(81)
Nhiệt thành thường tu thiện,
Siêng đối trị phiền não,
Thí bi, ân, phước điền,
Thành tựu đại phước thiện.
Đối với hành giả học hạnh bố thí, có ba loại ruộng phước thù thắng: (1) Bi điền: tức là những kẻ bần cùng, khổ sở, cô độc, bị áp bức v.v..., (2) Ân điền: tức là cha mẹ, sư trưởng, thiện tri thức v.v..., (3) Phước điền: tức là Tam Bảo.
(82)
Đủ trí tuệ, tín tâm,
Nên thường siêng tu tập;
Những điều thiện nên làm,
Chớ ỷ vào người khác!
[Behold] Muốn sự tu tập Chánh Pháp trở nên kiên cố và có cơ sở vững chải, chúng ta cần phải thấu rõ điều mình đã học, và có tín tâm vững chắc đối với pháp môn của mình. Ngài Tịch Thiên chỉ rõ là muốn tu tập đúng phương pháp, trước tiên phải nghiên cứu giáo lý, sau đó nắm vững phương pháp tu tập. Nếu được như vậy, chúng ta có thể tự mình thực hành mà không cần nhờ vả vào kẻ khác.
(83) Tuần tự mà tu tập,
Lục độ như bố thí, ...;
Đừng chấp nhỏ bỏ lớn,
Việc lớn nghĩ lợi người.
Đừng chấp nhỏ bỏ lớn: Ở đây việc nhỏ (thấp) chỉ những Độ (Ba la mật) bậc thấp, còn việc lớn (cao) chỉ những Độ (Ba la mật) bậc cao (thí như bố thí là thấp so với trì giới, trì giới là thấp so với nhẫn nhục chẳng hạn). Các bản dịch trên ý muốn nói là trong trường hợp thông thường, trì giới cao hơn bố thí, nhẫn nhục cao hơn trì giới v.v... Thế nhưng vì muốn thực hiện một sự bố thí to lớn, trong trường hợp đó có thể bỏ những giới nhỏ. Điều này có thể áp dụng cho các Độ (Ba la mật) khác. Như trên đã bàn qua, hành giả trên đường hành Bồ Tát hạnh, trong công việc lợi sinh phải cân nhắc kỹ lưỡng hành động của mình. Tùy thời tùy chốn mà uyển chuyển hành động, không quá chấp nê, nhưng cũng không được tùy tiện loạn động.
(84)
Đã hiểu rõ đạo lý,
Nên siêng làm lợi người;
Với bậc Đại Bồ Tát,
Phật cho khai tiểu giới.
(85)
Khi ăn, thí ngạ quỉ,
Kẻ khổ, bạn đồng tu,
Phần mình chỉ vừa đủ,
Chỉ cần giữ ba y,
Ngoài ra đều xả hết.
Kệ (85) cùng kệ (88) đến kệ (98) là một số luật nghi trích ra từ giới luật của bậc xuất gia. Tuy vậy, các vị Bồ Tát tại gia cũng có thể theo đây mà tu học, tăng trưởng uy nghi, phước đức cho chính mình.
Khi ăn ... vừa đủ: Theo giới luật, bậc xuất gia trước khi thọ trai, phải đem phần ăn của mình chia làm bốn phần: (1) bố thí cho ngạ quỉ và súc sinh, (2) bố thí cho những kẻ ăn mày nghèo khổ, (3) bố thí cho các vị đồng tu, (4) còn lại một phần mình tự hưởng dụng. Chỉ cần ... xả hết: Những bậc xuất gia thiểu dục tri túc quyết không tích trữ tài vật nào khác. Ngoài ba y (tiểu y, trung y, đại y) và bình bát, những vật khác đều đem bố thí cho kẻ khác. Tuy nói như vậy, đây chỉ là nói đến những bậc căn cơ tương đối cao. Đối với những bậc căn cơ thấp, Phật cũng cho phép tích trữ một số vật dụng vừa đủ cho nhu cầu sinh hoạt của họ.
(86)
Chớ vì việc thiện nhỏ,
Mà hủy hoại thân này!
Vì chúng sinh tu hành,
Sẽ chóng được viên mãn.
[Behold] Chúng ta vì cần thân này để tu tập Chánh Pháp, bởi vậy không nên vì một chút ích lợi nhỏ nhặt mà tùy tiện hủy hoại nó.
Phụ chú: Ích lợi nhỏ đây, hoặc là cầu hư danh, hoặc là cầu phước báo nhân thiên chẳng hạn.
(87)
Bi nguyện chưa thanh tịnh,
Chưa nên thí thân này,
Đời này hoặc đời sau,
Vì lợi lớn mới xả!
