại Bi Độ Mẫu (hóa thân của Đức Quán Âm) dùng nước sôi để quán đảnh cho mình, thái tử bèn hỏi Độ Mẫu tại sao lại dùng nước sôi làm lễ quán đảnh.
Độ Mẫu trả lời: “Nước dùng để quán đảnh nhà vua (lúc lên ngôi) và nước sắt sôi trong địa ngục có gì khác biệt. Ta dùng nước sôi để quán đảnh cho con, là có ý nghĩa này.” Sau khi thức dậy, thái tử Tịch Khải hiểu rằng đây là sự thọ ký và gia trì của Bổn tôn, bèn phát tâm xuất ly, xả bỏ những lạc thú thế gian, nhân đây âm thầm rời bỏ hoàng cung, lên đường tìm đạo.
Thái tử đi một mình lang thang qua nhiều vùng đồi núi hoang vu, đến ngày thứ hai mươi mốt thì đến một khu rừng rậm rạp, thái tử cảm thấy rất mệt mỏi và đói khát, trông thấy một vũng nước bùn bèn vội vã lần đến bên cạnh định vốc nước uống, đột nhiên thấy một thiếu nữ đẹp lộng lẫy hiện ra, bảo thái tử là không nên uống nước đó, mà phải nên uống nước trong sạch, nói xong bèn dẫn thái tử đến một dòng suối trong vắt, bên cạnh dòng suối có một vị Du già sư đang ngồi kiết già, sự thực, vị Du già sư đó chính là hóa thân của ngài Văn Thù, còn thiếu nữ xinh đẹp kia chính là Độ Mẫu hóa hiện. Sau khi uống nước suối no nê, thái tử bèn thỉnh cầu vị Du già sư truyền thọ pháp yếu thù thắng, rồi y theo đó mà tu tập, và lần lần đạt được cảnh giới trí tuệ thâm sâu thù thắng.
----------------------------------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Phẩm một:
Lợi ích của tâm Bồ Đề


(1) Lạy khắp mười phương Phật,
Bồ Tát, Hiền thánh tăng;
Nương Pháp xin lược nói:
Phật tử luật nghi hành.

Phật: Bản tiếng Phạn dùng chữ Sugata (Thiện Thệ), là bậc đã khéo đi đến chỗ giải thoát. Phật tử: là tên gọi khác của Bồ Tát (từ đây trở xuống đều nên hiểu theo nghĩa này). Luật nghi hành: còn gọi là học xứ hay Bồ Tát giới luật, tức là những phương pháp tu tập hạnh Bồ Tát.

(2) Trong đây không gì mới,
Tôi không rành âm luật,
Đâu dám nói lợi người,
Soạn luận để tự tu.

(3) Nhờ tu theo thiện pháp,
Niềm tin dần tăng trưởng;
Những người cùng duyên lành,
Nhân đây, đều lợi ích.

(4) Thân người khó gặp được,
Đã được, cố tu thiện,
Nếu đời này không tu,
Đời sau khó gặp lại!

[Behold] Thân người gọi là hạ mãn (nhàn hạ và viên mãn) nếu có những điều kiện sau: Không gặp tám nạn, đủ mười điều lành.
Tám nạn, tức là nếu ở trong tám chỗ sau đây sẽ chướng ngại trong việc thấy Phật nghe Pháp: (1) địa ngục, (2) ngạ quỉ, (3) súc sinh, (4) châu Bắc Cu Lô, (5) cõi trời trường thọ, (6) đui, mù, câm, điếc, ... (7) thế trí biện thông, (8) sinh trong thời không có Phật.

Trong mười điều lành, có năm điều thuộc về cá nhân và năm điều thuộc về hoàn cảnh. Năm điều cá nhân:
(1) sinh làm người, (2) sinh ở nơi có Phật Pháp hưng thịnh, (3) thân căn đầy đủ, (4) không phạm ngũ nghịch, (5) tin tưởng Tam Bảo. Năm điều hoàn cảnh: (1) sinh lúc Phật tại thế, (2) sinh khi Phật đang giảng Chánh Pháp, (3) sinh lúc Chánh pháp đang hưng thịnh, (4) sinh nơi có nhiều chúng sinh tu tập Chánh pháp, (5) sinh nơi có người hộ trì Chánh pháp.

(5) Giống như trời đêm mây,
Phút chốc chớp ánh điện;
Như vậy, nhờ Phật lực,
Người đời sinh tâm lành.

Tâm lành: [Crosby] Tâm nghĩ đến làm việc công đức (merit). Công đức có ba loại: do bố thí, do trì giới và do thiền định.

(6) Tâm lành thường yếu đuối,
Tâm ác rất hung hăng;
Nếu bỏ tâm Bồ Đề,
Lành làm sao thắng ác?

Tâm Bồ Đề: tức là tâm cầu tu hành thành Phật, hầu có thể làm lợi ích tất cả chúng sinh.

(7) Phật nhiều kiếp tư duy,
Tâm Bồ Đề là nhất,
Chúng sinh nương vào đây,
Thuận lợi, được thắng lạc.

(8) Muốn diệt khổ ba cõi,
Cùng những sự bất an,
Muốn hưởng sự an lạc,
Xin đừng bỏ tâm này!

(9) Kẻ tù ngục sinh tử,
Nếu phát Bồ Đề tâm,
Tức khắc tên Phật tử;
Trời người nên cung kính!

Tức khắc tên Phật tử: [Diễn Nghĩa] Nhập Trung Luận nói: “Tâm Bồ Đề là nhân để thành Phật. Hỏi: Tại sao kẻ mới phát tâm Bồ Đề lại xứng đáng gọi là Phật tử? Đáp: Chư Phật vì lợi ích tất cả chúng sinh mà phát tâm tu thành Phật. Sau khi thành Phật, lại tiếp tục trong vô lượng thời gian, không gian, làm lợi ích chúng sinh. Nay nếu có người phát tâm Bồ Đề, nguyện thành Phật lợi ích chúng sinh, chẳng lẽ kẻ đó không đáng gọi là Phật tử hay sao?”

(10) Tâm này thuốc luyện kim,
Chuyển thân nhớp nhúa này,
Thành thân Phật vô giá;
Xin gìn giữ tâm này!

Thuốc luyện kim: [Dịch Chú] Chất liệu luyện kim (Anh: elixir) thù thắng nhất là một loại thuốc nước, dùng để luyện kim khí, có thể biến đồng thành vàng, lại có nghĩa là thuốc trường sinh. Thí dụ này được dẫn trong kinh trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Ly Thế Gian.

(còn tiếp)
----------------------------------------------
Ghi chú: Behold và Crosby là những nguồn dịch .
-----------------------------------------------
Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
(11) Đạo Sư dùng tuệ quán,
Tâm này rất quí báu;
Muốn ra khỏi ba cõi,
Xin giữ vững tâm này!


Đạo Sư: tức là đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, hoặc có thể chỉ chung cho tất cả chư Phật.

(12) Việc lành như cây chuối,
Sinh quả liền chết khô;
Tâm Bồ Đề sinh quả,
Không chết lại tươi tốt.


[Diễn Nghĩa] Hỏi: Nhân lành hữu hạn có thể sinh quả lành vô hạn chăng? Đáp: Không thể. Tất cả nhân lành, nếu không có tâm Bồ Đề làm cơ sở, đều chỉ là hữu hạn, do đó chỉ có thể sinh quả lành hữu hạn mà thôi.

(13) Có kẻ tuy phạm tội,
Nương thế lực không sợ.
Nếu có chỗ cứu vớt,
Kẻ sợ sao không nương?


Thế lực: tức là những kẻ có thế lực, như quốc vương, đại thần chẳng hạn. Chỗ cứu vớt: tức là tâm Bồ Đề. Kẻ sợ: tức là tất cả chúng sinh đang chìm đắm trong sinh tử.

(14) Tâm này như kiếp lửa,
Sát na diệt tội ác;
Di Lặc bảo Thiện Tài:
Tâm này đức vô lượng!


Kiếp lửa: Trong mỗi đại kiếp có bốn thời kỳ: thành, trụ, hoại, không. Trong thời hoại kiếp có ba đại tai hủy hoại thế gian: thủy tai, hỏa tai, và phong tai. Hỏa tai phá hoại đến cõi sơ thiền, thủy tai phá hoại đến cõi nhị thiền, và phong tai phá hoại đến cõi tam thiền. Kiếp lửa là muốn chỉ đến lửa của hỏa tai này, nóng đến độ núi Tu Di gặp phải, cũng sẽ bị cháy tan không còn tro bụi. Như phần dưới có câu: "Tu Di gặp lửa này, cháy tan không còn thừa", tức là cùng ý này.

(15) Tóm lược, tâm Bồ Đề,
Được phân làm hai loại:
Là tâm Bồ Đề Nguyện,
Và tâm Bồ Đề Hành.


(16) Như người định ra đi,
Và người đã dấn bước;
Cũng thế, nên hiểu rằng,
Hai tâm khác như vậy.


[Đại ý:] Đầu tiên, đối với hữu tình khởi tâm Đại Bi, sau đó từ tâm Đại Bi này khởi lên một ý nguyện thuần tịnh: Vì muốn cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi ba cõi, con quyết định tu hành thành Phật. Đây là Nguyện tâm. Sau khi khởi nguyện tâm, bèn tiến thêm một bước, thọ Bồ Tát giới, tu tập lục độ vạn hạnh. Đây là Hành tâm.

(17) Nguyện Tâm trong sinh tử,
Tuy sinh quả lành lớn,
Nhưng không bằng Hành Tâm,
Tương tục tăng phước đức.


[Diễn giải] Đối với lợi ích của Nguyện tâm, Học Tập Luận nói: "Trong sinh tử luân hồi, tâm Bồ Đề Nguyện, mặc dù chưa tiến nhập tâm Bồ Đề Hành, đã có thể sản sinh vô lượng sự an lạc. Bởi thế không nên coi thường sức mạnh của tâm này". Kinh Di Lặc Giải Thoát nói: "Thiện nam tử, thí như kim cương, tuy bị đập nát, vẫn còn quí hơn tất cả món trang sức quí báu khác. Không những không mất tên Kim Cương, mà còn tiêu trừ tất cả sự nghèo khổ. Thiện nam tử, cũng như thế, sinh khởi Kim Cương Bảo Nhất Thiết Trí Tâm (tâm Bồ Đề), tuy nhiên chưa được thực hành, phước đức đủ thắng tất cả Thanh Văn, Độc Giác. Không những không tổn hoại danh dự của tâm Bồ Đề, mà còn có thể tiêu trừ tất cả khổ não của luân hồi".

(18) Chừng nào nguyện độ hết,
Chư hữu tình vô biên,
Lập chí không thoái chuyển,
Thọ trì Hành Tâm này.


(19) Từ lúc đó trở đi,
Dù ngủ nghê, phóng dật,
Tương tục sinh phước đức,
Lượng nhiều như hư không!


Ở đây muốn nói đến tiềm lực bất khả tư nghị của tâm Bồ Đề Hành. Khi Bồ Tát phát nguyện thành Phật độ chúng sinh, trong quá trình tu tập lục độ vạn hạnh, nảy sinh ra một lực lượng bất khả tư nghì, đồng hư không giới. Lực lượng của nghiệp lành này tiếp tục tăng trưởng, dù là đôi khi Bồ Tát hiện tướng biếng nhác, buông lung. Bởi thế, Bồ Tát dù ở lâu trong sinh tử, vẫn tiếp tục thăng tiến trên bước đường thành Phật độ sinh của mình.

(20) Vì người tin Tiểu thừa,
Phật trong kinh Diệu Tý,
Nói đến sự hợp lý,
Lợi ích của tâm này.


[Croby] Kinh Diệu Tý (Anh: The Question of Subahu, Phạn: Subahupariprccha) là một kinh trong bộ Đại Bảo Tích Kinh của Phật giáo Đại thừa.
[Batchelor] trích một đoạn kinh trong kinh Diệu Tý như sau: "Nếu hành giả kiên trì trong việc đem lợi ích đến vô lượng hữu tình, thì vô lượng thiện căn phát sinh từ tâm mong cầu sự lợi ích chúng sinh này sẽ tiếp tục tăng trưởng, bất luận là hành giả trong trạng thái tỉnh thức hay ngủ nghỉ".
-----------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
(21)
Chỉ mong ước trị lành,
Chúng sinh bệnh đau đầu,
Khởi tâm lợi ích này,
Được phước vô cùng tận.


[Diễn Ý] Đức Bổn Sư trong một kiếp quá khứ, đã từng làm con gái một vị trưởng giả, tên Từ đồng nữ. Một hôm vì quá giận dữ, đã lấy chân đạp vào đầu mẹ mình. Vì tội bất hiếu đó nên bị đọa địa ngục. Trong địa ngục nhận chịu sự thống khổ, thường bị kiếm lửa bổ vào đầu. Từ đồng nữ trong lúc thọ báo, thấy trong địa ngục có nhiều tội nhân chịu khổ còn khốc liệt hơn mình. Thốt nhiên lòng thương xót (thiện căn trong quá khứ) nảy sinh, bèn phát nguyện rằng: "Nguyện con có thể tiêu trừ được thống khổ của tội nhân, nếu không, xin đem toàn bộ thống khổ của họ trút vào thân con. Con xin nhận chịu." Vừa phát xong lời thệ nguyện đó, tất cả tội chướng đều được tiêu trừ. Chẳng bao lâu, từ địa ngục được sinh lên trời Đâu Suất.

(22)
Huống chi trừ hữu tình,
Vô lượng sự khổ đau,
Lại thành tựu hữu tình,
Vô lượng chư phước đức.


Vô lượng chư phước đức: Trong tất cả phước đức, chỉ có phước đức của Phật mới thực là vô lượng vô biên. Hai câu cuối có nghĩa là thành tựu chúng sinh viên thành Phật quả.

(23)
Mẹ, cha, hay kẻ nào,
Có được tâm như vậy?
Dù tiên, trời cõi Dục,
Phạm thiên cũng không có!


[Diễn Ý] Trong bộ Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận có một bài tụng như sau:
Như Phật tử đem tâm lợi tha,
Trụ thế thành thục chư hữu tình,
Cha mẹ cho đến những bạn bè,
Con cái, người thân đều không thế.

Ngài Thế Thân giải thích như sau: Ví như người đời lo cho con mình, lo cho cha mẹ mình, lo cho chính mình, Bồ Tát thành thục tất cả chúng sinh, vượt quá ba tâm này, không thể nào so sánh được. Bởi vậy Bồ Tát lo cho chúng sinh, tâm đó thù thắng nhất.

(24)
Bọn họ chưa từng nghĩ,
Giải thoát cho chính mình,
Huống khởi tâm lợi ích,
Giải thoát cho chúng sinh?


(25)
Kẻ khác còn chưa từng,
Phát khởi tâm tự độ;
Sinh tâm trân quí này,
Ít có chưa từng gặp!


(26)
Tâm Bồ Đề trân quí,
Nhân của sự an lạc,
Mưa cam lộ trừ khổ,
Phước đức thực khôn lường!


(27)
Chỉ nghĩ lợi chúng sinh,
Phước đức hơn cúng Phật,
Huống cần cù tinh tiến,
Lợi lạc chư hữu tình.


[Diễn Ý] Hỏi: Tại sao chỉ nghĩ lợi ích chúng sinh, lại được phước đức hơn cúng Phật? Đáp: Phật là bậc mà phước đức đã hoàn toàn viên mãn. Ngài không còn tham cầu bất cứ một sự cúng dường nào. Phật thọ nhận sự cúng dường hoàn toàn là từ tâm Đại Bi của ngài, muốn cho chúng sinh có cơ hội trồng trọt phước đức và thiện căn. Nếu Phật còn sự thiếu thốn hay mong cầu, tức là nguyện Đại Bi cứu độ chúng sinh của Phật chưa được viên mãn. Do đây, hành giả muốn lợi ích chúng sinh, chẳng phải là giúp Phật viên thành nguyện Đại Bi vô tận hay sao? Vì thế lợi ích chúng sinh, phước đức to hơn đem tài vật cúng dường Phật. Như phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có nói: "Trong các sự cúng dường, cúng dường Pháp tối thù thắng. Nghĩa là như thuyết tu hành, nhiếp thọ chúng sinh, thay chúng sinh thọ khổ. Như trên cúng dường tài vật công đức vô lượng, so với sự cúng dường Pháp, trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một v.v..."

(28)
Chúng sinh muốn trừ khổ,
Trái lại tăng thêm khổ!
Kẻ ngu tuy cầu vui,
Giết vui như giết thù!


[Diễn Ý] Hỏi: Tránh khổ tìm vui là tâm lý chung của tất cả chúng sinh. Chúng sinh tự truy cầu khoái lạc, Bồ Tát cần gì phải lo nghĩ? Đáp: Bởi vì chúng sinh ngu si, thiển kiến, không hiểu rõ nhân quả. Mặt khác, do vì nhiều phiền não tập khí, chỉ biết truy cầu khoái lạc tạm thời, không biết nghĩ đến khoái lạc trường cửu trong vị lai. Tuy muốn tránh khổ cầu lạc, nhưng vì không tự chủ được, lại tạo rất nhiều nghiệp ác. Kết quả, tự hủy diệt cái nhân của sự an lạc, như tàn sát kẻ thù của mình vậy.

(29)
Với kẻ thiếu niềm vui,
Cuộc sống nhiều khổ não,
Tâm này đem an lạc,
Dứt khổ đau, lại còn,


(30)
Trừ ngu si cho họ!
Có lành nào như vầy?
Có bạn nào tốt hơn?
Có phước nào như thế?


(31)
Có kẻ chỉ trả ơn,
Còn được người tán thán,
Huống gì người chưa nhờ,
Bồ Tát tự đến giúp!


(32)
Có kẻ tâm bỏn sẻn,
Đem chút cơm cho người,
Để họ qua cơn đói,
Còn được đời ca ngợi.


(33)
Huống chi thường bố thí,
Niềm vui của chư Phật,
Đến vô biên hữu tình,
Làm cho họ mãn nguyện!


(34)
Đối với Phật tử này,
Nếu ai sinh ác tâm,
Phật nói: "Mỗi niệm ác,
Đọa địa ngục một kiếp!"


(35)
Người nào sinh kính tâm,
Được quả lành vô lượng!


[Diễn Ý] Đối với một vị Bồ Tát, phước điền to lớn của chúng sinh, nếu như có người đối Bồ Tát sinh tâm sân hận, chắc chắn sẽ nhận chịu vô biên ác báo. Ngược lại, nếu đối Bồ Tát sinh tâm kính tín, sẽ được vô lượng quả lành. Quả lành này không những có công năng tiêu diệt được tội bất kính trên, mà còn nhiều hơn thế trăm ngàn vạn lần. Vì sao được như vậy? Vì Bồ Tát ôm lòng từ bi, đối kẻ thù địch đến tàn hại mình, không những không sinh tâm báo thù, mà còn tu tập an nhẫn, đem đức báo oán, làm cho kẻ thù tự cảm thấy hổ thẹn, cải đổi. Giả sử Bồ Tát không giáo hóa được kẻ thù, cũng không làm cho họ tăng trưởng phiền não, tạo thêm ác nghiệp. Ngược lại, đối với kẻ tin tưởng, kính trọng mình, Bồ Tát ân cần giáo hóa, làm cho họ tăng trưởng thiện căn, phước đức, trí tuệ. Nhân đây, kẻ kính tín Bồ Tát được quả phước vô lượng, vô biên.

Bồ Tát gặp hoạn nạn,
Tăng phước, không phạm lỗi.


[Diễn Ý] Quảng Giải nói: Bồ Tát dù gặp tai nạn trọng đại, thân tâm cũng không sinh tội quá. Bởi vì tai nạn không thể nào tổn hoại Bồ Tát được. Ba nghiệp của Bồ Tát đã được thanh tịnh, vì thế người khác đối với ngài đều sinh tâm kính trọng, tin tưởng. Lại nữa, do vì Bồ Tát tu học tứ nhiếp pháp lợi lạc hữu tình, lại nỗ lực làm cho mọi người hoan hỉ. Nhân đây, lại giúp cho chúng sinh tăng trưởng tâm hoan hỉ, kính trọng và tin tưởng Chánh pháp.

(36)
Nay con xin kính lạy,
Kẻ phát tâm Bồ Đề,
Cùng qui y những bậc,
Ban kẻ thù an lạc.


[Diễn Ý] Hỏi: Đang lúc Bồ Tát sơ học lễ kính mình, thì mình phải làm sao? Đáp: Kẻ lễ kính mình tuy là Bồ Tát sơ học, cũng nên coi họ như đức Bổn Sư. Hơn nữa, họ tuy là sơ học, nhưng đã phát tâm Bồ Đề, đáng được sự lễ kính, do đó mình cũng phải nên lễ kính họ. Tuy thế, nếu đem thân lễ kính họ, nhiều khi làm cho kẻ khác khởi tâm gièm pha, lúc đó chỉ đem tâm lễ kính cũng được. Trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát Bảo Vân, tuy là bậc tiền bối, ngài đối kẻ mới vào đạo là đồng tử Thiện Tài vẫn quì mọp kính lễ.

----------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Phẩm hai:
Sám hối tội chướng

(1)
Mong giữ tâm Bồ Đề,
Con nay cúng Như Lai,
Pháp vi diệu không nhiễm,
Phật tử biển công đức.


[Diễn Ý ] Chữ cúng, ở đây có nghĩa là thiện cúng (khéo cúng). Cúng dường trong nghĩa thù thắng nhất của nó. Phải gồm đủ sáu điều kiện:
(1) có ý nguyện thành Phật, (2) muốn lợi ích tất cả hữu tình, (3) cúng vật phải được chưng bày đẹp mắt, để người khác thấy sinh lòng hoan hỉ, (4) phải hiểu rằng người cúng, cúng vật, kẻ được cúng, cả ba đều là không tịch, (5) tâm tưởng không có phiền não tạp nhiễm, (6) hồi hướng Đại Bồ Đề.

(2)
Hoa tươi quả thơm ngọt,
Cùng những món thuốc hay,
Vật trân báu thế gian,
Nước trong làm tâm mát,


(3)
Núi trân bảo vút cao,
Rừng đẹp màu yên tĩnh,
Cây trời, hoa kỳ diệu
Cành trĩu đầy quả ngon,


(4)
Hương trời dịu thế gian
Những hàng cây Như ý,
Lúa bắp mọc tự nhiên,
Cùng bao nhiêu bảo ngọc,


(5)
Hồ sen đầy những hoa,
Tiếng thiên nga ngâm vọng;
Lồng lộng tít chân trời,
Bao nhiêu vật vô chủ.


(6)
Những vật từ tâm tưởng,
Kính dâng Phật, Bồ Tát,
Cầu xin Thắng Phước Điền,
Thương con mà thọ nhận!


(7)
Con bần cùng bạc phước,
Không còn vật nào hơn,
Xin Đức Phật từ bi,
Thương con mà nhận lấy!


[Diễn Ý] Trong phẩm này nói về sự cúng dường, trừ hai bài kệ (9), (10) ra, mười chín bài kệ khác, nghĩa là (2)-(7), (11)-(22), toàn đề cập đến sự dùng quán tưởng cúng dường. Tại sao như thế? Có thể dùng ba lý do để giải thích:
(1) Xã hội Ấn Độ ở khoảng thế kỷ thứ tám, thứ chín, sinh hoạt vật chất thiếu thốn, nhất là các vị xuất gia. Trừ ba bộ y ra, thực tế không có tài vật gì để cúng dường Tam Bảo.
(2) Tâm lượng của tâm Bồ Đề rộng lớn vô lượng, vì thế trước khi phát tâm, trước tiên nên dùng tâm quán vô lượng tài vật cúng dường. Mục đích là làm cho tâm tưởng trở nên quảng đại, trang nghiêm. Đây là điều rất cần thiết cho sự phát tâm Bồ Đề sau này.
(3) Tâm Bồ Đề là kho phước đức to lớn. Nếu trước không tích tập tư lương, e sợ sau này không thể phát khởi nỗi tâm Bồ Đề. Giả sử có phát tâm chăng nữa, cùng khó lòng mà làm cho nó tiếp tục tăng trưởng.
Trên lý luận, dùng quán tưởng tu cúng dường, sở duyên không bị hạn chế, do đó, nếu quán tưởng thành tựu, phước đức này so với sự đem phẩm vật cúng dường, nhiều vô lượng vô biên. Nhưng trên thực tế, vì phàm phu tâm tưởng tán loạn, tu quán khó thành. Do đó, dù có tu quán tưởng cúng dường đi chăng nữa, cũng chẳng qua là phô diển hình thức mà thôi, không có hiệu quả bao nhiêu. Trái lại, đem phẩm vật cúng dường, tuy là số lượng hữu hạn, khiếm khuyết công năng dẫn sinh tâm lượng quảng đại, lại dễ làm cho tư tưởng nhiễm ô, nhưng lại có công năng là hộ trì Tam Bảo, phá hoại được sự bỏn sẻn, làm cho chúng sinh tập sự tu học tâm bố thí. Do đó, trên thực tế, đối với phàm phu, đem tài vật cúng dường Tam Bảo, phước đức to hơn tu quán tưởng cúng dường.

(8)
Nguyện đem thân tâm này,
Cúng Phật, chư Bồ Tát,
Cầu khẩn thương xót cho,
Con xin làm nô bộc!


Con xin làm nô bộc: [Diễn Nghĩa] Theo nghĩa rộng mà nói, nếu một vị xuất gia đem trọn cuộc đời mình phục vụ cho lý tưởng: học tập Phât pháp, phục vụ tăng đoàn. Đợi đến khi sở học thành tựu, tùy duyên hoằng hóa, lợi ích quần sinh. Nếu được như vậy, tức là đem thân tâm mình phụng hiến (làm nô bộc) cho Phật Pháp. Đối với các vị tại gia, ý nghĩa cũng tương tự như vậy.

(9)
Được các ngài nhiếp thọ,
Nguyện: không sợ, làm lành,
Bỏ ác, tịnh thân tâm,
Đoạn trừ chư ác nghiệp!


[Diễn Ý] Suzuki trong quyển Khai Ngộ Đệ Nhất có nói: "Lúc mà chúng ta buông bỏ tự ngã, cũng chính là lúc tha lực hiển hiện". Nếu như một người hoàn toàn đem hết thân phụng hiến Tam Bảo, không còn một ti hào nào tưởng nghĩ đến chính mình, thì đó chính là lúc họ được sự hộ trì, ân sủng (thương xót) của Tam bảo trong ý nghĩa thuần khiết nhất. Khi mà hành giả đã buông bỏ ngã chấp, tâm tưởng không chút kháng cự, lúc đó sự từ bi gia hộ của Tam bảo mới có cơ hội thấm nhuần vào tâm của họ. Còn nếu như tâm hành giả còn chút chấp nê, phản kháng, dù không đáng kể, thì họ khó lòng mà tiếp nhận được ánh sáng nhiệm mầu này. Nói như vậy không có nghĩa là mê tín, mà chính là muốn nói đến đức tin trong bản chất thuần khiết nhất của nó. Đây cũng chính là lập trường của Tịnh Độ Tông.

(10)
Phòng đẹp huân mùi hương,
Sàn pha lê óng ánh,
Cột báu ngọc sáng ngời,
Màn trân châu rực rỡ.


(11)
Bình tắm nạm ngọc quí
Chứa đầy nước mát thơm,
Xin tắm Phật, Bồ Tát,
Véo von hòa tiếng nhạc.


(12)
Xin được lau thân ngài,
Bằng khăn thơm mềm dịu,
Sau đó nguyện dâng lên,
Áo đẹp màu tươi mát.


(13)
Xin đem gấm lụa trời,
Cùng bao nhiêu vật quí,
Trang nghiêm đức Phổ Hiền,
Văn Thù, Quán Thế Âm.


(14)
Nguyện đem nước hương trời
Ướp lên thân chư Phật,
Sáng đẹp màu hoàng kim,
Mùi thơm lừng ba cõi.


(15)
Xin kính dâng chư Phật,
Hoa trời, sen tinh khiết,
Ngan ngát dịu màu tươi,
Cùng những vòng hoa đẹp.


(16)
Lại xin hiến mây trời,
Hương thơm dâng ngào ngạt;
Lại cúng dường thức ngon,
Mùi vị hơn thiên đường.


(17)
Xin cúng đèn trân bảo,
Đặt trên đóa sen vàng,
Và trên sàn thơm ngát,
Xin rải đẹp lòng hoa.


(18)
Xin dâng đấng Từ Bi
Đài các tấu nhạc trời,
Lầu cao ươm màu ngọc,
Rộng lớn như trời mây.


(19)
Lại xin cúng chư Phật
Lọng ngọc cán nạm vàng,
Vành lọng thêu trân bảo,
Nhan sắc màu nghiêm trang.


(20)
Con nguyện đem nhạc trời,
Tiếng đẹp lòng êm dịu,
Như mây tan niềm khổ,
Hiến dâng người trần ai.


(21)
Xin nguyện hoa trân ngọc,
Ăm ắp như mưa trời,
Rải khắp cúng dường Pháp,
Chùa, tháp, cùng Phật tượng.


(22)
Xin như đức Văn Thù
Khi xưa cúng dường Phật,
Con nay nguyện như vậy,
Cúng dường Phật Pháp Tăng.


[Crosby] Đức Văn Thù, trong một tiền thân của ngài là vua Ambararaja, đã cống hiến thì giờ của mình và tất cả của cải trong nước cúng dường chư Phật, cùng khuyến khích mọi người trong nước cũng đều như vậy. Câu chuyện này được kể trong kinh Văn Thù Phật Sát Công Đức Trang Nghiêm (Manjuriksetra- gunavyuha Sutra).

(23)
Xin đem hải triều âm,
Tán ca Phật công đức;
Nguyện mây trời âm nhạc,
Giăng mắc Cửa Từ Bi.


(24)
Hoá thân như vi trần,
Gập mình con cúi lạy,
Chư Phật trong ba đời,
Chánh Pháp, Hiền thánh tăng.


(25)
Cúi lạy tháp chư Phật,
Gốc của tâm Bồ Đề,
Lạy bậc chân tu hành,
Sư trưởng cùng ân nhân.


(26)
Từ nay đến thành Phật,
Xin qui y chư Phật,
Cùng qui y Chánh Pháp,
Bồ Tát, chư Thánh chúng.


[Diễn Ý] Qui y Tam bảo có ba loại động cơ tâm lý khác nhau: (1) Vì sợ sự khổ trong ba đường ác, muốn cầu Tam Bảo cứu hộ nên qui y. (2) Vì sợ sự khổ luân hồi trong tam giới, muốn cầu giải thoát triệt đễ nên qui y. (3) Vì muốn lợi lạc tất cả chúng sinh, muốn tu hành thành Phật nên qui y. Ở đây nói đến qui y là thuộc về loại thứ ba này.
-----------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Phẩm hai:
Sám hối tội chướng

(1)
Mong giữ tâm Bồ Đề,
Con nay cúng Như Lai,
Pháp vi diệu không nhiễm,
Phật tử biển công đức.


[Diễn Ý ] Chữ cúng, ở đây có nghĩa là thiện cúng (khéo cúng). Cúng dường trong nghĩa thù thắng nhất của nó. Phải gồm đủ sáu điều kiện:
(1) có ý nguyện thành Phật, (2) muốn lợi ích tất cả hữu tình, (3) cúng vật phải được chưng bày đẹp mắt, để người khác thấy sinh lòng hoan hỉ, (4) phải hiểu rằng người cúng, cúng vật, kẻ được cúng, cả ba đều là không tịch, (5) tâm tưởng không có phiền não tạp nhiễm, (6) hồi hướng Đại Bồ Đề.

(2)
Hoa tươi quả thơm ngọt,
Cùng những món thuốc hay,
Vật trân báu thế gian,
Nước trong làm tâm mát,


(3)
Núi trân bảo vút cao,
Rừng đẹp màu yên tĩnh,
Cây trời, hoa kỳ diệu
Cành trĩu đầy quả ngon,


(4)
Hương trời dịu thế gian
Những hàng cây Như ý,
Lúa bắp mọc tự nhiên,
Cùng bao nhiêu bảo ngọc,


(5)
Hồ sen đầy những hoa,
Tiếng thiên nga ngâm vọng;
Lồng lộng tít chân trời,
Bao nhiêu vật vô chủ.


(6)
Những vật từ tâm tưởng,
Kính dâng Phật, Bồ Tát,
Cầu xin Thắng Phước Điền,
Thương con mà thọ nhận!


(7)
Con bần cùng bạc phước,
Không còn vật nào hơn,
Xin Đức Phật từ bi,
Thương con mà nhận lấy!


[Diễn Ý] Trong phẩm này nói về sự cúng dường, trừ hai bài kệ (9), (10) ra, mười chín bài kệ khác, nghĩa là (2)-(7), (11)-(22), toàn đề cập đến sự dùng quán tưởng cúng dường. Tại sao như thế? Có thể dùng ba lý do để giải thích:
(1) Xã hội Ấn Độ ở khoảng thế kỷ thứ tám, thứ chín, sinh hoạt vật chất thiếu thốn, nhất là các vị xuất gia. Trừ ba bộ y ra, thực tế không có tài vật gì để cúng dường Tam Bảo.
(2) Tâm lượng của tâm Bồ Đề rộng lớn vô lượng, vì thế trước khi phát tâm, trước tiên nên dùng tâm quán vô lượng tài vật cúng dường. Mục đích là làm cho tâm tưởng trở nên quảng đại, trang nghiêm. Đây là điều rất cần thiết cho sự phát tâm Bồ Đề sau này.
(3) Tâm Bồ Đề là kho phước đức to lớn. Nếu trước không tích tập tư lương, e sợ sau này không thể phát khởi nỗi tâm Bồ Đề. Giả sử có phát tâm chăng nữa, cùng khó lòng mà làm cho nó tiếp tục tăng trưởng.
Trên lý luận, dùng quán tưởng tu cúng dường, sở duyên không bị hạn chế, do đó, nếu quán tưởng thành tựu, phước đức này so với sự đem phẩm vật cúng dường, nhiều vô lượng vô biên. Nhưng trên thực tế, vì phàm phu tâm tưởng tán loạn, tu quán khó thành. Do đó, dù có tu quán tưởng cúng dường đi chăng nữa, cũng chẳng qua là phô diển hình thức mà thôi, không có hiệu quả bao nhiêu. Trái lại, đem phẩm vật cúng dường, tuy là số lượng hữu hạn, khiếm khuyết công năng dẫn sinh tâm lượng quảng đại, lại dễ làm cho tư tưởng nhiễm ô, nhưng lại có công năng là hộ trì Tam Bảo, phá hoại được sự bỏn sẻn, làm cho chúng sinh tập sự tu học tâm bố thí. Do đó, trên thực tế, đối với phàm phu, đem tài vật cúng dường Tam Bảo, phước đức to hơn tu quán tưởng cúng dường.

(8)
Nguyện đem thân tâm này,
Cúng Phật, chư Bồ Tát,
Cầu khẩn thương xót cho,
Con xin làm nô bộc!


Con xin làm nô bộc: [Diễn Ý] Theo nghĩa rộng mà nói, nếu một vị xuất gia đem trọn cuộc đời mình phục vụ cho lý tưởng: học tập Phât pháp, phục vụ tăng đoàn. Đợi đến khi sở học thành tựu, tùy duyên hoằng hóa, lợi ích quần sinh. Nếu được như vậy, tức là đem thân tâm mình phụng hiến (làm nô bộc) cho Phật Pháp. Đối với các vị tại gia, ý nghĩa cũng tương tự như vậy.

(9)
Được các ngài nhiếp thọ,
Nguyện: không sợ, làm lành,
Bỏ ác, tịnh thân tâm,
Đoạn trừ chư ác nghiệp!


[Diễn Ý] Suzuki trong quyển Khai Ngộ Đệ Nhất có nói: "Lúc mà chúng ta buông bỏ tự ngã, cũng chính là lúc tha lực hiển hiện". Nếu như một người hoàn toàn đem hết thân phụng hiến Tam Bảo, không còn một ti hào nào tưởng nghĩ đến chính mình, thì đó chính là lúc họ được sự hộ trì, ân sủng (thương xót) của Tam bảo trong ý nghĩa thuần khiết nhất. Khi mà hành giả đã buông bỏ ngã chấp, tâm tưởng không chút kháng cự, lúc đó sự từ bi gia hộ của Tam bảo mới có cơ hội thấm nhuần vào tâm của họ. Còn nếu như tâm hành giả còn chút chấp nê, phản kháng, dù không đáng kể, thì họ khó lòng mà tiếp nhận được ánh sáng nhiệm mầu này. Nói như vậy không có nghĩa là mê tín, mà chính là muốn nói đến đức tin trong bản chất thuần khiết nhất của nó. Đây cũng chính là lập trường của Tịnh Độ Tông.

(10)
Phòng đẹp huân mùi hương,
Sàn pha lê óng ánh,
Cột báu ngọc sáng ngời,
Màn trân châu rực rỡ.


(11)
Bình tắm nạm ngọc quí
Chứa đầy nước mát thơm,
Xin tắm Phật, Bồ Tát,
Véo von hòa tiếng nhạc.


(12)
Xin được lau thân ngài,
Bằng khăn thơm mềm dịu,
Sau đó nguyện dâng lên,
Áo đẹp màu tươi mát.


(13)
Xin đem gấm lụa trời,
Cùng bao nhiêu vật quí,
Trang nghiêm đức Phổ Hiền,
Văn Thù, Quán Thế Âm.


(14)
Nguyện đem nước hương trời
Ướp lên thân chư Phật,
Sáng đẹp màu hoàng kim,
Mùi thơm lừng ba cõi.


(15)
Xin kính dâng chư Phật,
Hoa trời, sen tinh khiết,
Ngan ngát dịu màu tươi,
Cùng những vòng hoa đẹp.


(16)
Lại xin hiến mây trời,
Hương thơm dâng ngào ngạt;
Lại cúng dường thức ngon,
Mùi vị hơn thiên đường.


(17)
Xin cúng đèn trân bảo,
Đặt trên đóa sen vàng,
Và trên sàn thơm ngát,
Xin rải đẹp lòng hoa.


(18)
Xin dâng đấng Từ Bi
Đài các tấu nhạc trời,
Lầu cao ươm màu ngọc,
Rộng lớn như trời mây.


(19)
Lại xin cúng chư Phật
Lọng ngọc cán nạm vàng,
Vành lọng thêu trân bảo,
Nhan sắc màu nghiêm trang.


(20)
Con nguyện đem nhạc trời,
Tiếng đẹp lòng êm dịu,
Như mây tan niềm khổ,
Hiến dâng người trần ai.


(21)
Xin nguyện hoa trân ngọc,
Ăm ắp như mưa trời,
Rải khắp cúng dường Pháp,
Chùa, tháp, cùng Phật tượng.


(22)
Xin như đức Văn Thù
Khi xưa cúng dường Phật,
Con nay nguyện như vậy,
Cúng dường Phật Pháp Tăng.


[Crosby] Đức Văn Thù, trong một tiền thân của ngài là vua Ambararaja, đã cống hiến thì giờ của mình và tất cả của cải trong nước cúng dường chư Phật, cùng khuyến khích mọi người trong nước cũng đều như vậy. Câu chuyện này được kể trong kinh Văn Thù Phật Sát Công Đức Trang Nghiêm (Manjuriksetra- gunavyuha Sutra).

(23)
Xin đem hải triều âm,
Tán ca Phật công đức;
Nguyện mây trời âm nhạc,
Giăng mắc Cửa Từ Bi.


(24)
Hoá thân như vi trần,
Gập mình con cúi lạy,
Chư Phật trong ba đời,
Chánh Pháp, Hiền thánh tăng.


(25)
Cúi lạy tháp chư Phật,
Gốc của tâm Bồ Đề,
Lạy bậc chân tu hành,
Sư trưởng cùng ân nhân.


(26)
Từ nay đến thành Phật,
Xin qui y chư Phật,
Cùng qui y Chánh Pháp,
Bồ Tát, chư Thánh chúng.


[Diễn Ý] Qui y Tam bảo có ba loại động cơ tâm lý khác nhau: (1) Vì sợ sự khổ trong ba đường ác, muốn cầu Tam Bảo cứu hộ nên qui y. (2) Vì sợ sự khổ luân hồi trong tam giới, muốn cầu giải thoát triệt đễ nên qui y. (3) Vì muốn lợi lạc tất cả chúng sinh, muốn tu hành thành Phật nên qui y. Ở đây nói đến qui y là thuộc về loại thứ ba này.
-----------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
(27)
Trước chư Phật, Bồ tát,
Chan chứa tâm Bồ Đề,
Từ Bi, khắp mười phương,
Chắp tay con thệ nguyện:


(28)
Từ luân hồi đến nay,
Đời này hoặc đời trước,
Vì u mê làm ác,
Hoặc khuyến người làm ác,


(29)
Hoặc ngu si dẫn dắt,
Thấy việc ác mà vui,
Nay đã rõ tội mình,
Trước Phật xin sám hối!