Bi nguyện chưa thanh tịnh: Đây muốn nói đến những phàm phu học Bồ Tát hạnh, nhưng chưa hoàn toàn phá bỏ được ngã chấp.
[Diễn Ý] Đối phàm phu, ngay đến ba y còn không nên xả, huống gì xả thân mệnh. (Vì sao? Vì sợ xả xong lại sinh tâm hối tiếc, thậm chí thoái thất đạo tâm). Ngài Uy Nguyệt giải thích như sau: "Nếu như hành giả chưa đủ tâm từ bi, chưa thể quán sát thân tâm bình đẳng, chớ nên bố thí thân mệnh mình. Đợi đến khi đạt đến cảnh giới đối tất cả chúng sinh, không luận thân thù, đều một mực bình đẳng, lúc đó xả thân cũng không muộn. Vì sao? Vì không còn tâm hối tiếc, không còn sợ thoái đọa nữa".
(88)
Đối với kẻ bất kính:
Không bịnh mà trùm đầu,
Cổ quàng khăn, cầm lọng,
Cầm đao, binh khí, gậy,
Chớ thuyết pháp cho họ.
Đối với bậc Bồ Tát xuất gia, nếu có người cầu pháp mà thái độ không cung kính, không nên vì họ thuyết pháp. Điều giới này trong giới luật Thanh văn (Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni), và giới luật Bồ Tát đều có đề cập đến. Không phải người thuyết pháp bỏn sẻn, mà chính vì kẻ cầu pháp có thái độ vô lễ. Giả sử có nói pháp, cũng chỉ như nước đổ lá môn, hoàn toàn vô ích, không những thế, nhiều khi lại tăng thêm phiền não cho cả hai bên.
(89)
Người nữ đến một mình,
Cũng không nên thuyết pháp;
Đối người thiếu trí tuệ,
Chớ nói pháp thâm sâu;
Đối với Đại, Tiểu thừa,
Đồng kính mà tu học
Người nữ ... thuyết pháp: Nếu có người nữ một mình đến tìm Tỳ Kheo (hoặc người nam một mình đến tìm Tỳ Kheo ni) cầu pháp, nên cự tuyệt. Trừ phi người nữ có người nam tại gia (và ngược lại) tháp tùng. Mục đích của điều giới này là ngăn ngừa sự gièm pha của người đời đối với các bậc xuất gia. Đối với pháp ...tu học: Căn cứ Phạm Võng Bồ Tát Giới, nếu hành giả Đại thừa bỏ Đại thừa học Tiểu thừa sẽ phạm tội khinh cấu (tức là tội nhẹ). Nhưng nếu căn cứ Du Già Bồ Tát Giới, hành giả Đại thừa nếu bỏ không học Tiểu thừa cũng sẽ phạm tội khinh cấu. Bồ Tát vì muốn quảng độ chúng sinh, phải nên học rộng nghe nhiều, thậm chí đến kinh sách ngoại đạo còn phải nghiên cứu, huống chi giáo lý Đại thừa, Tiểu thừa là lời dạy của chính đức Thế Tôn.
(90)
Với người căn cơ cao,
Chớ nói pháp nông cạn;
Đừng nên bỏ giới luật,
Bùa chú lừa chúng sinh.
Đây là vấn đề mà giới luật gọi là tà mệnh tự hoạt, nghĩa là dùng phương tiện tà vạy, mưu cầu lợi dưỡng, làm phương tiện sinh nhai. Điều này đi ngược với chánh mệnh trong Bát Chánh Đạo. Người học Phật, không luận Đại, Tiểu thừa, mục đích chính là tìm cầu sự giải thoát hiện tại, hầu mong trong vị lai làm mô phạm cùng phước điền cho trời người, đúng lý phải đem niềm tin đối với Tam Bảo đến cho chúng sinh. Nay mình chỉ vì chút lợi nhỏ lại lừa dối chúng sinh, đi ngược với nguyện vọng của họ. Thử hỏi, đối với Phật Pháp và chúng sinh còn tai hại nào bằng. Bởi vậy trong giới luật của Đại, Tiểu thừa đều nghiêm cấm điều này.
(91)
Xỉa răng, hoặc khạc nhổ,
Nên đi tìm chỗ khuất;
Không nên đại, tiểu tiện,
Nơi đất sạch, nước trong.
(92)
Ăn chớ ngậm đầy miệng,
Lớn tiếng, miệng há to,
Lúc ngồi đừng duỗi chân,
Xoa tay dáng bối rối.