(30)
Do vô minh thúc đẩy,
Ba nghiệp gây thương tổn,
Đến người thân, Tam Bảo,
Sư trưởng và chúng sinh.


(31)
Do xưa gây nghiệp ác,
Nay thành người lỗi lầm,
Tội lỗi khó thứ tha,
Trước Phật cầu sám hối!


(32)
Con có thể mệnh chung,
Trước khi sám sạch tội;
Làm sao thoát tội này?
Xin Phật hãy cứu con!


(33)
Tử thần thật khó tin,
Không đợi tội còn, hết,
Dù bệnh hay không bệnh,
Khó ỷ lại tuổi trời.


(34)
Xưa con không biết rằng
Chết là buông tất cả,
Bởi thế vì thân thù,
Gây tạo nhiều ác nghiệp.


(35)
Kẻ thù thành hư vô,
Người thân cũng không còn,
Thân con rồi sẽ chết,
Tất cả đều là không!


(36)
Cuộc đời là huyễn mộng,
Không luận sự việc gì,
Gặp xong thành hoài niệm,
Qua rồi không trở lại.


(37)
Vả lại, trong đời này,
Thân thù đều biệt ly,
Chỉ còn lại ác báo
Đứng chờ dẫn con đi!


(38)
Con vì không hiểu rõ
Chết đến mau như vậy,
Nên theo tham sân si,
Tạo tác nhiều ác nghiệp.


(39)
Ngày tháng không chờ mong,
Tuổi xanh như bụi hồng,
Thời gian thân tàn lụi,
Đời rồi sẽ là không!


(40)
Trên giường trước khi đi,
Họ hàng tuy gần kề,
Lâm chung bao thống khổ,
Oằn oại, nào ai hay?


(41)
Tử thần đã đến bên,
Thân bằng nào ích gì?
Chỉ có phước mới cứu,
Mà con nào chịu tu?


(42)
Phóng dật con nào hay,
Chết đáng sợ như vầy!
Nên vì thân tạm bợ,
Tạo những ác nghiệp này.


(43)
Như kẻ ra pháp trường,
Phạm tội lòng kinh sợ,
Miệng khô đôi mắt lõm,
Dáng dấp đầy khổ đau.


(44)
Huống chi bị thần chết,
Khủng bố, đến dẫn đi,
Niềm đau nào ai biết?
Tức tưởi trong sầu bi!


(45)
Ai là kẻ cứu con,
Ra khỏi khổ đêm trường?
Lòng đau, con ngưỡng vọng,
Bốn phương tìm tình thương.


(46)
Mà ai nào có hay!
Thất vọng con ưu hoài,
Nếu không người cứu độ,
Mênh mang trong trần ai!


(47)
Lạy Phật đấng cứu thế,
Từ bi hộ chúng sinh,
Trừ diệt niềm sợ hãi,
Con xin qui y ngài!


(48)
Lại qui y Chánh Pháp
Mà Phật đã chứng đắc;
Trừ diệt khổ luân hồi,
Xin qui y Bồ Tát.


(49)
Run rẩy lòng lo sợ,
Đem thân thờ Phổ Hiền;
Lại xin đem thân này,
Cúng dường Văn Thù Tôn.


(50)
Nức nở mắt lệ nhòa,
Giập đầu con cúi lạy,
Đức Quán Âm từ bi,
Xin thương người ngu muội!


(51)
Ngưỡng cầu Hư Không Tạng,
Cùng đức Địa Tạng Vương,
Tất cả chư Bồ Tát,
Thương xót cứu hộ con!


(52)
Kính lạy Kim Cương Trì,
Chúng ma lòng sân độc,
Chỉ nhìn thấy thân ngài,
Kinh sợ chạy tứ tán.


Kim Cương Trì (Phạn: Vajrapani), còn gọi là Kim Cương Thủ, nghĩa là vị Bồ Tát cầm chày Kim Cương. Đây không phải là tên riêng của một vị Bồ Tát, mà là tên chung của các vị hộ pháp Bồ Tát cầm chày kim cương. Trong Mật giáo, Kim Cương Thủ còn là tên gọi khác của ngài Phổ Hiền.
---------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
(53)
Xưa không tuân lời dạy,
Đời này lòng sợ hãi,
Nguyện nhờ qui y này,
Dẹp tan lòng quái ngại!


(54)
Vì lo cơn bịnh thường,
Còn tuân lời thầy thuốc,
Huống chi bệnh tham sân,
Vô thỉ thường trói buộc?


(55)
Một bệnh sân có thể,
Giết hết Diêm Phù Đề;
Nhưng thuốc trị bệnh này,
Khắp chốn tìm không thấy,


(56)
Mà nay bậc Y Vương,
Có phương thuốc trị khổ,
Thấy được mà không tin,
Thật là kẻ đáng trách!


(57)
Gặp một nguy hiểm nhỏ,
Còn cẩn thận phòng hộ,
Huống chi trong sinh tử,
Vô lượng kiếp hiểm nạn?


(58)
Phi lý nếu nghĩ mình
Không chết, rồi buông lung,
Thần chết ắt sẽ đến,
Đời này sẽ cáo chung!


(59)
Ai ban sự không sợ?
Làm sao thoát được khổ?
Nếu như sẽ phải chết,
Nay sao còn phóng dật?


(60)
Giờ đây chẳng còn chi,
Trừ nỗi niềm dĩ vãng,
Bởi vì nhiều tham luyến,
Thường trái lời Phật dạy.


(61)
Rồi sẽ bỏ thân này,
Cùng bạn bè thân thích,
Một mình không định xứ;
Nhọc chi kết thân thù?


(62)
Làm sao mà thoát khỏi
Sự ác gây khổ đau?
Vì thế con quyết tâm,
Ngày đêm nghĩ trừ khổ!


(63)
Con vì nhiều vô minh,
Phạm giới do Phật chế,
Hoặc phạm vào tính tội,
Cùng bao nhiêu tội khác.


Nói một cách đơn giản, tội có thể phân làm hai loại: giá tội và tính tội. Tính tội như giết sát, trộm cắp, ..., bản tính là ác, mà khơng cần phải đợi Phật chế. Giá tội tức là những điều giới do Phật chế, với mục đích là tránh cho các đệ tử của Phật khơng bị người thế gian và ngoại đạo khởi tâm gièm pha, kích bác, chẳng hạn như uống rượu, hút thuốc v.v... Ví dụ trong Ngũ giới, bốn giới đầu là tính tội, giới cuối là giá tội .

(64)
Trước Phật con chắp tay,
Tâm đau, lòng sợ hãi,
Giập đầu con cúi lạy,
Sám hối bao lỗi lầm!


(65)
Cầu xin Phật tha thứ,
Tội ác tạo khi xưa!
Đã biết mình không lành,
Xin nguyện không tái phạm!

----------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Phẩm ba:

Thọ trì tâm Bồ Đề

(1)
Con hân hoan tùy hỉ,
Sự lành diệt tội khổ,
Đem đến cho hữu tình,
Phước báo cùng an lạc.


[Wallace] Con hân hoan tùy hỉ công đức của tất cả hữu tình, đã diệt được sự khổ não của luân hồi. Nguyện cho những kẻ đang chịu khổ não sẽ được an lạc.

(2)
Tùy hỉ tu Tam học,
Là nhân chứng Bồ Đề,
Tùy hỉ chư hữu tình,
Được thoát luân hồi khổ.


Tam học: tức là Giới học, Định học, Tuệ học.

(3)
Tùy hỉ Phật Bồ Đề,
Cùng quả vị Bồ Tát;
Tùy hỉ sự phát tâm,
Phước thiện như biển lớn,
Cùng những hạnh lợi ích,
Đem hữu tình an lạc.


(4)
Trước chư Phật mười phương,
Chắp tay lòng khẩn thiết,
Thỉnh Ngài chiếu đèn Pháp,
Độ chúng sinh ngu khổ!


(5)
Biết Phật muốn nhập diệt,
Liền chắp tay khẩn cầu,
Xin trụ vô lượng kiếp,
Đừng bỏ thế gian mê!


(6)
Từ những việc thiện này,
Tích tập được phước đức,
Nguyện hồi hướng hữu tình,
Tiêu diệt tất cả khổ.


(7)
Xin nguyện làm y sư,
Thuốc men, người săn sóc,
Trị liệu chư hữu tình,
Đến khi hết bệnh khổ.


(8)
Nguyện trời mưa thức ăn,
Giải trừ bệnh đói khát,
Trong những kiếp tai nạn,
Nguyện thành cơm no lòng.


Kiếp tai nạn: Mỗi khi tuổi thọ của con người giảm xuống đến mười tuổi, sẽ có ba tiểu tai xuất hiện: đói khát, tật dịch, và chiến tranh. Ở đây, kiếp tai nạn có thể là muốn chỉ đến tiểu tai đói khát nầỵ

(9)
Xin nguyện làm kho báu,
Cứu vớt kẻ bần cùng;
Nguyện thành vật cần thiết,
Hiện đến trên tay họ.


(10)
Vì muốn lợi hữu tình,
Nguyện cho không sẻn tiếc:
Thân, tiền và vật dụng,
Những việc lành ba đời.


[Diễn Ý] Hỏi: Tiểu thừa La Hán có sẻn tiếc thân mệnh, tài sản và thiện căn không? Đáp: Không. Bỏn sẻn là một phần của phiền não. Các vị Thanh Văn, Duyên giác đã trừ sạch tam độc, đương nhiên không còn sẻn tiếc thân mệnh, tài sản, và thiện căn của họ. Tuy vậy, vẫn chưa đủ tư cách gọi là Bố thí ba la mật của Đại thừa. Nếu muốn tu thành Bố thí ba la mật, ngoài việc tiêu trừ tâm bỏn sẻn ra, còn phải tích cực sinh khởi ý nguyện hoan hỉ bố thí dến tất cả chúng sinh, và dùng sự tu hành này tăng trưởng thiện căn của mình.

(11)
Xả hết ắt thoát khổ,
Tâm con thành Niết Bàn;
Nếu đợi chết mới buông,
Chi bằng cho bây giờ!


(12)
Con đã đem thân này,
Hoan hỉ thí hữu tình,
Tùy ý họ vui lòng:
Đánh, giết, hoặc mắng chửi,


(13)
Đem thân làm trò vui,
Lăng nhục, hoặc cười nhạo;
Thân con đã bố thí,
Nào còn luyến tiếc gì!


[Diễn Ý] Bố Đại Hòa Thượng đã từng nói: "Nếu người đánh lão tăng, lão tăng lăn xuống đất. Nếu có người mắng chưởi, lão tăng cười ha ha. Họ không phải nhọc sức, lão tăng ít phiền não". Hỏi: Để mặc người đánh giết mình, chẳng phải là đi ngược với tông chỉ của Học Tập Luận: "Dù đã bố thí thân mệnh, vẫn phải cẩn thận giữ gìn thân này", hay sao? Đáp: Không phải vậy. Học Tập Luận nói giữ gìn, chỉ có nghĩa là không nên để thân thể thọ nhận sự thương tổn một cách vô ý nghĩa.

(14)
Tất cả việc lợi ích,
Xin tận lực thực hành;
Nguyện kẻ thấy thân con,
Đều được nhiều lợi lạc!


(15)
Những người trông thấy con,
Sinh lòng tin hoặc ghét,
Nguyện cho họ thường được,
Thành tựu nhiều phước lợi!


(16)
Nguyện kẻ hủy báng con,
Cùng kẻ làm tổn hại,
Thậm chí làm nhục con,
Đều tăng duyên Bồ Đề!


(17)
Bảo hộ người cô độc,
Dẫn dắt kẻ lữ hành;
Nguyện vì người qua bến
Làm cầu, bè, thuyền, đò!


(18)
Những ai cần ốc đảo,
Con nguyện thành ốc đảo,
Cần đèn, hóa ra đèn,
Cần giường, xin làm giường,
Những ai cần nô bộc,
Xin nguyện làm nô bộc!


(19)
Nguyện làm bình như ý,
Bùa chú và thuốc linh,
Xin làm cây Mãn nguyện,
Làm bò, dâng sữa lành.


Ở đây, bình như ý, bùa chú, thuốc linh, cây Mãn nguyện, bò, v.v... đều tượng trưng cho sự thỏa mãn những nguyện vọng của chúng sinh.

(20)
Con nguyện sẽ trở thành,
Hư không và tứ đại,
Làm tăng trưởng cuộc sống,
Cho vô lượng hữu tình!


Ở đây muốn nói "Nguyện làm duyên giúp cho hữu tình tăng trưởng cuộc sống".

(21)
Lại nguyện làm nguồn sống,
Cho tất cả hữu tình,
Đầy dẫy khắp hư không,
Đến ngày họ thành Phật!


Ở đây muốn nói "Nguyện làm nhân cho sự thành Phật của hữu tình".
[Diên Ý] Học Tập Luận dẫn kinh Thánh Vô Tận Ý: "Chúng ta đối bất cứ sự việc gì, nên vì hữu tình mà siêng năng tận tụy. Nên nghĩ như vầy: Ví như tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong, dùng các phương thức v.v..., để cho hữu tình hưởng dụng. Như vậy chúng ta cũng nên đem thân tứ đại này, dùng tất cả phương thức v.v..., mà trưởng dưỡng, thành thục tất cả hữu tình. Bồ Tát vì hiểu rõ đạo lý như vậy, cho nên nhiều lúc nhận chịu sự thống khổ, vì tưởng nghĩ đến hữu tình mà vẫn nhẫn thọ, không nề hà, nhàm chán."

(22)
Như quá khứ chư Phật
Từng phát tâm Bồ Đề,
Đã tuần tự tu tập,
Những hạnh nguyện Bồ Tát.


(23)
Vì muốn lợi chúng sinh,
Con phát tâm Bồ Đề,
Xin tuần tự tu học,
Tất cả chư hạnh nguyện.


(24)
Người trí siêng giữ gìn,
Tâm Bồ Đề thanh tịnh;
Nếu muốn cầu tăng tiến,
Nên ca ngợi phát tâm!


Người có trí tuệ, sau khi phát tâm Bồ Đề, thọ giới Bồ Tát, kế đến luôn luôn suy tưởng đến sự lợi ích và công đức của nó. Nhân đây mà dẫn sinh tâm vui mừng, hãnh diện. Nên tự khuyến khích và khen ngợi chính mình. Đây không phải là sự cuồng si ngạo mạn, mà chính là giúp cho mình có thêm can đảm, tiếp tục dấn thân trên đường hành Bồ Tát hạnh.

(25)
Con nay được phước lớn,
May mắn được thân người,
Lại sinh trong nhà Phật,
Làm con đức Như Lai!


Con đức Như Lai: ở đây chỉ cho những người đã khởi tâm tín giải đối với Tam bảo, hoặc đã phát tâm Bồ Đề thế tục, khác với quyển Nhập Trung Luận, Bồ Tát đăng địa (phát tâm Bồ Đề thắng nghĩa) mới được gọi là con của Như Lai.

(26)
Từ đây con phải làm,
Xán lạn gia tộc Phật!
Không được làm ô nhiễm
Dòng dõi tôn quí này.


(27)
Giống như một kẻ mù,
Trong rác được ngọc quí,
Con thực là diễm phúùc,
Phát tâm Bồ Đề này!


Đây là sự chứng thực phần giải thích của bài kệ (24). Tác giả biểu lộ sự mừng rỡ đến độ kinh ngạc, bàng hoàng, như kẻ tìm được một vật quí mà mình chưa từng dám mơ tưởng đến. Nay trong đời mạt pháp, nếu trong chúng ta có kẻ nào chân chính phát được tâm này, cũng nên sinh niềm hoan hỉ như vậy!

(28)
Tâm Bồ Đề tôn quí,
Là cam lộ bất tử,
Núi báu trừ bần cùng,
Thuốc trị tất cả bệnh,


(29)
Là trạm nghỉ ngơi cho,
Kẻ lang bạc sinh tử,
Là cầu qua cõi khổ,
Dẫn người khỏi ác thú,


(30)
Tâm này là ánh trăng,
Mát mẻ trừ nhiệt não;
Tâm này là mặt trời,
Sáng ngời dẹp ngu si!


[Diễn Ý] Trong bài kệ này, ánh trăng mát mẽ, mặt trời sáng ngời, đều là chỉ tâm Bồ Đề thắng nghĩa. Bởi vì nếu chỉ y vào tâm Bồ Đề thế tục, không thể nào đoạn được phiền não chướng cùng sở tri chướng. Nếu theo quan niệm của phái Ưng Thành, Ánh trăng chỉ cho tâm Bồ Đề 66
Phẩm ba: Thọ trì tâm Bồ Đề
của Bồ Tát từ địa thứ nhất đến địa thứ bảy, chỉ có thể trừ được phiền não chướng. Muốn trừ được sở tri chướng, phải nhờ đến Mặt trờí, tức là tâm Bồ Đề của địa thứ tám đến địa thứ mười mới thành tựu được.

(31)
Là quậy sữa Chánh pháp,
Sinh ra Diệu đề hồ.


Đề hồ: là một món ăn ngon nhất làm ra từ sữa bò. Diệu đề hồ tượng trưng cho giáo pháp tối thượng của đức Phật.

(32)
Những kẻ đang lang bạc
Muốn hưởng sự phúùc lạc,
Tâm này sẽ đem đến
Tất cả niềm an lạc!


(33)
Nay trước Phật Thế Tôn,
Dọn tiệc mời khách quí,
Nguyện các ngài hoan hỉ,
Hưởng món ngon thành Phật!

----------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Phẩm Bốn:
Không phóng dật


(1)
Phật tử đã phát tâm,
Phải kiên cố giữ gìn,
Siêng năng đừng biếng nhác,
Đừng vi phạm giới luật.


Thông thường, chữ giới luật được mọi người hiểu theo nghĩa hẹp. Ở đây, giới luật phải được hiểu theo nghĩa rộng của nó là giới luật của Bồ Tát, bao gồm ba tụ tịnh giới là nhiếp luật nghi, nhiếp thiện pháp, và nhiêu ích hữu tình. Phần nhiếp luật nghi giới bao quát tất cả giới luật theo ý nghĩa thông thường của nó; nhiếp thiện pháp giới bao quát tất cả việc lành thế gian, xuất thế gian, tức là Thập thiện, Tứ đế, Bát Chính đạo, Lục độ v.v...; còn nhiếp hữu tình giới là sự ứng dụng của hai phần trên, tức là Bồ Tát đem sự tu học của mình vào việc lợi ích cho chúng sinh. Vì thế phạm vi của giới luật rất là rộng lớn.

(2)
Nếu như chưa nghĩ kỹ,
Bốc đồng chẳng đắn đo,
Tuy đã lập thệ nguyện,
Cũng nên suy xét lại.


Cũng nên suy xét lại: Nên suy xét lại có nên dấn thân trên đường tu học Bồ Tát hạnh hay không? Nếu cảm thấy chưa đủ tâm chí, lực lượng v.v..., nên tạm thời hoãn lại. Đừng nên bốc đồng phút chốc, sau này nửa chừng không kham nổi lại bỏ cuộc. Nếu thế, sẽ đem lại nhiều quả báo không lành trong đời vị lai. Thành thử, bậc hành giả Đại thừa trước khi hạ quyết định thọ Bồ Tát giới, phải hiểu rõ Bồ Tát giới luật, cùng chí hướng và thệ nguyện của người hành Bồ Tát hạnh.

(3)
Làm sao mà xả được,
Những điều Phật, Bồ Tát,
Dùng trí tuệ quán sát,
Mình cũng từng suy ngẫm.


[Dịch Chú] Bởi vì chư Phật cùng chư Bồ Tát đã từng dùng trí tuệ quán sát một cách thâm sâu, và đã khẳng định rằng sự phát tâm Bồ Đề, thọ Bồ Tát giới, sẽ đem lại vô lượng phước báo. Hơn nữa, mình cũng đã từng suy ngẫm đắn đo trước khi thọ giới. Phát tâm, thọ giới là một điều lợi ích lớn lao cho mình, tại sao mình lại xả Bồ Tát giới luật (nghĩa là xả tâm Bồ Đề)?

(4)
Đã nguyện độ chúng sinh,
Mà không siêng tu hành,
Tức là khinh hữu tình,
Đời sau sẽ về đâu?


(5)
Nếu phát tâm bố thí,
Dù là ít vật quèn,
Lại sẻn tiếc không cho,
Kinh nói đọa ngạ quỉ !


[Batchelor] Kinh Chánh pháp Niệm Xứ (Saddharma- smrtyupasthana Sutra) nói: "Nếu mà không bố thí, dù vật quèn nhất, mà mình đã nghĩ cho (ý nghiệp), sẽ bị đọa ngạ quỉ. Còn nếu như không bố thí vật mà mình đã hứa cho (khẩu nghiệp) sẽ bị đọa địa ngục".

[Diễn Ý] Hỏi: Tại sao hứa cho một vật mọn, sau đó vì bỏn sẻn không cho, lại đọa ngạ quỉ? Nếu vậy, quả báo chẳng phải là cực kỳ tàn khốc hay sao? Đáp: Kỳ thực, những vật mọn đó, những người thông thường chắc chắn sẽ không màng đến. Cần đến những vật như vậy, chỉ có những kẻ bần cùng , khốn khổ mà thôi. Nay đối với kẻ nghèo khốn như vậy đến xin, đã hứa cho, lại vì keo kiết mà từ chối không cho. Người như thế chẳng phải một loại cực kỳ keo bẩn hay sao? Hơn nữa, tâm họ hoàn toàn không có một chút từ bi nào đối với chúng sinh bần khổ. Tâm nào cảnh đó, thọ quả báo địa ngục là điều đương nhiên, còn thắc mắc nỗi gì!
Luận Du Già Sư Địa, phần Bồ Tát Địa, Giới phẩm, khai thị bốn giới đọa căn bổn nói: "Nếu Bồ Tát có tài sản, giả sử có người nghèo khổ, bơ vơ, đến cầu bố thí, nếu Bồ Tát vì keo kiết, không khởi lòng thương xót bố thí ... phạm giới đọa thứ hai". Đã phạm giới trọng căn bổn, hủy hoại Bồ Tát giới thể, như vậy đọa ngạ quỉ là điều đương nhiên!

(6)
Huống mời chúng sinh đến,
Buổi tiệc Vô Thượng Lạc,
Sau đó lừa chúng sinh,
Khó mà sinh cõi lành!


Mời chúng sinh đến buổi tiệc Vô Thượng Lạc: nghĩa là phát nguyện trước tất cả chúng sinh là sẽ độ họ thành Phật. Sau đó lừa chúng sinh: sau đó lại thoái thất tâm nguyện của mình, hứa mà không làm. Khó mà sinh cõi lành: Chỉ cần lừa một người, tội báo đã không ít, nay đi lừa tất cả chúng sinh, tội báo như vậy khó mà tưởng tượng được!

(7)
Có người bỏ tâm này,
Tu đắc quả Tiểu thừa,
Nghiệp họ khó nghĩ bàn,
Chỉ có Phật mới biết.


[Diễn Ý] Ở đây có một công án về ngài Xá Lợi Phất. Trong quá khứ ngài đã từng phát tâm tu Bồ Tát hạnh, chứng đến lục trụ (Chánh tâm trụ). Sau vì bị ma thử thách không nhẫn được, nhân đó đã xả bỏ Bồ Đề tâm, tu hạnh Tiểu thừa. Trải qua vô lượng kiếp gặp đức Bổn Sư, chứng quả A la hán. Hỏi: Như vậy có mâu thuẫn với bổn luận: "Sau đó lừa chúng sinh, khó mà sinh cõi lành" hay không? Đáp: Ngẫm kỹ, công án của ngài Xá lợi Phất phù hợp với tông chỉ của bổn luận. (1) Xá Lợi Phất thực tâm hành Bồ Tát đạo, chưa từng có tâm khi dối chúng sinh. (2) Dù xả tâm này, ngài vẫn tinh tiến tu hành, không rời Không Tánh Tuệ và tâm yếm ly (nhàm chán) sinh tử. Nhờ đó sau này chứng được Tiểu quả. Kinh có nói ngài đã từng bị đọa ác đạo nhiều kiếp, và trong vô lượng kiếp chỉ có thể sinh trong năm cõi (trừ cõi trời). Điều này cho thấy, ngài không có tâm lừa dối chúng sinh, mà quả báo ngài nhận chịu đã khốc liệt như vây. Huống chi tu hành lại mang tâm lừa dối, quả báo còn khốc liệt biết đến chừng nào!

(8)
Trong Bồ Tát giới đọa,
Tội xả tâm nặng nhất!
Vì xả tâm Bồ Đề,
Mất hữu tình lợi lạc.


Giới đọa: Phạm giới này có thể đưa hành giả đến sự đọa lạc trong đời này và đời sau, cho nên gọi là giới đọa.

(9)
Dù chỉ trong phút giây,
Chướng ngại hạnh Bồ Tát,
Vì tổn hữu tình lợi,
Quả ác thú vô biên!


Bài kệ (8): tự mình xả tâm Bồ Đề, bài kệ (9): làm kẻ khác thoái thất tâm Bồ Đề. Vì làm tổn hoại sự lợi ích của tất cả chúng sinh trong pháp giới này, do đó phải nhận chịu ác quả báo vô lượng vô biên.

(10)
Hoại niềm vui một người,
Tự thân còn bị tổn,
Huống hủy sự an lạc,
Của tất cả chúng sinh!


(11)
Nếu như không quả quyết,
Phát tâm, lại tạo ác,
Lên xuống cõi luân hồi,
Khó mà chứng đạo quả!


[Diễn Ý] Hỏi: Xả bỏ tâm Bồ Đề tuy nhiên phạm giới đọa, sau khi sám hối thanh tịnh, chẳng lẽ không được thọ lại Bồ Tát giới hay sao? Đáp: Được. Phạm căn bản tội, có thể sau khi sám hối thanh tịnh xong, thọ lại Bồ Tát giới. Bất quá, sau khi phạm giới, sám hối làm cho thanh tịnh, so với xưa nay không phạm giới, bảo trì giới thể thanh tịnh, hai bên có sự khác biệt rất lớn. Luận Du Già, phần Bồ Tát Địa nói: "Bồ Tát đối với căn bổn trọng giới, tùy phạm một giới, huống phạm tất cả, trong hiện pháp, không thể tăng trưởng nhiếp thọ Bồ Đề tư lương rộng lớn của Bồ Tát, cũng không thể được ý nhạo thanh tịnh". Do đây biết rằng, sám hối thanh tịnh, tối đa chỉ có thể làm tiêu diệt chủng tử ác báo, không bị đầu thai ác đạo, chứ không thể tiêu trừ sự chướng đạo sau này. Phải trải qua một thời gian lâu dài (nhiều đời nhiều kiếp) mới có thể hoàn toàn khôi phục ngôi vị Bồ Tát của mình. Bồ Tát sơ học phải cẩn thận điều này, không nên vì sự phóng dật mà tùy tiện phạm giới.

(12)
Nay y lời thệ nguyện,
Phải cung kính thực hành,
Nếu mà không nỗ lực,
Nhất định sẽ trầm luân!


(13)
Vì lợi ích hữu tình,
Bao nhiêu Phật xuất thế,
Mà con vì tội lỗi,
Với Phật thành vô duyên!


Mà con ... vô duyên: Con vì đã phóng dật và tội lỗi, cho nên đến nay vẫn không có phước báo được chư Phật tự thân dạy dỗ và dẫn dắt.

(14)
Nếu không chịu cải ác,
Như vậy sẽ thăng trầm,
Trong nẻo ác nhận chịu,
Sự khổ: bệnh, trói, đâm.


(15)
Ngày nào mới gặp lại,
Chư Phật hiện thế gian,
Làm người tin Chánh Pháp,
Và biết tu điều lành!


(16)
Dù ngày nay không bệnh,
No cơm cùng vui sướng,
Cuộc đời là vô thường,
Thân này như vật mượn!


Thân này như vật mượn: Thân này như vật mượn tạm, người chủ (tử thần) có thể đòi lại bất cứ lúc nào.

(17)
Nếu cứ làm việc ác,
Khó được sinh làm người;
Nếu không được thân người,
Làm sao biết tu thiện?


(18)
Được nhân duyên tu thiện
Mà không chịu gắng tu,
Một mai đọa đường ác,
Khi đó sẽ làm sao?


(19)
Đã không biết tu thiện,
Lại còn gây ác hành,
Trải qua một ức kiếp,
Không nghe tên cõi lành.


(20)
Thân người khó gặp được,
Như rùa mù dưới biển,
Trồi lên trên mặt nước,
Đầu nhập bộng cây trôi.


Như rùa mù đáy biển: Trong kinh có một công án như sau: "Có một con rùa mù sống dưới đáy biển, cứ một trăm năm trồi lên mặt nước một lần. Trên mặt biển có một khúc cây trôi, trên khúc cây có một bộng cây, to chỉ đủ đầu rùa lọt vào. Rùa mù cứ mỗi trăm năm trồi lên một lần, hy vọng đầu chui vào được bộng cây". Cứ tưởng tượng, nếu như vậy đến khi nào mới chui đầu vào được bộng cây? Cơ hội gần như tuyệt vọng! Thân người khó được cũng giống như vậy. Bởi thế, truyền thống Phật giáo Tây Tạng rất chú trọng đến điều “thân người khó được” này; hơn nữa, nhất luật khuyến cáo hành giả phải mau phát Bồ Đề tâm, tu Bồ Tát hạnh ngay, kẻo trễ!

(21)
Sát na tạo tội nặng,
Nhiều kiếp đọa Vô gián;
Huống chi từ vô thỉ,
Trồng hạt giống đọa lạc?


(22)
Chỉ thọ ác báo đó,
Vẫn chưa thoát được khổ,
Vì lúc thọ quả báo,
Lại tạo thêm ác nghiệp!


(23)
Nay đã được thân người,
Nếu không chịu tu thiện,
Tự khinh không gì hơn!
Ngu si không ai bằng!


(24)
Nay đã rõ điều này,
Nếu vì ngu mà nhác,
Khi thân này mất đi,
Chắc sẽ nhiều thống khổ.


(25)
Khi mà lửa địa ngục,
Lâu dài đốt thân này,
Lửa hối hận bừng cháy,
Lòng con càng khổ đau.


(26)
Tấm thân lợi ích này,
Khó được nay đã được,
Lại thêm đủ trí tuệ;
Nếu lại đọa địa ngục,


(27)
Chắc là bị búa chú,
Làm tâm con mê hoặc?
Ai làm con thác loạn?
Quái nào trong tâm này?


(28)
Tham sân si không có,
Tay chân, dũng, trí tuệ,
Sao có thể sai khiến,
Con như người nô lệ?


(29)
Phiền não trong tâm này,
Tùy tiện tổn hại ta,
Nếu không trừ diệt nó,
Quả thực là đáng trách!


Nếu không...đáng trách: Nếu đối với phiền não mà không khởi tâm sân hận, nghĩa là không coi nó như kẻ thù và tìm cách tiêu diệt nó, mà cam chịu để nó sai khiến, làm mình đời đời kiếp kiếp đọa lạc, điều này quả thực là đáng trách. Ở đây nói đến sân hận, không phải là khuyên hành giả khởi tâm phiền não, mà chính là khuyến khích hành giả nên nỗ lực hướng thượng, hướng thiện. Nếu hành giả không khởi được tâm này, chắc sẽ không tìm được động cơ để thăng hoa chính mình.
------------------------------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
(30)
Dù Trời, A tu la,
Cùng đến uy hiếp ta,
Nhưng họ cũng không thể,
Ném ta vào Vô gián.


(31)
Giặc phiền não hung tợn,
Ném ta vào ngục lửa,
Tu Di gặp lửa này,
Cháy tan không còn thừa!


(32)
Kẻ thù trên thế gian,
Tuổi trời chỉ hữu hạn,
Giặc phiền não trong tâm,
Sống lâu không kỳ hạn.


(33)
Nếu chiều lòng kẻ địch
Họ có thể lợi mình,
Còn tùy thuận phiền não
Chỉ gặp thương tổn khổ!


(34)
Kẻ địch từ vô thỉ,
Ẩn núp trong tâm này,
Chỉ tìm cách hại ta,
Sao không sợ sinh tử?


Ở trong sinh tử, tức là ở chung với kẻ thù phiền não này. Kẻ thù này ngày đêm tìm đủ mọi phương cách tàn hại pháp thân tuệ mệnh của chúng ta. Người có trí tuệ lẽ đâu không sợ? Nếu muốn được an vui, phải tìm đủ mọi cách giết sạch kẻ thù này, thoát ly tam giới.

(35)
Lũ cai tù sinh tử,
Cùng bọn quỉ địa ngục,
Nếu còn trong tâm này,
Ta làm sao an lạc?


Lũ cai tù sinh tử: Ở đây muốn chỉ vô minh. Nó là nguyên nhân chính giam nhốt chúng ta trong ngục sinh tử này.

(36)
Nếu mà chưa giết được,
Kẻ địch phiền não này,
Trong suốt cả cuộc đời,
Thệ nguyện sẽ tinh tiến!
Bị người hơi xúc phạm,
Còn sinh lòng buồn giận,
Chưa giết sạch vô minh,
Người trí không ngủ yên.


(37)
Chiến sĩ trên chiến trường,
Gắng sức diệt kẻ địch,
Dù biết rằng đối thủ,
Sẽ chết vì già bệnh;
Tuy vậy vẫn không màng,
Gươm giáo đâm thân khổ,
Chưa đạt đến mục đích,
Cương quyết không trốn chạy!


(38)
Huống chi người tinh tiến,
Quyết chí muốn dẹp tan,
Kẻ địch phiền não này,
Nguồn gốc của sự khổ;
Cho nên dù gặp phải,
Trăm vạn sự khổ đau,
Thề quyết chẳng bao giờ,
Nhụt chí sinh biếng nhác!


(39)
Tráng sĩ vì chút lợi,
Đánh trận bị thọ thương,
Trở về khoe vết thẹo,
Như được thưởng huân chương;
Ta nay vì lợi lớn,
Tu hành cố siêng năng,
Tạm thời gặp chút khổ,
Có gì là đau thương?


[Diễn Ý] Trên bước đường tu hành gặp phải những khổ nạn, chung qui, đây là chướng ngại hay là nghịch tăng thượng duyên (tức là những nghịch cảnh làm tăng trưởng sự tiến bộ của mình trên bước đường tu hành), là sự bất lợi hay là sự khích lệ, hoàn toàn là do cái nhìn của hành giả. Đây cũng là phương pháp dùng khổ tu đạo.

(40)
Ngư phủ cùng đồ tể,
Nông phu, lũ phàm tục,
Chỉ biết lo thân mình,
Cần cù kế sinh nhai,
Còn nhẫn chịu nóng, lạnh,
Sự nhọc nhằn gian khổ;
Ta vì chúng sinh vui,
Sao lại không nhẫn nhục?


(41)
Tuy từng lập thệ nguyện,
Độ chúng sinh thoát khổ;
Thế nhưng chính thân này,
Vẫn chưa đoạn phiền não;


(42)
Lời nguyện không lượng sức,
Phải chăng là cuồng ngạo?
Vậy phải diệt phiền não,
Vĩnh viễn không lùi bước!


[Diễn Ý] Kinh nói: "Tự mình chưa được độ mà lo đi độ người, điều này không thể có được". Do thế, nếu như mình không bắt đầu siêng năng đoạn trừ phiền não, cũng giống như mình đi ngược lại bổn nguyện của mình. Vì vậy, đối với sự tiêu diệt phiền não, phải thường tinh tiến tu tập, vĩnh viễn không lùi bước.

(43)
Nay phải nên quán sát,
Phiền não như kẻ thù!
Phải ôm tâm hận này,
Mới mong diệt phiền não.


(44)
Chẳng thà bị đốt chết,
Hoặc chịu khổ chặt đầu,
Tâm quyết không khuất phục,
Tùy thuận quỉ phiền não!


(45)
Kẻ địch bị đánh đuổi,
Ẩn núp nơi đất người,
Chờ mạnh quay trở lại;
Phiền não không phải thế.


Phiền não không phải thế: Phiền não một khi bị đoạn trừ, vĩnh viễn sẽ không còn tung tích. Như ánh sáng chiếu đến thì bóng tối sẽ tan đi không còn dấu vết.
[Behold] Hỏi: Tôi hiểu rõ phiền não làm hại chúng sinh. Nhưng chúng ta có thể nào diệt sạch hết phiền não không? Đáp: Có thể. Nếu gốc của phiền não bị nhổ, thì tất cả phiền não sẽ bị tiêu diệt. Như nhổ gốc cây thì tất cả cành lá sẽ khô héo hết. Đây cũng giống thế, nếu nhổ bật gốc của phiền não là sự chấp trước, thì tất cả phiền não đều bị quét sạch. Vũ khí mà chúng ta cần là lưỡi kiếm trí tuệ, tức là sự chứng ngộ Không Tánh. Nếu có cặp mắt trí tuệ này, chúng ta sẽ quét sạch được phiền não.

(46)
Nếu bị tuệ nhãn giết
Còn ẩn núp nơi nào?
Làm sao quay trở lại?
Chỉ vì mình biếng nhác!


Chỉ vì mình biếng nhác: Phiền não thực sự không phải khó đoạn như chúng ta tưởng. Chỉ vì ngu si biếng nhác, thành thử chúng ta cứ phải bị lẩn quẩn trong vòng sinh tử luân hồi.

(47)
Phiền não không ở ngoài,
Ở trong, hoặc nơi khác,
Làm sao hại chúng sinh?
Phiền não như huyễn ảo,
Tâm đừng nên sợ hãi!
Người trí cần siêng năng,
Ngu gì ở địa ngục
Chịu thống khổ vô ích!


Phiền não không ... như huyễn ảo: Đây là dùng trí tuệ quán sát phiền não không có tự tính. Ở đây, ý nghĩa cũng giống như bài kệ trong kinh Kim Cương: "Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, ảnh..."
Nếu hiểu rõ phiền não vốn không, thì tự nhiên nó không còn trói buộc mình được nữa. Chúng sinh luân hồi sinh tử, vấn đề tại chấp trước tất cả đều là thực. Bởi thế hành giả tu hạnh Bồ Tát, phải nhất tâm quán sát chư pháp không có tự tính. Đây là điều thiết yếu.

(48)
Nghĩ xong nên tận lực,
Viên mãn chư giới hành,
Nếu không nghe thầy thuốc
Bệnh tật làm sao lành?


Viên mãn chư giới hành: tức là nỗ lực tu hành, làm tròn tất cả những hạnh nguyện của mình. Nếu không nghe ... sao lành: Nếu không nghe lời dạy của Phật (thầy thuốc), tinh tiến tu hành, thì làm sao hết cơn bịnh sinh tử trầm kha này?
-------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Phẩm năm:
Hộ trì chánh tri


(1)
Người muốn giữ giới luật,
Phải giữ vững tâm mình!
Nếu không giữ tâm này,
Không thể giữ giới luật.


(2)
Nếu để tâm buông lung,
Sẽ đọa ngục Vô gián!
Trên đời, lũ voi điên,
Cũng không hại đến thế.


(3)
Nếu dùng dây chánh niệm
Trói chặt tâm buông lung,
Sợ hãi đều tiêu trừ,
Phước thiện ắt sẽ đến!


(4)
Cọp, sư tử, gấu, voi,
Rắn rít, kẻ địch thù,
Cùng bọn quỉ địa ngục,
Ác thần, loài la sát,


(5)
Chỉ cần buộc tâm này,
Là nhiếp phục bọn chúng!
Điều phục được tâm này,
Tất cả đều vâng lệnh!


[Diễn Ý]Hỏi: Tại sao giữ gìn tâm mình lại có thể tiêu trừ sự sợ hãi đối với ngoại cảnh? Đáp: Bởi vì tất cả sự sợ hãi đều do tâm phát sinh. Tồn là do sự chấp trước thân tâm, thế giới đều là có thực mà sinh ra. Nếu chúng ta thường thường tâm niệm Chánh Pháp, cùng quán sát pháp nghĩa về sự vô thường, vô ngã, mình người bình đẳng, tất cả hữu tình đều như mẹ mình v.v.... Đem pháp nghĩa này điều phục tự tâm, tự nhiên đối với ngoại cảnh không còn tham luyến, vì không tham luyến nên không sợ hãi. Không những không sợ hãi mà còn điều phục, cảm hóa kẻ khác, bất luận là trời, ma, quỉ, súc sinh, làm cho họ qui y tín ngưỡng Phật Pháp. Ngược lại, nếu như không khéo điều phục tâm mình, rất dễ bị sợ hãi luống cuống, mà gặp ngoại cảnh xâm hại.

(6)
Đức Phật từng dạy rằng:
Tất cả sự sợ hãi,
Vô lượng sự thống khổ,
Đều do tâm này sinh!


(7)
Ai là kẻ tạo ra,
Địa ngục những binh khí?
Ai làm sàn ngục lửa?
Yêu nữ từ đâu ra?