(93)
Xe, giường, chỗ vắng vẻ,
Chớ nên hẹn vợ người;
Việc gì thiên hạ nghi,
Chớ để người đàm tiếu.
(94)
Khi bày tỏ ý mình,
Đừng dùng một ngón tay,
Đối người phải lễ phép,
Nên đưa bàn tay phải.
Mỗi khi muốn bày tõ ý kiến của mình (ngay đến việc sai bảo người khác) không nên dùng một ngón tay chỉ trỏ, mà phải nên đưa cả bàn tay phải ra hiệu cho họ biết.
(95)
Tỏ ý chớ vung tay,
Cử động nên từ từ,
Khảy ngón tay nhẹ tiếng,
Cẩn thận giữ uy nghi.
Hành giả muốn kêu gọi sự chú ý của người khác, không nên múa tay vung vít, hoặc lớn tiêng kêu la, mà nên nhẹ khảy ngón tay, âm thanh vừa đủ nghe, cử động khoan thai, không được vụt chạc. Chú ý đến uy nghi của mình.
( 96)
Ngủ, chọn hướng thích nghi,
Nằm như Phật Niết Bàn,
Chánh niệm và quyết chí,
Tỉnh giấc nên dậy liền.
Ngủ chọn ... Niết Bàn: Khi ngủ phải chọn hướng nằm thích nghi, nghĩa là nằm như đức Phật khi ngài nhập Niết Bàn (quay về phía tay phải v.v...).
(97)
Học xứ của Bồ Tát,
Kinh nói nhiều vô tận,
Nhưng phải tận lực mình,
Tu trì hạnh tịnh tâm!
Tu trì hạnh tịnh tâm: Trước tiên, bảo trì chánh niệm cùng chánh tri, kế đó nghiêm trì giới luật, đồng thời tu quán Không Tánh, làm cho tâm càng lúc càng thanh tịnh.
(98)
Mỗi ngày đêm sáu thời,
Đọc tụng kinh Tam Tụ,
Nương Phật, tâm Bồ Đề,
Sám hối trừ chúng tội.
[Crosby] Kinh Tam Tụ, có lẽ nói đến Tam Tụ Pháp Kinh, là một bộ kinh Đại thừa ngắn, còn được bảo tồn bản tiếng Phạn và tiếng Tạng. Nội dung bao gồm sám hối ba mươi lăm (35) vị Phật, và kết thúc bằng phần tùy hỉ công đức cùng hồi hướng.
[Behold] Sau khi thọ Bồ Tát giới, phải cố gắng không vi phạm giới luật. Như trên đã bàn qua, phạm Bồ Tát giới quả báo rất nặng. Tuy vậy, nếu hành giả hoàn toàn không che dấu, và đem tâm chí thành khẩn thiết cầu sám hối, có thể sám hối thanh tịnh những điều mình đã phạm.
[Phụ Chú] Theo các nhà chú giải Tây Tạng, nếu phạm trọng giới, hành giả có thể dùng Tứ Lực sám hối tội chướng của mình. Diễn Ý dẫn kinh Tứ Pháp như sau: "Phật nói: Này Từ Thị, nếu Bồ Tát Ma ha tát thành tựu bốn pháp, sẽ diệt được những tội chướng chồng chất trong quá khứ. Bốn pháp đó là gì? Tức là hối quá hạnh, đối trị hạnh, chế chỉ hạnh và y chỉ hạnh. Lại nữa (1) Hối quá hạnh: tức là sám hối cải đổi những nghiệp ác đã tạo, (2) Đối trị hạnh: tức là đã lỡ tạo ác nghiệp xong, cực lực tu thiện nghiệp, cùng làm những việc lợi ích khác, (3) Chế chỉ lực: nghĩa là do đọc tụng cấm giới mà thành tựu sự không hủy phạm, (4) Y chỉ lực: nghĩa là qui y Phật, Pháp, Tăng bảo, cùng không buông bỏ tâm Bồ Đề. Do y chỉ vào Tam Bảo lực cùng Bồ Đề tâm lực, quyết định tiêu diệt hết tội chướng". Còn nếu phạm tội nhẹ, có thể sám hối bằng cách mỗi ngày ba thời tụng kinh Tam Tụ. Nương vào uy lực của Phật và tâm Bồ Đề, những tội chướng này sẽ được tiêu diệt.
(99)
Vì mình, hay vì người,
Tùy thời, tùy hành môn,
Tất cả các học xứ,
Đều phải siêng tu học.
[Behold] Trong bất cứ lúc nào, mỗi khi vận dụng thân, khẩu, ý, đều phải tuân hành, học tập, mà không được vi phạm những lời giáo huấn của Như Lai.