[Diễn Ý] Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói: "Nay nói lược về quả báo sát sinh như sau: Chỗ đó (địa ngục) có bánh xe ngàn trục bằng kim cương, vành bánh xe lửa cháy phừng phực. Tội nhân vừa vào đến, thì những vành xe này liền xuyên qua thân. Chỗ thân bị chạm xúc đều bị cháy tan v.v... Quả báo trộm cắp như sau: ... bị ngục tốt chộp lấy thân, ném vào đống lửa đang cháy đỏ v.v... Đối với những kẻ tham dục phạm tà dâm: Do nghiệp phát động, nhìn thấy (yêu nữ hiện hình thành) người nữ mà họ đã từng tằng tịu đời trước, liền tất tã chạy đến, kết quả bị yêu nữ (bằng sắt) chộp lấy thân thể mà nhai nuốt v.v... Quả báo nói dối như sau: Diêm la, ngục tốt kéo lơi tội nhân bắt nằm bẹp trên sàn lửa (giống như người tục lấy vỉ sắt nướng thịt vậy) v.v ..."

(8)
Phật nói những việc này,
Đều do tâm ác tạo;
Vì thế trong ba cõi,
Không gì ác hơn tâm!


(9)
Nếu diệt hết bần cùng,
Mới thành Bố thí độ;
Nay vẫn còn kẻ nghèo,
Phật làm sao thành đạo?


[Dịch Chú] Nếu như phải trừ diệt hết tất cả sự bần cùng của chúng sinh mới có thể viên mãn Bố thí ba la mật, như vậy hiện nay vẫn còn biết bao nhiêu kẻ nghèo đói, chư Phật trong quá khứ làm sao viên mãn được Bố thí ba la mật này?

(10)
Nếu tâm ưa bố thí:
Thân, tài sản, phước đức,
Do đây tròn thí độ;
Bố thí chỉ do tâm!


[Diễn Ý] Tu hành bố thí có thể làm lợi ích, cứu tế chúng sinh đói khát và bệnh khổ, đồng thời làm tăng trưởng công đức của mình.
Kỳ thực, mục đích chính của sự bố thí là đối trị sự keo kiết sinh ra từ ngã chấp, hơn nữa tăng trưởng ý nguyện bố thí. Vì thế chìa khóa chính để viên mãn sự bố thí, không phải là tiêu trừ tất cả sự bần cùng, mà ở chỗ hành giả có hoàn toàn đoạn trừ được tâm bỏn sẻn của mình, và đồng thời có dưỡng thành ý nguyện bố thí hay không? Kinh Vô Tận Ý nói: "Bố thí Ba la mật là gì? Là tâm xả tất cả tài vật và phước báo, bố thí cho kẻ khác". Do đây biết rằng Bố thí ba la mật là hoàn toàn y vào sự chuyển biến của tâm mình. Lý luận trên có thể áp dụng vào Giới ba la mật (Kệ 11), và Nhẫn nhục ba la mật (Kệ 12 đến 14) .

(11)
Phóng sinh cá về đâu
Để chúng không bị hại?
Khi đoạn hết ác tâm,
Gọi là tròn Giới độ.


(12)
Kẻ ác như hư không,
Làm sao giết được hết?
Nếu diệt tâm sân này,
Cũng đồng như giết địch.


(13)
Làm sao đủ da bò
Lót đầy hết mặt đất?
Da cần đủ lót giầy,
Đồng như lót đại địa.


Đây là một câu chuyện trong Kinh: Có một vị vua cảm thấy rằng lãnh thổ của mình nhiều sỏi đá gập ghềnh, bèn ra lệnh quần thần phải tìm da bò lót hết mặt đất ở trong nước, để cho dân chúng đi lại an toàn, mà không bị sỏi đá làm thương tổn. Có một vị đại thần có trí tâu rằng: Mệnh lệnh nhà vua không thể nào thi hành được, bởi vì không thể nào tìm đủ da bò để lót hết mặt đất. Chỉ có cách hay nhất là cắt da bò vừa đủ bọc vào hai chân, thì đi đến đâu cũng giống như là mặt đất chỗ đó được lót da bị vậy. Nhà vua cho là hợp lý, bèn ra lệnh cho nhân dân lấy da bò làm giầy mà mang. Bài kệ này làm ví dụ dẫn khởi bài kệ (14) dưới đây.

(14)
Như vậy không thể nào
Chế phục hết kẻ địch;
Chỉ cần điều phục tâm,
Lo gì chế kẻ khác!


(15)
Sinh một niệm minh định,
Đủ sinh lên Phạm thiên;
Thân, khẩu tuy tu thiện,
Tâm yếu ớt khó thành!


Một niệm minh định: Trạng thái được đạt đến sau khi rời bỏ được sự hơn trầm và tán loạn, làm cho thân tâm đạt đến cảnh giới bình đẳng, an hòa. Tâm yếu ớt: tức là tâm tư tán loạn, ủy mị.

(16)
Tuy tụng niệm nhiều năm,
Lại tu chư khổ hạnh,
Nếu tâm thường tán loạn,
Phật nói tu vô ích!


Khổ hạnh: tức là mười hai hoặc mười ba hạnh đầu đà của các bậc xuất gia, như ngày ăn một bửa, ngồi luôn mà không nằm, mặc y phấn tảo v.v... Mục đích giúp cho các bậc xuất gia trở nên muốn ít biết đủ (thiểu dục tri túc), chuyên tâm tu thiền định.

(17)
Nếu không rõ tâm này,
Là tạng Pháp thâm sâu,
Cầu vui hoặc tránh khổ,
Trôi dạt vô ý nghĩa.


Cầu vui hoặc tránh khổ: Cầu vui có thể hiểu là những kẻ phàm phu tu pháp lành để cầu lên cõi trời hưởng sự vui sướng. Tránh khổ có thể hiểu là các bậc Tiểu thừa, tu tập thiền định cầu chứng Niết Bàn, để mau ra khỏi cõi khổ luân hồi.
[Crosby] Tâm thâm sâu, tức Bồ Đề tâm, không thể nào cảm nhận được bởi những bọn người phàm tục (nghĩa là những kẻ không theo đuổi lý tưởng của sự giải thoát). Tâm chứa đựng tất cả pháp với ý nghĩa là tất cả hiện tượng không thể rời tâm v.v... (Đây là lập trường của phái Duy Thức).
[Behold] Sự thâm sâu bí mật của tâm, sự nhận thức trọng đại nhất của các pháp là chư pháp tự tính không. (Đây là lập trường của phái Trung Quán).

(18)
Nên khéo léo giữ vững,
Phòng hộ đạo tâm này,
Ngồi giới “giữ tâm” này,
Cần gì các giới khác!


[Diễn Ý] Tất cả công đức cùng lỗi lầm, đều do chúng ta có cẩn thận phòng hộ tâm mình hay không mà quyết định. Bởi vậy chúng ta phải cẩn thận giữ gìn tâm niệm của mình. Phải dùng chánh tri cùng chánh niệm thủ hộ tâm mình, làm cho phiền não không sinh, tâm Bồ Đề không thối. Đây mới là cấm giới thù thắng nhất. Hỏi: Nếu vậy, chẳng lẽ tu mười hai hạnh đầu đà đều là vô ý nghĩa hay sao? Đáp: Không đúng. Mười hai hạnh đầu đà có công dụng phụ giúp vào việc đoạn trừ phiền não. Nếu như mười hai hạnh đầu đà không giúp vào việc đoạn trừ phiền não, thì sự nghiêm trì hạnh đầu đà này cùng trở thành vô ý nghĩa.

(19)
Trong đám đông hỗn loạn,
Cẩn thận che vết thương;
Thân giữa lũ người ác,
Phải che vết thương tâm!


(20)
Nếu sợ vết thương đau,
Còn cẩn thận gìn giữ,
Huống sợ ngục Núi Ép,
Mà không giữ tâm này!


Ngục Núi Ép: Căn cứ Vãng Sinh Yếu Tập của ngài Nguyên Tín, ngục Núi Ép cịn gọi là địa ngục Chúng Hợp. Ngục này, ở phía dưới địa ngục Hắc Thằng (Dây Đen), có nhiều núi sắt. Cứ hai quả núi, hai quả núi đứng đối nhau. Bọn đầu trâu mặt ngựa tay cầm binh khí xua đuổi tội nhân chạy vào kẽ giữa của hai quả núi. Lúc đó hai quả núi tự nhiên ép chặt lại, làm thân thể của tội nhân bị ép nát, máu mủ bầy nhầy tung toé trên mặt đất; hoặc núi sắt từ trên khơng rớt xuống trên đầu tội nhân, ép thân thể thành như bùn; hoặc đặt tội nhân lên mặt đá, lấy núi giập xuống, hoặc bỏ tội nhân vào cối sắt, lấy chầy mà giã. Bọn ác quỉ cùng sư tử sắt, cọp sắt, chim ưng sắt v.v..., xúm đến mà ăn v.v...

(21)
Giữ gìn nếu được thế,
Dù trong lũ người ác,
Hay giữa vòng gái đẹp,
Giữ giới, không thối chuyển!


(22)
Chẳng thà mất lợi dưỡng,
Danh dự, hoặc thân mệnh,
Hoặc thà mất phước thiện,
Quyết không hoại tâm này!


(23)
Chắp tay xin khuyến thỉnh,
Người muốn giữ tâm mình,
Tận lực thường gìn giữ:
Chánh niệm và chánh tri!


Chánh niệm: tức là nhận biết, lưu tâm và chú ý đến: (1) hoạt động cuả thân thể, (2) cảm giác, (3) hoạt động của tâm, (4) hoạt động của các pháp như tư tưởng, ý niệm v.v..., tức là bốn pháp thân, thọ, tâm và pháp (Tứ niệm xứ). Chánh tri: [Diễn Ý] Trong phẩm này, kệ 108, ngài Tịch Thiên đã từng định nghĩa chánh tri một cách rõ ràng như sau: "Thường cẩn thận quán sát tình trạng của thân tâm". Có thể thấy rằng chánh tri là một sự thấy rõ (minh giác), hoặc nhận biết những trạng thái vi tế của thân tâm mình một cách rõ ràng. Đây là một loại nhận thức tức khắc hiện tiền, mà không phải, như một số người lầm tưởng là tri kiến chính xác. Tương phản của chánh tri là bất chánh tri, nghĩa là một trạng thái tâm lý không chú ý, hoặc nhận biết hiện tại một cách không rõ ràng.

(24)
Giống như người bị bệnh,
Không có sức làm việc;
Nếu vô minh loạn tâm,
Không sức thành nghiệp lành.


Phụ chú: Nếu tâm bị nhiễu loạn, không trụ trong chánh niệm và chánh tri, thì dù có tu thiện nghiệp cũng khó thành tựu.

(25)
Người tâm không chánh tri,
Tu được văn, tư, tu,
Như nước trong bình nứt,
Khó trụ trong chánh niệm.


Khó trụ trong chánh niệm: Câu này là dịch từ bản chữ Hán, nhưng [Batchelor] và [Crosby] không dùng chữ chánh niệm (mindfulness) mà dùng chữ ký ức (memory), nghĩa là tâm không giữ được những điều đã học đã tu được trong ký ức của mình. Còn [Behold] giải thích là: "Tâm thiếu chánh niệm và chánh tri". Từ những đoạn văn trên, bài kệ này có thể giải thích là: "Người mà tâm không trụ trong chánh niệm và chánh tri, thì những thành quả tu tập được từ văn, tư, tu, sẽ thất thoát đi, như nước đựng trong bình nứt".

(26)
Tín tâm, nhiều học vấn,
Lại thường siêng tu tập,
Chỉ vì khơng chánh tri,
Ơ nhiễm phạm tội đọa!


Bài kệ này nói đến sự trọng yếu của chánh niệm và chánh tri. Kệ tuy chỉ nói chánh tri, kỳ thực đã bao hàm chánh niệm. Như kệ (27) nói: Kẻ tặc bất chánh tri, theo sau thất chánh niệm, nghĩa là nếu không có chánh tri, chắc chắn đã mất chánh niệm. Cho nên hành giả dù đủ tín tâm, lại đa văn quảng học, tinh tiến tu hành, nhưng nếu không giữ chánh niệm, phiền não dễ sinh khởi, rốt cuộc vẫn bị đọa lạc.

(27)
Kẻ tặc "bất chánh tri",
Theo sau "thất chánh niệm",
Trộm phước đức đã tu,
Làm cho đọa ác thú!


Thất chánh niệm: Ở đây, chữ thất có nghĩa là mất; sự mất chánh niệm dẫn theo sau nó sự bất chánh tri (như đã giảng ở trên).
(28)
Bọn giặc phiền não này,
Tìm cơ hội cướp giật,
Không những đoạt thiện tài,
Lấp nẻo về cõi thiện!


Thông thường, thiện tài cĩ nghĩa là những phước báo tích tụ do sự tu thiện, nhưng ở đây phải hiểu là Thất thánh tài (tín, giới, tàm, quí, văn, thí, tuệ). Bởi vì phiền não nếu chỉ cướp đoạt phước đức tích tụ được trong quá khứ, chưa đủ làm cho hành giả đọa lạc, mà phải hủy diệt Thất thánh tài, mới có thể làm cho hành giả đọa tam ác đạo, bởi vậy mới nói: "Lấp nẻo về cõi thiện".

(29)
Chớ nên để chánh niệm
Rời xa cửa tâm hồn,
Nếu rời, sợ đọa lạc,
Liền quay về chánh niệm!


(30)
Nếu thường theo Thượng sư,
Vì sợ đọa, nghe Pháp,
Dễ làm cho hành giả,
An trụ trong chánh niệm.


(31)
Chư Phật, chư Bồ Tát,
Thấy tất cả không ngại,
Những gì mình nói, làm,
Các ngài đều thấy rõ.


(32)
Suy nghĩ như vậy xong,
Kinh sợ, lòng tàm quí,
Duyên đây ắt rất dễ
Ân cần thường niệm Phật.


[Crosby] Theo ngài Trí Tác Tuệ (Prajnakaramati), chúng ta phải nên cảm thấy tàm quí khi nghĩ đến lỗi lầm của mình, kính trọng Phật Pháp và khởi tâm sợ hãi khi nghĩ rằng mình có thể vi phạm lời Phật dạy.
--------------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
(33)
Do an trụ chánh niệm,
Chánh tri sẽ theo đến,
Những gì xưa đã mất,
Nay sẽ quay trở lại.


[Diễn Ý] Nội dung bài kệ này có ý muốn nói: Y chỉ vào chánh niệm sẽ sinh ra chánh tri, và làm cho chánh tri an trụ. Từ phương diện khác, đôi khi nhờ chánh tri quán sát và xem chừng, cũng làm cho chánh niệm an định. Hai bên y nhờ vào nhau mà tồn tại, nếu bên này không còn thì bên kia cũng mất... Như Quảng Luận nói: "Chánh tri, một cách gián tiếp, cũng có thể làm tâm an trụ vào cảnh mà nó đang duyên". Thí như chánh tri biết rõ tâm đang, hoặc là sắp hôn trầm, tán loạn, do đây cảnh tỉnh hành giả không nên tùy thuận vào sự hôn trầm, tán loạn mà an trụ vào cảnh đang duyên. Tóm lại, yếu lĩnh của sự tu hành có khéo léohay không, toàn y vào mình có khéo giữ gìn cái dòng tâm niệm của mình hay không? Trong Đại thừa, tất cả các công đức tu hành được sinh khởi và tăng trưởng, hoàn toàn tùy thuộc vào sự hiểu rõ (chánh tri) này!

(34)
Tâm ý vừa khởi lên,
Nếu biết có lỗi lầm,
Tức thời giữ chánh niệm,
Trấn định như cột trụ!


Hành giả mỗi khi gặp cảnh giới hiện tiền, nên giữ tâm mình như cây cột đứng vững, an nhiên bất động, không để cho trần cảnh nhiễm ô mình.

(35)
Mắt quyết không nên nhìn,
Láo liên không mục đích,
Mà phải nên quyết chí
Nhìn thẳng, hơi hướng xuống.


Ở đây muốn nói đến uy nghi của bậc xuất gia. Bất cứ hành vi cử chỉ nào đều phải cẩn trọng. Không nên dớn dác nhìn đông nhìn tây, không nên bộp chộp, thô tháo v.v...

(36)
Để đôi mắt đỡ mệt,
Cũng nên nhìn chung quanh,
Nếu thấy có người đến,
Hoan hỉ mở lời chào.


[Diễn Ý] Bởi vì không muốn những kẻ không tin Phật Pháp gây tạo ác nghiệp. Trong kinh có nói: "Bồ Tát tiếp dẫn chúng sinh, miệng luôn luôn mở lời làm chúng sinh hoan hỉ".

(37)
Đi đường, xem nguy hiểm,
Nên nhìn khắp bốn phương;
Ngừng lại, nên quày đầu,
Nhìn phía sau xem xét.


(38)
Đã quán sát trước sau,
Đi tới, hoặc quay về;
Như thế, trong mọi thời,
Thận trọng trước khi làm!


[Diễn Ý] Trong tất cả uy nghi, trước tiên nên dùng chánh niệm và chánh tri nhận rõ hành vi và ngôn ngữ của mình, xem chúng có thực sự lợi ích chúng sinh hay không, sau đó tiến hành những công tác lợi ích cho họ.
[Behold] Bồ Tát, tuy ý thức rằng tất cả hành vi của mình rất quan trọng, nhưng cũng không nên quan niệm một cách cực đoan: "Mình là Bồ Tát đang giữ gìn hành vi, việc giao tiếp với chúng sinh không có gì quan trọng". Hành động của chúng ta tuy phải thuần khiết, nhưng chúng ta cũng phải lịch sự và nhã nhặn. Nếu có sự đòi hỏi phải thích ứng với phong tục tập quán địa phương, cũng như thỏa mãn nguyện vọng của quần chúng, chúng ta nên thực hiện nguyện vọng của họ, mà đừng nên nghĩ rằng nó đi ngược với giới luật của mình.

(39)
Muốn thân được an trụ,
Nên giữ vững uy nghi;
Thỉnh thoảng nên quán sát,
Thân trong tư thế nào!


(40)
Tận lực quán sát kỹ,
Cái tâm buông lung này,
Đã cột vào chánh niệm,
Có còn đó hay không?


[Behold] Kệ (39) nói về thân nghiệp, kệ (40) nói về ý nghiệp. Bồ Tát không những giữ thân nghiệp đoan chính, ý nghiệp cũng phải thuần khiết, không để cho ngoại trần ô nhiễm. Vì thế phải thường nên suy tư về công đức của Chánh Pháp.

(41)
Người tinh tiến tu định,
Sát na chớ buông lỏng,
Niệm niệm thường quán sát,
Tâm đang đi về đâu?


[Diễn Ý] Lúc quán sát hoạt động của tâm, nếu phát hiện tâm đang an trụ trong cảnh sở duyên lành, nên làm cho tăng trưởng; nếu cảnh sở duyên là vô ký, nên kéo tâm về an trụ trong cảnh lành; nếu sở duyên cảnh là ác, phải tức khắc tiêu diệt tâm niệm đó. Tóm lại, phải khéo điều động tâm mình như vậy.
Phụ chú: Ở đây, cảnh sở duyên là cảnh giới mà tâm đang duyên đến, chứ không phải bắt buộc phải là thực cảnh.

(42)
Gặp hoạn nạn, vui mừng,
Nên trấn định tâm mình;
Kinh nói lúc bố thí,
Có thể bỏ giới nhỏ.


[Diễn Ý] Giả sử mình muốn bố thí vô úy (sự không sợ) cho một kẻ sắp bị giết đang trốn chạy. Tuy mình biết rõ chỗ ẩn nấp của nạn nhân, nhưng nếu kẻ tìm giết đến hỏi, vì để bảo vệ sinh mệnh nạn nhân, mình vẫn có thể nói dối là không biết.

(43)
Nghĩ xong quyết thực hành,
Không nên nghĩ việc khác,
Tâm ý nên chuyên nhất,
Trước nên xong việc này!


[Diễn Ý] Một khi đã xác định xong thứ tự của sự tu học, cần phải tuân theo thứ tự mà tiến tu. Không nên "nhảy lớp" hoặc pha trộn nhiều pháp môn một lúc.

(44)
Như thế, việc đều thành,
Nếu không, việc khó thành;
Phiền não, bất chánh tri,
Nhân đây không tăng trưởng.


[Diễn Ý] Hai câu cuối của bài kệ này có thể giải thích như sau: Nếu như công việc trước chưa hoàn tất, lại tiến hành công việc sau. Chẳng những hai việc trước sau đều không thành, mà còn do vì tâm ý bất định, phiền não cùng bất chánh tri liền thừa cơ hội sinh khởi, lực lượng càng lúc càng lớn.
[Behold] Nếu chúng ta khéo kiểm soát được động cơ của mình, quyết định công tác phải làm, sau đó thực hiện cho đến khi hoàn tất. Như thế chúng ta sẽ duy trì được chánh tri ở mức cao độ. Do sự chánh tri này, mà ngăn chận được những phiền não khác xâm nhập vào tâm mình. Nếu thế, chúng ta có thể chuyển biến những công tác hằng ngày thành sự tu tập của mình.

(45)
Lẻo mép vô ý nghĩa,
Những cuộc chơi phóng dật,
Nếu gặp cảnh như vậy,
Quyết chí không tham luyến!


[Diễn Ý] Trừ bài kệ (42), trong những tình trạng đặc biệt được khai duyên ra, trong trường hợp thông thường, như bài kệ này đề cập đến những hành động vô vị (như mách lẻo), hoặc làm tâm thái tán loạn (như đi xem những màn hát vui hay những sự việc dễ làm cho tâm bị kích thích), đều bị cấm chỉ. Nếu hành giả ngẫu nhiên hiện diện trong những hoàn cảnh như vậy, phải cẩn thận phòng hộ tâm mình, đừng để đánh mất chánh niệm.
------------------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
(46)
Không duyên cớ: đào đất,
Nhổ cỏ, chặt cây cối,
Hoặc trên đất vẽ hình,
Nên nhớ lời Phật dạy,
Sợ tội, chớ nên làm!


[Diễn Ý] Hỏi: Tại sao trong phần giá tội chỉ đề cập đến một vài điều như đào đất, nhổ cỏ chẳng hạn (mà không đề cập đến những tội khác)? Đáp: Nhân vì trong giới luật có nói: Những tội như trộm cắp, sát sinh v.v..., cư sĩ cùng chúng tăng đều phải học, còn những tội như đào đất, nhổ cỏ v.v..., chỉ là học xứ của Tỳ Kheo, mà không phải là học xứ của cư sĩ tại gia. Tuy vật, kẻ tại gia cũng nên học tập một số điều luật của các bậc xuất gia.

(47)
Nếu thân muốn di động,
Hoặc miệng muốn mở lời,
Trước nên quán tâm mình,
An nhiên làm đúng lý.



[Diễn Ý] Bảy bài kệ sau (47-53), ý chỉ chủ yếu là: Không luận tiến hành bất cứ sự việc nào, đều phải quán sát động cơ của việc làm đó. Y vào năng lực đối trị phiền não của chánh niệm và chánh tri, mà hành giả có thể ngăn chận cùng đoạn trừ những hành vi có thể đem đến phiền não cho chính mình.

(48)
Nếu tâm đang sinh tham,
Hoặc đang muốn sân hận,
Nên tạm ngừng hành động,
Trấn định như cột trụ!


(49)
Lúc tâm trong trạng thái:
Tán loạn, hoặc khinh người,
Ngạo mạn và khoe khoang,
Hoặc muốn bươi lỗi người,
Giả vờ hoặc lừa dối,


(50)
Hoặc mong người khen ngợi,
Hoặc muốn hủy nhục người,
Lời thô, hoặc đâm thọc,
Nên giữ vững tâm mình,
Trấn định như cột trụ!


(51)
Hoặc tham danh, lợi, kính,
Hoặc muốn sai khiến người,
Hoặc muốn người hầu hạ,
Trấn định như cột trụ!


(52)
Khi mở miệng muốn nói,
Vì mưu lợi cho mình,
Hoặc mong người mất lợi,
Trấn định như cột trụ!


(53)
Bôn chôn, lười, khiếp sợ,
Vô sỉ, lời vô nghĩa,
Hoặc có ý thiên vị,
Trấn định như cột trụ!


Bôn chôn: tức là thiếu nhẫn nại (impatient) trong công việc. Vô sỉ: Vô liêm sỉ, không biết trơ trẽn (shameless), mặt dầy.

(54)
Nên quán tâm nhiễm ô,
Ham làm việc vô nghĩa,
Biết rồi liền đối trị,
Kiên quyết giữ chánh niệm!


[Diễn Ý] Từ kệ (48) "Nếu tâm đang sinh tham" đến kệ (53) "Hoặc có ý thiên vị", tất cả những tâm lý nhiễm ô, cùng những tâm lý ưa thích những hành vi vô nghĩa như đào đất, nhổ cỏ, chặt cây chẳng hạn, tất cả phải được quán sát một cách tỉ mỉ. Mỗi lúc phát hiện tâm lý này hiện khởi, kẻ dũng sĩ muốn khắc phục phiền não, phải học tập đối trị bằng cách dùng chánh tri và chánh niệm, hoặc dùng những phương pháp đặc thù khác như quán bất tịnh, quán từ bi chẳng hạn. Tùy bệnh mà cho thuốc. Phải thường giữ gìn tâm mình, dùng đây làm phương tiện ngăn chận cùng diệt trừ tất cả ác nghiệp cùng tập khí của mình.

(55)
Tin sâu, lòng kiên quyết,
Ổn định, kính, nhã nhặn,
Hổ thẹn, sợ nhân quả,
Tịch tĩnh, thường đem vui.


[Diễn Ý] (1) Đối với tất cả học xứ, nên phải trừ diệt sự hiểu lầm cùng hoài nghi, hơn nữa phải hoàn toàn khẳng định sở học của mình. Đối Tam Bảo phải khởi lòng tin tưởng sâu đậm và vui vẻ học tập. (2) Đối với học xứ cao thâm, cùng những sự nghiệp lợi sinh, phải kiên định ý chí, không sợ hãi, rụt rè. (3) Đối với Tam Bảo và học xứ sinh khởi lòng yêu thích. Đối với tất cả người trên kẻ dưới, hoặc già hoặc trẻ, phải khởi lòng kính trọng, khiêm cung.

(56)
Đối kẻ ngu, ấu trĩ,
Tâm chớ nên oán ghét,
Biết họ nhiều vô minh,
Nghĩ vậy sinh lòng từ!


(57)
Vì mình và hữu tình,
Làm lợi không phạm tội,
Thường quán pháp hữu vi,
Tất cả đều như huyễn.


[Diễn Ý] Vì muốn thực hiện lợi ích cho chúng sinh, Bồ Tát ngoài việc tu những pháp lành, hộ trì giới luật, như bố thí v.v..., còn phải thường thường dùng trí tuệ hiểu rõ Tính Không, cảnh tỉnh mình như sau: "Tất cả những việc đã làm, bất quá cũng chỉ là những sự huyễn hoá, do kẻ huyễn hoá làm ra mà thôi". Dùng đây để đối trị lòng ngã mạn sinh ra bởi sự chấp trước vào sự tu hành của mình. Bồ Tát dùng phương tiện như vậy để thủ hộ tự tâm.

(58)
Nên suy nghĩ đắn đo,
Thân người rất khó được;
Vậy nên giữ tâm này,
Không động như Tu Di!


(59)
Tâm! Nếu tham thân này,
Sao mi lại không màng,
Lúc chết bị diều hâu,
Tranh giành và cắn xé?


[Behold] Nếu chúng ta không giảm thiểu sự tham trước đối với thân thể của mình, chúng ta khó lòng giữ tròn được giới hạnh thanh tịnh. Vì sao? Vì muốn bảo hộ thân này mà chúng ta đã tổn hại kẻ khác cùng gây tạo biết bao nhiêu điều ác. Bởi vậy chúng ta phải tự hỏi lòng mình: Tại sao mình lại tham trước thân này như vậy? Tại sao mình lại bảo hộ nó và nghĩ nó là của mình? Khi cái chết phân ly chúng ta ra khỏi thân thể này, chúng ta sẽ ra đi một mình không bạn bè thân thích. Lúc đó ai bảo hộ thân này? Nếu chúng ta không bảo hộ nó lúc đó, tại sao bây giờ lại bảo hộ nó một cách quá đáng như vậy? Người trí tuệ nên suy ngẫm kỹ, nên suy ngẫm kỹ!

(60)
Mi đối tấm thân này,
Sao chấp mê như vậy!
Nó và mi khác biệt,
Mi cần chi thân này?


[Diễn Ý] Từ vô thỉ đến nay, cho đến giây phút mà thần thức của thân trung ấm hòa hợp cùng tinh cha huyết mẹ để thành tấm thân này, không những hai bên (thân trung ấm và tinh cha huyết mẹ) khác nhau không chút tương quan, hơn nữa tính chất lại hoàn toàn khác biệt. Nếu sự thực đã như vậy, nay bạn sao vẫn còn cần tấm thân thô kệch này làm gì? Trước sau gì cũng có một ngày bạn và nó sẽ biệt ly, vĩnh viễn không bao giờ gặp lại. Bởi thế hiện nay bạn nhận nó là của bạn, vì nó mà bạn phải chịu sự oằn oại khổ đau như thế, há chẳng phải là một sự cực kỳ vô lý hay sao?

(61)
Đồ ngu, sao không nhận,
Thân cây sạch làm thân?
Khổ chi mà giữ gìn,
Bọc đồ dơ hôi thối!


(62)
Trước nên dùng ý quán,
Bóc da rời khỏi thịt,
Kế dùng kiếm trí tuệ,
Cắt thịt rời khỏi xương.


[Behold] Sự bảo hộ hay chăm sóc đối với thân thể một cách quá đáng, mà Tịch Thiên đề cập đến, là do sự tham trước của chúng sinh. Muốn đối trị sự tham nhiễm này, chúng ta phải phân tích thân thể này một cách tường tận, để tìm xem phía trong có gì là sạch sẽ quí báu, đáng để chúng ta quá phần tham luyến hay không?

(63)
Lại chẻ những lóng xương,
Nhìn kỹ cho đến tủy;
Phải suy ngẫm như vầy:
Chỗ nào là tinh diệu?


Tinh diệu, ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa: (1) Sự tinh diệu, nghĩa là những gì mà chúng ta cho là thanh tịnh, quí báu. (2) Linh hồn, nghĩa là cái mà chúng sinh chấp là ngã. Sự quán sát này có hai công năng: (1) Trừ vọng tưởng về sự thơm sạch của thân thể này (chấp dơ là sạch). (2) Trừ diệt sự chấp ngã (hoặc chấp thân này là ngã, hoặc chấp trong thân có ngã).

(64)
Gắng sức tìm như vậy,
Vẫn không thấy tinh diệu,
Tại sao còn tham luyến,
Yêu giữ thân dơ này?


(65)
Chất bẩn không thể ăn,
Máu tanh không thể uống,
Lòng ruột không nút được,
Còn cần chi thân này?


(66)
Hoặc là tham thân này,
Để cho sói, diều ăn?


Hai câu này, có người giải thích là: “Vì tự thân chúng ta không thể hưởng dụng thân này, vì vậy nuôi dưỡng nó để dành cho chồn sói ăn.” Sự thực, việc này không phải vô lý, nhưng giải thích như vậy có vẻ ngây ngô. Thực sự hai câu này, ngài Tịch Thiên có ý mỉa mai lũ phàm phu ngu si tham mê thân thể mình một cách thái quá. Kế đó ngài mới cảnh tỉnh họ một cách nhẹ nhàng: Lo lắng cùng săn sóc thân thể này không phải là không có lý, với một điều kiện là:

Kỳ thực, giữ thân này,
Chỉ vì muốn tu thiện!


(67)
Dù có tham tiếc thân,
Tử thần không vị tình,
Đoạt xong, cho sói, diều,
Lúc đó sẽ làm sao?


(68)
Đầy tớ không làm việc,
Chủ nhân không trả tiền;
Dù nuôi, thân vẫn chết,
Nhọc nhằn để làm chi?


[Behold] Nếu thân này không làm lợi ích cho chúng ta, thì sự nuôi nấng và chăm sóc này, cũng giống như nuôi một tên đầy tớ lười biếng, không chịu làm việc. Nếu chúng ta coi thân này như một tên đầy tớ, thay vì coi nó như ông chủ mình, thì lúc đó chúng ta sẽ có một thái độ thích đáng và thực tế hơn trong việc nuôi nấng và chăm sóc nó.

(69)
Đã trả lương cho nó,
Bắt nó làm lợi mình;
Nếu thân này vô ích,
Quyết không cho gì cả!


Bắt nó làm lợi mình: Đại thừa Trang Nghiêm Kinh Luận nói: "Lợi người tức là lợi mình, nghĩa là Bồ Tát mưu cầu lợi ích cho chúng sinh tức là làm lợi mình. Trừ việc này ra, chẳng có việc tự lợi nào khác đáng nói cả". Quyết không cho gì cả: Nếu chúng ta phát hiện thân này không giúp ích gì cho mình trong việc tu tập hạnh lợi mình lợi người, lúc đó chúng ta nên có thái độ nghiêm khắc và tự trách.

(70)
Coi thân như thuyền đò,
Làm phương tiện tới lui,
Để làm lợi hữu tình,
Tu thành thân Như ý.


[Behold] Nếu muốn vượt qua biển sinh tử và đạt đến bờ bên kia, điều quan trọng là phải giữ gìn tấm thân quí báu này, cho đến lúc chúng ta đạt đến mục đích và thành tựu được viên ngọc Như ý, tức là Phật thân.

(71)
Làm chủ thân tâm mình,
Dung nhan thường vui vẻ,
Không nhăn nhó, hầm hừ,
Làm bạn lành chúng sinh!


(72)
Dời đồ đừng sơ suất,
Gây tiếng động ồn ào,
Mở cửa đừng thô bạo,
Nhã nhặn làm người vui.


(73)
Như hạc, mèo, kẻ trộm,
Vì muốn được thành công,
Nhẹ nhàng không tiếng động;
Bồ Tát muốn lợi người,
Cũng nên làm như thế.


[Diễn Ý] Bài kệ này chỉ là một thí dụ điển hình về việc dùng thái độ hòa hoãn để đạt thành mục tiêu của mình. Ba bài kệ (71) ~ (73) này muốn nói: Trong tất cả hành động, Bồ Tát phải học tập thái độ làm cho tất cả chúng sinh khi nhìn thấy mình đều khởi tâm hoan hỉ và hâm mộ.

(74)
Nên khéo khuyên nhắc người;
Đối với lời hay, đẹp,
Nên cung kính tuân hành,
Làm học trò chúng sanh.


(75)
Khi nghe lời cao nhã,
Nên khen là "khéo nói";
Thấy người làm điều lành,
Tâm vui mừng ca ngợi.


(76)
Thường khen công đức người,
Nhưng khi người khen mình,
Nên tự quán đức hạnh,
Xem thực, hay không thực.


Thường khen công đức người: Nếu mình nghe có người tán thán công đức của kẻ khác, nên hoan hỉ phụ họa, lại còn tán thán công đức của họ hơn thế nữa.

(77)
Mọi việc làm của người
Là niềm vui khó mua,
Khi thấy công đức người,
Nên sinh lòng tùy hỉ.


(78)
Làm thế, nay không tổn,
Đời sau được nhiều vui;
Nếu ganh ghét sẽ khổ,
Đời sau càng khổ hơn!


Không tổn: Không tổn phước đức cùng hạnh Bồ Tát của mình. Đời sau càng khổ hơn: Vì tật đố, hủy báng, ắt sẽ đọa tam ác đạo thọ khổ.

(79)
Nói ra nên hợp ý,
Nghĩa rõ, lời thích nghi,
Lòng vui, không tham giận,
Nhã nhặn, tâm từ bi.


(80)
Mỗi khi thấy hữu tình,
Mắt vui, lòng rộn rã,
Vì họ mình mới được,
Thành Phật đường không xa.


[Batchelor] Khi nhìn thấy hữu tình, nên nhìn họ với tấm lòng cởi mở, tràn đầy tình thương, nghĩ rằng: Nhờ kẻ này mà mình sẽ được thành Phật.
----------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38

(81)
Nhiệt thành thường tu thiện,
Siêng đối trị phiền não,
Thí bi, ân, phước điền,
Thành tựu đại phước thiện.

Đối với hành giả học hạnh bố thí, có ba loại ruộng phước thù thắng: (1) Bi điền: tức là những kẻ bần cùng, khổ sở, cô độc, bị áp bức v.v..., (2) Ân điền: tức là cha mẹ, sư trưởng, thiện tri thức v.v..., (3) Phước điền: tức là Tam Bảo.

(82)
Đủ trí tuệ, tín tâm,
Nên thường siêng tu tập;
Những điều thiện nên làm,
Chớ ỷ vào người khác!

[Behold] Muốn sự tu tập Chánh Pháp trở nên kiên cố và có cơ sở vững chải, chúng ta cần phải thấu rõ điều mình đã học, và có tín tâm vững chắc đối với pháp môn của mình. Ngài Tịch Thiên chỉ rõ là muốn tu tập đúng phương pháp, trước tiên phải nghiên cứu giáo lý, sau đó nắm vững phương pháp tu tập. Nếu được như vậy, chúng ta có thể tự mình thực hành mà không cần nhờ vả vào kẻ khác.

(83) Tuần tự mà tu tập,
Lục độ như bố thí, ...;
Đừng chấp nhỏ bỏ lớn,
Việc lớn nghĩ lợi người.

Đừng chấp nhỏ bỏ lớn: Ở đây việc nhỏ (thấp) chỉ những Độ (Ba la mật) bậc thấp, còn việc lớn (cao) chỉ những Độ (Ba la mật) bậc cao (thí như bố thí là thấp so với trì giới, trì giới là thấp so với nhẫn nhục chẳng hạn). Các bản dịch trên ý muốn nói là trong trường hợp thông thường, trì giới cao hơn bố thí, nhẫn nhục cao hơn trì giới v.v... Thế nhưng vì muốn thực hiện một sự bố thí to lớn, trong trường hợp đó có thể bỏ những giới nhỏ. Điều này có thể áp dụng cho các Độ (Ba la mật) khác. Như trên đã bàn qua, hành giả trên đường hành Bồ Tát hạnh, trong công việc lợi sinh phải cân nhắc kỹ lưỡng hành động của mình. Tùy thời tùy chốn mà uyển chuyển hành động, không quá chấp nê, nhưng cũng không được tùy tiện loạn động.

(84)
Đã hiểu rõ đạo lý,
Nên siêng làm lợi người;
Với bậc Đại Bồ Tát,
Phật cho khai tiểu giới.

(85)
Khi ăn, thí ngạ quỉ,
Kẻ khổ, bạn đồng tu,
Phần mình chỉ vừa đủ,
Chỉ cần giữ ba y,
Ngoài ra đều xả hết.

Kệ (85) cùng kệ (88) đến kệ (98) là một số luật nghi trích ra từ giới luật của bậc xuất gia. Tuy vậy, các vị Bồ Tát tại gia cũng có thể theo đây mà tu học, tăng trưởng uy nghi, phước đức cho chính mình.
Khi ăn ... vừa đủ: Theo giới luật, bậc xuất gia trước khi thọ trai, phải đem phần ăn của mình chia làm bốn phần: (1) bố thí cho ngạ quỉ và súc sinh, (2) bố thí cho những kẻ ăn mày nghèo khổ, (3) bố thí cho các vị đồng tu, (4) còn lại một phần mình tự hưởng dụng. Chỉ cần ... xả hết: Những bậc xuất gia thiểu dục tri túc quyết không tích trữ tài vật nào khác. Ngoài ba y (tiểu y, trung y, đại y) và bình bát, những vật khác đều đem bố thí cho kẻ khác. Tuy nói như vậy, đây chỉ là nói đến những bậc căn cơ tương đối cao. Đối với những bậc căn cơ thấp, Phật cũng cho phép tích trữ một số vật dụng vừa đủ cho nhu cầu sinh hoạt của họ.

(86)
Chớ vì việc thiện nhỏ,
Mà hủy hoại thân này!
Vì chúng sinh tu hành,
Sẽ chóng được viên mãn.

[Behold] Chúng ta vì cần thân này để tu tập Chánh Pháp, bởi vậy không nên vì một chút ích lợi nhỏ nhặt mà tùy tiện hủy hoại nó.
Phụ chú: Ích lợi nhỏ đây, hoặc là cầu hư danh, hoặc là cầu phước báo nhân thiên chẳng hạn.

(87)
Bi nguyện chưa thanh tịnh,
Chưa nên thí thân này,
Đời này hoặc đời sau,
Vì lợi lớn mới xả!

Bi nguyện chưa thanh tịnh: Đây muốn nói đến những phàm phu học Bồ Tát hạnh, nhưng chưa hoàn toàn phá bỏ được ngã chấp.
[Diễn Ý] Đối phàm phu, ngay đến ba y còn không nên xả, huống gì xả thân mệnh. (Vì sao? Vì sợ xả xong lại sinh tâm hối tiếc, thậm chí thoái thất đạo tâm). Ngài Uy Nguyệt giải thích như sau: "Nếu như hành giả chưa đủ tâm từ bi, chưa thể quán sát thân tâm bình đẳng, chớ nên bố thí thân mệnh mình. Đợi đến khi đạt đến cảnh giới đối tất cả chúng sinh, không luận thân thù, đều một mực bình đẳng, lúc đó xả thân cũng không muộn. Vì sao? Vì không còn tâm hối tiếc, không còn sợ thoái đọa nữa".