(100)
Không một pháp môn nào
Mà Phật tử không học,
Nếu khéo học như vậy,
Không phước nào không đến!
Không một ... không học: Sau khi triệt ngộ tính chân thực của các pháp, Bồ Tát vì muốn thực hiện sự lợi lạc cho tất cả chúng sinh nên tinh tiến tu học. Không có một pháp môn nào mà Bồ Tát bỏ qua không học. Nếu không, không cách nào độ thoát tất cả chúng sinh.
Không phước nào không đến: Nếu khéo học như vậy, Phật quả còn có thể thành đạt, huống gì phước báo hữu lậu trời người, hoặc phước đức vô lậu của Nhị Thừa.
(101)
Trực tiếp, hay gián tiếp,
Việc làm đều lợi người,
Vì muốn lợi hữu tình,
Hồi hướng Đại Bồ Đề.
[Behold] Bất cứ công đức nào mà chúng ta góp nhặt được, dù chỉ là đốt một nén hương, đều nên hồi hướng đến sự giác ngộ của chúng sinh.
(102)
Dù chết cũng không rời
Thiện tri thức tôn quí,
Bậc am hiểu Đại thừa,
Cùng giới hạnh thanh tịnh.
(103) Nên kính trọng thầy học,
Giống như Cát Tường Sinh;
Còn những học xứ khác,
Xem kinh ắt sẽ biết.
Cát Tường Sinh (Phạn ngữ Srishambhava): Kinh Hoa Nghiêm gọi là Đức Sinh đồng tử, là vị thiện tri thức thứ năm mươi mốt mà Thiện Tài đồng tử đến tham học.
(104)
Trong kinh, nhiều học xứ,
Phải tìm đọc kinh tạng,
Trước hết nên tìm đọc:
Kinh Thánh Hư Không Tạng.
[Crosby] Kinh Hư Không Tạng là một phẩm trong bộ Đại Tập Kinh, trong đó miêu tả tám điều vi phạm căn bản của Bồ Tát: (1) giảng pháp thâm sâu cho những kẻ căn cơ thấp, làm cho họ thoái thất tâm Đại thừa, (2) giảng pháp Tiểu thừa cho những kẻ căn cơ cao (Đại thừa), (3) giảng pháp cao thâm, nhưng lại coi thường giới luật, (4) khuyến người khác đừng học pháp môn thấp, (5) chê người khen mình, bao gồm sự khoe khoang mình có thần thông, (6) khoa trương học vấn (Đại thừa), và cho rằng do sự chứng đắc mà có được, (7) đi lại với nhà quyền quí mưu cầu tài lợi, (8) do ngoại cảnh ảnh hưởng làm thoái thất đạo tâm, lại còn tán thán kẻ phạm giới.
(105)
Cũng nên siêng tìm đọc:
Học Xứ Chúng Tập Yếu,
Quyển này chỉ rõ ràng,
Điều Phật tử cần tu.
Học Xứ Chúng Tập Yếu (Phạn ngữ: Shiksa Shamuccaya): Đây là một quyển toát yếu, trích lục từ những bộ kinh Đại thừa, do chính ngài Tịch Thiên soạn. Viết bằng văn xuôi. Nội dung phong phú. Hiện còn tồn tại bản tiếng Phạn.
(106) Hoặc đọc quyển tóm lược:
Nhất thiết Kinh Tập Yếu;
Đồng thời đọc Long Thọ,
Hai quyển tên giống đây.
Nhất Thiết Kinh Tập Yếu: Căn cứ Hán truyền Phật giáo, bộ này cũng là một bộ toát yếu, trích lục từ các kinh điển Đại thừa, và cũng do chính ngài Tịch Thiên soạn. Nhưng vẫn còn một số học giả Tây phương chưa công nhận điều này.
[Crosby] Một cách khác, bạn nên xem sơ qua quyển trên (Học Xứ Chúng Tập Yếu), và nên xem kỹ quyển Nhất Thiết Kinh Tập Yếu soạn bởi ngài Long Thọ.
(107)
Chỗ kinh luật không cấm,
Tất cả đều tu học;
Vì hộ trì chúng sinh,
Học xong nên thực hành!
[Diễn Ý] Bồ Đề Chánh Đạo Bồ Tát Giới Luận nói: "Phàm những điều mà chư Phật cấm đoán, hoặc chưa thể lập tức thực hành, không nên tu học. Vì thế kẻ phát tâm tu học Đại thừa không nên tu học hai loại học xứ này. Trừ hai học xứ này ra, tất cả học xứ khác đều phải tu học".