(88)
Đối với kẻ bất kính:
Không bịnh mà trùm đầu,
Cổ quàng khăn, cầm lọng,
Cầm đao, binh khí, gậy,
Chớ thuyết pháp cho họ.

Đối với bậc Bồ Tát xuất gia, nếu có người cầu pháp mà thái độ không cung kính, không nên vì họ thuyết pháp. Điều giới này trong giới luật Thanh văn (Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni), và giới luật Bồ Tát đều có đề cập đến. Không phải người thuyết pháp bỏn sẻn, mà chính vì kẻ cầu pháp có thái độ vô lễ. Giả sử có nói pháp, cũng chỉ như nước đổ lá môn, hoàn toàn vô ích, không những thế, nhiều khi lại tăng thêm phiền não cho cả hai bên.

(89)
Người nữ đến một mình,
Cũng không nên thuyết pháp;
Đối người thiếu trí tuệ,
Chớ nói pháp thâm sâu;
Đối với Đại, Tiểu thừa,
Đồng kính mà tu học

Người nữ ... thuyết pháp: Nếu có người nữ một mình đến tìm Tỳ Kheo (hoặc người nam một mình đến tìm Tỳ Kheo ni) cầu pháp, nên cự tuyệt. Trừ phi người nữ có người nam tại gia (và ngược lại) tháp tùng. Mục đích của điều giới này là ngăn ngừa sự gièm pha của người đời đối với các bậc xuất gia. Đối với pháp ...tu học: Căn cứ Phạm Võng Bồ Tát Giới, nếu hành giả Đại thừa bỏ Đại thừa học Tiểu thừa sẽ phạm tội khinh cấu (tức là tội nhẹ). Nhưng nếu căn cứ Du Già Bồ Tát Giới, hành giả Đại thừa nếu bỏ không học Tiểu thừa cũng sẽ phạm tội khinh cấu. Bồ Tát vì muốn quảng độ chúng sinh, phải nên học rộng nghe nhiều, thậm chí đến kinh sách ngoại đạo còn phải nghiên cứu, huống chi giáo lý Đại thừa, Tiểu thừa là lời dạy của chính đức Thế Tôn.

(90)
Với người căn cơ cao,
Chớ nói pháp nông cạn;
Đừng nên bỏ giới luật,
Bùa chú lừa chúng sinh.

Đây là vấn đề mà giới luật gọi là tà mệnh tự hoạt, nghĩa là dùng phương tiện tà vạy, mưu cầu lợi dưỡng, làm phương tiện sinh nhai. Điều này đi ngược với chánh mệnh trong Bát Chánh Đạo. Người học Phật, không luận Đại, Tiểu thừa, mục đích chính là tìm cầu sự giải thoát hiện tại, hầu mong trong vị lai làm mô phạm cùng phước điền cho trời người, đúng lý phải đem niềm tin đối với Tam Bảo đến cho chúng sinh. Nay mình chỉ vì chút lợi nhỏ lại lừa dối chúng sinh, đi ngược với nguyện vọng của họ. Thử hỏi, đối với Phật Pháp và chúng sinh còn tai hại nào bằng. Bởi vậy trong giới luật của Đại, Tiểu thừa đều nghiêm cấm điều này.

(91)
Xỉa răng, hoặc khạc nhổ,
Nên đi tìm chỗ khuất;
Không nên đại, tiểu tiện,
Nơi đất sạch, nước trong.

(92)
Ăn chớ ngậm đầy miệng,
Lớn tiếng, miệng há to,
Lúc ngồi đừng duỗi chân,
Xoa tay dáng bối rối.

(93)
Xe, giường, chỗ vắng vẻ,
Chớ nên hẹn vợ người;
Việc gì thiên hạ nghi,
Chớ để người đàm tiếu.

(94)
Khi bày tỏ ý mình,
Đừng dùng một ngón tay,
Đối người phải lễ phép,
Nên đưa bàn tay phải.

Mỗi khi muốn bày tõ ý kiến của mình (ngay đến việc sai bảo người khác) không nên dùng một ngón tay chỉ trỏ, mà phải nên đưa cả bàn tay phải ra hiệu cho họ biết.

(95)
Tỏ ý chớ vung tay,
Cử động nên từ từ,
Khảy ngón tay nhẹ tiếng,
Cẩn thận giữ uy nghi.

Hành giả muốn kêu gọi sự chú ý của người khác, không nên múa tay vung vít, hoặc lớn tiêng kêu la, mà nên nhẹ khảy ngón tay, âm thanh vừa đủ nghe, cử động khoan thai, không được vụt chạc. Chú ý đến uy nghi của mình.

( 96)
Ngủ, chọn hướng thích nghi,
Nằm như Phật Niết Bàn,
Chánh niệm và quyết chí,
Tỉnh giấc nên dậy liền.

Ngủ chọn ... Niết Bàn: Khi ngủ phải chọn hướng nằm thích nghi, nghĩa là nằm như đức Phật khi ngài nhập Niết Bàn (quay về phía tay phải v.v...).

(97)
Học xứ của Bồ Tát,
Kinh nói nhiều vô tận,
Nhưng phải tận lực mình,
Tu trì hạnh tịnh tâm!

Tu trì hạnh tịnh tâm: Trước tiên, bảo trì chánh niệm cùng chánh tri, kế đó nghiêm trì giới luật, đồng thời tu quán Không Tánh, làm cho tâm càng lúc càng thanh tịnh.

(98)
Mỗi ngày đêm sáu thời,
Đọc tụng kinh Tam Tụ,
Nương Phật, tâm Bồ Đề,
Sám hối trừ chúng tội.

[Crosby] Kinh Tam Tụ, có lẽ nói đến Tam Tụ Pháp Kinh, là một bộ kinh Đại thừa ngắn, còn được bảo tồn bản tiếng Phạn và tiếng Tạng. Nội dung bao gồm sám hối ba mươi lăm (35) vị Phật, và kết thúc bằng phần tùy hỉ công đức cùng hồi hướng.
[Behold] Sau khi thọ Bồ Tát giới, phải cố gắng không vi phạm giới luật. Như trên đã bàn qua, phạm Bồ Tát giới quả báo rất nặng. Tuy vậy, nếu hành giả hoàn toàn không che dấu, và đem tâm chí thành khẩn thiết cầu sám hối, có thể sám hối thanh tịnh những điều mình đã phạm.
[Phụ Chú] Theo các nhà chú giải Tây Tạng, nếu phạm trọng giới, hành giả có thể dùng Tứ Lực sám hối tội chướng của mình. Diễn Ý dẫn kinh Tứ Pháp như sau: "Phật nói: Này Từ Thị, nếu Bồ Tát Ma ha tát thành tựu bốn pháp, sẽ diệt được những tội chướng chồng chất trong quá khứ. Bốn pháp đó là gì? Tức là hối quá hạnh, đối trị hạnh, chế chỉ hạnh và y chỉ hạnh. Lại nữa (1) Hối quá hạnh: tức là sám hối cải đổi những nghiệp ác đã tạo, (2) Đối trị hạnh: tức là đã lỡ tạo ác nghiệp xong, cực lực tu thiện nghiệp, cùng làm những việc lợi ích khác, (3) Chế chỉ lực: nghĩa là do đọc tụng cấm giới mà thành tựu sự không hủy phạm, (4) Y chỉ lực: nghĩa là qui y Phật, Pháp, Tăng bảo, cùng không buông bỏ tâm Bồ Đề. Do y chỉ vào Tam Bảo lực cùng Bồ Đề tâm lực, quyết định tiêu diệt hết tội chướng". Còn nếu phạm tội nhẹ, có thể sám hối bằng cách mỗi ngày ba thời tụng kinh Tam Tụ. Nương vào uy lực của Phật và tâm Bồ Đề, những tội chướng này sẽ được tiêu diệt.

(99)
Vì mình, hay vì người,
Tùy thời, tùy hành môn,
Tất cả các học xứ,
Đều phải siêng tu học.

[Behold] Trong bất cứ lúc nào, mỗi khi vận dụng thân, khẩu, ý, đều phải tuân hành, học tập, mà không được vi phạm những lời giáo huấn của Như Lai.

(100)
Không một pháp môn nào
Mà Phật tử không học,
Nếu khéo học như vậy,
Không phước nào không đến!

Không một ... không học: Sau khi triệt ngộ tính chân thực của các pháp, Bồ Tát vì muốn thực hiện sự lợi lạc cho tất cả chúng sinh nên tinh tiến tu học. Không có một pháp môn nào mà Bồ Tát bỏ qua không học. Nếu không, không cách nào độ thoát tất cả chúng sinh.
Không phước nào không đến: Nếu khéo học như vậy, Phật quả còn có thể thành đạt, huống gì phước báo hữu lậu trời người, hoặc phước đức vô lậu của Nhị Thừa.

(101)
Trực tiếp, hay gián tiếp,
Việc làm đều lợi người,
Vì muốn lợi hữu tình,
Hồi hướng Đại Bồ Đề.

[Behold] Bất cứ công đức nào mà chúng ta góp nhặt được, dù chỉ là đốt một nén hương, đều nên hồi hướng đến sự giác ngộ của chúng sinh.

(102)
Dù chết cũng không rời
Thiện tri thức tôn quí,
Bậc am hiểu Đại thừa,
Cùng giới hạnh thanh tịnh.

(103) Nên kính trọng thầy học,
Giống như Cát Tường Sinh;
Còn những học xứ khác,
Xem kinh ắt sẽ biết.

Cát Tường Sinh (Phạn ngữ Srishambhava): Kinh Hoa Nghiêm gọi là Đức Sinh đồng tử, là vị thiện tri thức thứ năm mươi mốt mà Thiện Tài đồng tử đến tham học.

(104)
Trong kinh, nhiều học xứ,
Phải tìm đọc kinh tạng,
Trước hết nên tìm đọc:
Kinh Thánh Hư Không Tạng.

[Crosby] Kinh Hư Không Tạng là một phẩm trong bộ Đại Tập Kinh, trong đó miêu tả tám điều vi phạm căn bản của Bồ Tát: (1) giảng pháp thâm sâu cho những kẻ căn cơ thấp, làm cho họ thoái thất tâm Đại thừa, (2) giảng pháp Tiểu thừa cho những kẻ căn cơ cao (Đại thừa), (3) giảng pháp cao thâm, nhưng lại coi thường giới luật, (4) khuyến người khác đừng học pháp môn thấp, (5) chê người khen mình, bao gồm sự khoe khoang mình có thần thông, (6) khoa trương học vấn (Đại thừa), và cho rằng do sự chứng đắc mà có được, (7) đi lại với nhà quyền quí mưu cầu tài lợi, (8) do ngoại cảnh ảnh hưởng làm thoái thất đạo tâm, lại còn tán thán kẻ phạm giới.

(105)
Cũng nên siêng tìm đọc:
Học Xứ Chúng Tập Yếu,
Quyển này chỉ rõ ràng,
Điều Phật tử cần tu.

Học Xứ Chúng Tập Yếu (Phạn ngữ: Shiksa Shamuccaya): Đây là một quyển toát yếu, trích lục từ những bộ kinh Đại thừa, do chính ngài Tịch Thiên soạn. Viết bằng văn xuôi. Nội dung phong phú. Hiện còn tồn tại bản tiếng Phạn.

(106) Hoặc đọc quyển tóm lược:
Nhất thiết Kinh Tập Yếu;
Đồng thời đọc Long Thọ,
Hai quyển tên giống đây.

Nhất Thiết Kinh Tập Yếu: Căn cứ Hán truyền Phật giáo, bộ này cũng là một bộ toát yếu, trích lục từ các kinh điển Đại thừa, và cũng do chính ngài Tịch Thiên soạn. Nhưng vẫn còn một số học giả Tây phương chưa công nhận điều này.
[Crosby] Một cách khác, bạn nên xem sơ qua quyển trên (Học Xứ Chúng Tập Yếu), và nên xem kỹ quyển Nhất Thiết Kinh Tập Yếu soạn bởi ngài Long Thọ.

(107)
Chỗ kinh luật không cấm,
Tất cả đều tu học;
Vì hộ trì chúng sinh,
Học xong nên thực hành!

[Diễn Ý] Bồ Đề Chánh Đạo Bồ Tát Giới Luận nói: "Phàm những điều mà chư Phật cấm đoán, hoặc chưa thể lập tức thực hành, không nên tu học. Vì thế kẻ phát tâm tu học Đại thừa không nên tu học hai loại học xứ này. Trừ hai học xứ này ra, tất cả học xứ khác đều phải tu học".
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
(108)
Xin được tóm lược lại:
Muốn phòng hộ chánh tri,
Thường cẩn thận quán sát,
Tình trạng của thân tâm!


[Crosby] Tóm lại, đây là định nghĩa của chánh tri: "Thường thường quán sát tình trạng của thân tâm".

(109)
Pháp, phải cung kính hành,
Chỉ nói không ích gì!
Nếu chỉ đọc sách thuốc,
Bênh tật làm sao lành?

-----------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Phẩm sáu:

An nhẫn

(1)
Một niệm sân hủy diệt:
Ngàn kiếp từng tích tụ,
Bố thí, cúng dường Phật,
Tất cả chư phước thiện!


Tất cả chư phước thiện: Nếu chúng ta đã đem công đức từng tích tụ được, hồi hướng đến sự giác ngộ và đến sự lợi ích cho tất cả chúng sinh. Công đức này được bảo toàn, và không bị hủy diệt bởi sự sân hận.

(2)
Ác không gì hơn sân,
Khó không gì hơn nhẫn,
Nên phải dùng đạo lý,
Nỗ lực tu an nhẫn!


(3)
Nếu ôm sân trong lòng,
Tâm ý không tịch tĩnh,
Sự vui cũng khó sinh,
Uất ức, không ngủ được.


(4)
Tuy đem lợi, cung kính,
Cung cấp cho kẻ dưới,
Thế nhưng, nếu hay sân,
Dễ bị họ giết hại .


Giả sử có một vị thí chủ, thường đem tài sản (vật chất), cùng sự cung kính (tinh thần), đến bố thí cho những kẻ nương tựa, cùng những người thân của mình. Nhưng nếu vị thí chủ này thường thường biểu lộ sự giận dữ, độc ác, thì ngay những kẻ thọ ơn cùng những người thân cũng khởi tâm muốn sát hại họ, huống gì kẻ khác.
[Behold] Một trong những sự tai hại của sự giận dữ là cướp đoạt sự sáng suốt và óc phán đoán của chúng ta. Chỉ vì muốn trả thù những kẻ đã hại mình, chúng ta nhiều khi không màng đến sự hiểm nguy của chính mình. Chúng ta đã đánh mất sự lựa chọn, và bị những cơn bão lòng lôi cuốn, không còn tự chủ. Đôi khi sự giận dữ điên cuồng này đưa chúng ta làm những hành dộng mù quáng đối với chính những kẻ thân thuộc cùng người ơn của mình. Trong cơn giận dữ điên cuồng, chúng ta quên hết sự thương yêu và ân huệ to tát của kẻ đối diện. Sự điên cuồng này đem ta đến sự tàn hại tất cả, bất chấp đạo lý!

(5)
Sân làm người thân ghét,
Dù cho, họ không gần!
Nếu tâm nhiều giận hờn,
An lạc khó trường cửu.


[Behold] Thường thường mọi người đều cho rằng sự giận dữ phát sinh là do sự đối diện với người mình không ưa. Sự thật hoàn toàn trái ngược. Chính sự giận dữ chất chứa trong lòng đã biến người đối diện thành kẻ thù "tưởng tượng" của mình. Người hay giận hờn sống trong một thế giới thù hận, bao vây bởi những kẻ thù phát sinh từ sự vọng tưởng của chính mình. Sống trong ảo tưởng mù quáng là tất cả mọi người đều ghét mình, nhiều khi đưa họ đến sự điên loạn. Họ trở thành nạn nhân của sự huyễn tưởng của chính mình.

(6)
Kẻ địch sân hận này,
Đem lại nhiều khổ nạn;
Người tinh tiến trừ sân,
Nay, sau hưởng an lạc!


(7)
Bị ép sự không muốn,
Bị phá điều mong muốn,
Do sự bất mãn này,
Sân hận hại mình, người.


Bài kệ này ý nói, nếu kẻ khác ép uổng mình làm những điều mình không muốn, hoặc ngăn trở không cho mình làm những điều mình muốn, mình sẽ trở nên sân hận mà làm điều càn rỡ, như vậy sẽ tổn hại cả hai bên.
[Behold] Muốn chinh phục sự giận dữ, chúng ta phải học tập phương pháp đối đáp, phản ứng với những sự thất bại, bất mãn. Nếu chúng ta chỉ một mực mong ước mọi việc đều thuận theo ý muốn của mình, thì đây là một sự cực kỳ phi lý. Do đó chúng ta phải tập luyện một thái độ thực tế và công bình khi đối diện với vấn đề phiền toái của cuộc đời. Sự luyện tập này được bao gồm trong đề mục mà chúng ta muốn nói đến , tức là sự an nhẫn.

(8)
Vậy phải nên phá hết,
Mầm mống của sân hận;
Bọn này không gì khác,
Chỉ tàn hại đời ta!


(9)
Gặp việc gì cũng đừng,
Làm tâm mình rối loạn,
Ưu não chẳng ích gì,
Lại còn hại việc lành.


(10)
Việc nếu còn cách cứu,
Tại sao không hoan hỉ?
Việc đã không cách cứu,
Sầu lo nào ích chi?


(11)
Không muốn mình và bạn,
Chịu khổ, bị khinh miệt,
Hoặc nghe lời thô tục;
Thế nhưng đối kẻ thù,
Lại mong muốn ngược lại.


[Behold] Nếu kẻ thù ta được vui sướng, cung kính, hoặc được khen ngợi, chúng ta cảm thấy phiền muộn. Từ sự phiền muộn đưa đến giận dữ, thù ghét.

(12)
Nguồn vui rất là ít,
Gốc khổ lại rất nhiều,
Không khổ, khó xuất ly,
Vì thế phải kiên nhẫn!


[Behold] Kiên nhẫn chấp nhận sự khổ đau, ngoài sự giúp chúng ta giữ vững sự điềm tĩnh và an nhiên của tâm hồn khi đối diện với những hoàn cảnh khó khăn, nó còn giúp ta hiểu rõ một cách khách quan hơn về hiện thực khổ đau của cuộc đời. Sự tĩnh lặng của tâm hồn được đem đến từ sự hiểu rõ rằng những khổ đau mà chúng ta đang nhận chịu là do lỗi lầm của chính mình, đã sinh ra, bước qua, và chết đi trong một trạng thái vô tri và hỗn loạn (unknowing and confusion). Sự hiểu rõ này chính là nền tảng cho sự xả bỏ trần tục, phát sinh từ ước nguyện muốn đạt đến một đời sống mỹ mãn và tự do, thoát ly tất cả sự bất mãn và khổ đau.

(13)
Bọn dân Karnapa,
Vô cớ chịu đốt, cắt;
Người tu cầu giải thoát,
Tại sao lại khiếp sợ?


[Crosby] Ở vùng Karnata (hiện nay là tiểu bang Karnakata ở miền nam Ấn Độ), tín đồ của nữ thần Durga tự nguyện nhận chịu một cách phi lý những thống khổ của sự đốt, cắt , hay tệ hơn thế nữa. Theo truyền thuyết, Durga là một nữ thần rất hung tợn. Bà là một trong những hóa thân của vợ của thần Siva. Ngay đến gần đây, những buổi tế máu (blood sacrifies) hiến dâng cho vị thần này vẫn còn được diễn ra. Ngoài ra, những người của nhóm này đã tự tàn hại mình, như dùng lưỡi câu tự róc thịt, hoặc dùng hai tay bưng bình sắt đang nóng đỏ v.v..., dùng đây như phương tiện cầu sự ân sủng của bà. Lý do phần lớn là muốn cầu được tiền tài, của cải v.v...

(14)
Không có sự việc nào,
Tập lâu mà không quen,
Tập nhẫn những hại nhỏ,
Mới nhẫn được hại lớn!


(15)
Bị muỗi mòng cắn đốt,
Hoặc bị khổ đói khát,
Cùng những bệnh mụn nhọt,
Chẳng lẽ chưa chịu quen?


(16)
Đối với gió, nóng, lạnh,
Bệnh, trói, bị đánh đập,
Không nên quá nhu nhược,
Càng nhu nhược càng khổ!


(17)
Có kẻ thấy máu mình,
Càng cương quyết dũng cảm;
Có kẻ thấy máu người,
Lại kinh hoàng chết giấc!


(18)
Sự khác biệt là do,
Dũng cảm hay khiếp nhược;
Phải coi thường sự khổ,
Đừng để khổ chướng ngại!


(19)
Người trí dù bị khổ,
Không loạn, tâm sáng suốt,
Chiến đấu với phiền não,
Dù gặp nhiều khổ đau.


[Crosby] Dù nhận chịu sự khổ đau, người trí quyết không để cho tâm tĩnh lặng cùng niềm tin của mình bị rối loạn, bởi đây là sự chiến đấu với phiền não. Trong sự chiến đấu này sự khổ đau sẽ dễ dàng bị vượt qua.

(20)
Phải coi thường sự khổ,
Hàng phục giặc tham sân;
Nếu trừ diệt vô minh,
Mới là chân dũng sĩ!
Còn những chiến sĩ khác,
Chỉ giết những thây chạy.


[Behold] Kẻ nào nhận chịu được tất cả sự khổ đau, và hơn nữa lại chinh phục được bọn giặc sân hận và những phiền não khác, xứng đáng được gọi là bậc anh hùng. Thường thường, tôn xưng này được gán cho những kẻ giết địch quân trên chiến trường. Nhưng bọn địch này, dù không bị giết, chúng cũng sẽ phải chết đi theo thời gian. Do đó giết chúng, cũng chẳng khác gì giết những cái thây di động. Trái lại bọn địch trong tâm (phiền não) không bao giờ chết theo luật tự nhiên. Nếu không có sự nỗ lực lọc sạch lũ phiền não này ra khỏi tâm tưởng của mình, chúng sẽ vĩnh viễn trói buộc chúng ta trong vòng sinh tử luân hồi. Như chúng đã làm từ vô thỉ đến nay.

(21)
Khổ hại giúp hành giả:
Xả ly, trừ kiêu mạn,
Ghét ác, ưa việc lành,
Thương xót kẻ trầm luân.


[Crosby] Công đức của sự khổ hại không gì so sánh được. Nó tạo sự kích động (shock) khiến cho hành giả thức tỉnh, từ đó sản sinh lòng thương xót đối với những kẻ trầm luân trong biển khổ, và khởi lòng tha thiết đối với bậc Giác Ngộ (Phật).

(22)
Bệnh tật và hữu tình,
Đều là do duyên sinh,
Sao không ghét bệnh tật,
Mà lại ghét hữu tình.


Bệnh tật là do duyên sinh, chúng ta không sân hận với chúng. Phiền não của chúng sinh cũng là duyên sinh, tại sao chúng ta lại giận dữ với họ?

(23)
Như người không muốn bệnh,
Mà bệnh lại tìm đến;
Cũng vậy, không muốn sầu,
Sầu ngùn ngụt tràn dâng!


[Dịch Chú] Giả như có người không muốn bệnh tật, nhưng bệnh tật do nghiệp lực cảm sinh, không hẹn mà lại. Giống thế, chúng ta tuy không muốn sầu não, mà vô minh phiền não lại cứ đột nhiên tuôn trào như thác lũ.
Phụ chú: Bài kệ này chỉ giải thích thêm bài kệ (22) ở trên. Bệnh tật không có ý làm hại ta; kẻ thù tuy bên ngoài có vẻ như tìm cách mưu hại ta, nhưng nếu quán sát cho kỹ, tình lý của họ hoàn toàn bị vô minh khống chế.

(24)
Tâm không nghĩ đến sân,
Mà người tự nhiên sân;
Sân hận không nghĩ sinh,
Mà lại cứ tự sinh.



Bài kệ này, ý nghĩa sâu sắc hơn so với bài kệ (23) trên phương diện phân tích tâm lý. Một người khi nổi giận hoàn toàn không tự chủ, nghĩ rằng Tôi sẽ giận, mà sự giận dữ thốt nhiên đến. Ngay đến sự giận dữ cũng không hoàn toàn tự chủ, nghĩ rằng Tôi sẽ sinh, mà lại đột nhiên được sinh ra. Điều này chứng tỏ rằng sức mạnh của vô minh không thể nghĩ bàn. Như trong kinh Thắng Man, Thắng Man phu nhân đã từng bạch Phật rằng: "Vô minh trụ địa, lực lượng lớn nhất!"

(25)
Tất cả sự lỗi lầm,
Và tất cả tội ác,
Đều từ nhân duyên sinh,
Toàn không do chính mình!


[Crosby] Ngay từ giai đoạn đầu, Phật giáo đã bác bỏ quan niệm về một nguyên nhân độc nhất (như Thượng đế, Phạm thiên v.v..) sinh ra vạn vật. Mỗi hiện tượng phát sinh đều do nhiều nguyên nhân cấu thành. Tuy hành động của mỗi cá nhân có thể được phân loại thành thiện hoặc ác, nhưng quả của hành động này, trong cuộc đời của cá nhân đó, không thể được tiên đoán một cách chính xác. Bởi vì quả này, trong quá trình hình thành, còn chịu ảnh hưởng của những nhân duyên khác (nghĩa là những nghiệp khác mà hành giả đã, đang và sẽ gây tạo).
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
(26)
Tất cả nhân duyên này,
Không nghĩ sẽ sinh sân;
Sân não đã phát sinh,
Không nghĩ là được sinh.


[Behold] Những nhân duyên tập hợp sản sinh sự khổ đau không có ý nguyện sản sinh ra nó, và sự khổ đau được sinh ra từ sự tập hợp của các nhân duyên cũng không nghĩ rằng mình được sinh. Như thế, người sân, sự sân hận, cũng như tất cả những sự kiện khác, hoàn toàn khơng tự chủ (nói một cách triết lý hơn, là không có tự tính, vô ngã). Chúng hoàn toàn tùy thuộc vào nhân duyên. Hành giả tu tập quán sát về sự quan hệ lẫn nhau của sự vật, sẽ giảm trừ rất nhiều những sự sân hận vô lý của mình.

(27)
Cái gọi là Vật chủ,
Cùng cái gọi là Ngã,
Vật, Ngã cũng không nghĩ,
Là sinh, mà được sinh.


[Behold] Trường phái Số Luận nhận định sự hiện hữu của một Vật chủ có một số tính chất đặc thù. Các nhà Số Luận cho rằng Vật chủ là nguyên tố độc nhất sinh ra vạn vật (thế giới và hữu tình). Vật này tuy là nguyên nhân sinh ra vạn vật, nhưng lại có những đặc tính: vô nhân, độc lập, và thường trụ. Hơn nữa theo phái Số Luận, Ngã cũng độc lập tồn tại, trong khi Vật chủ là nguyên nhân sinh ra tất cả vật mà chúng ta nhận biết được. Ở đây Tịch Thiên muốn lập luận rằng lập trường của phái Số Luận là mâu thuẫn với thực tại.
Nếu Vật chủ và Ngã, như phái Số Luận thừa nhận là vô nhân, và vô sinh, thì chúng khơng thể nào sinh khởi tùy thuộc vào ý niệm "Bây giờ ta sẽ hiện hữu với mục đích tạo tác phiền não". Như vậy trong quá trình sinh khởi của phiền não, vẫn hoàn toàn không có sự chủ động. Do đó sự thừa nhận của phái Số Luận về sự hiện hữu của Vật chủ và Ngã với những đặc tính như trên hoàn toàn không thể có được.

(28)
Không sinh nên không quả,
Muốn sinh cũng không sinh,
Ngã chấp trước sở sinh,
Vĩnh viễn không ngừng nghỉ.


[Behold] Nếu Vật chủ là độc lập, nó không thể sinh ra vạn vật. Nếu cái Ngã là độc lập, nó không thể xử dụng hoặc kinh nghiệm những vật đã được sản sinh. Làm sao những hiệu quả (effect), hoặc cảm xúc có thể được sinh ra từ những vật gọi là thường trụ. Và nếu cái Ngã là thường hằng, nếu nó thấy một vật, hoặc nghe một âm thanh chẳng hạn, nó sẽ vĩnh viễn ở trong trạng thái đó. Nếu có sự cải biến trong quá trình tương quan thì làm sao gọi là thường hằng được. Vì lý do này, ngài Tịch Thiên đã phủ nhận sự hiện hữu của cái mà phái Số Luận gọi là Vật chủ và Ngã.

(29)
Nếu Ngã là thường trụ,
Bất động, tựa hư không,
Dù gặp nhân duyên khác,
Bản chất không biến đổi.


[Behold] Phái Thắng Luận thừa nhận sự hiện hữu của cái Ngã thường trụ mà bản tính của nó là vật chất. Tịch Thiên cho rằng quan điểm như vậy là phi lý. Vì nếu cái Ngã thường trụ như hư khơng, nó sẽ không bao giờ có được hành động hoặc tác dụng. Phái Thắng Luận cho rằng, cái Ngã tuy thường trụ, nhưng nếu gặp điều kiện vẫn có thể sản sinh quả báo. Tịch Thiên cho rằng đây là điều không thể có được. Trước hết, một vật thường trụ làm sao gặp phải cảnh ngộ hoặc điều kiện? Giả sử có gặp chăng nữa, nó làm sao biến đổi được? Một vật gọi là thường hằng chính bởi vì nó không biến đổi. Nếu nó biến đổi, sao gọi là thường hằng?

(30)
Động rồi, như chưa động,
Động có tác dụng gì?
Nếu nói động là thế,
Ngã, động nào tương can?


[Behold] Nếu cái Ngã, dù đã bị tác động bởi những điều kiện khác, vẫn thường hằng bất biến, như thế tác động đối với cái Ngã có tác dụng gì? Nếu chúng ta nói rằng điều kiện của sự tác động trên cái Ngã là như thế. Như vậy, sự tương can (nhân quả) của hai bên (cái Ngã và tác động) là gì?

(31)
Như vậy, tất cả pháp,
Tùy duyên không tự chủ;
Hiểu rồi chớ nên sân
Mọi vật như huyễn hóa!


(32)
Kẻ nào trừ sân nào?
Trừ sân không đúng lý;
Sân diệt, hết phiền não,
Trừ sân, không phi lý.


Từ cái nhìn tuyệt đối (Đệ Nhất Nghĩa), người cũng như huyễn, mà sân hận cũng như huyễn. Căn bản chẳng cĩ kẻ nào trừ diệt sân nào hết cả. Nhưng từ cái nhìn tương đối (Thế Tục Đế), trừ diệt sân hận (như huyễn) sẽ đem đến sự an lạc (như huyễn). Do đó hành giả vẫn phải nỗ lực tu tập an nhẫn, trừ diệt sân hận.

(33)
Nếu thấy oán hay thân
Vô cớ đến hại mình,
Nghĩ là do duyên sinh,
Vui nhận như ăn mật!


(34)
Không ai muốn chịu khổ,
Nếu khổ do tự chọn,
Thì tất cả hữu tình,
Đều sẽ không bị khổ.


[Behold] Bài kệ này cĩ thể hiểu như mặt chữ đã giảng, hoặc cĩ thể giải thích như sau: Bởi vì tâm thức của hữu tình từ vô thỉ đã bị huân tập bởi vô minh; hơn nữa, họ chưa chứng được sự giác ngộ để có thể nhìn thấy chân tướng của sự vật, họ không có lựa chọn nào khác hơn là sự oằn oại trong sinh tử.

(35)
Do vì tâm điên đảo,
Dùng gai, đinh tự tổn,
Hoặc vì giành đàn bà,
Tuyệt thực trong sầu bi.


(36)
Thắt cổ, nhảy xuống vực,
Uống thuốc, ăn đồ độc,
Làm những việc ngu si,
Thương tổn thân mạng mình.


(37)
Kẻ tục tiếc thân mạng,
Vì ngu còn tự sát!
Huống chi đối người khác,
Mà không gây thương tổn?


[Behold] Thường thường mọi người đều quí trọng thân thể của mình hơn bất cứ vật nào trên thế giới này, nhưng khi họ bị sự giận dữ chi phối, họ còn có thể tàn hại chính họ. Nếu sức mạnh của vô minh có thể đưa họ đến mức tuyệt vọng như vậy, chúng ta có thể thấy rõ ràng sức mạnh đó cũng có thể đưa họ đến sự tàn hại kẻ khác ác liệt như thế.

(38)
Đối với kẻ hại mình,
Nên sinh lòng từ bi!
Dù không thể từ bi,
Cũng không nên sân hận.


(39)
Nếu bổn tính kẻ ngu,
Là tổn thương kẻ khác,
Giận họ thật vô lý!
Như ghét lửa bởi vì,
Tính nó là thiêu đốt.


(40)
Nếu người tính hiền lương,
Ngẫu nhiên mà phạm tội,
Giận họ cũng vô lý,
Như ghét khói bởi vì,
Tính nó che đen trời.

(41)
Bị gậy gộc tổn thương,
Không giận người cầm gậy,
Họ bị sân sai khiến,
Đúng lý nên ghét sân!

[Batchelor] Nếu chúng ta giận người cầm gậy đánh mình (dù rằng sự thực chúng ta bị gậy đánh trực tiếp), nhưng người cầm gậy lại cũng chỉ là nguyên nhân thứ yếu, vì họ bị sân hận khích động. Nếu vậy chúng ta nên giận sự sân hận của họ, vì sự sân hận đó là nguyên nhân chủ yếu nhất.

(42)
Xưa kia mình đã gây,
Tổn hại đến hữu tình,
Nếu đã tổn hại họ,
Đúng lý nên chịu tổn!


Đúng lý nên chịu tổn: Đúng lý nhân quả, phải nhận chịu quả báo bị tổn hại này.

(43)
Gươm người và thân mình,
Cả hai là gốc khổ,
Gươm đâm, thân đĩn nhận,
Vậy sân với ai đây?


[Behold] Khi bị kẻ khác gây tổn hại, chúng ta phải nhớ đến hai nguyên nhân chính của sự khổ đau của mình: vũ khí của kẻ địch và tấm thân bất tịnh của mình. Chỉ khi nào hai vật này tiếp xúc nhau sự khổ mới phát sinh. Nếu vậy chúng ta phải sân hận đối với bên nào? Thay vì giận dữ với kẻ địch, tại sao khơng giận dữ với thân mình. Nếu mình khơng bao giờ giận dữ với chính mình, tại sao mình lại giận dữ với kẻ địch? Chúng ta phải nhận thức rằng sự khổ đau này sinh ra là do những ác nghiệp mà chúng ta đã gây tạo trong quá khứ. Chính chúng ta là kẻ độc nhất đáng trách đối với những hậu quả ác liệt này.

(44)
Mù quáng nên chấp trước,
Thân người đầy ố trược,
Dù rờ nhẹ cũng đau,
Giận ai nếu bị tổn?


[Behold] Thân thể hiện tại của chúng ta vừa yếu ớt vừa dễ bị thương tổn. Cho đến châm một ngọn gai cũng khơng chịu nổi. Nếu bị thương tổn bởi vũ khí, sự đau đớn cịn ác liệt hơn nhiều. Thế nhưng, nếu chúng ta khơng đầu thai vào trong thân thể bất tịnh này, chúng ta sẽ không phải nhận chịu sự khổ sở đó. Do thiếu trí tuệ và bị dẫn dắt bởi vơ minh, chúng ta đã tạo ác nghiệp, để ngày hôm nay phải thọ nhận cái thân mủ máu này, nguồn gốc của biết bao nhiêu sự thống khổ. Đã biết vậy, chúng ta sao không chịu tự trách mình, mà lại còn tiếp tục sân hận với người khác?

(45)
Người ngu không muốn khổ,
Mà tạo tồn nhân khổ,
Do lỗi mình hại mình,
Sao còn ghét kẻ khác?


(46)
Ví như quỉ địa ngục,
Cùng với rừng đao kiếm,
Đều do nghiệp mình sinh,
Còn sân ai bây giờ?


Rừng đao kiếm: Trong địa ngục cĩ rừng cây sắt, mà lá cây là những lưỡi gươm bén nhọn.
[Behold] Sự hành hạ của địa ngục, khơng phải là những sự kiện khơng quan hệ đến tâm thức của ta, hoặc là sự trừng phạt của địa ngục chỉ là sự cấu tạo từ không tưởng. Tất cả những kinh nghiệm khổ đau của chúng ta đều là sự cấu tạo từ vọng tưởng của chính mình. Nếu chúng ta muốn chấm dứt sự thống khổ này, điều trước tiên là phải từ bỏ những hành vi bất chính, và dẹp tan những ảo mộng điên cuồng của mình.


(47)
Do nghiệp xưa phát động,
Khiến người tổn hại mình,
Nhân đây họ bị đọa,
Phải chăng mình hại họ?


[Behold] Kế đó ngài Tịch Thiên tìm xem khi ta bị người khác tổn hại, ai là kẻ thực sự được lợi ích, ai là kẻ thực sự bị tổn hại. Sự tổn hại mà đối phương đem đến cho ta là quả báo do chính ta gây tạo trong quá khứ. Nếu ta khéo dùng cơ hội này tu tập nhẫn nhục, chúng ta không những được an vui, hạnh phúc trong hiện tại, mà trong tương lai sẽ gặt hái được quả lành. Nếu vậy kẻ hại ta chính là nguồn hạnh phúc cho ta. Ngược lại, kẻ làm hại ta, vì những nghiệp ác mà họ gây tạo, không những khổ đau trong hiện tại, mà còn gặt hái những quả báo khổ đau trong vị lai. Như vậy, chúng ta chính là kẻ hại họ, và họ chính là kẻ đem hạnh phúc cho ta. Biết thế, sao lại còn sân hận với người ân của mình?

(48)
Nhờ họ, mình tu nhẫn,
Tiêu diệt nhiều tội chướng,
Kẻ địch vì mình nhẫn,
Đọa ngục khổ lâu dài.


(49)
Mình thọ khổ, tức là,
Kẻ địch làm lợi mình;
Này tâm, đồ thô bạo!
Sao lại sân hận họ?


[Behold] Nổi giận với người ân kém may mắn, tương lai mờ mịt như thế, quả thật là hành động của một quả tim thô bạo và méo mó! Nếu mục tiêu của cuộc đời ta là tìm tòi sự giải thoát từ sự khổ đau và thân chứng sự giác ngộ, thì cuộc sống vật chất này quả thật đối với chúng ta không có nghĩa lý gì. Chỉ có kho tàng nội tại của đức hạnh mới là quan trọng. Nếu vậy kẻ thù đem đến cho ta sự bất hạnh, nhờ đó ta có thể tu tập và thành tựu hạnh Nhẫn nhục ba la mật, họ chính là người ơn tôn quí đã đem đến cho ta tất cả sự mãn nguyện.
Khi tôn giả Atisa từ Ấn Độ đến Tây Tạng hoằng pháp, có một đầy tớ người Ấn Độ ngày ngày mắng nhiếc ngài. Các vị đệ tử thưa với ngài rằng: “Gã này thật quá quắt, xin thầy tống cổ hắn về Ấn Độ cho rảnh nợ.” Atisa bèn nói với các đệ tử rằng: “Các con chớ nên nói thế. Hắn đối với ta rất tử tế. Hắn chính là một đối tượng cho ta tu sự nhẫn nhục. Nếu không, ta làm sao có cơ hội tu được hạnh Ba la mật này.”

(50)
Nếu mình có công đức,
Chắc không đọa địa ngục!
Nếu mình tự gìn giữ,
Kẻ địch đưọc lợi gì?


[Behold] Hỏi: Tuy tôi tu tập sự nhẫn nhục khi có người đến làm hại, nhưng vì tôi đã làm cho họ sân hận, như thế tôi có phải đọa ác đạo hay không? Đáp: Không. Nếu chúng ta quán tưởng rằng kẻ thù đang làm lợi cho mình, và đối với sự tổn hại đó tu nhẫn nhục, như thế chúng ta sẽ không tạo ác nghiệp gì mới, vì không gây ác nghiệp nên không phải chịu ác báo. Hỏi: Nếu vậy, kẻ làm hại chúng ta cũng không nhận chịu ác báo nào từ những hành động của họ, ít nhất họ cũng đem đến chúng ta một cơ hội tu tập nhẫn nhục, tăng trưởng phước báo. Đáp: Điều này không đúng. Người tạo tác hành động sẽ nhận chịu quả báo. Không có lý do gì kẻ làm tổn hại lại có thể nhận lấy thiện báo từ sự tu tập nhẫn nhục của chúng ta. Hắn đã tạo hành động bất thiện, làm sao có thể từ nhân ác mà nhận lấy quả lành được.
------------------------------------
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên