P

Tịnh Quang của Lạc

Prahevajra

Registered

Phật tử
Reputation: 19%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
155
Điểm tương tác
13
Điểm
18
TỊNH QUANG CỦA LẠC



THỰC HÀNH ĐẠI ẤN

TRONG

KIM CƯƠNG THỪA PHẬT GIÁO



Tác giả: Geshe Kelsang Gyatso



Việt dịch: Thích Giác Không

NỘI DUNG





Lời nói đầu



Giới thiệu và mở đầu

Các kinh mạch, Khí và Giọt

Nội Hỏa

Tịnh Quang và bốn Hỷ

Chín hòa trộn và hai Ấn

Giới thiệu về Bản tính của Tâm trí

An trú tĩnh lặng

Thiền về Tính không

Thân Huyễn

Tịnh quang và Hợp nhất

Đại Ấn kết quả

Hồi hướng





Phụ lục: Ý nghĩa tóm lược của văn bản

Các Sadhana

Các chữ được quán tưởng
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Prahevajra

Registered

Phật tử
Reputation: 19%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
155
Điểm tương tác
13
Điểm
18
LỜI CẢM ƠN


Năm 1980, Geshe Kelshang Gyatso Rinpoche đã ban một bản chú giải mở rộng về Kim Cương Thừa Đại Ấn cho những học viên may mắn của Trung Tâm Văn Thù ở Ulverston, Anh. Chúng tôi cầu nguyện rằng thông qua việc nghiên cứu những chỉ dẫn giống như cam lộ này cùng nỗ lực đưa chúng vào thực hành chân thành, chúng tôi có thể bằng cách nào đó bắt đầu đền đáp lòng tốt vô hạn của Người hướng dẫn tinh thần và Đạo sự kim cương quý giá nhất của chúng tôi.

Không chỉ thỏa mãn với việc truyền đạt giáo lý, với lòng từ bi vô hạn của mình, Geshe Kelshang đã làm việc chặt chẽ với người phiên dịch và một nhóm biên tập để chuẩn bị cuốn sách vô song này, chưa từng có cuốn nào như vậy trên thế giới, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tác giả.

Chúng tôi cũng xin cảm ơn Tenzin Norbu, biên dịch viên, và Chris Koib, Jonathan Landaw, và tất cả các học viên khác của Trung Tâm Văn Thù đã giúp biên tập bản gốc. Bây giờ, với việc xuất bản ấn bản thứ hai, chúng tôi cũng xin cảm ơn Gen Thubten Gyatso, người đã làm việc chặt chẽ với Geshe Kelsang trong việc cập nhật thuật ngữ và phù hợp với các ấn phẩm gần đây hơn, và trong việc chuẩn bị nội dung cuốn mơi ba gồm bản dịch văn bản gốc do tác giả biên soạn. Cuối cùng, chúng tôi cũng xin cảm ơn Lucy James, Tsultrim Kelsang, Ingrid Barton, Kelsang Chokyi, Kelsang Wangmo, và tất cả các thành viên khác của Văn phòng biên tập ấn phẩm Tharpa đã giúp chuẩn bị bản thảo cuối cùng để xuất bản.



Roy Tyson,

Giám đốc Trung Tâm Văn Thù,

Tháng 5, năm 1992

LỜI NÓI ĐẦU


Tôi viết cuốn sách này chủ yếu vì lợi ích của những người thực hành Pháp ở phương Tây với hy vọng rằng nó sẽ gián tiếp mang lại lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Về cách biên soạn, tôi đã dựa trên kinh nghiệm nhỏ nhoi mà tôi có được thông qua lòng tốt của vị đạo sư thánh thiện, người mà tôi đã nhận được hướng dẫn về giai đoạn phát sinh và giai đoạn thành tựu của Mật Tông. Ngoài ra, tôi đã lấy tài liệu từ Ngọn Đèn Soi Sáng Năm Giai Đoạn của Je Tsongkhapa, chứa đựng tinh hoa giáo lý mật tông của Je Tsongkhapa và cũng từ bình luận của Je Tsongkhapa về Sáu Yoga của Naropa. Tôi cũng tham khảo văn bản gốc của Pachen Lama đời đầu về Đại Ấn. Con Đường Chủ Đạo của các Đấng Chiến Thắng, và phần tự bình luận của ông, Đèn Tái Chiếu Sáng, cũng như các văn bản Đại Ấn của Kachen Yeshe Gyaltsan và Keutsang, và nhiều tác phẩm xác thực khác về Mật Tông. Vì tôi đã kết hợp giáo lý của những bậc thầy vĩ đại như vậy nên có một số lý do để hy vọng rằng cuốn sách này sẽ mang lại lợi ích đáng kể.

Để c giác ngộ thanh tịnh về Đại Ấn mà chỉ đọc những hướng dẫn này là không đủ. Trước hết, chúng ta phải tu luyện trong các giai đoạn của con đường chung đối với vả Kinh điển và Mật điển bằng cách dựa vào các văn bản như Con đường vui vẻ của may mắn tốt lành, và thực hành các pháp sơ bộ khác nhau để loại bỏ chướng ngại và tích lũy công đức. Khi đã có một số kinh nghiệm về từ bỏ, bồ đề tâm, và trí tuệ chứng ngộ tính không, chúng ta cần nhận được quán đỉnh Vô Thượng Thượng Dù Già Mật Tông từ một Đạo Sư Kim Cương đủ tiêu chuẩn, rồi cố gắng giữ các giới nguyện và cam kết cho thật thanh tịnh. Sau đó, chúng ta nên tu luyện trong các thực hành của giai đoạn phát sinh, và, khi có một số kinh nghiệm về những điều này, chúng ta nên thỉnh cầu một vị thầy Kim Cương đủ tiêu chuẩn hướng dẫn chúng ta về Kim cương thừa Đại Ấn. Nếu sau đó chúng ta đưa những hướng dẫn này vào thực hành với niềm tin và trí tuệ, chúng ta chắc chắn sẽ đạt được giác ngộ về Sự Hợp Nhất của Đại Ấn.

Tầm quan trọng của việc gắn kết với các thực hành sơ bộ này và việc vun đắp động lực trong sạch trước khi cố gắng tu luyện Kim cương thừa Đại Ấn đã được các bậc thầy vĩ đại của mọi truyền thống Phật giáo Tây Tạng nhấn mạnh. Điều quan trọng nhất là chúng ta không tham gia vào các thực hành này với động cơ không trong sáng, mong muốn lợi ích cá nhân, danh tiếng tốt hoặc tương tự, bởi vì, như Đấng Chiến Thắng Kim Cương Trì đã cảnh báo trong các Mật điển, hậu quả của những hành vi như vậy sẽ chỉ là đau khổ, chẳng hạn như bệnh tất, tuổi thọ ngắn, che chướng tinh thần và tái sinh vào các cõi thấp hơn. Do đó, ngay từ đầu chúng ta nên vun bồi động lực trong sáng của bồ đề tâm và gắn kết với các thực hành Kim cương thừa Đại Ấn với ý định ở thành một vị Phật vì lợi ích của toàn thể chúng sinh.



Geshe Kelsang Gyaltso,

Trung tâm Văn Thù,

1982
 

Prahevajra

Registered

Phật tử
Reputation: 19%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
155
Điểm tương tác
13
Điểm
18
GIỚI THIỆU VÀ CÁC THỰC HÀNH SƠ BỘ


Thật vui mừng khi có cơ hội giải thích phương pháp thực hành Kim cương thừa Đại Ấn theo truyền thống Đại Thừa. Giải thích này sẽ được đưa ra dưới ba tiêu đề chính:

1. Giới thiệu về các con đường chung

2. Nguồn gốc của dòng truyền sở hữu những hướng dẫn này

3. Giải thích thực tế về những hướng dẫn của dòng truyền này



GIỚI THIỆU VỀ CÁC CON ĐƯỜNG CHUNG


Trong Nhập Bồ Tát Hạnh, Shantideva nói:

Bằng cách dựa vào hình dáng con người như chiếc thuyền này

Chúng ta có thể vượt qua đại dương đau khổ

Vì một con thuyền như vậy sẽ khó tìm lại được

Đây không phải là lúc để ngủ, đồ ngốc!


Luân hồi giống như đại dương bao la làm nảy sinh những cơn sóng, nên sự tái sinh trong luân hồi làm phát sinh đau khổ. Hiện tại, chúng ta có thân người quý giá, đó là con thuyền tốt nhất để vượt qua đại dương luân hồi nguy hiểm này. Nếu lãng phí cuộc sống quý giá này mà không tận dụng hết lợi thế của nó, chúng ta sẽ cực kỳ ngu ngốc. Chúng ta sẽ giống như một nhà thám hiểm phải chờ đợi rất lâu để tìm được một chiếc thuyền đưa đến hòn đảo châu báu nhưng cuối cùng khi tìm được một chiếc, anh ta lại ngủ quên thay vì tận dụng cơ hội ngay lập tức. Anh ta cảm thấy thật ngu ngốc khi thức dậy và phát hiện ra con thuyền được mong đợi lâu nay đã bị cuốn trôi và rằng anh vẫn không có phương tiện để đi đến hòn đảo! Tương tự, vào lúc này chúng ta đã tìm thấy một thân thể con người giống như chiếc thuyền có thể đưa chúng ta đến hòn đảo giác ngộ trọn vẹn, hay phật quả. Nếu thay vì tận dụng thân thể này, chúng ta lại lãng phí nó vào những hoạt động vô nghĩa của cuộc sống này, thì đó sẽ lại điều bi thảm nhất. Sẽ không dễ dàng để tìm được một cơ hội như vậy trong tương lai.

Mục tiêu cao nhất của con người là đạt được giác ngộ hoàn hảo, trạng thái an lạc tối thượng trong đó mọi chướng ngại che khuất tâm trí được loại bỏ và mọi phẩm chất tốt đẹp như trí tuệ, từ bi và phương tiện thiện xảo đã được triển khai đầy đủ. Tuy vậy, chúng ta không thể đạt được mục tiêu tối hậu này chỉ bằng cách chờ đợi; mà cần sử dụng các phương pháp thích hợp để đưa chúng ta đến đó.

Những phương pháp để đạt được an lạc của giác ngộ viên mãn là gì? Đó là con đường của Kinh và Mật; không có phương pháp thứ ba. Trong hai phương pháp này, các kỹ thuật được tiết lộ trong Mật thừa vượt trội hơn những kỹ thuật được tiết lộ trong Kinh thừa. Mật tông không chỉ là con đường tối thượng dẫn đến giác ngộ viên mãn mà còn cực kỳ hiếm có. Như Je Tsongkhapa đã nói, giáo lý của Mật tông thậm chí còn hiếm hơn cả chư Phật bởi vì, mặc dù một ngàn vị Phật sáng lập sẽ xuất hiện trong Hiền kiếp Cát tường này, nhưng chỉ có vị thứ tư (Thích Ca), vị thứ mười một và vị cuối cùng sẽ dạy các con đường của Mật Tông.

Hiện tại, chúng ta có cơ hội tuyệt vời để thực hành giáo lý hiếm hoi và lợi ích này, vì vậy điều quan trọng là chúng ta phải phát triển một ý định mạnh mẽ để thực hành chúng thuần thục. Nếu giáo lý Đại Thừa biến mất khỏi thế giới này, chúng ta sẽ không có cơ hội để trở thành một vị phật. Do đó, trong khi vẫn có thể tiếp cận những giáo lý quý giá này, chúng ta nên chuyên tâm thực hành và cố gắng tích lũy một số kinh nghiệm về chúng.

Nguyên nghĩa của Mật Chú như sau: “Bí mật” chỉ ra rằng những phương pháp này nên được thực hành kín đáo. Nếu phô bày các thực hành của mình, chúng ta sẽ thu hút nhiều chướng ngại và lực lượng tiêu cực. Điều này giống như một người nào đó nói chuyện công khai và vô tư về viên ngọc quý mà người đó sở hữu, kết quả là, thu hút sự chú ý của những tên trộm. “Mantra” nghĩa là “bảo vệ tâm trí.” Chức năng của Mật Chú là cho phép chúng ta tiến triển nhanh chóng qua các giai đoạn của con đường đạo bằng cách bảo vệ tâm trí của mình tránh khỏi những hình tướng và quan niệm tầm thường.

Các thực hành và kinh văn của Mật tông cũng được gọi là Kim cương thừa, trong đó “kim cương” nghĩa là “bất hoại”, còn “thừa” nghĩa là “cỗ xe”. Trong bối cảnh này, “kim cương” ám chỉ tính không thể chia tách giữa phương pháp và trí tuệ, trong đó phương pháp là đại lạc tự phát, còn trí tuệ là hiểu biết không nhầm lẫn về tính không. Phương pháp là nguyên nhân cho Báo Thân của một vị Phật, còn trí tuệ là nguyên nhân cho Pháp Thân. Sự hợp nhất của phương pháp và trí tuệ là hợp nhất của đại lạc và tính không tự nhiên là duy nhất chỉ có ở Mật Tông, và là cách nhanh nhất để đạt được hai thân của một vị Phật.

Je Tsongkhapa giải thích rằng một thực hành Mật Tông đích thực phải có bốn thuộc tính, gọi là “bốn thanh tịnh trọn vẹn”. Đó là: thanh tịnh trọn vẹn của nơi chốn, thanh tịnh trọn vẹn của thân thể, thanh tịnh trọn vẹn của các thú vui, và thanh tịnh trọn vẹn của hành động. Việc thực hành bốn thanh tịnh trọn vẹn này không được tiết lộ trong giáo lý Kinh điển, mà chỉ có thể tìm thấy trong Mật điển. Mật điển khác Kinh điển ở chỗ thực hành đưa kết quả tương lai vào con đường hiện tại. Ví dụ, mặc dù chúng ta vẫn chưa đạt đến giác ngộ, khi thực hành Mật điển, chúng ta cố gắng ngăn chặn những hình tướng và quan niệm tầm thường về môi trường của mình và thay vào đó, quán tưởng môi trường xung quanh mình như một mandala của một Thần bản tôn. Tương tự, chúng ta thoát ly diện mạo thông thường của thân thể, các thú vui và hành động của mình, và thay vào đó, làm phát sinh mình như vị Thần bản tôn, quán tưởng các thú vui của mình như của một vị Phật và thực hiện những hành động giác ngộ. Bằng cách thực hành như vậy, chúng ta có thể đạt được Phật quả rất nhanh chóng. Bốn thực hành này là thiết yếu cho cả giai đoạn phát sinh và giai đoạn thành tựu của Mật tông, nhờ đó chúng tạo thành nền tảng cho những giáo lý được trình bày trong sách này, chẳng hạn như các hướng dẫn về nội hỏa (tummo).

Mật tông có bốn cấp độ: Hành động, Thực hiện, Yoga và Vô thượng Yoga. Cấp Hành động chủ yếu nhấn mạnh vào các hành động bên ngoài. Cấp Thực hiện nhấn mạnh ngang nhau vào cả hành động bên ngoài và bên trong. Cấp Yoga chủ yếu nhấn mạnh vào các hoạt động bên trong, còn cấp Vô thượng là cấp độ mật tông cao nhất.

Cả bốn cấp độ Mật tông đều chuyển hóa đại lạc thành con đường đạo, nhưng phương pháp chuyển hóa khác nhau tùy theo cấp độ thực hành. Trong cấp Hành động, thiền sinh tạo ra lạc bằng cách nhìn vào một nữ thần được quán tưởng, rồi sau đó chuyển hóa lạc đó thành con đường. Trong cấp Thực hiện, thiền sinh tạo ra lạc bằng cách trao đổi nụ cười với nữ thần, trong cấp Yoga bằng cách nắm tay nữ thân, vân vân. Trong cấp Vô thượng, thiền giả tạo ra lạc bằng cách ôm ấp phối ngẫu quán tưởng, còn ở các giai đoạn nâng cao, bằng cách gắn kết với phối ngẫu thực sự, sau đó chuyển hóa lạc đó thành con đường đạo. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng rất khó để sử dụng lạc như một phương pháp để đạt được giác ngộ, nhưng nếu có thể làm như vậy, chúng ta thực sự đạt được một thành tựu to lớn. Như đại thành tựu giả Saraha vĩ đại đã nói: “Mọi người đều phấn khích khi ân ái nhưng rất ít người có thể chuyển hóa lạc đó thành con đường đạo.”

Nhìn chung, Phật giáo dạy rằng dính mắc là một ảo tưởng cần phải tránh, và cuối cùng là từ bỏ, nhưng trong Mật tông có một phương pháp để chuyển hóa dính mắc thành con đường. Tuy nhiên, để thực hành phương pháp này, chúng ta phải rất khéo léo. Trong thực hành này, chúng ta sử dụng sự dính mắc để tạo ra đại lạc, rồi sau đó sử dụng tâm trí đại lạc đó để thiền về tính không. Chỉ khi làm được điều này thì đó mới là chuyển hóa dính mắc. Bản thân sự dính mắc không thể được sử dụng trực tiếp như một con đường vì nó là một ảo tưởng, và ngay trong Mật tông cuối cùng nó cũng phải bị từ bỏ. Trong thực hành Mật tông đích thực, an lạc được tạo ra từ thiền định dính mắc về tính không và do đó vượt qua mọi ảo tưởng, bao gồm cả bản thân sự dính mắc. Việc này tương tự như cách ngọn lửa sinh ra khi cọ xát hai miếng gỗ vào nhau, cuối cùng sẽ thiêu rụi miếng gỗ mà từ đó nó phát sinh.

Đối với những người thiếu kỹ năng, hoặc có tâm trí chưa được tu luyện, những thực hành chuyển hóa như vậy là không thể. Vì lý do này, các Yogi và thiền giả vĩ đại trong quá khứ đã nói rằng để đạt được giác ngộ của Mật điển, tâm trí của một người trước tiên phải được kiểm soát bằng cách tu luyện trong các giai đoạn Kinh điển của con đường. Nếu không xây dựng nền tảng vững chắc này thì hoàn toàn không có cách nào để đạt được kinh nghiệm thanh tịnh của Mật tông.

Tiết lộ những hướng dẫn này của Mật tông có thể nguy hiểm cho cả Đạo sư và đệ tử, nếu một trong hai người chưa đủ điều kiện. Ít nhất, cả hai phải có động cơ thích hợp. Một vị Thầy chỉ nên tiết lộ những phương pháp này vì lòng nhiệt thành lớn lao muốn truyền bá thánh Pháp vì lợi ích của người khác. Tiết lộ những phương pháp này vì bám chấp vào hạnh phúc của kiếp này, mong muốn có được danh vọng, quà tặng, vân vân, sẽ là nguyên nhân để tái sinh vào địa ngục sâu nhất.

Cũng sẽ rất nguy hiểm cho đệ tử khi nhận được các quán đỉnh và chỉ dẫn của Mật tông nếu người đó không có gắng giữ các thệ nguyện và cam kết; chỉ mong muốn tăng danh tiếng, tài sản, vân vân; hoặc chỉ muốn thu thập thông tin cho mục đích học thuật. Bất cứ điều nào trong số này, hoặc những động cơ thế tục tương tự, sẽ chẳng mang lại gì ngoài đau khổ trong tương lai.

Do đó, điều quan trọng là cả Đạo sư và đệ tử đều có tâm trí được kiểm soát và động lực hoàn hảo. Mặc dù chúng ta có thể tự gọi mình là phật tử và quy y tam bảo mỗi ngày. Nhưng chỉ riêng những việc này thôi thì không đủ tiêu chuẩn để thực hành Mật tông. Chúng ta cũng cần phát sinh động lực cao cả nhất, tâm bồ đề quý giá, và cống hiến hết mình để mang lại lợi ích cho người khác. Vì vậy, bất cứ khi nào thiền theo Mật tông, chúng ta nên bắt đầu bằng cách phát sinh bồ đề tâm trong khi đọc lời cầu nguyện sau:

Vì lợi ích của toàn thể chúng sinh

Tôi sẽ uống cam lộ của hướng dẫn này

Tôi có thể đạt được Phật quả ngay trong kiếp này

Thông qua con đường sâu sắc của Mật tông.


Sau đây là phần giới thiệu về Đại Ấn nói chung và văn bản này nói riêng. Mahamudra là một thuật ngữ tiếng Phạn gồm có hai phần: “maha” nghĩ là “vĩ đại”, còn “mudra” nghĩa là “ấn”. Trong hệ thống kinh điển Mahamudra, đại ấn ám chỉ tính không. Trong kinh Vua của sự tập trung, đức Phật nói:

Bản tính của mọi hiện tượng là đại ấn.

Ở đây, “bản tính” ám chỉ bản chất tối hậu của mọi hiện tượng, đó là tính không của chúng, hoặc thiếu vắng sự tồn tại cố hữu. Tính không này được gọi là “đại ấn” vì các hiện tượng không bao giờ thoát khỏi trạng thái thiếu vắng sự tồn tại cố hữu. Nhìn chung, tất cả Phật tử đều khẳng định bốn quan điểm:

1. Mọi thứ sinh ra đều tạm thời

2. Mọi thứ bị ô nhiễm đều là bản tính của khổ

3. Mọi hiện tượng đều vô ngã

4. Chỉ có niết bàn là an bình

Vì những quan điểm này là không thể bác bỏ, chúng được gọi là “bốn ấn”. Trong số này, ấn thứ ba được gọi là “đại ấn”. Vì tính không là bản tính của mọi hiện tượng nên nó được gọi là “ấn”, và vì sự giác ngộ trực tiếp về tính không cho phép chúng ta hoàn thành mục tiêu lớn là giải thoát hoàn toàn khỏi những đau khổ của luân hồi, nó cũng được gọi là “đại”.

Trong văn bản này, thiền Mahamudra được giải thích không theo hệ thống Kinh điển, mà theo giai đoạn thành tựu của Tối thượng Du Già Mật tông. Trong hệ thống này, “đại” ám chỉ đại lạc tự phát, còn “ấn” ám chỉ tính không. Do đó, trong Mật tông, Mahamudra là sự hợp nhất của đại lạc tự phát và tính không.

Theo Mật tông, Đại Ấn được chia thành hai giai đoạn: Đại Ấn nhân và Đại Ấn quả. Nhân và dành cho con đường dẫn đến giác ngộ trọn vẹn, vì vậy Đại Ấn nhân được thực hành trước khi đạt đến Phật quả. Đại Ấn quả là sự hợp nhất của Không Học Nữa, đó là trạng thái thực sự của Phật quả.

Đại Ấn nhân được chia thành hai giai đoạn liên tục: sự hợp nhất của lạc và không, và sự hợp nhất của hai chân lý. Sự hợp nhất đầu tiên xảy ra khi tâm trí chủ thể của đại lạc nhận ra tính không là đối tượng của nó. Đối tượng, tính không, là giống nhau trong cả Kinh và Mật; điểm khác biệt là tâm trí nhận ra tính không này. Chính tâm trí chủ thể của đại lạc làm cho thiền của Mật vượt trội hơn thiền của Kinh. Nhận ra tính không bằng tâm trí đại lạc tự nhiên là phương pháp nhanh nhất để đạt được giác ngộ trọn vẹn.

Cần lưu ý rằng đại lạc tự nhiên của giai đoạn thành tựu trong Mật tông không giống như khoái lạc thông thường được trải nghiệm ở đỉnh cao của quan hệ tính dục. Đại lạc tự nhiên chỉ được trải nghiệm khi, thông qua sức mạnh thiền định, chúng ta khiến các luồng khí đi vào, trú ngụ và hòa tan trong trung mạch và kết quả là giọt trắng tan ra và chảy trong trung mạch. Sử dụng đại lạc tự nhiên để giác ngộ tính không là thực hành cốt lõi của các bậc thầy Mật tông vĩ đại của Ấn Độ thời cổ như Saraha, Nagarjuna, Tilopa, Naropa, và Maitripa; và của các bậc thầy Tây Tạng vĩ đại nhuhw Marpa, Milarepa, Gampopa, và Je Tsongkhapa. Như trong quá khứ, cũng như ngày nay, con đường tối thượng của thiền giả Mật tông để đạt đến giác ngộ đầy đủ là sự hợp nhất của đại lạc tự nhiên và tính không

Giai đoạn thứ hai của Đại Ân nhân là sự hợp nhất của hai chân lý: chân lý thông thường và chân lý tối hậu. Trong bối cảnh này, thân huyễn thanh tịnh được gọi là chân lý thông thường, còn tịnh quang là chân lý tối hậu. Việc tụ hợp đồng thời hai chân lý này trong dòng tương tục của một người gọi là Đại Ấn của sự hợp nhất hai chân lý. Đây là Đại Ấn chín quả của Đại Ấn hợp nhất lạc và không. Vì vậy, Đại Ấn nhân bao gồm cả nhân và quả. Thông qua sức mạnh của việc hoàn thành Đại Ấn nhân hai giai đoạn này, chúng ta sẽ đạt được Đại Ấn quả, hay phật quả đích thực vốn sở hữu bảy phẩm chất ưu tú của sự hợp nhất với phối ngẫu. Đến đây kết thúc giải thích về các con đường chung của Mật tông.



NGUỒN GỐC CỦA DÒNG TRUYỀN SỞ HỮU HƯỚNG DẪN NÀY


Tất cả các pháp thiền có trong văn bản này đều đến từ đấng chiến thắng Kim Cang Trì và những bậc thầy mật tông vĩ đại của Ấn Độ thời cổ. Các kỹ thuật này được truyền từ các thầy Ấn Độ đến các thầy Tây Tạng và đến các thầy hiện tại trong một dòng truyền không gián đoạn từ thầy đến trò.

Mặc dù thiền Đại Ấn được thực hành bởi các thầy Ấn Độ thời cổ, hệ thống riêng của Đại Ấn được trình bày ở đây là một dòng truyền “khép kín” được truyền lại bởi đấng chiến thắng Kim Cang Trì cho đức phật trí tuệ Văn Thù, người sau đó truyền trực tiếp cho Je Tsongkhapa. Do đó, Tsongkhapa là vị thầy đầu tiên của loài người trong dòng truyền riêng này.

Các vị đạo sư thuộc dòng truyền khép kín của Kim cương thừa Đại Ấn như sau:

Kim Cương Trì

Văn Thù

Je Tsongkhapa

Togdan Jampal Gyatso

Baso Chokyi Gyaltsan

Drubchen Dharmavajra

Gyalwa Ensapa

Khadrub Sangye Yeshe

Panchen Losang Chokyi Gyaltsan

Drubchen Gendun Gyaltsan

Drungpa Tsondru Gyaltsan

Konchog Gyaltsan

Panchen Losang Yeshe

Losang Trinlay

Drubwang Losang Namgyal

Kachen Yeshe Gyaltsan

Phurchog Ngawang Jampa

Pachen Palden Yeshe

Khadrub Ngawang Dorje

Ngulchu Dharmabhadra

Yangchan Drubpay Dorje

Khadrub Tendzin Tsondru

Dorjechang Phabongkha Trinlay Gyatso

Yongdzin Dorjechang Losang Yeshe

Dorjechang Kelsang Gyatso Rinpoche

Gần đây, dòng truyền này được nắm giữ bởi Trinlay Gyatso, được biết đến rộng rãi hơn với tên Phabongka Rinpoche, là hiện thân của bản tôn Heruka của mật tông. Vị lama vĩ đại này giống như mặt trời của Pháp, soi sáng ý nghĩa ẩn giấu của cả Kinh và Mật. Ông đã giao dòng truyền thừa Đại Ấn cho người con trai tâm đạo của mình, Yongdzin Trijang Dorjechang, và chính nhờ lòng tốt và thẩm quyền của Người Hướng Dẫn Tinh Thần thánh thiện này mà văn bản hiện tại được hình thành.

Lời nguyện cầu tới các Đạo sư của dòng truyền Đại Ấn ở trong Phụ Lục III. Nếu thực sự quan tâm đến việc nghiên cứu và thực hành các pháp thiền được giải thích trong cuốn sách này, chúng ta cần nhận được gia trì từ các vị thầy của dòng truyền Đại Ấn bằng cách dâng một mandala và đọc lời cầu nguyện này. Do việc thực hành thành công phụ thuộc phần lớn vào sự gia trì và cảm hứng của các vị Hướng dẫn Tâm linh, nên người học viên thông thái sẽ không bỏ qua lời khuyên này.
 

Prahevajra

Registered

Phật tử
Reputation: 19%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
155
Điểm tương tác
13
Điểm
18
GIẢI THÍCH THỰC TẾ

VỀ CÁC HƯỚNG DẪN CỦA DÒNG TRUYỀN NÀY



Những hướng dẫn này được đưa ra dưới ba tiêu đề:

1. Các thực hành sơ bộ

2. Thực hành chính

3. Các giai đoạn kết thúc



CÁC THỰC HÀNH SƠ BỘ​

Để thực hành thành công các pháp tu Đại Ấn, chúng ta phải hoàn thành hai phần các pháp sơ bộ:

1. Các thực hành sơ bộ chung

2. Các thực hành sơ bộ riêng



CÁC THỰC HÀNH SƠ BỘ CHUNG


Những thực hành này chuẩn bị cho chúng ta những kỹ thuật cao cấp hơn của mật tông. Chúng thanh lọc những chướng ngại và ô nhiễn khác nhau của thân, khẩu, ý và do đó loại bỏ những trở ngại có thể cản trở việc thực hành thành công. Chúng cũng giúp tạo ra một kho năng lượng tích cực, hay công đức, tạo điều kiện cho sự chứng ngộ trong các thực hành cao cấp hơn được chín muồi trong tâm trí chúng ta.

Quá trình thanh lọc và tích lũy công đức này có thể được so sánh với cách một người nông dân chuẩn bị một cánh đồng để canh tác, trước tiên loại bỏ đá và cỏ dại có thể cản trở sự phát triển, rồi sau đó nuôi dưỡng bằng nước, phân bón, vân vân. Sự chuẩn bị như vậy đảm bảo một vụ mùa bội thu, cũng vậy, việc thực hành đúng các pháp sơ bộ đảm bảo cho thiền mật tông thành công.

Có bốn pháp sơ bộ chung:

1. Hướng dẫn về quy y và phát bồ đề tâm, cánh cổng vào Phật pháp và Đại thừa

2. Hướng dẫn cúng dường mandala, cánh cổng để tích lũy công đức

3. Hướng dẫn thiền quán và trì tụng Kim Cương Tát Đỏa, cánh cổng để thanh lọc tiêu cực và sa đọa

4. Hướng dẫn Guru Yoga, cánh cổng để nhận được gia trì

Nếu giải thích về bốn pháp này ở đây thì văn bản này sẽ trở nên quá dài. Những ai thực sự quan tâm đến thực hành Đại Ấn thì nên tham khảo các giải thích chính xác về các thực hành này, chẳng hạn như giải thích được đưa ra trong Hướng dẫn tới Tịnh độ Dakini, và có ý thức áp dụng các hướng dẫn này.

CÁC THỰC HÀNH SƠ BỘ KHÔNG PHỔ BIẾN

Như đã đề cập trước đó, có hai phần thiền trong Tối thượng Du Già Mật tông: giai đoạn phát sinh và giai đoạn thành tựu. Các kỹ thuật của Đại Ấn Mật thuộc về giai đoạn thành tựu. Giai đoạn này là các pháp sơ bộ không phổ biến, đi sau các yoga khác nhau của giai đoạn phát sinh. Có một thực hành giai đoạn phát sinh liên quan đến mỗi vị thần bản tôn của Tối thượng Mật. Những điều này được giải thích chi tiết trong Đại luận về các giai đoạn của Con đường Mật tông của Je Tsongkhapa và trong Đại dương Thành tựu của Khadrubje.

Có nhiều điều hơn thế ở giai đoạn phát sinh của Mật tông ngoài việc chỉ đơn thuần là phát sinh bản thân như một vị thần bản tôn cụ thể. Để một thực hành trở thành một thực hành của giai đoạn phát sinh thực sự, chúng ta phải phát sinh bản thân như một vị thần kết hợp với yoga đưa ba thân vào con đường. Nếu chúng ta muốn thực hành Đại Ấn Mật nhưng không thể nghiên cứu các văn bản được đề cập ở trên, trong đó các yoga này được giải thích chi tiết, thì ít nhất chúng ta cần nhận được hướng dẫn ngắn gọn về giai đoạn phát sinh từ một vị thầy Mật tông đủ tiêu chuẩn. Để nhận được những hướng dẫn như vậy và đưa chúng vào thực hành, trước tiên chúng ta phải nhận được quán đỉnh thích hợp của Tối thượng Mật.

Ví dụ, nếu đã nhận được quán đỉnh của Heruka, chúng ta nên thực hành giai đoạn phát sinh của nghi quỹ Heruka, chẳng hạn sadhana như Con đường nhanh chóng, trong phụ lục III, trước khi đi vào Đại Ấn. Nếu không thể thực hiện được, ít nhất chúng ta nên cố gắng thực hành theo phương pháp cực kỳ cô đọng sau đây.

Bắt đầu bằng cách ngồi trên bồ đoàn và đọc ba lần:

Tôi sẽ nương tựa vĩnh viễn

Vào Phật, Pháp, Tăng

Vì lợi ích của toàn thể chúng sinh

Tôi sẽ trở thành Heruka


Sau đó quán tưởng:

Toàn bộ thế giới và cư dân của chúng tan thành ánh sáng xanh, rồi tan vào tôi. Thân thể tôi dần tan thành ánh sáng đồng thời từ dưới và trên, dần dần trở nên nhỏ hơn và nhỏ hơn cho đến khi nó tan thành chữ HUM màu xanh lam ở tim tôi. Chữ HUM sau đó dần tan từ dưới lên thành nada. Cuối cùng, ngay cả nada cũng biến mất, tan thành tịnh quang không.

Vào lúc này, chúng ta nghĩ mạnh mẽ rằng tâm trí của chúng ta và tâm trí của Heruka hòa lẫn không thể phân biệt được, giống như nước hòa lẫn với nước. Chúng ta tập trung vào Pháp Thân tịnh quang này và phát sinh niềm kiêu hãnh thiêng liêng bằng cách nghĩ rằng:

Đây là tôi, tôi là Pháp Thân.

Đây là thiền ngắn gọn về việc đưa cái chết vào con đường của Pháp Thân. Nó chủ yếu có chức năng ngăn ngừa các hình tướng bình thường, tịnh hóa cái chết thông thường, làm chín muồi tịnh quang của giai đoạn thành tựu và gieo hạt giống để thành tựu pháp thân thực sự của một vị Phật.

Bây giờ quán tưởng:

Từ trạng thái tính không của pháp thân, tâm trí tôi ngay lập tức biến thành một chùm ánh sáng xanh lam nhỏ,chiều cao của một cánh tay, đứng trên một bồ đoàn mặt trời ở giữa một bông sen tám cánh có nhiều mằu sắc phong phú.

Nghĩ rằng:

Bây giờ tôi đã thành một Thân Hỷ Lạc (báo thân)

Và chúng ta phát triển niềm kiêu hãnh thiêng liêng của việc là Thân Hỷ Lạc. Đây là pháp thiền ngắn gọn về việc đưa trạng thái trung ấm vào con đường của Thân Hỷ Lạc. Nó chủ yếu hoạt động để thanh lọc trạng thái trung ấm thông thường, khiến cho thân huyễn của giai đoạn thành tựu chín muồi, và gieo hẹt giống để thành tựu Thân Hỷ Lạc thực sự của một vị phật.

Tiếp tục:

Ngay lập tức, tâm trí tôi, dưới dạng một luồng ánh sáng xanh lam, biến thành Heruka, màu xanh lam với một mặt và hai tay, cầm chày kim cương và chuông, ôm Vajravahari.

Nghĩ rằng:

Bây giờ tôi đã trở thành Hóa Thân

Và chúng ta phát triển niềm kiêu hãnh thiêng liêng của việc là Hóa Thân. Đây là thiền ngắn gọn về việc đưa tái sinh vào con đường Hóa Thân. Nó chủ yếu có chức năng thanh lọc sự tái sinh thông thường, để làm chín muồi các thực hành giai đoạn thành tựu về việc hòa trộn Hóa Thân, và gieo hạt giống để hoàn thành Hóa Thân thực sự của đức phật. Lúc này, chúng ta có thể thiền về thân của Heruka hoặc chúng ta có thể tụng mật chú của ngài. Nếu chọn cách sau, chúng ta tập trung vào chữ HUM ở tâm luân mình rồi quán tưởng vòng mật chú xoay quanh nó khi trì tụng.

Không có thực hành giai đoạn phát sinh nào ngắn gọn hơn pháp này. Chỉ nên thực hành thiền Đại Ấn sau đây nếu chúng ta đã thực hiện ít nhất một lần pháp này trước đó. Nếu có một vị thần bản tôn riêng tư khác, chẳng hạn như Vajrayogini hoặc Yamantaka, chúng ta vẫn có thể thực hành giai đoạn phát sinh ngắn gọn này với những thay đổi tương ứng về vị thần, màu sắc, pháp khí, vân vân.
 

Prahevajra

Registered

Phật tử
Reputation: 19%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
155
Điểm tương tác
13
Điểm
18
KINH MẠCH, KHÍ VÀ GIỌT



THỰC HÀNH CHÍNH


Như đã giải thích trong phần giới thiệu về con đường chung của Mật tông, có ba phần trong thực hành Đại Ấn:

1. Cách thực hành Đại Ấn là sự hợp nhất của lạc và không

2. Cách thực hành Đại Ấn là sự hợp nhất của hai chân lý

3. Cách thực hành Đại Ấn là sự hợp nhất của Không Học Nữa, trạng thái sở hữu bảy phẩm chất ưu tú của việc kết hợp với phối ngẫu.



CÁCH THỰC HÀNH ĐẠI ẤN

LÀ SỰ HỢP NHẤT CỦA LẠC VÀ KHÔNG​



Đây là thực hành đầu tiên của Đại Ấn nhân, được trình bày thành hai phần:

1. Giải thích phương pháp phát sinh ra chủ thể nhận thức, đại lạc tự phát

2. Giải thích phương pháp nhận ra chính xác đối tượng nhận thức, tính không



GIẢI THÍCH PHƯƠNG PHÁP PHÁT SINH

CHỦ THỂ NHẬN THỨC, ĐẠI LẠC TỰ PHÁT


Có hai phương pháp phát sinh đại lạc tự nhiên:

1. Thâm nhập vào các điểm chính xác trên thân thể mình

2. Thâm nhập vào các điểm chính xác trên thân người khác



THÂM NHẬP CÁC ĐIỂM CHÍNH XÁC TRÊN THÂN MÌNH​

Phần này có bốn mục:

1. Xác định mười cánh cửa mà khí có thể đi vào trung mạch

2. Lý do vì sao khí có thể đi vào trung mạch bằng cách thâm nhập các điểm chính xác qua các cánh cửa này

3. Giải thích các chức năng khác nhau của chúng

4. Giải thích rõ ràng về các giai đoạn thiền về nội hỏa (tummo)



XÁC ĐỊNH MƯỜI CÁNH CỬA

MÀ KHÍ CÓ THỂ ĐI VÀO TRUNG MẠCH​

Chúng ta cần biết mười cảnh cửa mà quá đó các luồng khí có thể đi vào trung mạch vì không thể phát sinh đại lạc tự nhiên nếu không đưa các luồng khí vào trung mạch, và mười cửa này là những cánh cửa duy nhất mà các luồng khí có thể đi vào trung mạch.

Ngoại trừ lúc chết và trong lúc ngủ, các luồng khí thường sẽ không đi vào trung mạch trừ khi chúng ta thực hành thiền định đúng cách. Do đó, để có thể thiền về tính không với tâm đại lạc, hành giả mật tông phải phát sinh đại lạc tự nhiên bằng cách cố ý đưa các luồng khí vào trung mạch thông qua bất kỳ cửa nào trong mười cánh cửa bằng lực tập trung nhất điểm.

Trung mạch bắt đầu từ điểm giữa hai lông mày và chạy lên theo hình vòng cung đến đỉnh đầu. Từ đó, nó đi xuống theo một đường thẳng đến đỉnh cơ quan sinh dục. Mười cửa dọc theo trung mạch như sau:

1. Đỉnh trên của trung mạch: điểm giữa hai lông mày

2. Đỉnh dưới: đỉnh cơ quan sinh dục

3. Trung tâm của luân xa đỉnh đầu: nằm trên đỉnh hộp sọ

4. Trung tâm của luân xa cổ họng: nằm gần phía sau họng

5. Trung tâm luân xa tim: nằm giữa ngực

6. Trung tâm luân xa rốn

7. Trung tâm luân xa bí mật, dưới rốn bốn ngón tay

8. Trung tâm luân xa ngọc quý, nằm ở giữa cơ quan sinh dục, gần đỉnh của nó

9. Luân xa khí: luân xa ở giữa trán, có sáu nan hoa

10. Luân xa lửa: trung tâm luân xa nằm giữa luân xa cổ họng và luân xa tim, có ba nan hoa

Cũng như chúng ta có thể vào nhà qua bất cứ cánh cửa nào dẫn vào từ bên ngoài, khí cũng có thể đi vào trung mạch qua bất kỳ cánh cửa nào trong mười cửa này.

Để thâm nhập vào các điểm chính xác trong thân, chúng ta phải tập trung vào các kinh mạch, các luồng khí, các giọt trắng và đỏ. Trong các kinh văn mật tông, ba thứ này thường được gọi là “thân kim cương”. Kim cương thực sự là đại lạc tự phát, phát sinh tùy thuộc vào các kinh mạch, khí và giọt. Ở đây, kết quả tương lai được mang về hiện tại bằng cách quy kết tên của kết quả vào nguyên nhân của nó’ vì vậy có tên là “thân kim cương”. Nếu muốn thiền về thân kim cương, chúng ta cần hiểu rõ về các kinh tĩnh, khí động và các giọt chứa đựng. Bây giờ là giải thích chi tiết về những điều này.



CÁC KINH MẠCH TĨNH


Có ba kinh mạch chính: kinh trung mạch, kinh mạch phải và kinh mạch trái. Trung mạch giống như trụ của một chiếc ô, chạy qua trung tâm của mỗi luân xa kinh mạch, còn hai kinh mạch còn lại chạy ở hai bên của nó. Trung mạch có màu xanh lam nhạt ở ngoài và có bốn thuộc tính: (1) nó rất thẳng, giống như thân cây chuối, (2) bên trong nó có màu đỏ dầu, (3) nó rất trong và trong suốt, giống như ngọn nến, và (4) nó rất mềm và dẻo, giống như cánh sen.

Trung mạch nằm chính xác ở giữa hai nửa trái phải của thân (nhìn từ phía trước), nhưng gần sau lưng hơn là trước ngực (nhìn ngang). Ngay trước cột sống có kênh sinh mạng, khá dày, ở phía trước nó là trung mạch. Như đã đề cập từ trước, nó bắt đầu tại điểm giữa hai lông mày, từ đó nó đi theo hình vòng cung lên đỉnh đầu, rồi đi xuống theo đường thằng đến đỉnh cơ quan sinh dục, Mặc dù tên gọi phổ biến nhất của nó là trung mạch, nhưng nó cũng được gọi là “hai sự từ bỏ” vì việc tụ hợp các luồng khí vào kinh mạch này khiến các hoạt động tiêu cực liên quan đến các luồng khí của hai mạch trái phải bị từ bỏ. Nó cũng được gọi là “mạch tâm trí”, hoặc “Rahu”.

Cả hai bên của trung mạch, không có khoảng không xen kẽ, là các mạch phải và trái. Mạch phải có màu đỏ và trái là màu trắng. Mạch phải bắt đầu ở đầu lỗ mũi phải, còn mạch trái ở đầu lỗ mũi trái. Từ đó, cả hai đều đi lên theo hình vòng cung đến đỉnh đầu, hai bên của trung mạch. Từ đỉnh đầu xuống đến rốn, ba mạch này thẳng và kề cận nhau. Khi mạch trái tiếp tục xuống dưới tầm của rốn, nó cong một chút về bên phải, tách ra một chút khỏi trung mạch và tái hợp ở đỉnh cơ quan sinh dục. Ở đó có chức năng chứa và giải phóng tinh trùng, máu và nước tiểu. Khi mạch phải tiếp tục xuống dưới tầm của rốn, nó cong một chút về bên trái và kết thúc ở đầu hậu môn, nơi có chức năng giữ vào thải phân, vân vân.

Các tên khác của mạch phải là “mạch mặt trời”, “mạch lời nói”, và “mạch của chủ thể nhận thức”. Tên gọi cuối cùng chỉ ra rằng các luồng khí chảy qua mạch này làm phát sinh các khái niệm về tâm trí chủ quan. Các tên gọi khác của mạch trái là “mạch mặt trăng”, “mạch thân thể”, và “mạch của đối tượng được nhận thức”, tên cuối cùng chỉ ra rằng các luồng khí chảy qua mạch này làm phát sinh các khái niệm về đối tượng khách quan.

Các mạch phải và trái quấn quanh trung mạch ở nhiều vị trí khác nhau, do đó hình thành nên mạch nút thắt. Bốn nơi mà các nút thắt này xuất hiện, theo thứ tự lên cao dần, là luân xa rốn, luân xa tim, luân xa họng, và luân xa đỉnh đầu. Tại mỗi nơi này, ngoại trừ ở tầm tim, có một nút thắt đôi được hình thành bởi một chỗ uốn khúc duy nhất của mạch phải và một chỗ uốn khúc duy nhất của mạch trái. Khi các mạch phải và trái đi lên những nơi này, chúng uốn quanh trung mạch bằng cách vượt qua phía trước rồi sau đó vòng lại xung quanh nó. Sau đó, chúng tiếp tục đi lên đến nút tiếp theo. Ở tầm tim, điều tương tự cũng xảy ra, ngoại trừ rằng ở đây có một nút thắt sáu vòng được tạo thành bởi ba vòng chồng lên nhau của mỗi mạch bên cạnh.

Bốn nơi mà các nút thắt này xuất hiện là bốn trong sáu luân xa chính. Vì việc quán tưởng các luân xa này rõ ràng sẽ trở nên quan trọng sau này, chúng sẽ được giải thích ngắn gọn ở đây. Tại mỗi luân xa chính trong nhóm sáu có số lượng nan hoa, hoặc cánh hoa khác nhau, phân nhánh từ trung mạch theo cùng cách mà các nan của một chiếc ô phân nhánh từ trụ trung tâm. Vì vậy, tại luân xa đỉnh đầu, được gọi là “luân xa đại lạc”, có ba mươi hai cánh hoa hoặc nan hoa kinh mạch như vậy, tất cả đều có màu trắng. Trung tâm là hình tam giác với đỉnh hướng về phía trước. (Điều này ám chỉ hình dạng của nút thắt uốn quanh mà các nan hoa xuất phát ra từ đó như được thấy từ trên đỉnh). Ba mươi hai nan hoa này cong xuống dưới như các nan của một chiếc ô thẳng đứng. Mô tả về luân xa này và ba luân xa chính khác có nút thắt được đưa ra trong Biểu đồ 1.



Biểu Đồ 1: Bốn luân xa chính



Vị trí​
Tên​
Hình dạng ở trung tâm​
Số nan hoa​
Màu sắc​
Hướng uốn cong​
Đỉnh đầu​
Luân xa đại lạc​
Tam giác​
32​
Trắng​
Xuống​
Cổ họng​
Luân xa hoan hỷ​
Tròn​
16​
Đỏ​
Lên​
Tim​
Luân xa Pháp​
Tròn​
8​
Trắng​
Xuống​
Rốn​
Luân xa hóa hiện​
Tam giác​
64​
Đỏ​
Lên​


Bốn luân xa này chứa tổng cộng 120 nan hoa. Đối với hai luân xa chính còn lại, luân xa ở vị trí bí mật có 32 năn hoa màu đỏ cong xuống, còn luân xa ngọc quý có 8 nan hoa màu trắng cong lên. Cũng cần lưu ý rằng theo một số văn bản, các nan hoa ở đỉnh đầu, rốn và vị trí bí mật có thể được hình dung là có nhiều màu sắc khác nhau.

Vì luân xa tim có tầm quan trọng đặc biệt, nên bây giờ chúng tôi sẽ mô tả chi tiết hơn. Tám nan hoa hoặc cánh hoa của nó được sắp xếp theo hướng chính và hướng trung gian, với phía trước là hướng đông. Trong mỗi nan hoa chủ yếu trôi chảy luồng khí hỗ trợ một nguyên tố cụ thể như được chỉ ra trong Biểu đồ 2.

Từ mỗi một trong 8 nan hoa của luân xa tim, ba kinh mạch tách ra, tạo thành tổng cộng 24 kinh mạch. Đây là các kinh mạch của 24 vị trí. Tất cả đều bao gồm trong ba nhóm tám: các kinh mạch của luân xa tâm trí, có màu xanh lam và chủ yếu chứa khí; các kinh của luân xa lời nói, màu đỏ, chủ yếu chứa các giọt đỏ; các kinh mạch của luân xa thân có màu trắng, chủ yếu chứa các giọt trắng. Mỗi kinh mạch đi đến một nơi khác nhau trong thân thể. Đó là 24 vị trí bên trong. Khi thực hành sadhana Heruka mở rộng, chúng ta hình dung các vị thần của mandala thân ở những nơi này.

Những đỉnh bên ngoài của tám kinh mạch thuộc luân xa tâm trí kết thúc tại: (1) chân tóc, (2) đỉnh đầu, (3) tai phải, (4) gáy, (5) tai trái, (6) lông mày (giữa hai lông mày), (7) hai mắt, và (8) hai vai. Những đỉnh của luân xa lời nói kết thúc tại: (9) hai nách, (10) hai vú, (11) rốn, (12) chóp mũi, (13) miệng, (14) cổ họng, (15) tim (giữa hai vú), và (16) hai tinh hoàn hoặc hai bên âm đạo. Cuối cùng, luân xa thân thể kết thúc ở: (17) đỉnh cơ quan sinh dục, (18) hậu môn, (19) hai đùi, (20) hai bắp chân, (21) tám ngón tay nhỏ và tám ngón chân nhỏ, (22) đỉnh bản chân, (23) hai ngón tay cái và hai ngón chân cái, (24) hai đầu gối.

Mỗi một trong 24 kinh mạch này chia thành ba nhánh, được phân biệt bởi các yếu tố chính là khí, giọt đỏ và giọt trắng, chảy qua chúng. Mỗi một trong 72 mạch này sau đó chia thành một nghìn, tạo thành 72 nghìn mạch. Điều quan trọng đối với một hành giả mật tông là phải quen thuộc với sự sắp xếp của các mạch, vì, sẽ được giải thích sau, chính nhờ việc kiểm soát được khí và giọt chảy qua các mạch này mà sự hợp nhất của đại lạc tự nhiên và tính không được thành tựu.

Các luồng khí trong thân thể của một người bình thường chảy qua hầu hết các mạch này ngoại trừ trung mạch. Vì các luồng khí này là không trong sạch, các tư tưởng phong phú mà chúng hỗ trợ cũng không trong sạch, cho nên, miễn là các luồng khí này tiếp tục chảy qua các mạch ngoại vi, chúng sẽ tiếp tục hỗ trợ các quan niệm tiêu cực khác nhau khiến chúng ta bị mắc kẹt trong luân hồi. Tuy nhiên, thông qua sức mạnh thiền định, những luồng khí này có thể được đưa vào trung mạch, nơi chúng không còn khả năng hỗ trợ sự phát triển của các khái niệm thô thiển về hình tướng nhị nguyên. Với một tâm trí thoát khỏi hình tướng nhị nguyên, chúng ta sẽ có khả năng đạt được giác ngộ trực tiếp về chân lý tối hậu, tính không. Một diễn giải chi tiết hơn về thiền quán này và các phương tiện để kiểm soát các kinh mạch, khí, và giọt sẽ được đưa ra sau.

Tương ứng với 24 vị trí bên trong của mandala thân Heruka là 24 vị trí bên ngoài, nằm ở nhiều địa điểm khác nhau trên khắp thế giới này. Những hành giả có nghiệp thanh tịnh có thể thấy những vị trí bên ngoài của Heruka này là Tịnh Độ, nhưng những người có nghiệp bất tịnh chỉ thấy chúng là những nơi bình thường.



Biểu đồ 2: Các nan hoa của luân xa tim



Phương hướng​
Khí hỗ trợ​
Đông​
Thuộc nguyên tố đất​
Bắc​
Thuộc nguyên tố gió​
Tây​
Thuộc nguyên tố lửa​
Nam​
Thuộc nguyên tố nước​
Đông nam​
Thuộc nguyên tố sắc​
Tây nam​
Thuộc nguyên tố hương​
Tây bắc​
Thuộc nguyên tố vị​
Đông bắc​
Thuộc nguyên tố xúc​


CÁC KHÍ CHUYỂN ĐỘNG

Ngược lại với các kinh mạch tĩnh, các luồng khí bên trong được gọi là “khí chuyển động” vì chúng chảy qua các kinh mạch.






BIỂU ĐỒ 3: CÁC KHÍ GỐC RỄ





Sự sống
Hỗ trợ
Hướng xuống – đào thảiHướng lên
Di chuyển
Cân bằng
An trú
Tràn ngập
Màu sắcTrắngVàngĐỏXanh
Vàng
Lam nhạt
Phật giaA súcBảo sinhDi đàBất khôngĐại nhật
Nguyên tốNướcĐấtLửaGióKhông gian
Vị tríTimHậu môn và cơ quan sinh dụcCổ họngRốnCả phần trên và dưới thân thể, chủ yếu 360 khớp
Chức năngHỗ trợ và duy trì sự sốngGiữ lại và thải ra nước tiểu, phân, tinh dịch, máu, v.v..Nói, nuốt, v.v..Khiến nội hỏa bùng lên, tiêu hóa thức ăn, đồ uống. v.vKhiến cơ thể đến và đi, cho phép cử động, nâng, đặt
HướngTừ cả hai lỗ mũi. Nhẹ nhàng hướng xuốngTừ cả hai lỗ mũi, ngang, nặng nề hướng tớiTừ lỗ mũi phải, hướng lên mạnh mẽTừ lỗ mũi trái, chuyển sang phải từ rìa lỗ mũi nàyKhí này không chảy qua các lỗi mũi trừ lúc chết



Một số người tin rằng chỉ có chất lỏng như máu chảy qua các kinh mạch của thân thể, nhưng điều này không đúng. Trên thực tế, các chất lỏng này lưu thông trong thân thể chỉ vì sự chuyển động của các luồng khí. Nếu không có sự chuyển động này, các hệ thống lưu thông khác không thể hoạt động. Tuy nhiên cần nhớ rằng các luồng nội khí này vi tế hơn nhiều so với không khí bên ngoài.

Có năm luồng khí gốc và năm luồng khí nhánh.

Năm gốc là:

1. Khí hỗ trợ sự sống

2. Khí hướng xuống – đào thải

3. Khí hướng lên – chuyển động

4. Khí cân bằng – an trú

5. Khí tràn ngập

Năm nhánh là:

6. Khí chuyển động

7. Khí chuyển động mãnh liệt

8. Khí chuyển động hoàn hảo

9. Khí chuyển động mạnh mẽ

10. Khí chuyển động chắc chắn

Mỗi một trong năm luồng khí gốc có sắc đặc điểm để nhận biết: (1) màu sắc, (2) phật gia, (3) nguyên tố mà nó hỗ trợ, (3) vị trí chính hoặc căn bản của nó, (5) chức năng, (6) hướng của nó (cách nó rời khỏi lỗ mũi khi thở ra). Những thông tin này được tóm lược trong Biểu đồ 3.

Nếu quen thuộc với những đặc điểm này, chúng ta có thể nhận ra luồng khí nào đang chảy. Khả năng này trở nên quan trọng ở giai đoạn sau của thiền định. Như đã đề cập ở trên, mỗi luồng khí gốc đóng vai trò hỗ trợ cho một nguyên tố cụ thể. Luồng khí đầu tiên, còn được gọi là “khí của nguyên tố nước”, chịu trách nhiệm gia tăng máu, tinh trùng và các chất lỏng khác trong cơ thể. Tương tự, luồng khí thứ hai, “khí của nguyên tố đất”, chịu trách nhiệm phát triển xương, răng, móng; luồng khí thứ ba, “khí của nguyên tố lửa”, làm tăng nhiệt độ cơ thể; luồng khí thứ tư, “khí của nguyên tố gió”, làm tăng cường dòng chảy của nguyên tố gió qua các kinh mạch, và luồng thứ năm, “khí của nguyên tố không gian”, làm tăng kích thước của không gian và các khoang bên trong cơ thể và do vậy liên quan đến sự sinh trưởng.

Đối với năm luồng khí nhánh, được gọi như vậy vì tất cả chúng đều phân nhánh từ luồng khí hỗ trợ sự sống, nằm ở trung tâm tim. Mỗi luồng khí chảy đến cánh cửa của một năng lực giác quan cụ thể, do đó cho phép sự nhận biết liên quan đến năng lực tương ứng di chuyển đến đối tượng thích hợp của nó. Màu sắc và chức năng của mỗi luồng khí nhánh được tóm tắt trong Biểu Đồ 4.



Biểu Đồ 4: Các luồng khí nhánh



Tênmàu sắcChức năng
Khí chuyển độngĐỏCho phép thị giác di chuyển đến các hình thể
Khí chuyển động mãnh liệtXanh lamCho phép thính giác di chuyển tới âm thanh
Khí chuyển động hoàn hảoVàngCho phép khứu giác di chuyển đến các mùi
Khí chuyển động mạnhTrắngCho phép vị giác di chuyển đến các vị
Khí chuyển động xác địnhXanh láCho phép xúc giác di chuyển đến các đối tượng xúc chạm


Trong mười luồng khí gốc và nhánh, quang trọng nhất đối với thiền mật tông là khí hỗ trợ sự sống. Luồng khí này có ba cấp độ: thô, vi tế và rất vi tế. Đó là luồng khi rất vi tế di chuyển từ kiếp này sáng kiếp khác, hỗ trợ cho tâm trí rất vi tế. Khí rất vi tế này và tâm trí rất vi tế không bao giờ tách rời nhau, đó là lý do vì sao khí rất vi tế được gọi là “bất hoại”. Khí bất hoại nằm trong một không bào nhỏ bên trong trung mạch ở giữa luân xa tim. Nó được bao bọc ngay trong trung tâm của một quả cầu nhỏ, giọt bất hoại, được hình thành bởi các giọt trắng và đỏ rất vi tế.

Chúng ta cần có kiến thức sâu sắc về khí hỗ trợ sự sống vì nó là đối tượng thiền định trong các thực hành giai đoạn thành tựu như niệm kim cương. Thực hành này, được thực hiện bên trong luân xa tim, là một phương pháp để nởi lỏng các nút thắt ở tim. Việc nới lỏng các nút thắt này là điều cần thiết nếu muốn thành công trong thực hành Đại Ấn của chúng ta.
 

Prahevajra

Registered

Phật tử
Reputation: 19%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
155
Điểm tương tác
13
Điểm
18
CÁC GIỌT

Có hai loại giọt trong cơ thể: giọt trắng và giọt đỏ. Giọt trắng là nguyên chất tinh khiết của tinh dịch trắng, còn giọt đỏ là nguyên chất tinh khiết của máu. Cả hai đều có dạng thô và tinh. Giọt trắng và đỏ chảy ra ngoài trung mạch là giọt thô. Trung mạch chứa đựng cả giọt thô và tinh.

Tọa vị chính của giọt trắng (còn được gọi là bồ đề tâm trắng) là luân xa đỉnh đầu, và từ đây mà tinh dịch trắng khởi nguồn. Tọa vị chính của giọt đỏ là luân xa rốn, và từ đây mà máu bắt nguồn. Giọt đỏ ở rốn cũng là nền tảng của hơi ấm trong cơ thể và là cơ sở để đạt được nội hỏa, hay tummo, các chứng ngộ. Khi các giọt tan ra và chảy qua các kinh mạch, chúng tạo thành kinh nghiệm cực lạc.

Đối với các hành giả mật tông, các kinh mạch, khí, và giọt là nền tảng để đạt được đại lạc tự nhiên. Những chúng sinh có cơ thể không được phú cho ba điều này sẽ không có cơ hội thực hành Mật điển Vô thượng Yoga. Vì vậy, cơ thể con người là phương tiện hoàn hảo cho các thiền định mật tông, đó là nguyên nhân khiến nó được coi là rất quý giá. Nói chung, để thực hành Mật điển Vô thượng Yoga, người ta phải là một con người được sinh ra từ tử cung mẹ, sở hữu sáu yếu tố: đất, nước, lửa, gió, mạch và giọt; hoặc theo cách liệt kê khác: xương, tủy và giọt trắng lấy từ cha, và thịt, da và máu lấy từ mẹ.



Nguyên nhân vì sao khí có thể đi vào trung mạch bằng cách xuyên qua những điểm chính xác nhờ những cánh cửa này


Để đưa khí vào trung mạch, chúng ta phải thực hành thiền định tập trung sự chú ý của mình vào một trong mười cửa được đề cập bên trên. Các thực hành của Heruka, Guhyasamaja, Vajrayogini, vân vân, bao gồm các phương pháp kỹ thuật khác nhau để thâm nhập vào những điểm này. Trong một số phương pháp, sự chú tâm được tập trung vào trung tâm của luân xa tim, trong những phương pháp khác là trung tâm của luân xa rốn, còn trong những phương pháp khác là ở đầu trên và dưới của trung mạch. Theo hệ thống được nêu ở trong Sáu Yoga của Naropa, các luồng khí đi vào trung mạch thông qua cánh cửa của luân xa rốn. Đây cũng là cánh cửa được sử dụng bởi hệ thống hiện tại của thiền Đại Ấn. Khi tự tin rằng các luồng khí có thể đi vào trung mạch qua luân xa rốn, chúng ta cũng sẽ biết cách khiến chúng có thể đi vào qua chín cánh cửa khác.

Như đã đề cập trước đó, có 64 nan hoa của luân xa rốn, hay luân xa xuất sinh. Các mạch giữa, phải và trái đi lên qua trục của luân xa này, mỗi mạch phải và trái cuộn quanh một lần để tạo thành nút thắt đôi ở đó. Ở trung tâm của nút thắt này, bên trong trung mạch, có một không bào nhỏ giống như một bong bóng khí nhỏ. Không bào này là điểm thâm nhập khi thiền về nội hỏa, hay tummo. Khi thực hiện thiền nội hỏa, chúng ta tập trung sự chú ý của mình vào không bào này và hình dung rõ ràng một chữ AH ngắn bên trong nó. Tập trung nhất niệm vào chữ AH ngắn này được gọi là “thâm nhập vào điểm chính xác trong luân xa rốn của thân kim cương”. Nếu chúng ta thiền về tâm trí của mình đến khi hòa nhập không thể phân biệt được với AH ngắn và thực hành thiền định này nhiều lần với sự tập trung mạnh mẽ và ổn định, chúng ta sẽ thành công trong việc đưa các luồng khí vào kênh trung tâm tại thời điểm này.

Tại sao thiền này lại khiến các luồng khí đi vào trung mạch? Lý do là các luồng khí bị điều khiển và tâm trí điều khiển chúng là không thể tách rời, giống như một cơ thể và cái bóng của nó, vì vậy, nếu tâm trí tập trung trong một không bào bên trong trung mạch thì các luồng khí cũng phải gom tụ vào đó. Thực hành này mạnh mẽ và nhất quán sẽ khiến trung mạch dần dần mở ra. Điều này giải thích cách các luồng khí có thể được đưa vào trung mạch thông qua luân xa rốn, và theo cách tương tự, chúng ta có thể hiểu cách các luồng khí có thể đi vào trung mạch thông qua bất cứ cửa nào trong chín cửa còn lại.

Điều quan trọng nhất là phải rất chính xác khi thâm nhập vào các điểm này, xác định vị trí chính xác của chúng ở chính giữa trục trung tâm của các luân xa trong trung mạch. Đôi khi, thay vì AH ngắn, các chữ khác có thể được quán tưởng trong các không bào. Ví dụ, trong một số thiền định, RAM được quán tưởng ở rốn và trong những thiền định khác, HUM hoặc một giọt nhỏ được quán tưởng ở tim.

Một phương pháp nhanh chóng để tập hợp các luồng khí vào trong trung mạch là thực hành thâm nhập vào các điểm chính xác trong khi giữ hơi thở cái bình, việc này sẽ được giải thích bên dưới. Khi các luồng khí đã đi vào trung mạch, đại lạc tự nhiên có thể được phát sinh mà không gặp khó khăn gì. Các luồng khí chảy bên trong trung mạch cực kỳ có lợi và thúc đẩy các cấp chứng ngộ. Thông thường, vì các luồng khí của chúng ta di chuyển trong các kinh mạch phải và trái, chúng làm nảy sinh những tư tưởng khái niệm thô gây trở ngại cho sự tập trung nhất điểm và khiến việc tập trung của chúng ta trở nên phân tán, nhưng khi các luồng khí ở trong trung mạch, chúng không hỗ trợ những ý nghĩ khái niệm như vậy. Mọi sự xao lãng khái niệm thô đều được xoa dịu và việc tập trung thiền định của chúng ta trở nên mạnh mẽ và xuyên thấu. Do đó, có thể giữ vững bất kỳ đối tượng nào mà ta chọn với sự tập trung không dao động.



GIẢI THÍCH CÁC CHỨC NĂNG KHÁC NHAU CỦA CHÚNG


Nhìn chung, bất cứ luồng khí nào cũng có thể được đưa vào trung mạch nhờ việc xuyên thấu bất kỳ cửa nào trong mười cửa. Tuy nhiên, trong giai đoạn thành tựu, việc thâm nhập mỗi luân xa sẽ thực thi một chức năng khác nhau. Thâm nhập vào luân xa đỉnh đầu làm tăng thêm các giọt trắng, nhập vào luân xa cổ họng làm thực hành giấc mộng trở nên rất mạnh mẽ, nhập vào luân xa tim giúp chúng ta duy trì sự hiện diện của tịnh quang, nhập vào luân xa rốn làm gia tăng nội hỏa, nhập vào luân xa bí mật thúc đẩy kinh nghiệm cực lạc mạnh mẽ, còn nhập vào luân xa ở đầu cơ quan sinh dục sẽ tăng cường trải nghiệm cực lạc và khiến cho giấc ngủ nhanh, sâu và dài.

Tại sao khả năng cuối cùng lại quan trọng? Thiền định mật tông sử dụng giấc ngủ làm con đường tâm linh nên cần phải rơi vào giấc ngủ thật nhanh và ngủ trong thời gian dài. Để đạt được điều này, họ thâm nhập vào điểm chính xác của luân xa cơ quan sinh dục ngay trước khi chìm vào giấc ngủ, rồi sau đó tu luyện trong các thực hành của giai đoạn thành tựu trong giấc ngủ kéo dài của họ. Tuy nhiên, nếu không thể thực hành giai đoạn thành tựu khi thức, chúng ta cũng sẽ không thể thực hành nó khi ngủ. Thực hành giai đoạn thành tựu trong lúc ngủ giúp chúng ta có thể thực hành nó trong quá trình chết, đó là thời điểm quan trọng nhất để thực hành.

Khi chết, chúng ta cần có khả năng thực hành ba phương pháp đặc biệt: mang tịnh quang của cái chết vào con đường của Pháp Thân; mang trạng thái trung ấm vào con đường của Báo Thân, và mang sự tái sinh vào con đường của Hóa Thân. Để thành công trong những pháp này, chúng ta cần chuẩn bị trước bằng cách tu luyện trong giai đoạn thành tựu bằng cách mang tịnh quang của giấc ngủ vào con đường của Pháp Thân, giấc mộng vào con đường Báo Thân, và tỉnh giấc vào con đường của Hóa Thân. Vì vậy, thiền giả mật tông cố gắng ở lại trong một thời gian dài với kinh nghiệm tịnh quang của giấc ngủ để thực hành những phương pháp này.

Những người bình thường có trải nghiệm rất ngắn về tịnh quang của giấc ngủ, nhưng họ không thể nhận ra kinh nghiệm này hoặc duy trì nó trong thời gian dài. Tuy nhiên, mọi người đều có tiềm năng phát triển kinh nghiệm về tịnh quang và sử dụng kinh nghiệm này làm con đường đạo. Cuối cùng, lưu ý rằng không chỉ khi chìm vào giấc ngủ chúng ta mới cần thâm nhập vào điểm chính xác của luân xa cơ quan sinh dục. Chúng ta có thể thâm nhập vào đó bất cứ lúc nào để đưa các luồng khí vào trung mạch.




NỘI HỎA



MỘT GIẢI THÍCH ĐẶC BIỆT VỀ

CÁC GIAI ĐOẠN THIỀN NỘI HỎA (TUMMO)


Theo hệ thống thiền Đại Ấn này, các luồng khí được đưa vào trung mạch tại điểm chính xác của luân xa rốn bằng yoga nội hỏa, hay tummo. Yoga nội hỏa xâm nhập vào toàn bộ các thực hành của giai đoạn thành tựu. Đó là thân cây mà từ đó tất cả những thực hành như vậy phân nhánh. Nếu một pháp nào đó là thực hành của giai đoạn thành tựu thì đó là phần tu luyện trực tiếp hoặc gián tiếp của nội hỏa. Nếu không đốt lên ngọn lửa bên trong, khiến nó bùng cháy, và làm tan chảy hai loại giọt, thì không thể phát sinh đại lạc tự nhiên.

Nhìn chung, giai đoạn thành tựu có nhiều đối tượng thiền khác nhau, chẳng hạn như các kinh mạch, khí, giọt, nội hỏa hoặc những chữ cái nằm trong các điểm chính xác của những luân xa khác nhau; và việc một thực hành cụ thể như thiền nội hỏa trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào đối tượng thiền thực tế. Như đã giải thích ở trên, nội hỏa là giọt màu đỏ trong suốt bên trong luân xa rốn. Nó được gọi là “nội hỏa” vì nó là bản chất của nhiệt. Nếu một hành giả quán tưởng giọt màu đỏ này như một ngọn lửa và thiền về nó, thì người đó đang thực hành thiền trực tiếp về tummo.

Thuật ngữ Tây Tạng “tummo” nghĩa là “Kẻ hung tợn” và thường được dùng để ám chỉ các nữ kiệt có vẻ ngoài hơi hung dữ và ban tặng đại lạc tự nhiên cho những người phối ngẫu của họ, các anh hùng. Giọt đỏ ở rốn có bản chất của lửa cũng được gọi là tummo vì chức năng của nó tương tự chức năng của các nữ kiệt hung tợn. Tuy nhiên, trong văn bản này nó được gọi đơn giản là “nội hỏa”.

Khi thực hành yoga nội hỏa, chúng ta quán tưởng giọt màu đỏ dưới dạng chữ AH ngắn (xem Phụ Lục). Chữ cái này được gọi là “AH ngắn của nội hỏa” và trong thực hành Đại Ấn, thiền về chữ cái này được công nhận là phương pháp tối cao để bắt đầu đưa các luồng khí vào trung mạch. Trong những bài giảng của mình, Milarepa thường gọi chữ cái này là “AH ngắn của tôi”. Một ngày nọ, đệ tử Gampopa của ông nói rằng khi thực hành tập trung nhất điểm, anh có thể duy trì trong một thời khóa bảy ngày liên tục không gián đoạn. “Thì sao?”, Milarepa đáp, “Anh ngồi trong bảy ngày nhưng không kinh nghiệm được tịnh quang. Nếu anh thiền về AH ngắn nội hỏa của tôi, anh sẽ kinh nghiệm được tịnh quang rất nhanh”.

Bằng cách thiền về nội hỏa, chúng ta sẽ nhanh chóng có khả năng chứng đắc an trú tĩnh lặng và thấy biết siêu việt, và trên cơ sở những điều này, ta sẽ có thể đạt được cả tịnh quang ví dụ và tịnh quang nghĩa. Do đó, kết quả của thiền nội hỏa là đa dạng. So sánh các phương pháp khác với nội hỏa cũng giống như đem so một con lừa với một con ngựa khỏe.

Thực hành nội hỏa được dạy lần đầu tiên bởi Đấng chiến thắng Kim Cang Trì trong Mật điển gốc Hỷ Kim Cương (Hevajra). Từ đó nó được tích hợp vào các pháp tu khác như Đại Uy Đức Minh Vương (Yamantaka), Bí Mật Tập Hội (Guhyasamaja), Thắng Lạc Luân và Kim Cương Du Già Nữ (Heruka & Vajrayogini). Vì vậy, mọi thiền giả mật tông đều coi Mật điển Hỷ Kim Cương là một kinh sách được ban phúc đặc biệt. Do các pháp tu nội hỏa đến trực tiếp từ Kim Cang Trì nên chúng được thực hành trong tất cả các truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Như đức Ban Thiền Lạt Ma đời đầu đã tuyên bố trong lời tự chú của mình về văn bản gốc Đại Ấn:

Nếu chúng ta có thể đưa các luồng khí vào trung mạch thông qua sức mạnh của thói quen hình thành từ những kiếp trước thì điều này rất tốt; nếu không, chúng ta nên thực hành yoga nội hỏa như đã giải thích trong Sáu Yoga của Naropa.

Đây là phần giới thiệu chung về phương pháp thực hành nội hỏa. Sau đây là phần giải thích chi tiết về những cách được sử dụng để đốt lên ngọn lửa bên trong và khiến nó bùng cháy.

Nếu có mong ước mạnh mẽ đi theo con đường nội hỏa, chúng ta nên thực hành mỗi ngày các phương pháp được giải thích dưới đây, bắt đầu mỗi thời khóa bằng phần mở đầu ngắn gọn sau. Chúng ta quán tưởng đạo sư gốc của mình dưới thân tướng Kim Cương Trì được bao quanh bởi các đạo sư dòng truyền Đại Ấn, họ lần lượt được bao quanh bở các vị Phật, Bồ Tát, Không hành nam, Không hành nữ, Hộ Pháp. Quán tưởng như vậy tương tự quán tưởng về Tích lũy Ruộng công đức trong Cúng dường tới Người hướng đạo, được mô tả chi tiết trong Kho tàng Công đức vĩ đại. Sau khi quán tưởng Tích lũy ruộng công đức này, chúng ta thực hiện một lễ cúng dường mandala dài hoặc ngắn rồi đọc lời cầu nguyện sau đây ba lần trong khi chú tâm mạnh mẽ vào ý nghĩa của nó:

Con xin đỉnh lễ và quy y với vị Hướng đạo tâm linh của con

Và Tam Bảo vô cùng quý giá

Nhờ lực gia trì của ngài mà con mới được thành công

Trong quá trình con thực hành nội hỏa

Và thông qua sức mạnh hoàn thành thực hành nội hỏa

Mong cho con nhanh chóng đạt được sự hợp nhất của Đại Ấn

Xin hãy làm cho các kinh mạch của con vừa mềm dẻo vừa trơn tru

Và khiến các luồng khí và giọt của con mềm dẻo

Nhờ phúc lành của ngài, con có thể nhanh chóng đạt được thành tựu

Mà không có chút khó khăn hay phiền muộn nào.


Bốn câu cuối được đọc để loại trừ nguyên nhân của những chướng ngại về thể chất có thể cản trở sự tiến bộ của chúng ta và ngăn cản thực hành thành công. Để thực hiện các thiền định về giai đoạn thành tựu, chúng ta phải khỏe mạnh, với các kinh mạch mềm dẻo và trơn tru, các luồng khí mềm mại và các giọt trắng, đỏ linh hoạt. Nếu không chúng ta sẽ bị các khí bệnh (lung) hoặc các bệnh về thể chất khác.

Sau khi đọc lời nguyện này ba lần, chúng ta nên phát bồ đề tâm với một động lực đặc biệt, mong muốn đạt được Phật quả hoàn hảo vì lợi ích của toàn thể chúng sinh. Chúng ta làm điều này trong khi đọc lời nguyện sau ba lần:

Vì lợi ích của toàn thể chúng sinh, tôi phải trở thành

Một vị Phật hoàn hảo trong kiếp này

Do đó, bây giờ tôi sẽ thực hành yoga nội hỏa

Để đạt được mục tiêu của mình nhanh nhất có thể


Cả bồ đề tâm nguyện và bồ đề tâm hạnh đều được bao gồm trong lời cầu nguyện này, hai dòng đầu đề cập đến điều trước và hai dòng cuối đề cập đến điều sau. Bồ đề tâm quý giá là tuyệt đối cần thiết vì việc thực hành nội hỏa của chúng ta vừa thuộc về Đại thừa, vừa là một pháp môn Kim cương thừa. Nếu thiền nội hỏa của chúng ta không kết hợp với quy y và bồ đề tâm thì nó sẽ trở thành một con đường không phải của Phật giáo, và một yoga nội hỏa được thực hiện vì mục đích thế gian không phải là con đường dẫn đến giác ngộ trọn vẹn. Do có sự khác biệt lớn về động lực giữa các thực hành thế gian và thực hành Pháp, nên con đường và kết quả của chúng cũng rất khác nhau.

Sau khi đọc và nghiền ngẫm về ý nghĩa của những lời cầu nguyện này, chúng ta tưởng tượng rằng ruộng tích lũy côn đức và tất cả các vị Guru của dòng truyền đều hòa tan vào Guru gốc của chúng ta, Kim cương trì. Sau đó, với lòng bàn tay chắp lại ở tim trong ấn cầu nguyện, chúng ta khẩn cầu Guru gốc đến ngự trên đỉnh đầu của mình. Khi ngài đến đó, chúng ta cảm thấy luân xa đỉnh đầu mở ra. Guru sau đó dần dần thu nhỏ lại bằng kích thước của ngón tay cái, đi vào qua đỉnh đầu chúng ta rồi đi xuống qua trung mạch. Cuối cùng, ngài hòa tan vào luồng khí bất hoại và tâm bất hoại bên trong giọt bất hoại ở ngay giữa luân xa tim chúng ta. Ta tự nhủ mạnh mẽ rằng thân, lời, tâm của mình đã được ban phúc. Thân vi tế của ta là khí rất vi tế mà tâm trí vi tế của ta được cưỡi lên. Sự kết hợp của hai thứ này khiến sở hữu tiềm năng giao tiếp, và đây là lời vi tế của ta.

Ngoài việc thiền về quy y, bồ đề tâm, và nhận gia trì từ Đạo Sư, điều quan trọng khi bắt đầu thực hành nội hỏa là phát sinh hình tướng rõ ràng với niềm tự hào thiêng liêng về bản thân mình như Thần bản tôn. Trong giai đoạn phát sinh, vị thần có thể được quán tưởng là có nhiều tay, chân, mặt, nhưng trong các thiền quán ở giai đoạn thành tựu, hóa thần luôn được quán là chỉ có một mặt và hai tay. Ví dụ, nếu thần bản tôn của ta là Heruka, trong thực hành giai đoạn thành tựu, ta hình dung bản thân là Heruka với một mặt và hai tay, ôm Vajravahari.

Trong giai đoạn thành tựu, tư thế của chúng ta phải hoàn chỉnh. Nếu có thể, ta nên ngồi trong thế bảy điểm của Phật Đại Nhật, hiểu rằng mỗi một trong bảy điểm đều có mục đích cụ thể. Đối với một số người, tuy vậy, thế kim cương trong đó bản chân được đặt trên đùi đối diện, rất khó để giữ thoải mái. Trong trường hợp này, ta nên cố gắng duy trì tư thế này trong vài phút khi bắt đầu thời khóa rồi sau đó chuyển sang tư thế thoải mái hơn. Điều này sẽ cho phép ta dần quen với thế ngồi và cũng sẽ đóng vai trò là một điềm lành cho việc thực hành của chúng ta. Mặc dù thế kim cương ưu việt hơn các tư thế khác, ta có thể ngồi ở bất kỳ tư thế xếp chân nào, hoặc thậm chí ở thế Tara với một chân duỗi thẳng, miễn là ta ngồi với lưng thẳng hoàn toàn.

Phần giải thích về các giai đoạn thiền nội hỏa có hai mục chính:

1. cách thiền về nội hỏa (tummo) trong tám giai đoạn

2. Dựa trên những điều này, một giải thích về thực hành bốn hỷ và chín hòa nhập



CÁCH THIỀN NỘI HỎA TRONG TÁM GIAI ĐOẠN

Tám giai đoạn như sau:

1. Giải thích về việc xua tan những luồng khí ô trược và thiền về thân trống rỗng

2. Quán tưởng và thiền về các kinh mạch

3. Tu luyện trong con đường của các kinh mạch

4. Quán tưởng và thiền về các chữ cái

5. Đốt lên ngọn lửa bên trong (tummo)

6. Thổi bùng nội hỏa

7. Cháy to hơn và nhỏ giọt

8. Giải thích về bùng cháy và nhỏ giọt phi thường

Nếu muốn chứng đắc nội hỏa, ta cần thực hành tám giai đoạn thiền định này. Sau đó, thông qua việc đạt được nội hỏa, ta có thể trải nghiệm bốn hỷ và thực hành chín sự hòa nhập. Nhờ tu luyện nội hỏa, bốn niềm vui và chín hòa nhập, ta có thể hoàn thành trọn vẹn con đường Đại Ấn và hoàn thành đầy đủ tất cả các pháp môn của giai đoạn thành tựu. Ta không nên hài lòng với việc chỉ hoàn thành các phương pháp trực tiếp của thiền nội hỏa, mà trên cơ sở này, ta nên tiếp tục hoàn thành các thực hành của bốn niềm vui và chín hòa nhập. Je Tsongkhapa đã làm rất rõ về điểm này.



GIẢI THÍCH VỀ XUA TAN CÁC KHÍ BẤT TỊNH

VÀ THIỀN VỀ THÂN RỖNG

Như tến gọi đã chỉ ra, giai đoạn đầu có hai mục:

1. Xua tan các trược khí

2. Thiền về một thân thể trống rỗng

Mục đích của hai phần thực hành này là giải phóng chúng ta khỏi những trở ngại tinh thần và thể chất, giúp tâm trí và cơ thể sáng suốt, minh mẫn.



XUA TAN TRƯỢC KHÍ

Việc này được thực hiện bằng cách thanh lọc với chín hơi thở ra. Bắt đầu thực hành này bằng cách ấn đầu ngón cái tay trái vào trong gốc ngón nhẫn trái, rồi sau đó nắm chặt bốn ngón tay lại bằng cách khép bốn ngón lên trên ngón cái. Sau đó, nắm tay được đặt ở phía bên phải của lồng ngực sao cho cánh tay được đặt thoải mái trên bụng. Cách tay được xoay lên trên một chút, cho phép mặt sau của nắm đấm nằm ở phía bên phải của cơ thể ngang tầm khủy tay phải.

Sau đó, với tay phải, chúng ta nắm tay lại tương tự nhưng duỗi ngón trỏ ra. Dùng lưng ngón trỏ duỗi ra, ấn vào lỗ mũi trái để chặn nó lại rồi nhẹ nhàng hít vào một hơi thật sâu qua lỗ mũi phải. Trong khi hít vào nhẹ nhàng, ta quán tưởng nguyện lực của chư Phật và chư Bồ tát đi vào qua lỗ mũi phải của mình dưới dạng ánh sáng rực rỡ, hòa tan vào khí và tâm bất hoại ở trung tâm luân xa tim. Duy trì độ dài hít vào càng lâu càng tốt.

Để thở ra, ta di chuyển ngón trỏ phải duỗi thẳng đến lỗ mũi phải rồi đóng lỗ mũi này bằng cách ấn vào nó bằng phần trước của ngón tay. Sau đó, thở ra toàn bộ trược khí qua lỗ mũi trái trong ba hơi thở cân bằng liên tục. Trong khi thở ra, ta hình dung rằng tất cả trược khí của ta, đặc biệt là các luồng khí bên trái cơ thể được đẩy ra dưới dạng khói đen như mực. Bây giờ ta đã hoàn thành ba trong chín lần thở ra.

Với ngón tay vẫn ấn vào lỗ mũi phải, ta lại hít vào chậm rãi, nhẹ nhàng, sâu lắng. Hình dung luồng ánh sáng trắng rực rỡ chảy vào qua lỗ mũi trái, mang theo nguyện lực của toàn thể chư Phật, Bồ tát và hấp thụ vào khí và tâm bất hoại ở luân xa tim. Giữ hơi này cho đến lúc vừa cảm thấy khó chịu. Sau đó, di chuyển ngón trỏ duỗi ra trở lại lỗ mũi trái như trước và thở ra toàn bộ khí bất tịnh qua lỗ mũi phải trong ba hơi thở bằng nhau. hình dung rằng tất cả khí bất tịnh của ta, đặc biệt là các luồng khí ở bên phải cơ thể, nhờ đó được đẩy ra ngoài.

Bây giờ, sáu trong chín lần thở ra đã hoàn tất, ta đặt tay lên đùi theo thế cân bằng thiền định, với lòng bàn tay hướng lên trên, bàn tay phải đặt trên bàn tay trái, đầu hai ngón tay cái gần như chạm vào nhau. Hít vào nhẹ nhàng và sâu lắng qua cả hai lỗ mũi trong khi hình dung như trước. Sau đó, thở ra qua cả hai lỗ mũi ba lần. Khi ba lần thở ra này đã hoàn tất, ta quán tưởng mạnh mẽ rằng tất cả các kinh mạch, khí và giọt của mình đều rất mềm dẻo và thoải mái.

Toàn bộ chu kỳ này có thể được lặp lại nhiều lần tùy ý, nếu cần thiết, thậm chí là trong toàn bộ một thời khóa. Điều rất quan trọng là phải cố gắng thực hiện mục này với sự tập trung cao độ nếu muốn có được lợi ích.



THIỀN VỀ THÂN TRỐNG RỖNG

Mục đích của phần thiền này là để loại bỏ những chướng ngại vào vấn đề phát sinh liên quan đến các kinh mạch, khí và giọt của chúng ta. Nếu ba thành phần này không hoạt động bình thường, sẽ có nguy cơ phát triển nhiều loại bệnh tật. Hơn nữa, những người mới nhập thiền giai đoạn thành tựu có thể khiến các nguyên tố trong thân thể mất cân bằng do thực hành quá căng thẳng và quá cố gắng. Tuy nhiên, sẽ không có bất cứ sự ngăn trở nào trong số này xảy ra nếu chúng ta làm cho kinh mạch, khí và giọt của mình mềm dẻo thông qua pháp thiền này.

Như sẽ được giải thích bên dưới, có hai phương pháp đưa khí vào trung mạch thông qua thiền nội hỏa: phương pháp nhẹ nhàng

và phương pháp cưỡng ép. Phương pháp sau sử dụng sức mạnh vật lý để đưa khí nhanh chóng và mạnh mẽ vào trung mạch. Tuy phương pháp này có thể rất hiệu quả, nhưng nó cũng có thể gây nguy hiểm, làm mất cân bằng trong các luồng khí, khiến ta cảm thấy khó chịu về tinh thần và thể chất. Thiền quán về thân thể chúng ta như trống rỗng sẽ có tác dụng bảo vệ chống lại điều này. Quan trọng là phải ngăn ngừa các thực hành ở giai đoạn thành tựu gây mất cân bằng trong các luồng khí vì nếu nó xảy ra, cả bác sĩ và thuốc men đều không thể cứu giúp.

Phương pháp nhẹ nhàng để đưa khí vào trung mạch có thể mất nhiều thời gian hơn một chút nhưng đây là quá trình dễ chịu hơn nhiều. Khi khí được đưa vào trung mạch theo cách này, chúng đi vào nhẹ nhàng và trơn tru, không có tác dụng phụ về tinh thần và thể chất do làm nhiễu loạn khí, mạch, giọt. Những người có thể thực hành phương pháp nhẹ nhàng này thành công không cần phải quán tưởng thân trống rỗng, vì đối với họ không có nguy cơ mắc bệnh về khí hoặc mạch.

Je Tsongkhapa giải thích rằng phương pháp nhẹ nhàng vượt trội hơn phương pháp cưỡng ép. Ngài chỉ ra rằng phương pháp này không chỉ ngăn ngừa những trở ngại được đề cập ở trên mà còn là cách mạnh mẽ hơn để trải nghiệm tịnh quang. Phương pháp nhẹ nhàng tăng cường tập trung nhất điểm và do đó, khi thực hành bốn niềm vui như được giải thích dưới đây, ta sẽ chuyển tự nhiên và trơn tru từ niềm vui này sang niềm vui khác. Hơn nữa, trong kinh văn gốc của mật điển Hỷ Kim Cương cùng các bản bình giảng về nó, có nói rằng nếu thực hành thiền nội hỏa bằng cách giữ hơi thở bình, ta nên thực hiện theo cách nhẹ nhàng.

Cuối cùng, có một nhược điểm nữa của pháp cưỡng ép cần được đề cập ở đây. Nếu thực hiện thiền định này cưỡng ép với nhiều kỳ vọng, ta có thể thực sự đưa các luồng khí vào trung mạch tương đối nhanh chóng, nhưng tác động của những cử động vật lý liên quan đến kỹ thuật này có thể ngăn cản chúng ta nhận ra rõ ràng ngay khi những dấu hiệu ban đầu xuất hiện lúc các luồng khí hòa tan vào trung mạch, và nếu không nhận ra những dấu hiệu đầu tiên, ta sẽ không thể nhận ra những dấu hiệu cuối cùng, là tịnh quang. Do đó, vì tất cả những nguyên nhân này, phương pháp nhẹ nhàng là cách thức được ưa chuộng.

Việc thiền quán thân trống rỗng được thực hiện như sau. Trước tiên, xem cơ thể mình ở dạng bình thường được tạo thành từ da, thịt, xương, máu, vân vân, sau đó quán tưởng rõ ràng rằng toàn bộ các thành phần trong cơ thể chúng ta tan chảy thành ánh sáng và dần dần biến mất thành hư không, chỉ còn lại làn da của chúng ta giống như một lớp vỏ rỗng. Khi thiền quán này ổn định, ta hình dung rằng làn da của mình trong suốt và rõ ràng, không có bất kỳ sức cản vật lý nào, giống như cầu vồng. Nếu trong bất cứ giai đoạn thực hành nào mà gặp phải rắc rối do khí bệnh, ta nên thực hành thiền quán này cho đến khi các khó khăn lắng xuống, ngay cả khi mất vài ngày hoặc vài tuần. Vào cuối mỗi thời thiền, ta nên tiếp tục hình dung cơ thể mình như là của Thần bản tôn.

Đây là lời giải thích ngắn gọn về giai đoạn đầu tiên của thiền nội hỏa. Một lời giải thích chi tiết hơn sẽ bao gồm các bài tập cơ thể được gọi là “sáu luân xa pháp thuật”, lời giải thích đầy đủ về nội dung này có thể được tìm thấy trong bản bình giảng của Je Tsongkhapa về Sáu Yoga của Naropa. Khi tuân thủ phương pháp nhẹ nhàng, không cần phải thực hiện các bài tập này, mặc dù chúng ta có thể thực hành nếu muốn.



QUÁN TƯỞNG VÀ THIỀN VỀ CÁC KINH MẠCH

Hệ thống kinh mạch đã được mô tả. Tuy nhiên, khi thực hành thiền giai đoạn thành tựu, việc quán tưởng các kinh mạch này hơi khác so với mô tả ở trên. Một điểm khác biệt là ta quán trung mạch kết thúc ở vị trí bí mật thay vì ở đầu cơ quan sinh dục. Một điểm khác biệt nữa, đối với mục đích của thiền định này, là chúng ta quán tưởng rằng các nút thắt ở các luân xa khác nhau được nới lỏng để trung mạch không bị thắt chặt ở bất kỳ điểm nào trong số những điểm đó. Trên thực tế, trung mạch giống như thân cây tre có màng ngăn chia một phần với phần tiếp theo, với các gút thắt chặt trung mạch giống như các màng ngăn như vậy, nhưng khi thiền về giai đoạn thành tựu, ta quán tưởng tất cả các màng ngăn này đã bị loại bỏ, vì vậy nếu đang ở dưới cùng của trung mạch, ta có thể nhìn lên toàn bộ chiều dài của nó giống như ta đang nhìn lên một trục thang máy trống rỗng.

Ta quán tưởng trung mạch càng mỏng càng tốt. Có thể bắt đầu bằng cách hình dung nó có đường kính bằng một ống hút. Một kỹ thuật hữu ích là bắt đầu thời khóa là hình dung nó rất dày, ví dụ như chiều rộng của một cánh tay, sau đó quán nó dần trở nên mỏng hơn. Cuối cùng, khi đạt đến chiều rộng của một ống hút, ta có thể để nó như vậy và tập trung vào nó vững chắc. Khi sự tập trung cải thiện và trở nên tinh xảo hơn, ta có thể làm cho nó hẹp hơn nữa. Có thể luyện tập để dần dần thu hẹp chiều rộng của trung mạch trong khoảng thời gian vài ngày. Nếu nghiêm túc về thiền nội hỏa, ta nên chuẩn bị cho việc chuyên luyện tập trung vào trung mạch trong nhiều thời khóa qua nhiều ngày, nhiều tuần hoặc thậm chí nhiều tháng.

Sau khi quán tưởng trung mạch, ta chuyển sự chú ý của mình sang các mạch phải và trái, rồi hình dung chúng rõ ràng. Mặc dù bên trong của cả ba kinh mạch đều có màu đỏ nhưng mỗi mạch đều có màu sắc khác nhau ở bên ngoài. Mạch phải có màu đỏ bên ngoài, mạch trái màu trắng, còn trung mạch xanh trời nhạt. Vì mục đích của thiền định này, ta quán tưởng rằng các mạch phải và trái hợp nhất hoặc cắm vào trung mạch ở tầm rốn, tạo thành một tam hợp tại điểm đó. Từ tầm rốn lên đến đỉnh đầu rồi cong xuống đến điểm giữa hai lông mày, cả ba mạch đều chạy song song với nhau. Trung mạch kết thúc tại điểm giữa hai lông mày, nhưng hai mạch phải và trái tiếp tục đi xuống từ lông mày đến lỗ mũi.

Bên trong trung mạch, ngay chính giữa luân xa rốn, tại điểm được bao quan bởi nút thắt đôi, có một không bào nhỏ như đã mô tả trước đó. Điều quan trọng là phải biết không bào này nằm ở đâu vì đây là nơi thiền nội hỏa thực sự diễn ra, nếu không tìm đúng điểm đó thì toàn bộ thiền nội hỏa của chúng ta sẽ bị sai.

Khi quán tưởng về ba mạch ổn định, ta tập trung vào các nan hoa, hoặc cánh hoa của các luân xa khác nhau. Bắt đầu bằng cách hình dung rằng ta đang ở bên trong giọt bất hoại tại luân xa tim. Như đã đề cập trước đó, trung tâm của luân xa tim bị thắt chặt bởi một nút thắt sáu vòng (ba vòng xoắn của mỗi mạch bên cạnh), còn giọt bất hoại nằm bên trong trung mạch ở chính giữa nút thắt này.

Hình dung rằng nếu soi đèn, nó sẽ chiếu xuống các hành lang của tám nan hoa luân xa tim. Ta nhìn xuống các nan hoa này cẩn thận, xem xét kỹ từng cánh hoa rồi kết luận: “Bây giờ mình đã thấy rõ tám cánh hoa của luân xa tim”.

Vẫn còn ở bên trong giọt bất hoại, giờ chúng ta đi lên luân xa cổ họng. Nghĩ rằng ta đang ở trong không bào của trung mạch được bao bọc bởi nút thắt đôi, ta kiểm tra các hành lang của mỗi nan hoa trong số mười sáu nan hoa của luân xa này. Sau khi xem xét kỹ lưỡng từng nan hoa, ta nên nghĩ như trước: “Bây giờ tôi đã thấy mười sáu cánh hoa của luân xa họng rõ ràng”.

Sau đó, ta đi lên luân xa đỉnh đầu và làm như trước, từ bên trong không bào ở đó, tại trung tâm của nút thắt đối, ta kiểm tra các hành lang của mỗi nan hoa trong số ba mươi hai nan hoa cho đến khi ta có thể nghĩ rằng: “Bây giờ tôi đã nhìn thấy rõ ba mươi hai cánh hoa của luân xa đỉnh đầu”.

Cuối cùng, ta đi xuống luân xa rốn. Từ bên trong không bào của nút thắt đôi, nhìn dọc theo mỗi nan hoa trong số sáu mươi tư nan hoa cho đến khi ta hài lòng và nghĩ: “Bây giờ tôi đã thấy rõ sáu mươi bốn cánh hoa của luân xa rốn”.

Trong tất cả các mục thiền quán này, ta nên thấy các luân xa như mô tả trước đó, ngoài trừ việc ban đầu có lẽ tốt nhất là bỏ qua các nút thắt. Sau đó, khi có nhiều kỹ năng và quen thuộc hơn, ta có thể thêm nút thắt đôi ở rốn rồi sau đó, khi kỹ năng thiền định đã được cải thiện đủ, ta có thể thêm vào các nút thắt ở ba luân xa khác nữa.

Tóm lại, khi quán tưởng các kinh mạch, trước tiên ta tập trung vào việc nhìn rõ trung mạch, sau đó làm vững chắc quán tưởng của ta về các mạch phải và trái, quan sát xem chúng kết nối với trung mạch tại rốn ra sao. Khi đã quen thuộc với ba mạch, ta thiền về các nan hoa của các luân xa khác nhau bằng cách đặt tâm trí của ta lần lượt vào từng không bào nhỏ của trung mạch ở mỗi một trong bốn cấp độ. Như đã đề cập trước đó, nếu muốn đưa khí vào trung mạch thông qua pháp thiền nội hỏa, ta phải sử dụng tâm trí của mình để thâm nhập vào điểm chính xác ở trung tâm không bào tại luân xa rốn. Tầm quan trọng của độ chính xác tuyệt đối khi thậm nhập vào các điểm chính xác không nên được nhấn mạnh quá mức. Thiền về việc khảo sát kỹ lưỡng từng luân xa rồi cuối cùng thâm nhập vào không bào ở rốn nên được thực hiện trong ít nhất vài ngày.

Longdrol Lama nói rằng không có thiền nào mạnh mẽ hơn thiền thâm nhập vào trung mạch với động lực bồ đề tâm. Bởi vì bằng cách thiền về trung mạch, ta có thể kiểm soát được các luồng khí và khiến chúng đi vào, trụ lại và hòa tan trong kinh mạch đó. Trên cơ sở này, ta có thể đạt được đại lạc của tịnh quang, và thông qua thiền về tịnh quang, hoàn thành được hai bộ công đức và trí tuệ. Những thiền giả cao cấp đã hoàn thành hợp nhất đại lạc tự nhiên và tính không của tịnh quang chẳng cần phải nỗ lực thực hiện lễ lạy thể chất hoặc các thực hành bên ngoài khác, bởi vì, như đã được giải thích trong các kinh văn mật tông, chỉ bằng cách thiền về sự hợp nhất giữa lạc và không, họ có thể hoàn thành các tích tập cần thiết để đạt được giác ngộ trọn vẹn. Do đó, những thiền giả vĩ đại như vậy chỉ cần khẩn cầu sự gia trì từ các đạo sư gốc của dòng truyền rồi sau đó tiếp tục các thực hành giai đoạn thành tựu của họ.



TU LUYỆN THEO CÁC CON ĐƯỜNG KINH MẠCH

Có hai nguyên nhân chính để thực hiện giai đoạn thiền thứ ba này. Trước hết, nó giúp loại bỏ các khuyết điểm từ kinh mạch, khí và giọt, làm cho chúng được đả thông và linh hoạt. Nếu ba yếu tố này linh hoạt thì toàn bộ cơ thể cũng sẽ linh hoạt. Điều này là do các mạch, khí và giọt thấm nhuần toàn bộ cơ thể. Điểm rất quan trọng là thân thể của người hành thiền phải thoải mái và mềm dẻo vì nó giúp tâm trí trở nên rõ ràng và sáng suốt, và một tâm trí sáng tỏ khiến cho thiền trở nên mạnh mẽ và hữu ích. Lý do thứ hai để thực hiện thiền này là nó tăng cường đáng kể tính sáng cho việc quán tưởng các luân xa.

Để tu luyện ở giai đoạn này, ta quán tưởng rằng tâm trí của mình trong hình dạng của giọt bất hoại nằm ở trung tâm luân xa tim. Giọt này có kích thước bằng hạt đậu, màu trắng với chút sắc đỏ, tỏa sáng rực rỡ với ánh sáng ngũ sắc: trắng, đỏ, xanh trời, xanh lá cây và vàng. Tuy nhiên, ánh sáng này không mở rộng ra xa khỏi giọt. Với tâm trí tập trung nhất điểm vào giọt này, ta suy ngẫm mạnh mẽ rằng đó là bản chất bất khả phân giữa tâm ta và tâm đạo sư, rồi xác định nó là chính chúng ta. Sau đó, quyết định rằng, bằng giọt sáng chói, ta sẽ du hành đến các luân xa khác nhau.

Ta từ từ đi lên qua trung mạch đến tầm cổ họng, dừng lại chính xác ở giữa không bào nơi trung tâm luân xa họng. Ta nhìn dọc theo hành lang của mỗi nan hoa trong số mười sáu nan hoa, rồi sau đó, như thể ta đang bật một ngọn đèn rất mạnh, phát ra ánh sáng năm màu để nó chiếu sáng hoàn toàn tất cả các nan hoa của luân xa này. Ta cảm nhận rằng ánh sáng rực rỡ này sửa chữa mọi khuyết điểm có thể có của các nan hoa, chẳng hạn như chúng bị teo lại, dính vào nhau hoặc bị tắc nghẽn, và tất cả các nan hoa đã trở nên cứng và giòn đều được làm cho mịn màng, mềm mại và dẻo dai. Ta nghĩ rằng các nguyên tố chảy bên trong các nan hoa, các luồng khí, giọt trắng, giọt đỏ trở nên rất thông thoáng, mạnh mẽ và có lợi. Tiếp tục với quán tưởng này cho đến khi có cảm giác mọi khuyết điểm trong nan hoa đã được loại bỏ rồi sau đó ta hấp thu lại ánh sáng vào giọt sáng chói. Nghĩ rằng ta đã hoàn thành mục đích của mình khi ghé thăm luân xa họng, sau đó quyết định đến thăm luân xa đỉnh đầu.

Ta đi chậm rãi lên trên theo trung mạch, dừng lại ở chính giữa không bào của luân xa đỉnh đầu. Sau đó, tiến hành như trước. Nhìn xuống các hành lang của mỗi một trong ba mươi hai nan hoa của luân xa này, chiếu ánh sáng năm màu mạnh mẽ xuống chúng, sửa chữa tất cả các khuyết điểm như trước, đến khi cảm thấy rằng mọi khuyết điểm đã được loại bỏ, hấp thu lại ánh sáng và nghĩ rằng ta đã hoàn thành mục đích khi ghé thăm luân xa này.

Bây giờ nghĩ rằng ta muốn du hành qua luân xa giữa hai lông mày, và, từ vị trí của mình trên đỉnh đầu, nhìn xuống trung mạch hướng về phía luân xa đó. Tại lối vào của trung mạch, nằm chính xác giữa hai lông mày, ta quán tưởng một lỗ mở giống như con mắt thứ ba của nhiều vị thần bản tôn Kim cương thừa. Ta từ từ đi xuống lối vào này, dừng lại với một nửa giọt sáng chói bên trong và một nửa bên ngoài lỗ mở. Từ vị trí này, ta kiểm tra kỹ bên trong và bên ngoài cơ thể, nhìn theo mọi hướng. Sau đó, ta chiếu ra ánh sáng ngũ sắc và khi nó chiếu vào bên trong, ta thấy rằng nó loại bỏ mọi khuyết điểm của các kinh mạch ở lông mày. Khi ánh sáng chiếu ra bên ngoài, nó thanh lọc mọi ô nhiễm của môi trường và xoa dịu nỗ đau khổ cùng với các nguyên nhân thô và tế gây ra đau khổ cho toàn thể chúng sinh. Khi cảm thấy rằng các mục đích này đã được hoàn thành, ta di chuyển hoàn toàn vào bên trong để ta không còn nhô ra ngoài lỗ mở nữa, rồi ở lại đó một lúc.

Sau đó, chúng ta quyết định quay trở lại nơi đã bắt đầu trong luân xa tim. Từ từ đi lên đỉnh đầu, đi qua không bào ở đó, từ từ đi xuống qua trung mạch, qua không bào ở cổ họng và cuối cùng dừng lại ở trung tam của không bào trong luân xa tim. Nghĩ rằng ta đã trở lại nơi ở của chính mình. Bây giờ kiểm tra tám nan hoa của luân xa tim, chiếu ánh sáng năm màu khắp các hành lang của chúng rồi thanh lọc các khuyết điểm của chúng theo đúng phương pháp như trước. Khi đã hoàn thành việc này, hấp thu lại ánh sáng và nghĩ rằng bây giờ ta muốn đi đến luân xa rốn.

Chúng ta từ từ đi xuống qua trung mạch rồi dừng lại tại không bào ở đó. Ta kiểm tra từng nan hoa trong số sáu mươi bốn nan hoa của luân xa rốn và một lần nữa chiếu sáng, sửa chữa mọi khiếm khuyết của các kinh mạch, khí, và giọt, rồi nghĩ rằng tất cả chúng đều trở nên rất mềm mại, dễ uốn nắn, dẻo dai và thoải mái. Sau khi hấp thu lại ánh sáng năm màu, ta ở lại trong không bào một lúc, nhớ rằng đây là nơi chính để ta thiền về nội hỏa.

Sau khi ở lại trong không bào của rốn càng lâu càng tốt, giọt bất hoại trở về vị trí của nó ở tim. Một lần nữa ta nghĩ rằng mình đã trở về nơi trú ngụ chính của mình và sau đó quyết định thanh lọc mọi ô nhiễm và sửa chữa mọi khiếm khuyết của bay mươi hai ngàn kinh mạch thấm nhuần toàn bộ thân thể chúng ta. Chiếu ánh sáng ngũ sắc xuống tám nan hoa của luân xa tim và quán tưởng ánh sáng này lan tỏa khắp tám nan hoa, hai mưới bốn kinh mạch của hai mươi bốn vị trí, bay mươi hai kinh mạch phân nhánh từ những thứ này, rồi cuối cùng là khắp bay mươi hai ngàn kinh mạch. Ánh sáng năm màu rực rỡ này phục hồi toàn bộ kinh mạch bị đứt, tắc nghẽn, teo nhỏ, bị rối hoặc dính vào nhau; và tất cả những mạch bị cứng và giòn bây giờ trở nên mịn màng, mềm mại, dẻo dai. Theo cách này, tất cả các luồng khí và giọt đều được đả thông và nhu nhuyễn. Cuối cùng ta hấp thu lại ánh sáng vào chính mình, giọt bất hoại.

Có một số cách để thực hiện giai đoạn thiền thứ ba này, tùy vào lượng thời gian ta muốn dành cho mỗi bước khác nhau. Ví dụ, có thể dành toàn bộ một thời khóa thiền để khám phá chỉ một trong các luân xa. Nếu làm vậy, ta có thể bắt đầu một khóa thiền tiếp theo từ nơi mà khóa thiền trước đã dừng lại, và cuối cùng, khi cảm thấy đã hoàn thành phần thiền này, ta sẽ quay lại luân xa tim. Trong số các luân xa cần khám phá, luân xa rốn là quan trọng nhất. Ta nên dành nhiều thời gian nhất có thể cho luân xa này, nhưng phải đảm bảo rằng ta cũng có được kiến thức và kinh nghiệm toàn diện về các luân xa khác.

Tóm lại, tu luyện theo con đường của các kinh mạch cũng giống như đi tham quan bảo tàng. Sau khi quyết định ghé thăm, ta vào sảnh, trong trường hợp này tương ứng với luân xa tim, rồi từ đó ta đi thẳng lên tầng một. Sau khi ngắm nghía kỹ các hiện vật ở tầng này, ta lên tầng hai. Khi đã xem xét kỹ các hiện vật được trưng bày ở đó, ta quay lại sảnh. Sau khi nhìn ngắm thật kỹ các hiện vật ở đây, ta xuống tầng hầm và lúc xem xong, quay lên sảnh rồi rời đi. Sau khi tham quan bảo tàng toàn diện như vậy, ta có thể nhớ rõ tất cả hiện vật ở mỗi tầng.

Điều rất quan trọng là các luân xa phải xuất hiện rõ ràng trong quán tưởng của chúng ta. Như đã đề cập từ trước, để thực hành yoga nội hỏa của giai đoạn thành tựu, ta phải có khả năng thâm nhập vào điểm chính xác của luân xa rốn một cách chuẩn xác và khéo léo. Việc này giống như một người chặt gỗ bằng rìu. Nếu khéo léo và chặt đúng chỗ, anh ta sẽ chẻ gỗ mà không gặp nhiều khó khăn và vất vả, nhưng nếu chặt không đúng chỗ thích hợp, anh ta sẽ không có nhiều thành công, ngay cả khi đã tiêu tốn nhiều năng lượng. Một phép so sánh khác là về một người giết mổ. Nếu khéo léo và biết cách cắt đứt động mạch phải, anh ta sẽ có thể giết con vật nhanh chóng và không đau đớn, ngay cả khi công cụ duy nhất là một cây kim nhỏ; nhưng nếu thiếu kỹ năng, cuộc giết mổ có thể trở thành công việc dài và đẫm máu. Tương tự, thiền giả giai đoạn thành tựu muốn đưa các luồng khí vào trung mạch sẽ thành công nếu người đó có thể thâm nhập vào những điểm chính xác một cách khéo léo. Nhờ thực hành khéo léo như vậy, thiền giả sẽ đạt được những thành tựu tối cao mà không gặp khó khăn.

Để làm quen với các kinh mạch và phương pháp thâm nhập vào những điểm chính xác, và cũng để sửa chữa mọi khiếm khuyết trong các yếu tố của thân kim cương, ta nên tập trung mạnh mẽ vào việc tu luyện theo các con đường của kinh mạch. Ta cần làm việc này nhiều ngày, hoặc cho đến khi ta có kinh nghiệm quán tưởng rõ ràng.



QUÁN TƯỞNG VÀ THIỀN VỀ CÁC CHỮ

Có những giải thích sâu rộng và ngắn gọn về việc quán tưởng các chữ cái này. Giải thích sâu rộng bao gồm quán tưởng chi tiết không những về các chữ nằm trong bốn không bào chính, các luân xa: rốn, tim, cổ họng và đỉnh đầu, mà còn về các chữ nằm ở lối vào bên trong của mỗi một trong 120 nan hoa của bốn luân xa này. Giải thích sâu rộng này sẽ không được đưa ra ở đây vì nó khá phức tạp, lại không hoàn toàn cần thiết. Một giải thích ngắn gọn về các chữ cái của bốn không bào chính là đủ để giúp chúng ta đạt được thành công trọn vẹn trong việc thực hành nội hỏa của mình.

Đầu tiên, ta quán tưởng bên trong không bào của luân xa đỉnh đầu là một đệm mặt trăng hình tròn, phẳng, được tạo thành từ ánh sáng trắng. Chiếc đệm này có kích thước bằng bề mặt tròn được tạo thành khi một hạt đậu được cắt đôi. Trên chiếc đệm mặt trăng này có một chữ HAM, là bản chất của giọt trắng ngụ trên đỉnh đầu. Nó có kích thước bằng một hạt cải, màu trắng. Chiếc đệm mặt trăng và HAM được treo ngược xuống.

Bên trong không bào ở cổ họng, ta quán một đệm mặt trăng khác, trên đó có một chữ OM, bản chất của giọt màu đỏ nằm ở cổ họng. Chữ này, có bản tính của lửa, cũng có kích thước bằng một hạt cải, nhưng có màu đỏ và đứng thẳng.

Bên trong không bào ở tim có một đệm mặt trăng khác, trên đó có một chữ HUM, bản chất của giọt bất hoại. Nó có kích thước bằng một hạt cải và màu xanh lam. Cả chữ cái và đệm mặt trăng đều được treo ngược xuống. Giọt bất hoại là giọt tinh tế nhất, được gọi như vậy vì nó không tan chảy trước thời điểm chết.

Cuối cùng, trong không bào rốn, ta quán rõ ràng một đệm mặt trăng khác. Trên đó, cũng có kích thước bằng hạt cải, một chữ A đứng thẳng, đó là bản chất của giọt đỏ nằm trong rốn. Vì đây là đối tượng chính của sự tập trung khi thiền du già nội hỏa, và vì toàn bộ hơi ấm của cơ thể đều phát sinh ra từ giọt này, A ngắn phải được quán tưởng với tính chất nóng như lửa. Sơ đồ mô tả cách quán bốn chữ cái này được đưa ra trong Phụ Lục.

Có hai mục đích cụ thể khi quán những chữ này trong các không bào của trung mạch ở giữa mỗi luân xa. Mục đích đầu tiên liên quan đến bốn hỷ. Chúng ta chỉ có thể trải nghiệm bốn hỷ này khi các luồng khí đi vào, lưu lại và hòa tan trong trung mạch của mình. Nếu có thể giữ trải nghiệm bốn hỷ càng lâu và càng mãnh liệt, thì kinh nghiệm của chúng ta càng tốt hơn, và khả năng làm việc này của ta được tăng cường đáng kể khi quán bốn chữ cái. Kết quả của thiền được mô tả dưới đây là giọt trắng trong đỉnh đầu được làm cho tan chảy. Khi giọt này tan ra, nó bắt đầu chảy xuống trung mạch, cuối cùng đi qua các luân xa cổ hỏng, tim, rốn, cuối cùng đến đầu cơ quan sinh dục. Khi giọt trắng tan ra, nó sẽ chảy xuống mà không bị gián đoạn. Nếu nó chảy qua một luân xa cụ thể mà không được kiểm tra hoặc giữ lại ở đó, trải nghiệm hỷ liên quan đến luân xa đó sẽ thoáng qua và không ổn định. Tuy nhiên, bằng cách tập trung vào các chữ cái khác nhau, ta có thể đình chỉ dòng chảy hướng xuống của giọt trắng, nhờ vậy có được trải nghiệm lâu dài và sâu sắc hơn về mỗi hỷ trong bốn hỷ.

Bốn hỷ được giải thích đầy đủ trong chương tiếp theo., nhưng một mô tả ngắn gọn sẽ hữu ích vào thời điểm này. Hỷ thứ nhất được gọi đơn giản là “hỷ”, trải nghiệm về nó bắt nguồn từ luân xa đỉnh đầu khi giọt trắng ngụ trong đó tan ra. Vì vậy, ban đầu, chúng ta phải thiền trong một thời gian dài về chữ HAM trong đỉnh đầu. Kinh nghiệm về hỷ này hoàn tất khi giọt trắng chảy xuống trung mạch đến luân xa cổ họng.

Hỷ thứ hai, được gọi là “tối thượng hỷ”, bắt nguồn từ luân xa cổ họng, được trải nghiệm trọn vẹn khi giọt trắng chảy xuống trung mạch đến luân xa tim. Hỷ thứ ba, được gọi là “phi thường hỷ”, bắt nguồn từ luân xa tim và được trải nghiệm trọn vẹn khi giọt trắng chảy xuống trung mạch đến luân xa rốn. Cuối cùng, hỷ thứ tư được gọi là “đại hỷ tự phát”, bắt nguồn từ luân xa rốn và được trải nghiệm trọn vẹn khi giọt trắng chảy xuống trung mạch đến đỉnh cơ quan sinh dục. Do đó, để có trải nghiệm bền vững và ổn định trong từng hỷ này, chúng ta cần đạt được sự kiểm soát mạnh mẽ đối với dòng chảy hướng xuống của giọt trắng, và có khả năng đình chỉ nó ở mỗi cấp độ đi xuống, điều này được thực hiện bằng cách làm quen với bốn chữ cái trong thiền định.

Mục đích thứ hai của việc quán tưởng những chữ cái trong các luân xa là giúp chúng ta tìm ra đối tượng thực sự của thiền định trong yoga nội hỏa. Chữ HAM được quán tưởng bên trong không bào của luân xa đỉnh đầu. Mặc dù hình dáng bên ngoài của nó là một chữ cái, ta nên nhận ra nó thực sự là giọt trắng trong đỉnh đầu. Khi thực hành giai đoạn thứ tư của nội hỏa, ta nên bắt đầu bằng cách quán chữ HAM trắng này trong đỉnh đầu. Quán tưởng nó rõ ràng trong một thời gian ngắn, rồi sau đó chuyển sự chú ý của mình sang chữ OM đỏ ở cổ họng. Được một lúc, ta chuyển sang chữ HUM màu lam ở tim và cuối cùng ổn định tâm trí vào chữ A ngắn trong luân xa rốn. Ta quán chữ A ngắn rất rõ ràng, cảm thấy rằng nó có bản tính nóng mạnh mẽ, dữ dội. Sự chú tâm của ta nên tập trung vào chữ này trong thời gian dài hơn các chữ khác.

Sau khi tập trung vào A ngắn, ta chuyển tâm trí trở lại HUM ở tim, rồi đến OM đỏ ở cổ họng, cuối cùng đến HAM trắng trong đỉnh đầu. Sau đó, ta lại di chuyển xuống, trở lại cổ họng, tim, cuối cùng dừng lại ở rốn. Theo cách này, ta chuyển tâm trí từ đỉnh đầu xuống dưới, từ rốn lên trên, cuối cùng từ đỉnh đầu xuống dưới một lần nữa.

Vào thời điểm này, sự chú tâm của ta tập trung vào A ngắn của nội hỏa trong luân xa rốn. Nếu nó không được nhận thức rõ ràng, thiền định của chúng ta sẽ không thành công. Vì vậy, đây là lúc để nhớ lại càng sống động càng tố những hướng dẫn chỉ thẳng mà ta đã nhận được từ Đạo sư của mình liên quan đến đặc điểm A ngắn, chẳng hạn như vị trí, kích thước, hình dạng và bản chất của nó. Chúng ta quán tưởng 64 nan hoa của luân xa này cùng các kinh mạch trái và phải cuộn tròn tạo thành một nút thắt đôi ở trục của các nan hoa này. Bên trong trung mạch tại chính giữa của nút thắt này là không bào của rốn. Chính bên trong không bào này là nơi trú ngụ của chữ A ngắn, đứng trên một chiếc đệm mặt trăng nhỏ. Chữ này có màu đỏ, hoàn toàn thanh tịnh, vô cùng rực rỡ và có tính chất nóng dữ dội như lửa. Đây là đối tượng của thiền nội hỏa.

Việc tìm kiếm đối tượng thiền phụ thuộc vào chánh niệm và tỉnh giác. Sau khi tìm được đối tượng theo cách mô tả ở trên, ta nên hòa nhập trọn vẹn tâm trí vào nó và tập trung nhất tâm vào nó mà không bị quên. Nếu việc này khó khăn, ta có thể nghĩ rằng chữ cái là cơ thể của ta, còn tâm trí ta đang trú ngụ trong đó, hoặc có thể nghĩ rằng nó giống như quần áo mà chúng ta, tâm trí, đang mặc. Những kỹ thuật này sẽ giúp thu hẹp khoảng cách giữa tâm trí chủ thểđối tượng khách thể của thiền định. Một khi đã tìm thấy đối tượng thiền định, ta đã đạt đến giai đoạn đầu của thiền an trú tĩnh lặng, nếu ta chưa đạt được giai đoạn này thông qua thực hành trước đó. Nếu hành thiền liên tục, ta có thể dần dần hoàn thành toàn bộ chín tầng định. Vì vậy, A ngắn là một đối tượng thiền độc đáo, vì chỉ cần thiền về nó sẽ mang lại bốn quả quan trọng: đạt được an trú tĩnh lặng, khiến các luồng khí đi vào, trụ lại, rồi tan biến trong trung mạch, đốt cháy nội hỏa, khiến nó bùng lên, và thành tựu chứng ngộ Đại Ấn.

Cách thiền hiện tại chủ yếu được thực hiện để đưa các luồng khí vào trung mạch, và sự thành công trong việc này phụ thuộc vào độ tập trung hoàn hảo. Do đó, bất cứ khi nào thực hiện thiền định này, điều quan trọng là ta không thấy tâm trí và đối tượng thiền của mình là hai thứ khác nhau. Như đã đề cập trước đó, ta nên hòa nhập trọn vẹn tâm trí của mình vào A ngắn để loại bỏ khoảng cách giữa chủ thể và đối tượng. Khi có thể làm như vậy, ta sẽ có thể kiểm soát được các luồng khí để chúng đi vào, trụ lại và hòa tan trong trung mạch. Đây là cơ sở cho toàn bộ các giai đoạn thiền tiếp theo, mà đạt đến đỉnh cao là việc chứng ngộ Đại Ấn.
 

Prahevajra

Registered

Phật tử
Reputation: 19%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
155
Điểm tương tác
13
Điểm
18
ĐỐT CHÁY NỘI HỎA (TUMMO)

Sự tập trung được tạo ra trong giai đoạn thiền thứ tư chú trọng vào chữ A ngắn trong không bào của luân xa rốn. Bây giờ ta kết hợp sự tập trung này vào chữ A ngắn với việc giữ hơi thở cái bình.

Ta bắt đầu thở bình bằng cách kéo một phần luồng khí của phần thân dưới lên trên rồi tập hợp chúng ngay bên dưới A ngắn tại luân xa rốn. Việc này được thực hiện chủ yếu bằng cách dựa vào sức mạnh quán tưởng. Ta chỉ cảm thấy rằng mình đang thắt chặt các cơ ở phần thân dưới và nhờ đó nhẹ nhàng kéo các luồng khí lên trên. Kết quả là, các cơ kiểm soát việc giữ nước tiểu, phân, vân vân, sẽ thắt lại một chút, nhưng không đến mức hai cửa dưới thực sự đóng lại. Sau đó, hít vào nhẹ nhàng, chậm rãi, sâu, qua cả hai lỗ mũi, quán tưởng tất cả các luồng khí của phần thân trên chảy xuống qua các mạch trái và phải. Khi đến rốn, chúng đi vào trung mạch rồi tập hợpp ngay phía trên A ngắn. Giai đoạn thứ ba của thở bình thực sự là thắt chặt các cơ của sàn chậu để hai cửa dưới đóng lại, sau đó kéo hoàn toàn tất cả các luồng khí của phần thân dưới lên. Những luồng khí này sau đó hợp nhất với các luồng khí đã tập hợp ngay bên dưới A ngắn. Sau đó, nhẹ nhàng nuột một ít nước bọt mà không phát ra bất cứ tiếng động nào. Điều này sẽ ép nhẹ các luồng khí trên và dưới lại với nhau.

Bây giờ chúng ta nghĩ rằng chữ A ngắn được bao bọc hoàn toàn bởi các luồng khí trên và dưới, giống như một việc ngọc trong hộp bùa hộ mệnh. Kích thước của hình ảnh quán tưởng này nên bằng một hạt đậu nhỏ đã được cắt đôi, khoét rỗng và ghép lại xung quanh một hạt cải nhỏ hơn nữa.

Ta tập trung chú ý của mình vào chữ A ngắn được bao bọc trong quả cầu nhỏ rồi dừng lại mọi thì hít vào thở ra. Tập trung theo cách này thì sẽ không còn cần thiết phải giữ các cửa dưới đóng lại nữa. Vẫn tập trung như thế này mà không thở cho đến khi ta sắp cảm thấy khó chịu. Sau đó, ngay trước khi thở ra, ta quán tưởng bán cầu trên và bán cầu dưới của các luồng khí hòa tan vào A ngắn, kết quả là trở nên nóng hơn trước.

Ta thở ra chậm rãi và nhẹ nhàng qua lỗ mũi (không phải qua miệng), trong khi vẫn tập trung vào A ngắn ở giữa luân xa rốn. Thư giãn một lúc rồi tiếp tục thở bình như trước. Có thể thở bình bảy, hai mươi mốt, hoặc nhiều hơn, liên tiếp trong một thời khóa thiền, tùy thuộc vào thời gian ta có. Nếu có thể, ta không nên hít thở thêm bất cứ hơi nào giữa hơi thở ra đánh dấu sự kết thúc của một hơi thở bình và hơi thở hít vào đánh dấu sự bắt đầu của hơi thở tiếp theo. Tuy nhiên, nếu điều này tỏ ra quá khó, ta có thể hít thở một vài hơi trung gian.

Có những cách khác để thực hiện thở bình, nhưng về bản chất chúng giống như phương pháp được giải thích ở đây. Phương pháp cụ thể này là phù hợp nhất đối với thực hành hiện tại. Trong khi thiền như vậy, ta không được để sự tập trung của mình đi chệch khỏi đối tượng, ngay cả trong giây lất và luôn ghi nhớ rằng A ngắn là bản tính của nhiệt độ lửa. Ta cần thực hành lặp lại việc giữ hơi thở bình này nhiều lần nhất có thể để trở nên hoàn toàn quen thuộc với nó.

Một lần nữa, điều quan trọng là phải nhấn mạnh đến nhu cầu tập trung chính xác vào đúng vị trú trong trung mạch. Không bào trong trung mạch nằm ở trung tâm của luân xa rốn và tại đây, A ngắn được quán tưởng và các luồng khí tụ lại. Ta cần thực hiện bốn nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn thiền này: (1) liên tục kiểm tra xem vị trí thiền có chính xác không, (2) tìm đối tượng thiền mà không gặp khó khăn, (3) giữ đối tượng thiền liên tục thông qua sức mạnh của tỉnh giác, và (4) để tâm trí hòa nhập trọn vẹn vào đối tượng thiền. Nếu thực hiện tốt bốn điểm này, ta chắc chắn sẽ thành công trong thiền nội hỏa và kết quả là ta sẽ có thể khiến các luồng khí đi vào, trụ lại và hòa tan trong trung mạch.

Có hai mục đích khi giữ hơi thở bình. Đầu tiên là đình chỉ dòng chảy của khí trong các mạch phải và trái, do đó làm dịu đi tâm trí khái niệm thô. Như đã đề cập trước đó, nếu khí ngừng lưu chuyển trong trong các kinh mạch phải và trái, thì chúng sẽ trôi chảy trong trung mạch.

Đối với mục đích thứ nhất này, cần lưu ý rằng có thể đưa khí vào trung mạch chỉ bằng cách tập trung vào A ngắn, mà không cần phải thở bình. Đây là kỹ thuật nhẹ nhàng nhất trong tất cả các kỹ thuật để đưa khí vào trung mạch và thật tốt nếu tra có thể thực hiện được. Không có nguy cơ bị nhiễu loạn khí trong phương pháp này. Hơn nữa, phương pháp này mạnh hơn các pháp khác để đạt được chứng ngộ tịnh quang. Mặt khác, bằng cách sử dụng phương pháp thở bình, ta có thể đưa khí vào trung mạch nhanh hơn nhiều.

Như đã chỉ ra trước đó, bản thân kỹ thuật thở bình có thể được thực hiện nhẹ nhàng hoặc mạnh mẽ. Kỹ thuật được mô tả ở đây, trong đó các cơ của nửa thân dưới được thắt lại nhẹ nhàng, là phương pháp nhẹ nhàng được khuyến nghị. Phương pháp mạnh mẽ hơn bao gồm việc siết chặt các cơ của cánh tay và chân, do đó buộc các luồng khí bên dưới tụ hợp nhanh hơn. Nếu một thiền sinh không thành công với pháp nhẹ nhàng, người đó nên thực hành pháp mạnh mẽ trong một quá trình rồi sau đó quay lại với kỹ thuật nhẹ nhàng.

Có một điểm tương đồng giữa các phương pháp khác nhau khiến khí đi vào trung mạch và các cách chết khác nhau. Pháp nhẹ nhàng mà ta chỉ tập trung vào A ngắn tương tự như quá trình xảy ra trong cái chết tự nhiên, khi khí tan vào trung mạch chậm rãi và từ từ, do đó tạo cơ hội lớn hơn để nhận rõ và thiền về tịnh quang. Phương pháp mạnh mẽ nhất cũng tương tự những gì xảy ra đối với cái chết đột ngột, dữ dội. Những luồng khí tan biến rất nhanh và do chuyện động gấp rút này, việc nhận biết tịnh quang trở nên khó khăn hơn. Vì vậy, cách tốt nhất để thiền định là sử dụng kỹ thuật thở bình trước để có kinh nghiệm tập trung tâm trí vào A ngắn trong luân xa rốn, rồi sau đó, khi đã quen thuộc, hãy tiến hành phương pháp nhẹ nhàng, hơn là chỉ sử dụng sự tập trung.

Mục đích thứ hai của việc giữ hơi thở bình có liên quan đến luồng khí hướng xuống nằm trong trung mạch ngay dưới luân xa rốn. Bằng cách hòa tan luồng khí trên và dưới của thân thể vào A ngắn như mô tả ở trên, chúng ta có thể khiến luồng khí hướng xuống di chuyển lên trên. Khi điều này xảy ra, nội hỏa sẽ được đốt lên và bùng cháy.

Khi mọi người quan hệ tình dục, luồng khí hướng xuống cũng được tạo ra để di chuyển lên trên bởi sự hợp nhất của các cơ quan sinh dục nam và nữ, nhưng chuyển động này không diễn ra trong trung mạch và vì vậy kết quả chỉ là sự đốt lên và bùng cháy tạm thời của nội hỏa bình thường. Do sự đốt lên và bùng cháy này, các giọt ở phần dưới của thân thể tan chảy và chảy xuống dưới, dẫn đến trải nghiệm khoái lạc ngắn ngủi, nhưng điều này chỉ kéo dài cho đến khi các giọt thoát ra qua cơ quan sinh dục hoặc trong trường hợp của người phụ nữ, tích tụ trong tử cung. Tuy nhiên, bằng cách giữ hơi thở bình và tập trung vào nội hỏa, luồng khí hướng xuống có thể được tạo ra để di chuyển lên trên bên trong trung mạch. Điều này sẽ khiến nội hỏa được đốt lên rồi bùng cháy, và các giọt tan chảy toàn bộ bên trong trung mạch. Những người không thực hành mật tông sẽ không thể đạt được kết quả này. Mặc dù họ có thể đốt lên nội hỏa bình thường và khiến nó bùng cháy thông qua giao hợp, nhưng họ không thể khiến các giọt tan chảy trong trung mạch hoặc khiến chúng rơi xuống từ luân xa đỉnh đầu. Vì giao hợp phàm tục không thể khiến khí đi vào trung mạch hoặc khiến nội hỏa được đốt lên và bùng cháy bên trong đó, nên nó không có lợi cho việc thực hành giai đoạn thành tựu.

Cũng như quan hệ tình dục phàm tục có thể khiến nội hỏa được đốt lên và bùng cháy theo cách đã mô tả, một số thiền định thông thường cũng có thể tạo ra sức nóng của nội hỏa trong thân thể. Tuy nhiên, việc tạo ra sức nóng như vậy không có mục đích nào khác ngoài việc giữ ấm cơ thể; nó không có sức mạnh để mang lại giác ngộ. Nếu mục đích duy nhất là làm ấm cơ thể, chúng ta không cần phải thiền định, sẽ dễ dàng hơn nếu chỉ quấn mình trong chăn hoặc bật lò sưởi!

Để thực hành nội hỏa thuần khiết, ta nên cố gắng đốt nó lên bên trong trung mạch, vì đốt cháy nó bên ngoài trung mạch sẽ chỉ làm giảm nhiệt được tạo ra bên trong. Kết quả là các giọt sẽ không tan chảy và lưu chuyển trong trung mạch và việc thiền định sẽ không mang lại bất cứ chứng ngộ nào ở giai đoạn thành tựu. Nếu thiền Đại Ấn không thành công, sẽ không thể nhận ra được tịnh quang. Mặt khác, khi nội hỏa được đốt lên và bùng cháy bên trong trung mạch, các luồng khí sẽ đi vào, tụ lại và hòa tan trong đó. Khi đó, chẳng có gì cản trở chúng ta phát sinh đại lạc tự nhiên, vốn là mục đích chính của thiền nội hỏa.

Để đốt cháy nội hỏa bằng hơi thở bình, ta quán tưởng rằng, kết quả của việc hòa tan các luồng khí trên và dưới, luồng khí hướng xuống chảy lên trên và thổi vào A ngắn. Cần lưu ý rằng trong khi trước đây các luồng khí bên dưới cơ thể chỉ được quán tưởng là đi lên trên qua trung mạch để tạo thành nửa dưới của quả cầu bao quanh A ngắn, thì giờ đây luồng khí hướng xuống bên dưới luân xa rốn thực sự trôi chảy lên trên để thổi vào chữ cái. Cũng giống như than đỏ trở nên nóng hơn khi được thổi bằng ống thổi, thì A ngắn giờ đây cháy dữ dội hơn khi được quạt bởi luồng khí hướng xuống. Ta quán tằng chữ cái trở nên nóng đến mức có thể thiêu rụi bất cứ thứ gì. Hình dung rằng nó trở nên nóng hơn và nóng hơn, luôn sáng hơn, cho đến khi đầu trên mỏng manh của nada của A ngắn cuối cùng bùng cháy trong một khoảnh khắc và sau đó lại lắng xuống. Nada tiếp tục bùng lên và lắng xuống theo cách này khi nó được quạt bởi chuyển động hướng lên của luồng khí hướng xuống, giống như than nóng bùng lên rồi lắng xuống khi chúng được thổi vào bằng ống thổi. Đây là giai đoạn thứ năm của thiền định, được gọi là “đốt lên nội hỏa”. Chúng ta cần tiếp tục tu luyện trong pháp môn này cho đến khi có kinh nghiệm thực tế về sự đốt cháy này.

Theo truyền thống của Je Tsongkhapa, mỗi giai đoạn thiền nội hỏa nên được thực hành đúng phương pháp và kỹ lưỡng cho đến khi đạt được kết quả thành công. Nếu thực hành thiền nội hỏa quá nhanh, ta có thể làm phát sinh thân nhiệt nhưng điều này sẽ cản trở việc nhận được những thành quả thực sự của nội hỏa. Do đó, ta nên từ bỏ mọi kỳ vọng và thực hành chậm rãi, kỹ lưỡng, khi đó mới đạt được thành công. Nhiều thiền giả vĩ đại trong quá khứ đã tốn bốn, năm hoặc sáu năm để thành tựu nội hỏa. Chúng ta thậm chí cần phải dành cả cuộc đời để tu luyện yoga này. Như Longdrol Lama đã nói:

Thiền nội hỏa giống như một con bò như ý mà từ đó chúng ta có thể nhận được nguồn dinh dưỡng vô tận.



KHIẾN LỬA BÙNG LÊN

Giai đoạn thứ sáu của thiền liên quan đến sự bùng lên của nội hỏa. Điều này rất giống với giai đoạn thứ năm và cũng được thực hiện kết hợp với hơi thở bình. Như thường lệ, bước đầu tiên là tìm đối tượng thiền, A ngắn trên đệm mặt trăng bên trong không bào ở trung tâm của luân xa rốn bên trong trung mạch. Ta nhớ rằng A ngắn có kích thước bằng hạt cải, có bản tính của lửa, rất đỏ và lấp lánh ánh sáng rực rỡ. Ta tìm kiếm đối tượng này và hòa tan tâm trí của mình vào đó.

Bây giờ ta thực hành thở bình, giữ tập trung vững chắc vào đối tượng thiền định. Như trước đây, các luồng khí hòa tan vào A ngắn trong khi ta đang giữ hơi thở bình khiến luồng khí hướng xuống ngay bên dưới luân xa rốn di chuyển lên trên, điều này khiến nhiệt độ của A ngắn tăng mạnh. ở giai đoạn thứ năm, ta quán tưởng tằng đầu trên vi tế của nada liên tục bùng cháy rồi lại lắng dịu, nhưng ở giai đoạn này, ta quán rằng nó liên tục bùng cháy mà không lắng xuống, giống như than trong lửa, khi được thổi vào, tự nhiên bốc cháy.

Ngọn lửa trên đầu nada dần dần dài ra cho đến khi nó có kích thước bằng một cây kim khâu, có cùng đường kích và cực kỳ sắc nhọn ở đầu trên. Tuy ngọn lửa rất nhỏ nhưng nó cực kỳ mạnh mẽ. Chúng ta quán tưởng cây kim lửa này ở chính giữa trung mạch, đứng rất thẳng. Bây giờ ta quán tưởng nhiệt độ tăng mạnh do kim lửa tạo ra đi lên trên qua trung mạch theo cùng cách mà nhiệt bốc lên từ đầu ngọn nến. Được làm nóng bởi nhiệt đi lên này, HUM ở luân xa tim, OM ở luân xa cổ họng và HAM ở luân xa đỉnh đầu nóng lên cho đến khi chúng sắp tan chảy.

Vào thời điểm này, sự chú tâm của chúng ta nên tập trung chủ yếu vào A ngắn trong luân xa rốn, nhưng một phần tâm trí của ta nên hình dung các chữ cái khác trong các luân xa trên và cảm thấy rằng chúng đang đạt đến điểm nóng chảy. Toàn bộ việc quán tưởng này được thực hiện trong khi giữ hơi thở bình. Ngay trước khi cảm thấy khó chịu để giữ nó lâu hơn, ta thở ra từ từ và đều đặn qua cả hai lỗ mũi. Nên thực hành thiền này cho đến khi thành thạo. Như đã đề cập trước đó, ta có thể bắt đầu bằng cách thở bình rồi sau đó, khi sự tập trung đã phát triển tốt, hãy tiếp tục hành thiền chỉ với sự tập trung.

Khi ngọn lửa bùng cháy bên trong trung mạch như đã mô tả, ta có thể phát sinh đại lạc tự nhiên khi những giọt trắng và đỏ tan chảy, nhưng vì những giọt tan chảy này sẽ lưu hành bên trong trung mạch nên sẽ không có nguy cơ bị mất chúng qua cơ quan sinh dục.

Khi mới bắt đầu thực hành thiền nội hỏa, chúng ta nên đặt trọng tâm vào giai đoạn đầu và duy trì cho đến khi có được một số kinh nghiệm. Sau đó, ta nên chuyển sang giai đoạn hai, tu luyện ở giai đoạn đó cho đến khi có được một số kinh nghiệm, rồi tiến tới giai đoạn ba, và cứ như vậy cho đến khi thành thạo cả tám giai đoạn. Khi thuần thực ở những giai đoạn này, ta có thể thực hành tất cả chúng liên tiếp trong một khóa thiền. Vì thời gian thông thường dành cho thiền định bị hạn chế nên có thể khó dành đủ thời gian cho từng giai đoạn để đạt được trình độ thuần thục mong muốn. Trong trường hợp này, để quen thuộc với thiền nội hỏa, ta có thể thực hành cả tám giai đoạn trong một lần ngồi. Tuy việc này không mang lại trải nghiệm sâu sắc nhưng nó sẽ cho phép ta làm quen với toàn bộ các phương pháp kỹ thuật của tám giai đoạn để khi có thời gian thực hành kỹ hơn trong kỳ nhập thất, ta sẽ có thể tiến hành một cách tự tin.
 

Prahevajra

Registered

Phật tử
Reputation: 19%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
155
Điểm tương tác
13
Điểm
18
BÙNG CHÁY VÀ NHỎ GIỌT

Giai đoạn thứ bảy phát triển từ giai đoạn trước và cũng được thực hiện kết hợp với hơi thở bình. Một lần nữa, ta tìm thấy đối tượng thiền định là chữ A ngắn và cây kim lửa của nó, và khiến ngọn lửa dần dần dài ra. Nó có bản chất là ngọn lửa rất mạnh, bốc lên qua chính giữa của trung mạch. Khi đến trung tâm của luân xa tim, nó cuộn theo chiều kim đồng hồ một vòng quanh chữ HUM lộn ngược, nhờ đó đưa nó tới gần hơn với sự tan chảy. Ngọn lửa sau đó tiếp tục dần đi lên theo trung mạch cho đến khi nó đến trung tâm của luân xa cổ họng, nơi nó cuộn theo chiều kim đồng hô một vòng quanh chữ OM thẳng đứng, cũng đưa nó đến gần hơn tới sự tan chảy. Sợi lửa sau đó tiếp tục đi lên cho đến khi nó đến trung tâm của luân xa đỉnh đầu và chạm vào đáy của chữ HAM lộn ngược. Kết quả là, một giọt màu trắng nhỏ giọt từ chữ cái giống như bơ tan chảy và nhỏ giọt khi nó được giữ trên lưỡi của một ngọn lửa đang cháy. Tại thời điểm này, ta quán tưởng ngọn lửa lắng xuống, thu gọn lại thành cây kim lửa phát ra từ A ngắn. Trong quán trình thiền này không cần phải hình dung ra đệm mặt trăng.

Giọt trắng tan chảy nhỏ giọt từ HAM thành một sợi dài, mảnh, mỏng như sợi tơ nhện. Điều này tương tự như cách mật ong nhỏ giọt thành một sợi dài từ một lỗ nhỏ thủng trên hộp mật. Khi nhỏ xuống, giọt tan vào OM ở cổ họng, khiến ta cảm thấy cực kỳ sung sướng. Sau đó giọt thoát ra khỏi OM, tiếp tục giáng xuống cho đến khi tới luân xa tim, nơi nó hòa tan vào HUM khiến chúng ta trải nghiệm lạc thọ thậm chí còn lớn hơn trước. Cuối cùng, giọt xuống đến luân xa rốn và hòa tan vào ngọn lửa của A ngắn, khiến nó trở nên nóng hơn, giống như bơ nhỏ giọt vào ngọn lửa đang cháy sẽ khiến ngọn lửa cháy dữ dội hơn. Khi nhiệt độ của chữ cái tăng lên, trải nghiệm hạnh phúc của chúng ta cũng tăng lên theo. Nếu có thể, toàn bộ quá trình quán tưởng này nên được thực hiện trong khi giữ hơi thở bình. Nếu việc này quá khó, ta có thể thực hiện thở bình trước rồi sau đó, trong lúc thở bình thường, tăng chiều dài của kim lửa và tiếp tục phần còn lại của giai đoạn thiền định này.



MỘT GIẢI THÍCH VỀ BÙNG CHÁY VÀ NHỎ GIỌT PHI THƯỜNG

Giai đoạn thứ tám này tương tự như giai đoạn trước và cũng được thực hiện kết hợp với thở bình. Kim lửa đi lên qua trung mạch giống như một sợi dây điện nóng đỏ. Nó quấn quanh HUM và OM như trước rồi đi lên đến trung tâm của luân xa đỉnh đầu. Khi ngọn lửa chạm đến HAM, quá trình thực hành bắt đầu khác với giai đoạn trước. Thay vì làm tan chảy giọt trắng, sợi lửa cuộn theo chiều kim đồng hồ một lần quanh chưz cái, đưa nó gần tới điểm tan chảy, rồi tiếp tục qua trung mạch, cong xuống cho đến khi đạt đến điểm mà trung mạch kết thúc giữa hai lông mày.

Khi ngọn lửa đến điểm giữa hai lông mày, ánh sáng của nó tỏa ra từ lỗ hổng ở đó, ngay lập tức vươn tới tận cùng của không gian, thấm nhuần toàn thể môi trường và cư dân của các cõi dục, sắc và vô sắc. Ánh sáng thanh lọc những lỗi lầm và ô nhiễm của tất cả các thế giới này và cư dân của chúng khiến chúng tan chảy thành ánh sáng, hòa trộn hoàn toàn vào nhau và trở nên không phân biệt trong một quả cầu ánh sáng xanh lam nhỏ đơn nhất. Ta quán tưởng quả cầu này trước mặt mình, có kích thước bằng một bóng đèn.

Đến đây, ta quán tưởng rằng toàn thể chư Phật của ba thời và mười phương xất hiện dưới dạng các bản tôn nam và nữ trong sự ôm ấp nhất điểm, lấp đầy toàn bộ không gian bên ngoài quả cầu ánh sáng. Ta quán tưởng những tia sáng xanh rực rỡ phát ra từ quả cầu, đi vào qua lỗ mũi trái của nam thần. Ánh sáng này hòa tan vào giọt bất hoại trong các luân xa của chúng sinh thần thánh, khiến họ trải nghiệm đại lạc tự nhiên vô nhiễm.

Khi mỗi cặp đôi kinh nghiệm đại lạc này, họ tan vào ánh sáng. Các phương diện nam thần tan vào những giọt trắng, các phương diện nữ thần tan vào các giọt đỏ. Các giọt bắt nguồn từ mỗi cặp đôi hòa quyện hoàn toàn với nhau để tất cả những gì còn lại của mỗi giọt là một giọt duy nhất trong bản tính của đại lạc, có màu trắng với một chút đỏ.tất cả những giọt ánh sáng riêng biệt này tan vào một, đi vào chúng ta qua điểm giữa hai lông mày. Từ đây, giọt quyền năng này đi lên qua trung mạch của chúng ta cho đến khi nó chạm đến chữ HAM ở trung tâm luân xa đỉnh đầu. Sau đó, nó hòa tan vào chữ HAM, trở nên hoàn toàn hợp nhất với bản thể của toàn bộ các nam nữ thần bản tôn. Ta cảm thấy rằng HAM hiện đã được ban đại phúc bởi quyền năng và trí tuệ của chư Phật ba thời và mười phương. Điều rất quan trọng là ta càng tập trung cao độ càng tốt.

Sau đó, ta quay lại chú ý đến luân xa rốn. Như trước, ta thấy ngọn lửa cực nóng được tạo ra bởi A ngắn như một cây kim lửa. Một lần nữa, ngọn lửa mạnh mẽ này bốc lên trung mạch cho đến khi nó chạm đến chữ HAM trên đỉnh đầu. Vì tại thời điểm này, việc quán tưởng HUM và OM sẽ gây xao lãng, ta quán tưởng ngọn lửa đi thẳng lên trung mạch đến HAM, khiến chữ này tan chảy. Khi nó tan chảy, giọt trắng nhỏ giọt từ chữ cái, bắt đầu chảy xuống trung mạch cho đến khi nó chạm đến OM trong luân xa cổ họng, mà bây giờ chúng ta đưa trở lại tâm trí. Khi nó chạm vào OM, chữ này được chuyển hóa khiến cho bản tính của nó trở thành tổng hợp của toàn thể bản tôn nam và nữ. Sau đó, giọt trắng chảy xuống luân xa tim, chạm vào HUM, khiến nó chuyển hóa theo cùng một cách, tiếp theo chảy xuống luân xa rốn, nơi nó cũng chuyển hóa A ngắn. Bây giờ, với sự tập trung mạnh mẽ, ta cảm thấy rằng A ngắn, bản tính của đại lạc, là tổng hợp của toàn thể chúng sinh giác ngộ của ba thời và mười phương. Việc này khiến nhiệt độ do A ngắn tạo ra tăng lên rất nhiều.

Duy trì trạng thái tập trung này một lúc rồi quán tưởng rằng ánh sáng rực rỡ của nội hỏa lan tỏa khắp 64 nan hoa của luân xa rốn và sau đó là khắp 72 ngàn kinh mạch của thân thể, sửa chữa mọi khuyết điểm của chúng, thanh tẩy toàn thể khí và giọt, hấp thu mọi tiêu cực của thân, khẩu, ý. Theo cách này, các kinh mạch, khí và giọt của chúng ta được gia trì bởi thần lực và trí tuệ của mọi chúng sinh giác ngộ viên mãn.

Nếu cần làm ấm thân thể thông qua thiền định này, ta nên quán tưởng ánh sáng trôi chảy trong 72 ngàn kinh mạch rất nóng. Tuy nhiên, nếu thiếu kỹ năng, quán tưởng này có thể làm giảm nhiệt trong trung mạch, từ đó cản trở sự chín muồi của chính quả trong thiền nội hỏa. Thậm chí còn có nguy cơ thiền nội hỏa của ta thoái hóa thành việc hành pháp bất tịnh và do vậy mang kại kết quả kém hơn. Như đã nêu ra trước đây, mục đích chính của thiền nội hỏa là để chuyển hóa toàn bộ khí, mạch, giọt của chúng ta, thanh lọc tất cả khí bấ tịnh, diệt trừ mọi ý nghĩ thô thiển và tiêu cực bao gồm cả những quan niệm nhị nguyên vi tế nhất vốn cản trở thành tựu giác ngộ viên mãn. Tất cả những mục đích cao cả này đều đạt được thông qua kinh nghiệm ánh sáng của nội hỏa.

Thiền nội hỏa là một quá trình dần dần. Nếu ta cảm thấy nóng nhiều ngay từ đầu khi mới thực hành, thì đây có thể là dấu hiệu cho thấy tâm trí chúng ta không tập trung vào đúng chỗ để thiền. Lúc đầu, nhiệt chỉ nên được tạo ra trong không bào bên trong trung mạch tại luân xa rốn, chứ không phải trong cơ thể vật lý thô thiển.

Có một yogi vĩ đại tên Sangye Gyatso, tu viện của ông ở vùng Se của Tây Tạng, Khi ông mất, trời đang vào mùa đông và có rất nhiều tuyết trên mặt đất. Trong khi qua đời, ông đã duy trì thiền định nhất tâm vào tịnh quang trong suốt một tháng, và vì sự tập trung của ông vào thực hành nội hỏa quá mạnh mẽ nên toàn bộ tuyết xung quanh tu viện đều tan chảy.

Nếu thành công chuyển hóa và thanh lọc tất cả khí, mạch, giọt của mình, tâm trí của chúng ta sẽ tự nhiên trở nên cực kỳ sáng suốt và minh mẫn, kết quả là ta sẽ đạt được một mức độ thấu thị và các thần thông. Những dự đoán của một thiền giả đạt đến cấp độ này sẽ rất chính xác. Những năng lực như vật là sản phẩm phụ tự nhiên của việc thiền nội hỏa, nhưng chúng không phải là những thần thông chuẩn mực. Như Atisa đã nêu trong Đèn Soi Nẻo Giác, thần thông thanh tịnh, chuẩn mực chỉ đạt được sau khi chúng ta đã đạt được trạng thái an trú tĩnh lặng thật sự.

Khi các khí, mạch, giọt đã được thanh lọc và các luồng khí đã được đưa vào trung mạch, các quan niệm nhị nguyên, nguồn gốc của luân hồi, không còn bất cứ cơ sở nào nữa và do đó chúng biến mất. Vô số những suy nghĩ tiêu cực do tâm nhị nguyên thúc đẩy tự động biến mất mà không cần nỗ lực, kết quả là tâm trí tự nhiên phát triển những phẩm chất tích cực.

Giai đoạn thứ tám của thiền định được gọi là “phi thường” vì nó hiệu triệu quyền năng và phúc lành từ các bản tôn nam và nữ. Nó có ba lợi ích chính: (1) nó ban lực gia trì từ các bản tôn nam và nữ; (2) nó ban ân điển và tịnh hóa khí, mạch, giọt, do đó triệt tiêu các tư tưởng tiêu cực; (3) nó khiến nội hỏa được đốt lên và bùng cháy để các giọt tan chảy và lưu hành trong trung mạch, nhờ đó phát sinh đại lạc tự nhiên.

Đến đây kết thúc phần đầu tiên về thiền nội hỏa. Thực hành nội hỏa đặc biệt này được gọi là “Đấng hung nộ có bốn luân xa” và chủ yếu được giải thích trong mật điển Hevajra và cũng có trong các mật điển Samputa Samvara Nhỏ. Hầu hết các yogi ban đầu đã thực hành hệ thống này và đạt được giác ngộ hoàn hảo nhờ nó, vì vậy nó là một kho báu vô cùng quý giá.



TỊNH QUANG VÀ BỐN HỶ

Dựa trên những điều này, một giải thích về thực hành bốn hỷ và chín hòa nhập

Phần này được diễn giải theo hai mục:

1. Giải thích về bốn hỷ

2. Giải thích về chín hòa nhập



GIẢI THÍCH VỀ BỐN HỶ

Có hai nhóm tứ hỷ, nhóm thuộc giai đoạn phát sinh và nhóm thuộc giai đoạn thành tựu. Giai đoạn sau sẽ được mô tả ở đây. Kinh nghiệm bốn hỷ của giai đoạn thành tựu phụ thuộc vào việc các luồng khí đi vào, trụ lại và hòa tan trong trung mạch. Phương pháp để thực hiện điều này là tám giai đoạn thiền nội hỏa. Nếu thực hành thành công tám giai đoạn này, chắc chắn chúng ta sẽ có thể đạt được sự kiểm soát mong muốn đối với các luồng nội khí của mình. Bởi việc nhận ra khi nào các luồng khí đi vào, trụ lại và hòa tan trong trung mạch là rất quan trọng, ta cần phải làm quen với các dấu hiệu liên quan đến từng giai đoạn này. Vì vậy, trước khi thảo luận về bốn hỷ, sẽ hữu ích nếu trình bày một mô tả chi tiết về các dấu hiệu này.

Chúng ta có thể biết được khí đã vào trung mạch hay chưa bằng cách kiểm tra hơi thở của mình. Thông thường, hơi thở của ta mất cân bằng. Nhiều không khí được thở ra qua một bên lỗ mũi hơn là qua bên kia, và không khí bắt đầu thoát ra khỏi một bên lỗ mũi trước bên kia. Tuy nhiên, khi khí đã vào trung mạch do kết quả của tám giai đoạn thiền định, sức ép và thời gian của hơi thở sẽ giống nhau ở cả hai bên lỗ mũi khi hít vào và thở ra. Do đó, dấu hiệu đầu tiên cần lưu ý là chúng ta sẽ thở đềi qua cả hai lỗ mũi. Một sự mất cân bằng đáng chú ý khác trong hơi thở bình thường là hơi hít vào mạnh hơn hơi thở ra hoặc ngược lại. Dấu hiệu thứ hai cho thấy luồng khí đã đi vào trung mạch là áp lực khi hít vào sẽ bằng chính xác áp lực khi thở ra.

Ngoài ra còn có hai dấu hiệu cho thấy các luồng khí đang trú ngụ trong trung mạch: (1) hơi thở của chúng ta càng lúc càng yếu đi, cuối cùng là ngưng hẳn, và (2) mọi chuyển động của bụng bình thường liên quan đến hơi thở đều dừng lại. Trong diễn biến thông thường của mọi việc, nếu hơi thở ngừng lại thì chúng ta sẽ tràn ngập hoảng loạn và nghĩ rằng mình sắp chết, nhưng nếu ta có thể ngừng thở thông qua sức mạnh thiền định, thay vì hoảng loạn, tâm trí của ta sẽ trở nên tự tin, thoải mái và linh hoạt hơn.

Khi các luồng khí an trú trong trung mạch, chúng ta không còn phải dựa vào không khí thô để sinh tồn nữa. Bình thường hơi thở của chúng ta chỉ dừng lại vào lúc chết. Trong lúc ngủ, hơi thở của ta trở nên tinh tế hơn nhiều, nhưng không bao giờ dừng hẳn. Tuy nhiên trong quá trình hành thiền ở giai đoạn thành tựu, hởi thở có thể dừng hẳn mà không khiến chúng ta bất tỉnh. Sau khi các luồng khí đã an trú trong trung mạch từ năm tới mười phút, chúng có thể thoát ra ngoài trở lại vào các kinh mạch phải và trái. Nếu chuyện này xảy ra, ta sẽ tiếp tục thở. Không khí lưu thông qua hai lỗ mũi là dấu hiệu cho thấy các luồng khí không trú ngụ trong trung mạch.

Như đã đề cập từ trước, thiền nội hỏa khiến các luồng khí không chỉ thâm nhập và trú ngụ trong trung mạch, mà còn hòa tan trong đó. Những dấu hiệu nào cho thấy các luồng khí đã hòa tan trong trung mạch? Có bảy luồng khí phải hòa tan, mỗi luồng có một dấu hiệu cụ thể cho thấy quá trình hòa tan của nó đã hoàn tất. Bảy luồng khí là:

1. Khí nguyên tố đất

2. Khí nguyên tố nước

3. Khí nguyên tố lửa

4. Khí nguyên tố gió

5. Khí gắn kết với tâm trí của sự xuất hiện màu trắng

6. Khí gắn kết với tâm trí của màu đỏ tăng cường

7. Khí gắn kết với tâm trí của màu đen gần thành tựu

Bốn luồng khí đầu tiên là thô còn ba luồng khí cuối là tinh tế. Bảy luồng khí này tan dần theo trình tựu, với mỗi lần hòa tan đều có một hình dạng cụ thể.

Khí nguyên tố đất hỗ trợ và tăng cường mọi thứ liên quan đến nguyên tố đất trong cơ thể chúng ta, chẳng hạn như xương, sụn, móng tay. Khi khí nguyên tố đất tan rã trong trung mạch, chúng ta nhận thấy một sự xuất hiện được gọi là “hình dạng giống như ảo ảnh”. Điều này giống như hình ảnh của nước lấp lánh đôi khi dược nhìn thấy trên nền sa mạc. Có ba cấp độ là hình dạng giống như ảo ảnh này được nhận thức, tùy thuộc vào mức độ mà khí nguyên tố đất đã hòa tan vào trung mạch. Nếu sự tan rã chỉ nhẹ nhàng, hình ảnh sẽ mơ hồ, ít rõ ràng nhất và rất khó nhận ra. Nếu sự tan rã gần như hoàn toàn, hình ảnh sẽ rõ ràng và sống động hơn. Nếu khí nguyên tố đất hòa tan trọn vẹn, hình ảnh sẽ rõ ràng và sống động không thể nhầm lẫn, và không thể không nhận ra. Khi khí nguyên tố đất hòa tan và hình dạng giống như ảo ảnh đã được nhận thấy, luồng khí tiếp theo sẽ hòa tan và một hình ảnh khác sẽ xuất hiện. Luồng khí đầu tiên càng tan rã trọn vẹn, nhận thức của chúng ta về hình ảnh tiếp theo này sẽ càng sống động.

Khí thứ hai hòa tan là nguyên tố nước, hỗ trợ và tăng cường các nguyên tố lỏng của cơ thể như máu. Sự xuất hiện liên quan đến sự hòa tan này được gọi là “hình dạng giống khói”. Một số tài liệu nói rằng hình ảnh này giống như khói bốc lên từ một ống khói, nhưng đây không phải là hình dạng thật sự, có một sự xuất hiện giống như khói bốc lên, nhưng việc này xảy ra ngay trước sự tan rã thực sự của khí nguyên tố nước. Phải đến khi hình dạng ban đầu này lắng xuống thì mới nhận ra được sự xuất hiện giống như khói thực sự. Điều này giống như những làn khói xanh lam mỏng manh trôi nổi trong không khí trong một làn sương xoáy chậm. Như trước đây, có ba cấp độ mà sự xuất hiện này được nhận thức tùy thuộc vào mức độ tan ra của nguyên tố nước.

Tiếp theo là sự hòa tan của khí nguyên tố lửa. Khí này hỗ trợ và tăng cường nguyên tố lửa trong cơ thể và chịu trách nhiệm cho nhiệt độ cơ thể, vân vân. Dấu hiệu cho thấy khí nguyên tố này tan ra là “hình dạng giống như đom đóm lấp lánh”. Sự xuất hiện này đôi khi được mô tả như một ngọn lửa nổ lách tách nhìn thấy vào ban đêm, với các tia lửa bốc lên xoáy phía trên ngọn lửa giống như đom đóm lấp lánh. Một lần nữa, có ba cấp độ mà hình dạng này được nhận thức tùy thuộc vào mức độ hòa tan.

Tiếp theo, khí nguyên tố gió tan rã. Đây là khí được tạo ra từ các ý nghĩ khái niệm thô. Nó cung cấp năng lượng cho các hiện tượng nhị nguyên thô và các ý nghĩ khái niệm thô phát sinh từ việc giữ cho những hiện tượng này là đúng. Dấu hiệu cho thấy khí thô thứ tư bắt đầu tan rã là “hình dạng giống như ngọn nến”. Điều này giống như ngọn lửa ổn định, thẳng đứng của một ngọn đèn bơ hoặc nến đang tắt trong một căn phòng không có gió lùa. Một lần nữa, có ba cấp độ mà hình ảnh này được nhận thức.

Khi khí nguyên tố đất đã hòa tan trong trung mạch và sức mạnh của nguyên tố đất do đó đã bị suy yếu, có vẻ như nguyên tố nước đã tăng lên vì khi sức mạnh của nguyên tố trước giảm đi, thì nguyên tố sau được nhận thức rõ ràng hơn. Vì lý do này, sự hòa tan của khí nguyên tố đất vào trung mạch thường được mô tả là “nguyên tố đất hoàn tan vào nguyên tố nước”. Với lý do tương tự, sự hòa tan sau đó được gọi là “nguyên tố nước hòa tan vào nguyên tố lửa”, “nguyên tố lửa hòa tan vào nguyên tố gió”, “nguyên tố gió hòa tan vào ý thức”.

Sau hình dạng giống như ngọn nến, tất cả tâm thức khái niệm thô đã ngừng hoạt động vì các luồng khí mà chúng bám vào đã tan rã và biến mất. Khi các thiền giả đã thành tựu sự tan biến của luồng khí thứ tư, tâm thức vi tế đầu tiên, tâm thức của sự xuất hiện màu trắng, sẽ phát sinh. Với tâm thức này, thiền giả nhận thấy sự xuất hiện màu trắng giống như bầu trời trống rỗng vào một đêm thu trong trẻo tràn ngập ánh sáng rực rỡ của mặt trăng. Như trước đây, có ba cấp độ rõ ràng đối với sự xuất hiện này tùy thuộc vào khả năng của thiền giả.

Vào thời điểm này, tâm trí hoàn toàn thoát khỏi những khái niệm thô như 80 tư tưởng biểu lộ được liệt kê dưới đây, và nhận thức duy nhất là khoảng không trắng. Chúng sinh bình thường cũng nhận thức được sự xuất hiện này, ví dụ như vào lúc chết, nhưng họ không thể nhận ra nó hoặc kéo dài nó vì ở giai đoạn này, mức độ tỉnh giác thô phàm tục đã ngừng hoạt động. Tuy nhiên, mặc dù không có tỉnh giác thô ở giai đoạn này, những người đã tu luyện đúng cách theo các thực hành của mật tông có thể sử dụng sức tỉnh giác vi tế mà họ đã phát triển trong quá trình thiền định để nhận ra và kéo dài sự xuất hiện màu trắng, điều mà chúng sinh bình thường không thể làm được.

Khi luồng khí vi tế gắn với tâm thức của tướng trắng tan rã, tâm thức của tướng đỏ tăng cường sẽ phát sinh. Tâm này và khí của nó vi tế hơn tâm và khí của tướng trắng. Dấu hiệu khi tâm này xuất hiện là một hình dạng giống như bầu trời trống rỗng tràn ngập ánh sáng mặt trời đỏ. Một lần nữa, có ba cấp độ sáng tỏ cho sự xuất hiện này.

Khi khí vi tế gắn kết với tâm tăng cường đỏ tan biến, tâm thức đen gần thành tựu xuất hiện. Tâm này và khí gắn kết của nó thậm chí còn vi tến hơn tâm khí tăng cường đỏ. Tâm đen gần thành tựu có hai cấp độ: phần trên và phần dưới. Phần trên của tâm đen gần thành tựu vẫn sở hữu tỉnh giác vi tế, nhưng phần dưới không có tỉnh giác gì hết. Nó được kinh nghiệm như trạng thái vô thức tràn ngập, giống như một cơn ngất lịm rất sâu. Vào thời điểm này, chúng ta xuất hiện với những người khác như đã chết.

Dấu hiệu khi tâm đen gần thành tựu xuất hiện là một hình ảnh giống như bầu trời đen và trống rỗng. Hình ảnh này xuất hiện cùng với phần trên của tâm đen gần thành tựu, ngay sau khi tâm đỏ tăng cường chấm dứt. Khi kinh nghiệm tâm đen gần thành tựu tiến triển, chúng ta tiến gần đến trạng thái vô thức hoàn toàn, tỉnh giác vi tế của ta sẽ chấm dứt. Khí càng tan vào trung mạch mạnh mẽ, ta càng trở nên vô thức sâu hơn trong tâm đen gần thành tựu, và khi ta càng trở nên vô thức sâu hơn vào lúc này, ta sẽ càng nhận thức rõ ràng hơn sự xuất hiện tiếp theo của tịnh quang. Điều này tương tự như trải nghiệm của một người trong căn phòng tối trong một quá trình dài, anh ta ở đó càng lâu, thế giới bên ngoài sẽ càng sáng hơn khi cuối cùng anh ta xuất hiện. Vì vậy, mức độ sáng được trải nghiệm tùy thuộc vào độ sâu và thời gian của bóng tối trước đó.

Khi khí gắn kết với tâm đen gần thành tựu tan rã, tâm tịnh quang xuất hiện. Tâm này và khí gắn kết của nó là vi tế nhất trong tất cả. Dấu hiệu xảy ra khi tâm này xuất hiện là sự xuất hiện giống như bầu trời mùa thu lúc rạng đông hoàn toàn trong trẻo và trống rỗng.

Khi tâm thức của tịnh quang xuất hiện, một tâm tỉnh giác rất vi tế được phục hồi, tùy theo trình độ phát triển của thiền giả. Khí rất vi tế và tâm rất vi tế được gắn liền với nó nằm trong giọt bất hoại ở trung tâm luân xa tim. Bình thường tâm rất vi tế không hoạt động, nhưng vào thời điểm tịnh quan xuất hiện, nó hiển lộ và trở nên năng động. Nếu đã tu luyện các kỹ thuật của mật tông và đã trở nên thành thạo, chúng ta sẽ có thể nhận thức và duy trì sự xuất hiện của tịnh quang. Cuối cùng, nhờ học cách sự dụng tâm tỉnh giác rất vi tế được phát triển ở giai đoạn này, ta sẽ có thể tập trung tâm trí rất vi tế của mình vào tính không, và theo cách này sự dụng tâm tịnh quang như một phương tiện để đạt được Pháp Thân Phật.

Tâm thức của chúng ta không thể trở nên tinh tế hơn tâm của tịnh quang. Trong bốn lần xuất hiện (giống ảo ảnh, giống khói, giống đom đóm lấp lánh và giống ngọn nến), các khí thô tan rã, còn trong ba lần tiếp theo (xuất hiện màu trắng, đỏ tăng cường, và gần thành tựu màu đen) các luồng khí vi tế tan rã. Sau đó, với sự xuất hiện của tịnh quang, tâm rất vi tế và khí gắn kết với nó sẽ hiển lộ và trở nên năng động. Những thứ này không thể tan rã vì chúng không thể bị hoại diệt. Sau khi chết, chúng chỉ đơn giản chuyển sang kiếp sống tiếp theo.

Trong ba khí vi tế do tâm vi tế tạo ra, khí kém vi tế nhất là khí do tâm của tướng trắng tạo ra. Tâm này được gọi là “tướng trắng” vì tất cả những gì được nhận thức là tướng của không gian trắng, trống rỗng. Nó cũng được gọi là “trống rỗng” vì tâm của tướng trắng nhận thức không gian trắng này là trống rỗng. Ở giai đoạn này, tướng trắng và tướng trống rỗng có sức mạnh ngang nhau.

Khi khí do tâm trắng tạo ra tan rã, khí thứ hai trong ba khí vi tế là khi tăng cường màu đỏ xuất hiện. Khí do tâm này tạo ra vi tế hơn khí do tâm trắng tạo ra, tâm này được gọi là “tăng cường đỏ” vì khí không gian màu đỏ đang tăng cường. Nó cũng được gọi là “rất trống rỗng” vì khí do tướng trống rỗng tạo ra mạnh hơn khí do tâm trước đó tạo ra. Ở giai đoạn này, tướng không mạnh hơn tướng đỏ.

Khi khí của tâm tăng cường đỏ tan ra, tâm vi tế thứ ba, tâm gần đạt được màu đen xuất hiện, tâm này được gọi là “gần thành tựu” vì kinh nghiệm tịnh quang đã gần kề. Nó cũng được gọi là “đại không” vì sự sự xuất hiện trống rỗng thậm chí còn lớn hơn tâm trước đó.

Khi khí vi tế thứ ba do tâm đen gần thành tựu tan rã, tâm tịnh quang xuất hiện, tâm này được gọi là “tịnh quang” vì bản tính của nó rất sáng suốt và minh mẫn, và vì nó nhận thức được một hình dạng giống như ánh sáng của buổi bình minh mùa thu. Nó cũng được gọi là “toàn thể không” vì nó không có tất cả các khí thô và vi tế và chỉ nhận thức được một hình dạng trống rỗng. Đối tượng của tâm tịnh quang rất giống về hình thức với đối tượng được nhận thức bởi một Đấng Siêu Phàm trong trạng thái thiền định về tính không. Nhìn chung, bốn tâm: tâm của tướng trắng, tâm của màu đỏ tăng cường, tâm của màu đen gần thành tựu và tâm của tịnh quang được gọi là “bốn không”.

Nếu một thiền giả mật tông đạt đến trình độ cao, người đó sẽ có trải nghiệm rất sống động về tịnh quang và có thể duy trì trải nghiệm đó trong một thời gian dài. Trải nghiệm về tịnh quang của chúng ta sống động thế nào tùy thuộc vào mức độ sống động của bảy lần xuất hiện trước đó, và điều này lại phụ thuộc vào mức độ mạnh mẽ của các luồng khí hòa tan vào trung mạch. Nếu các luồng khí hòa tan rất mạnh, thiền giả sẽ có trải nghiệm sống động về tất cả những lần xuất hiện và có thể kéo dài thời gian trải nghiệm của mỗi lần. Có thể duy trì trải nghiệm của mỗi lần xuất hiện càng lâu thì ta càng có thể duy trì tịnh quang lâu hơn.

Nếu một người chết một cách dữ dội, người đó sẽ tiến triển qua những sự xuất hiện này rất nhanh, nhưng nếu cái chết chậm hoặc tự nhiên, những hình dạng này sẽ được trải nghiệm dần dần và lâu hơn. Nếu đã chứng ngộ được cô lập ý của giai đoạn thành tựu, như sẽ được giải thích chi tiết thêm ở đoạn sau, chúng ta sẽ có được chính xác cùng một trải nghiệm về những hình dạng này trong trạng thái tập trung sâu sắc như sẽ có khi chúng ta đang chết thực sự. Hơn nữa, nếu đã tu luyện tốt trong thiền định này, ta sẽ có thể thiền về tính không trong suốt cả bốn trạng thái không, ngoại trừ trong thời gian dành cho sự bất tỉnh hoặc ngất xỉu, của tâm gần đạt được màu đen.

Để có thể nhận thức rõ ràng bốn trạng thái không, chính xác như trong quá trình chết, chúng ta phải có khả năng hòa tan tất cả các luồng khí vào giọt bất hoại ở trung tâm luân xa tim. Nếu chúng hòa tan vào một luân xa khác, chúng ta sẽ kinh nghiệm những hình tướng tương tự nhưng chúng là nhân tạo, không phải là các hình tướng thực sự sẽ xảy ra khi những luồng khí hoà tan vào giọt bất hoại, như hiện tượng xảy ra vào lúc chết.

Mặc dù một thiền giả thành tựu có thể an trú trong tịnh quang trong một thời gian dài, những cuối cùng họ phải tiến lên. Khi chúng ta xuất hiện từ tịnh quang, điều đầu tiên ta trải nghiệm là tâm đen gần thành tựu theo thứ tự ngược lại. Sau đó, ta trải nghiệm theo trình tự tâm đỏ tăng cường, tâm trắng, tám mưới tâm khái niệm thô, tâm xuất hiện giống ngọn nến, vân vân, tâm diễn hóa theo thứ tự ngược lại với trình tự mà chúng đã hòa tan trước đó.

Vì vậy, tâm của tịnh quang là nền tảng cho tất cả các tâm thức khác. Khi các tâm thô và vi tế cùng với các luồng khí của chúng hòa tan vào giọt bất hoại ở luân xa tim, chúng ta chỉ còn lại tịnh quang, rồi sau đó chính từ tịnh quang này mà tất cả các tâm thức khác diễn hóa, mỗi tâm thức thô hơn tâm trước đó.

Nói chung, người ta nói rằng có 25 hiện tượng thô tan rã khi một chúng sinh trải qua quá trình chết. Đó là:

Năm uẩn:

1. Nhóm của hình tướng, sắc

2. Nhóm của cảm nhận, thọ

3. Nhóm của sự phân biệt, tưởng

4. Nhóm các yếu tố thành phần, hành

5. Nhóm nhận thức, thức

Bốn nguyên tố:

6. Đất

7. Nước

8. Lửa

9. Gió

Sáu năng lực:

10. Năng lực giác quan mắt

11. Năng lực giác quan tai

12. Năng lực giác quan mũi

13. Năng lực giác quan lưỡi

14. Năng lực giác quan thân thể

15. Năng lực tinh thần

Năm đối tượng:

16. Các hình dạng thị giác bao gồm trong dòng tương tục của ta

17. Âm thanh trong dòng tương tục của chúng ta

18. Mùi hương trong dòng tương tục của ta

19. Vị trong dòng tương tục của ta

20. Các vật thể xúc chạm trong dòng tương tục của ta

Năm trí tuệ căn bản:

21. Trí tuệ căn bản như gương

22. Trí tuệ căn bản bình đẳng

23. Trí tuệ căn bản phân biệt cá thể

24. Trí tuệ căn bản thành tựu các hoạt động

25. Trí tuệ căn bản pháp giới



Bốn nhóm đầu tiên trong số này dễ hiểu. Đối với năm trí tuệ căn bản, sau đây là một giải thích ngắn gọn về chúng. Trí tuệ như gương căn bản được gọi như vậy vì nó là một tâm trí bình thường có thể nhận thức nhiều đối tượng cùng một lúc, giống như một tấm gương có thể đồng thời phản chiếu nhiều hình dạng khác nhau. Trí tuệ căn bản bình đẳng là tâm trí nhớ lại những kinh nghiệm như dễ chịu, khó chịu, hoặc trung tính. Trí tuệ căn bản phân biệt cá thể là tâm trí nhớ lại tên riêng của bạn bè, người thân, vân vân. Trí tuệ căn bản hoàn thành các hoạt động là tâm trí nhớ lại các hoạt động bên ngoài thông thường, mục đích, vân vân. Trí tuệ căn bản pháp giới là tâm trí hạt giống của pháp thân trí tuệ Phật.

Vào thời điểm chết, hầu hết mọi người đều trải qua sự tan rã của 25 đối tượng này theo thứ tự được chỉ ra bên dưới, với một số hiện tượng tan rã tương ứng với từng uẩn trong năm uẩn:

Năm hiện tượng ở cấp độ của sắc uẩn:

1. Sắc uẩn

2. Trí tuệ căn bản như gương

3. Nguyên tố đất

4. Năng lực giác quan mắt

5. Các hình dạng thị giác trong dòng tương tục của ta

Năm hiện tượng ở cấp độ thọ uẩn

6. Thọ uẩn

7. Trí tuệ căn bản bình đẳng

8. Nguyên tố nước

9. Năng lực giác quan tai

10. Âm thanh trong dòng tương tục của ta

Năm hiện tượng ở cấp độ tưởng uẩn

11. Tưởng uẩn

12. Trí tuệ căn bản phân biệt cá thể

13. Nguyên tố lửa

14. Năng lực giác quan mũi

15. Mùi hương trong dòng tương tục của ta

Năm hiện tượng ở cấp độ hành uẩn

16. Hành uẩn

17. Trí tuệ căn bản thành tựu các hoạt động

18. Nguyên tố gió

19. Năng lực giác quan lưỡi

20. Vị bao gồm trong dòng tương tục của ta

Năm hiện tượng ở cấp độ thức uẩn

21. 80 tư tưởng biểu lộ

22. Tâm của sự xuất hiện màu trắng

23. Tâm của màu đỏ tăng cường

24. Tâm của màu đen gần thành tựu

25. Tâm tịnh quang của cái chết

Các dấu hiệu bên ngoài liên quan đến sự tan rã của mỗi một trong năm hiện tượng của sắc uẩn là:

1. Tứ chi của cơ thể trở nên gầy đi và cơ thể yếu hơn, mất đi sức mạnh

2. Tầm của chúng ta trở nên không rõ ràng, mờ nhạt

3. Cơ thể trở nên gầy gò, tứ chi lỏng lẻo, chúng ta có cảm giác chìm xuống đất

4. Chúng ta không thể mở hoặc nhắm mắt được nữa

5. Sự tươi sáng của cơ thể bị mất đi, vẻ đẹp của chúng ta bị giảm sút

Dấu hiệu bên trong liên quan đến năm sự tan rã này là hình dạng giống như ảo ảnh. Sự xuất hiện này phát sinh vì khí của nguyên tố đất tan rã trong trung mạch, sức mạnh của nguyên tố đất giảm đi, do đó như thể sức mạnh của nguyên tố nước mạnh hơn.

Các dấu hiệu bên ngoài liên quan đến sự tan rã của mỗi một trong năm hiện tượng ở cấp độ thọ uẩn là:

6. Nhận thức về cơ thể không còn cảm thấy dễ chịu, khó chịu hoặc trung tính nữa

7. Chúng ta không còn trải nghiệm những cảm giác cá nhân về tinh thần như hạnh phúc, đau khổ hay thờ ơ

8. Các chất lỏng trong cơ thể bắt đầu khô kiệt

9. Chúng ta không còn nghe thấy âm thanh bên ngoài nữa

10. Tiếng vo ve bên trong tai không còn nhận thức được nữa

Dấu hiệu bên trong liên quan đến năm sự tan rã này là hình dạng giống như khói. Hình dạng này phát sinh vì sức mạnh của nguyên tố nước đang giảm và do đó như thể sức mạnh của nguyên tố lửa đang trở nên mạnh hơn.

Các dấu hiệu bên ngoài liên quan đến sự tan rã của mỗi một trong năm hiện tượng ở cấp độ tưởng uẩn là:

11. Chúng ta không còn nhận ra được người thân và bạn bè

12. Chúng ta không còn nhớ được tên của những người thân và bạn bè thân thiết

13. Nhiệt độ thoát khỏi cơ thể và quá trình tiêu hóa dừng lại

14. Hơi hít vào của ta trở nên yếu và nông, trong khi hơi thở ra trở nên dài và mạnh, chúng ta bắt đầu thở khò khè và phát ra tiếng thở hấp hối

15. Ta không còn phát hiện được ra mùi, kể cả mùi của chính mình

Dấu hiệu bên trong liên quan đến năm sự tan rã này là hình dạng lấp lánh giống như đom đóm. Hình dạng này phát sinh vì sức mạnh của nguyên tố lửa đang giảm và do đó như thể sức mạnh nguyên tố gió đang trở nên mạnh hơn.

Các dấu hiệu bên ngoài liên quan đến sự tan rã của mỗi một trong năm hiện tượng ở cấp độ hành uẩn là:

16. Ta không thể di chuyển được nữa

17. Ta không còn nhớ múc đích của công việc và hoạt động hoặc thậm chí chúng là gì trong kiếp sống đang kết thúc

18. Không còn hít vào hay thở ra thông qua các lỗ mũi nữa, mọi hơi thở đều dừng lại vì 10 luồng khí đã kết tụ ở tim.

19. Lưỡi trở nên ngắn, dày và xanh ở gốc, và chúng ta không còn có thể nói rõ ràng nữa.

20. Không còn khả năng trải nghiệm các vị

Cũng vào thời điểm này, nhận thức về cơ thể không còn khả năng kinh nghiệm bất cứ đối tượng xúc giác nào như độ nhám, độ mịn, độ cứng, độ mềm, nóng và lạnh. Điều này do sự tan rã của các năng lực giác quan cơ thể và các đối tượng xúc giác nằm trong dòng tương tục của chính chúng ta. Dấu hiệu bên trong liên quan đến toàn bộ sự tan rã này là hình dạng giống như ngọn nến.

Vào thời điểm này, hầu hết các tâm thức thô cùng với khí của chúng đã tan rã, những gì còn lại là kinh nghiệm về sự tan rã của thức uẩn. Uẩn này có các cấp độ thô và tế. Tâm thức thô cuối cùng tan rã nhất thiết phải là một trong 80 tư tưởng biểu lộ. Một trong số những tư tưởng này phụ thuộc vào các hoạt động và thói quen của người sắp chết trong kiếp sống đang kết thúc. Ví dụ, nếu người đó đã tu luyện sâu rộng bồ đề tâm, thì tâm thức thô cuối cùng phát sinh có thể là tâm từ bi. Mặt khác, tư tưởng thô cuối cùng trong dòng tương tục của một người có tâm thức hỗn loạn có thể là tức giận hoặc dính chấp. Bây giờ, khi hình dạng như ngọn nến đã phát sinh, tâm thức cuối cùng trong 80 tâm thức này cuối cùng hấp thụ cùng với sức mạnh tinh thần thô và trí tuệ căn bản của pháp giới.

Mặc dù chúng ta có vô số tâm niệm thô, nhưng tất cả chúng đều nằm trong 80 tư tưởng thô. Những thứ này đến lượt nó lại được chia thành ba nhóm: 33 tư tưởng thô biểu lộ tâm trí của hình dạng màu trắng, 40 tư tưởng biểu lộ tâm của màu đỏ tăng cường, 7 tư tưởng biểu thị tâm màu đen gần thành tựu. Chúng được gọi là “biểu lộ”vì những tư tưởng này là lý do quyết định biểu lộ sự tồn tại của những tâm thức tinh tế mà chúng phát sinh. Dòng tương tục của 33 tư tưởng đầu tiên khởi nguồn phát sinh từ tâm của hình dạng màu trắng xuất hiện rồi hòa tan trở lại vào tâm đó lúc chết. Tương tự, dòng tương tục của 40 tư tưởng tiếp theo ban đầu phát sinh từ tâm của màu đỏ tăng cường và tan rã trở lại vào tâm đó khi chết., dòng tương tục của 7 tư tưởng cuối cùng lúc đầu khởi nguồn phát sinh từ tâm màu đen gần thành tựu và tan rã trở lại vào tâm đó khi chết. Vì vậy, mặc dù tất cả 80 tư tưởng thô đều tan rã trước khi tâm của hình dạng màu trắng phát sinh, nhưng dòng tương tục của chúng không tan biến hoàn toàn vào thời điểm này. Dòng tương tục của 33 tư tưởng đầu tiên cuối cùng ta vào thời diểm tâm của hình dạng màu trắng, dòng tương tục của 40 tư tưởng tiếp theo vào thời điểm tâm của màu đỏ tăng cường, và dòng tương tục của 7 tư tưởng cuối vào thời điểm tâm màu đen gần thành tựu.

Bình thường, chúng ta không có nhận thức về tâm của hình dạng trắng, tăng cường đỏ và cận thành tựu đen vì đối với chúng sinh bình thường, những tâm này chỉ xuất hiện yếu ớt khi chìm vào giấc ngủ và mạnh hơn một chút trong quá trình chết; nhưng vào những thời điểm như vậy, chúng ta không có tâm tỉnh giác thô. Tuy nhiên, ta có thể biết về sự tồn tại của ba tâm vi tế này thông quá kinh nghiệm của mình về 80 tư tưởng thô, phát sinh từ chúng và là kết quả của chúng. Ví dụ, bằng cách quan sát 33 tư tưởng đầu tiên, ta có thể thấy rằng bản thân các tâm và khí gắn kết của chúng phát sinh khá mạnh hoặc thô. Tương tự, ta có thể quan sát thấy tâm và khí của 40 tư tưởng tiếp theo phát sinh ít mạnh hơn, còn tâm và khí của 7 tư tưởng cuối cùng thậm chí còn yếu hơn. Từ đó, ta có thể suy ra sự tồn tại của ba loại tâm và khí vi tế tạo ra những tư tưởng thô này, mỗi loại đều tinh tế hơn loại trước đó và theo cách này, chúng ta có thể biết về sự tồn tại của các tâm của hình dạng trắng, tăng cường đỏ, và cận thành đen. Vì vậy, do 80 tư tưởng thô này là những lý do quyết định, là những kết quả chỉ ra sự tồn tại cho nguyên nhân của chúng, nên chúng được gọi là “biểu lộ” của ba tâm vi tế.

Ba nhóm tư tưởng thô này được liệt kê như sau:



33 khái niệm biểu thị tâm trí của hình dạng màu trắng:

1. Tách biệt lớn khỏi sự dính mắc: một tâm trí không mong muốn một đối tượng

2. Tách biệt trung bình khỏi dính mắc

3. Tách biệt nhỏ khỏi dính mắc

4. Tinh thần đến và đi: tâm trí đi ra các đối tượng bên ngoài và đi vào các đối tượng bên tỏng

5. Nỗi khổ lớn: nỗi lo lắng tinh thần được kinh nghiệm khi phải xa rời một đối tượng hấp dẫn

6. Nỗi khổ trung bình

7. Nỗi khổ nhỏ

8. Thanh bình: tâm trí duy trì thanh bình

9. Khái niệm: một tâm trí bị xao lãng hướng tới một đối tượng bên ngoài

10. Nỗi sợ lớn: tâm trí sợ hãi phát sinh khi gặp phải một vật khó chịu

11. Nỗi sợ trung bình

12. Nỗi sợ nhỏ

13. Tham lớn: tâm trí bị thu hút bởi một đối tượng dễ chịu

14. Tham trung bình

15. Tham nhỏ

16. Nắm giữ: một tâm trí nắm giữ chặt chẽ các đối tượng ham muốn

17. Phi đạo đức: nghi ngờ về hành động đạo đức

18. Đói: một tâm trí thèm muốn thức ăn

19. Khát: tâm trí thèm khát uống

20. Cảm xúc lớn: cảm xúc vui, đau đớn hoặc thờ ơ

21. Cảm xúc trung bình

22. Cảm xúc nhỏ

23. Khái niệm về người nhận thức

24. Khái niệm về nhận thức

25. Khái niệm về đối tượng được nhận thức

26. Điều tra: một tâm trí điều tra những gì phù hợp và không phù hợp

27. Xấu hổ: tâm trí từ bỏ hành vi sai trái vì những lý do liên quan đến bản thân

28. Từ: tâm trí mong muốn người khác thoát khỏi đau khổ

29. Bi: tâm trí bảo vệ hoàn toàn một đối tượng quan sát

30. Mong muốn gặp gỡ điều hấp dẫn

31. Lo ngại: tâm trí không an trú trong tính chắc chắn

32. Sưu tầm: tâm trí thu thập của cải

33. Ghen tị: tâm trí bị quấy rầy bởi may mắn hoặc phẩm chất tốt của người khác



40 khái niệm biểu thị cho tâm trí của sự tăng cường màu đỏ


1. Dính mắc: tâm trí dính mắc vào một đối tượng chưa đạt được

2. Giữ: tâm trí dính mắc với một đối tượng đã đạt được

3. Niềm vui lớn: tâm vui vẻ khi thấy điều hấp dẫn

4. Niềm vui trung bình

5. Niềm vui nhỏ

6. Hân hoan: tâm vui vẻ khi đạt được mục tiêu mong muốn

7. Sung sướng: tâm trí liên tục kinh nghiệm một đối tượng khao khát

8. Ngạc nhiên: chiêm nghiệm một đối tượng chưa từng xuất hiện trước đó

9. Phấn khích: tâm bị xao lãng khi nhận biết một đối tượng hấp dẫn

10. Hài lòng: tâm trí thỏa mãn với đối tượng dễ chịu

11. Ôm ấp: một tâm trí muốn ôm áp

12. Hôn: tâm trí muốn hôn

13. Hút: tâm muốn hút

14. Ổn định: tâm trí liên tục không thay đổi

15. Nỗ lực: tâm trí hướng đến thiện hạnh

16. Kiêu ngạo: tâm trí tự cho mình là cao cả

17. Hành vi: ý định hoàn thành một hành động

18. Cướp: tâm trí muốn ăn trộm của cải

19. Sức mạnh: tâm trí muốn chinh phục người khác

20. Thích thú: tâm trí quen dần với con đường thiện hạnh

21. Đại bẩm sinh: tâm trí gắn liền phi đạo đức vì kiêu ngạo

22. Trung bẩm sinh

23. Tiểu bẩm sinh

24. Hăng hái: muốn tranh biện với người xuất chúng mà không có lý do

25. Tán tỉnh: muốn chơi đùa khi thấy đối tượng hấp dẫn

26. Khuynh hướng tức giận: tâm trạng phẫn nộ

27. Đức hạnh: tâm trí mong muốn đặt tinh tấn trên nền tảng thiện hạnh

28. Lời nói và sự thật rõ ràng: tâm trí muốn nói để người khác có thể hiểu, tâm trí không thay đổi cách phân biệt của mình về các sự kiện

29. Dối trá: tâm trí muốn nói những đã thay đổi khả năng phân biệt sự thật

30. Xác định: tâm trí có ý đồ kiên định

31. Không nắm giữ: tâm trí không muốn nắm giữ thứ gì

32. Người tài trợ: tâm trí muốn cho đi tài sản

33. Khuyên răn: tâm trí muốn khuyên bảo những người lười thực hành pháp

34. Chủ nghĩa anh hùng: tâm trí muốn chiến thắng kẻ thù chẳng hạn như ảo tưởng

35. Không xấu hổ: tâm trí gắn liền với tính bất thiện, không từ bỏ hành vi sai trái mặc dù chúng ta không chấp nhận hoặc bị cấm đoán bởi tôn giáo

36. Giả vờ: tâm trí lừa dối người khác thông qua đạo đức giả

37. Chặt chẽ: tâm trí có lòng tận tụy khôn ngoan

38. Xấu xa: tâm trí quen với quan điểm xấu

39. Không hiền lành: tâm trí muốn làm tổn thương người khác

40. Gian đối: tâm trí gian dối



7 khái niệm biểu thị tâm trí của màu đen gần thành tựu


1. Dính mắc trung bình: tâm trí với sự dính mắc và ghét bỏ ngang nhau

2. Quên: tâm trí có chánh niệm bị suy thoái

3. Sai lầm: tâm trí nhận thức một ảo ảnh thành nước thực sự, vân vân

4. Không nói: tâm trí không muốn nói

5. Trầm cảm: tâm trí phiền muộn

6. Lười biếng: tâm trí không vui với thiện hạnh

7. Nghi ngờ: tâm trí không chắc chắn

Sau khi 80 tâm thô này tan rã, người hấp hối sẽ kinh nghiệm sự tan rã của các tâm vi tế, bắt đầu với tâm có hình dạng màu trắng, nhận thức được hình dạng giống như bầu trời trong xanh, trống rỗng được bao trùm bởi ánh sáng chói màu trắng. Hình dạng màu trắng mà tâm này nhận thức phát sinh vì nút thắt ở luân xa đỉnh đầu đã nới lỏng hoàn toàn và giải phóng giọt màu trắng, sau đó giọt này đi xuống qua trung mạch. Hình dạng màu trắng xảy ra trong khi giọt này đang đi xuống luân xa tim và kéo dài cho đến khi nó đạt đến đỉnh của giọt bất hoại ở tim. Do đó, đối tượng thực sự của nhận thức tại thời điểm này giống như hình dạng bầu trời trống rỗng, nhưng hình dạng này được bao trùm bởi màu trắng vì giọt trắng đang đi xuống. Tâm trí nhận thức được hình tướng này được gọi theo nhiều tên khác nhau là “tâm có hình dạng màu trắng”, “không”, hoặc “không đầu tiên”.

Khi tâm có hình tướng màu trắng và khí cưỡi trên nó cuối cùng tan biến vào giọt bất hoại ở luân xa tim, dấu hiệu của sự tan biến của chúng là sự xuất hiện của tâm tăng cường màu đỏ, nhận thức được hình tướng giống như bầu trời trống rỗng tràn ngập ánh sáng mặt trời màu đỏ. Hình dạng màu đỏ mà tâm này nhận thức xuất hiện vì nút thắt ở luân xa rỗn giờ đã nới lỏng hoàn toàn và giải phóng giọt màu đỏ, giọt này đi lên qua trung mạch.

Sự xuất hiện của màu đỏ xảy ra khi giọt đỏ này đang đi lên về phía luân xa tim và kéo dài cho đến khi nó chạm đến đáy của giọt bất hoại ở tim. Tâm trí nhận thức được hình dạng này được gọi khác nhau như “tâm tăng cường màu đỏ”, “chính không” hoặc “không thứ hai”.

Vào lúc này, giọt bất hoại được bao bọc hoàn toàn trong hai giọt: giọt trắng rơi xuống từ đỉnh đầu và giọt đỏ đi lên từ rốn. Hai giọt này bao phủ giọt bất hoại như một chiếc hộp bao quanh nó, do đó tạo ra kinh nghiệm về bóng tối. Tâm trí nhận thức được bóng tối này là tâm đen gần thành tựu, nhận thức được một hình dạng giống như bầu trời trống rỗng tràn ngập màu đen. Nó phát sinh khi tâm đỏ tăng cường cùng với khí gắn kết với nó đã hòa tan vào giọt bất hoại. Như đã đề cập trước đó, khi tâm đen gần đạt được đầu tiên phát sinh, chúng ta duy trì chánh niệm vi tế, nhưng khi tâm trí này tiến triển, ta hoàn toàn mất chánh niệm. Tâm trí nhận thức này được gọi khác nhau là “tâm đen gần thành tựu”, “đại không” hoặc “không thứ ba”.

Sau kinh nghiệm của tâm trí gần thành tựu màu đen, các nút thắt của luân xa tim nới lỏng hoàn toàn, cho phép giọt trắng tiếp tục đi xuống và giọt đỏ đi lên. Khi những giọt này tách ra, người hấp hối kinh nghiệm tâm tịnh quang của cái chết, nhận thức được một hình ảnh giống như bầu trời trong trẻo, trống rỗng vào lúc bình mình. Cũng giống như việc từ từ mở nắp hộp để ánh sáng đi vào ngày càng nhiều, thì sự chia tách của hai giọt đóng kín tạo ra kinh nghiệm về tịnh quang. Khi các giọt tách ra, người hấp hối lấy lại được chánh niệm rất vi tế do kết quả của tâm rất vi tế và khí cưỡi của nó biểu hiện. Tâm nhận thức này được gọi khác nhau là “tâm tịnh quang của cái chết”, “toàn thể không”, hay “không thứ tư”.

Trong khi chúng ta đang kinh nghiệm tịnh quang của cái chết, ta thực sự không chết. Điều này là do giọt bất hoại ở tim được hình thành từ các giọt trắng và đỏ rất vi tế nhận được từ cha mẹ chúng ta khi thụ thai và hiện diện trong suốt cuộc đời, vẫn chưa được mở. Cái chết thực sự xảy ra khi giọt được mở ra và tâm rất vi tế cùng khí gắn kết của nó rời đi đến kiếp sống tiếp theo.

Trong quá trình trải nghiệm tịnh quang của cái chết, mọi luồng khí đều tan biến thành giọt bất hoại ở tim. Sau khi quá trình này hoàn tất, những giọt trắng và đỏ rất vi tế tạo nên giọt bất hoại cuối cùng tách ra và tâm rất vi tế cùng khí gắn kết với nó rời đi đến kiếp sống tiếp theo. Những dấu hiệu chung bên ngoài cho thấy chúng ta thực sự đã chết và tâm cùng khí rất vi tế đã rời đi là giọt trắng thoát ra qua cơ quan sinh dục và giọt đỏ thoát ra qua lỗi mũi. Tuy nhiên, những dấu hiệu này không xảy ra đối với những người chết đột ngột hoặc chết hung bạo.

Ngay khi kinh nghiệm tịnh quan chấm dứt, sự ngây ngất sâu sắc của tâm đen gần thành tựu thuộc thứ tự đảo ngược xuất hiện. Đây là tâm đầu tiên của trạng thái trung ấm. Sau đó, như đã đề cập, chúng ta kinh nghiệm theo trình tự tâm tăng cường màu đỏ, tâm hình dạng màu trắng, sự tái xuất của 80 khái niệm biểu thị và hình dạng giống như ngọn nến, tiếp theo là hình dạng giống như đom đóm lấp lánh, hình dạng như khói, cuối cùng là hình dạng giống như ảo ảnh, cùng với các ý thức liên quan của chúng. Tóm lại, sau tịnh quang của cái chết, chúng sinh trạng thái trung ấm trải nghiệm bảy dấu hiệu còn lại theo thứ tự ngược lại.

Nếu trong vòng bảy ngày, một chúng sinh trung ấm không tìm thấy những điều kiện nghiệp thích hợp để tái sinh, họ sẽ trải qua một cái chết nhỏ, sau đó nhận một thân trung ấm khác. Khi cuộc sống trung ấm kết thúc, chúng ta kinh nghiệm tám dấu hiệu từ hình dạng giống như ảo ảnh đến tịnh quang, và khi cuộc sống trung ấm tiếp theo bắt đầu, ta trải nghiệm bảy dấu hiệu theo thứ tự ngược lại, từ màu đen gần thành tựu đến hình dạng giống như ảo ảnh.

Một chúng sinh trong trạng thái trung ấm chắc chắn sẽ tìm thấy nơi tái sinh trong vòng 49 ngày. Khi nơi này đã sẵn sàng, người đó sẽ chết và nhận thức tám dấu hiệu từ hình dạng giống như ảo ảnh đến tịnh quang. Ví dụ, nếu chúng sinh đó có nghiệp được tái sinh thành người, thì khi kinh nghiệm tịnh quang kết thúc, tâm rất vi tế và khí cưỡi của nó sẽ đi vào tử cung của người mẹ. Tâm đầu tiên khi thụ thai trong tử cung là tâm gần đạt được màu đen, sau đó các dấu hiệu còn lại của thứ tự đảo ngược dần dần được trải nghiệm. Tiếp theo, khi thai nhi phát triển, tâm của chúng sinh mới thụ thai dần trở nên thô hơn.

Từ lời giải thích ngắn gọn về cái chết, trạng thái trung ấm và tái sinh này, chúng ta có thể hiểu sơ bộ về quá trình mà người thực hành Đại Ấn Kim Cương Thừa phải kiểm soát và chuyển hóa.

Cho đến nay trong văn bản này, thuật ngữ “tịnh quang” đã được sử dụng để chỉ một số loại kinh nghiệm khác nhau. Vì kinh nghiệm tịnh quang có tầm quan trọng cốt lõi trong thiền Đại Ấn nên sẽ có ích ở giai đoạn này khi giải thích ngắn gọn các loại tâm tịnh quang khác nhau.

Tịnh quang được định nghĩa là tâm rất vi tế phát sinh thông qua sức mạnh của tâm đen gần đạt được và được kinh nghiệm trực tiếp sau khi tâm đen gần đạt được đã chấm dứt. Tịnh quang của cái chết, ví dụ, chỉ có thể được trải nghiệm sau khi dấu hiệu thứ bảy của cái chết chấm dứt. Có hai loại tịnh quang: tịnh quang mẹ và tịnh quang con. Loại trước là tịnh quang phát sinh tự nhiên trong khi ngủ và chết, còn loại sau là tịnh quang chỉ phát sinh khi các luồng khí đã hòa tan trong trung mạch thông qua sức mạnh thiền định.

Có hai loại tịnh quang: tâm cô lập của tịnh quang và tâm không cô lập của tịnh quang. Thuật ngữ “tâm cô lập” nói chung ám chỉ một tâm trí cô lập khỏi những luồng khí mà các tâm thô thiển đang gắn kết. Cụ thể hơn, nó được áp dụng cho một trong bốn không phát sinh khi, thông qua sức mạnh thiền định, những luồng khí hòa tan vào giọt bất hoại ở luân xa tim. Do đó, tâm có hình dạng màu trắng phát sinh thông qua sức mạnh của các luồng khí hòa tan vào giọt bất hoại ở tim thông qua thiền định là một tâm trí cô lập, cũng như các tâm tăng cường màu đỏ và gần đạt được màu đen phát sinh khi các luồng khí hòa tan vàp giọt bất hoại ở tim thông quan thiền định. Tuy nhiên, không có tâm nào trong số này là tâm cô lập của tịnh quang. Tâm này chỉ phát triển sau khi không thứ ba, tâm cô lập gần đạt được màu đen, đã chấm dứt.

Đối với tâm không cô lập của tịnh quang, đây là tâm của tịnh quang phát sinh khi, thông qua thiền định, các luồng khí hòa tan vào trung mạch thông qua một trong chín cửa ngoài luân xa tim. Như trước đây, một tâm như vậy chỉ có thể được kinh nghiệm sau sự chấm dứt của tâm đen gần đạt được, nhưng không phải tâm đen gần đạt được phát sinh khi các luồng khí hòa tan trong trung mạch thông qua tim. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tâm không cô lập của tịnh quang được cô lập theo nghĩa là nó được loại bỏ khỏi các khí thô.

Tịnh quang con cũng có thể được phân chia thành tịnh quang ví dụ và tịnh quang nghĩa. Cái trước là tịnh quang con nhận ra tính không một cách khái niệm, bằng phương tiện của một hình ảnh chung, còn cái sau là tịnh quang con nhận ra tính không một cách trực tiếp, không có một hình ảnh chung.

Tịnh quang ví dụ cũng có hai phần tâm không cô lập của tịnh quang ví dụ và tâm cô lập của tịnh quang ví dụ. Cái trước là tịnh quang con nhận ra tính không bằng một hình ảnh chung khi các luồng khí đã hòa tan vào trung mạch tại bất cứ điểm nào khác ngoại giọt bất hoại ở tim, còn cái sau là tịnh quang con nhận ra tính không bằng một hình ảnh chung khi các luồng khí đã hòa tan vào giọt bất hoại ở tim.

Tâm cô lập của tịnh quang ví dụ có hai phần: tâm cô lập của tịnh quang ví dụ tối thượng và tâm cô lập của tịnh quang ví dụ không tối thượng. Cái trước là tịnh quang phát sinh thông qua sức mạnh của tất cả các luồng khí, bao gồm khí bao trùm toàn thể hòa tan vào giọt bất hoại ở tim, và sau này là tịnh quang phát sinh thông qua sức mạnh của bất cứ luồng khí nào, ngoài khí bao trùm toàn thể, hòa tan, thậm chí một phần, vào giọt bất hoại. Những kinh nghiệm của tịnh quang ví dụ tối thượng, và tịnh quang ví dụ không tối thượng đều phụ thuộc vào các nút thắt của luân xa tim được nới lỏng. Điều này là do cả tịnh quang ví dụ tối thượng và tịnh quang ví dụ không tối thượng đều là các tâm cô lập. Những phương pháp để đạt được các tâm cô lập này được giải thích trong năm giai đoạn của giai đoạn thành tựu.

Có thể nới lỏng một phần các nút thắt của luân xa tim thông qua các thiền định như nội hỏa và niệm kim cương của mật điển Bí Mật Tập Hội. Mặc dù tám giai đoạn của thiền nội hỏa được mô tả trước đó chủ yếu tập trung vào luân xa rốn, nhưng một khi trung mạch đã được thâm nhập qua bất cứ cánh cửa nào, thì việc nới lỏng các nút thắt ở tim sẽ tương đối dễ dàng. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào các thiền này, chúng ta không thể nới lỏng hoàn toàn các nút thắt ở luân xa tim và do đó khiến khí bao trùm toàn thể khắp nơi trong thân hòa tan vào giọt bất hoại trước khi chết. Vì vậy, khi đã hoàn thiện sức mạnh của các kỹ thuật như thiền nội hỏa và niệm kim cương, hành giả mật tông phải, hoặc là phải chấp nhận một mudra hành động, hoặc phải đợi cho đến lúc tịnh quang của cái chết như được giải thích bên dưới. Nếu không chấp nhận một mudra hành động, thì việc chỉ hành thiền sẽ không thể khiến khí bao trùm toàn thể hòa tan vào giọt bất hoại ở tim và vì vậy tạo điều kiện cho việc đạt được tâm cô lập của tịnh quang ví dụ tối thượng. Tuy nhiên, một hành giả mật tông đủ tiêu chuẩn không chấp nhận mudra hành động có thể kinh nghiệm tâm cô lập của tịnh quang ví dụ tối thượng trong quá trình trải nghiệm tịnh quang của cái chết.

Một khi tâm cô lập của tịnh quang ví dụ tối thượng đã đạt được trước khi chết, thì chắc chắn thiền giả sẽ đạt được giác ngộ trong kiếp đó. Khi một thiền giả như vậy xuất hiện từ một khóa tu trong đó tâm cô lập của tịnh quang ví dụ tối thượng được thành tựu, người đó sẽ tự động đạt được thân huyễn bất tịnh. Thứ này được gọi là “bất tịnh” vì hành giả vẫn chưa từ bỏ những chướng ngại để giải thoát. Điều này là vì người đó vẫn chưa đạt được những con đường cao hơn của mật tông, là con đường trực tiếp chứng ngộ tính không bằng tâm của đại lạc tự nhiên. Nếu một hành giả đã đạt được thân huyễn bất tịnh thiền về tính không liên tục, cuối cùng người đó sẽ đạt được tịnh quang nghĩa, và đồng thời đạt được những con đường cao hơn của mật tông. Khi thiền giả này thành tựu thiền định quân bình về tịnh quang nghĩa, người đó sẽ tự động đạt được thân huyễn thanh tịnh, sau đó sẽ chuyển hóa thành Sắc Thân của một vị Phật giác ngộ trọn vẹn. Theo cách này, một thiền giả đã đạt được tâm cô lập của tịnh quang ví dụ tối thượng trước khi chết chắc chắn sẽ đạt được giác ngộ trong kiếp đó.

Nếu tâm cô lập cỉa tịnh quang ví dụ tối thượng đạt được lúc chết, thì chính tịnh quang của cái chết sẽ chuyển thành tâm cô lập của tịnh quang ví dụ tối thượng, và thay vì đi vào trạng thái trung ấm, thiền giả sẽ đạt được thân huyễn. Chính nhờ thân huyễn này mà đạt được giác ngộ. Đôi khi người ta nói rằng trong trường hợp này, thiền giả trở thành một vị Phật ở trạng thái trung ấm, hoặc với một thân trung ấm, nhưng trên thực tế, thân của thiền giả như vậy không phải là một thân trung ấm thực sự vì người đó đã đạt được thân huyễn, đó là thân của một thần bản tôn.

Theo mật tông, dấu hiệu thứ tam khi chết, tịnh quang của cái chết, là pháp thân nền tảng, thân trung ấm theo sau là báu thân nền tảng, còn thân mà sự tái sinh được thực hiện là hóa thân nền tảng. Ba thứ này không phải là Pháp Thân, Báu Thân, Hóa Thân thực sự của một vị Phật, mà chỉ là những nền tảng được thanh lọc trong các giai đoạn phát sinh và thành tựu của thực hành mật tông, và nhờ đó chuyển hóa thành ba thân kết quả của một vị Phật.

Ba thân nền tảng được thanh lọc trực tiếp bằng thiền định giai đoạn thành tựu. Tịnh quang của cái chết được thanh lọc bởi tâm cô lập của tịnh quang ví dụ tối thượng. Khi tâm cô lập này thiền về tính không, nó trở thành Đại Ấn, là sự hợp nhất của lạc và không. Bằng cách kinh nghiệm bản tính đại lạc của tịnh quang và thiền về tính không với tâm cô lập này, thiền giả sẽ tránh được trải nghiệm cái chết. Vì thiền giả đã thanh lọc tịnh quang của cái chết theo cách này, anh ta cũng sẽ tránh được trải nghiệm trạng thái trung ấm, tâm trí và thân thể có căn nguyên trọng yếu là tịnh quang của cái chết và khí mà nó gắn kết, và thay vào đó sẽ đạt được thân huyễn. Tâm cô lập của tịnh quang ví dụ tối thượng trở thành tâm của thân huyễn và khí mà nó gắn kết trở thành chính thân huyễn.

Một thiền giả có thể thanh lọc tịnh quang của cái chết và trạng thái trung ấm theo cách này sẽ tự nhiên có thể thanh lọc sự tái sinh, và chuyển hóa nó thành con đường tâm linh. Chìa khóa để thanh lọc ba nền tảng này là đạt được tâm cô lập của tịnh quang ví dụ tối thượng. Tâm cô lập này giống như thần dược giả kim có thể biến kim loại thường thành vàng, ở chỗ nó chuyển hóa cái chết, thành trạng thái trung ấm và tái sinh thành ba thân thần linh của một vị Phật giác ngộ trọn vẹn.

Trong cả hai giai đoạn phát sinh và thành tựu của mật tông, điều quan trọng là cần hiểu rõ ba điều: các nền tảng được thanh lọc, cái gì thanh lọc các nền tảng này và kết quả của sự thanh lọc này. Các nền tảng được thanh lọc là như nhau trong cả hai giai đoạn” pháp thân nền tảng (cái chết), báu thân nền tảng (trạng thái trung ấm), và hóa thân nền tảng (tái sinh). Tuy nhiên, phương tiện thanh lọc chúng lại khác nhau ở mỗi giai đoạn. Trong giai đoạn thành tựu, tịnh quang của cái chết được thanh lọc trực tiếp bởi tâm cô lập của tịnh quang ví dụ tối thượng, trạng thái trung ấm bởi thân huyễn, và tái sinh bằng yoga hóa thân của thân huyễn. Trong thực hành giai đoạn phát sinh, ba nền tảng này được thanh lọc bằng ba yoga được gọi là “đưa ba thân vào con đường”. Ba yoga này thanh lọc các nền tảng của chúng gián tiếp, do đó các thực hành giai đoạn phát sinh giống như một buổi diễn tập cho các quá trình thanh lọc thực sự diễn ra trong giai đoạn thành tựu. Nếu thiền giai đoạn phát sinh của chúng ta thành công thì thiền giai đoạn thành tựu cũng sẽ rất mạnh mẽ, và khi thành công thì ba nền tảng có thể được thanh lọc mà không gặp nhiều khó khăn. Kết quả của quá trình thanh lọc này là ba thân của một vị Phật: Pháp Thân kết quả, Báu Thân kết quả, Hóa thân kết quả.

Bây giờ, khi đã hoàn tất thảo luận về cách thức các luồng khí đi vào, lưu lại và hòa tan trong trung mạch, chúng ta có thể tiến hành giải thích về phương pháp tạo ra bốn hỷ thông qua việc thực hành nội hỏa.

Bằng cách thiền liên tục trong một khoảng thời gian liên tục về chữ A ngắn bên trong trung tâm luân xa rốn, và bằng cách hòa trộn tâm trí của chúng ta hoàn toàn với đối tượng thiền định này, ta sẽ có thể khiến các luồng khí đi vào, trụ lại và hòa tan trong trung mạch như đã mô tả trước đây. Như một kết quả của việc các luồng khí này đi vào cánh cửa luân xa rốn, khí hướng xuống, nằm ngay bên dưới luân xa này, sẽ di chuyển lên trên. Đến lượt nó sẽ đốt cháy nội hỏa, được quán tưởng là chữ A ngắn, và khiến nó bùng cháy. Nhiệt sinh ra do nội hỏa bùng lên sẽ làm tan chảy giọt trắng trong luân xa đỉnh đầu, được quán là chữ HAM ngược, và nó sẽ bắt đầu chảy xuống qua trung mạch. Chính chuyển động của giọt trắng nhẹ nhàng chảy xuống trung mạch này tạo ra kinh nghiệm về hỷ, hoặc lạc.

Khi giọt chảy xuống trung tâm luân xa họng, chúng ta kinh nghiệm hỷ đầu tiên, được gọi đơn giản là “hỷ”. Bằng cách làm cho sự chú tâm thiền định của vững chắc vào chữ OM được quán ở trung tâm cổ họng, chúng ta có thể kinh nghiệm hỷ đầu tiên này trong một khoảng thời gian kéo dài. Giai đoạn đầu tiên của hỷ sẽ được trải nghiệm miễn là giọt trắng không chảy đi khỏi luân xa họng.

Sau khi ở lại trong luân xa này một thời gian, giọt trắng sẽ được phép tiếp tục chảy xuống trung mạch. Khi nó chảy xuống trung tâm của luân xa tim, ta sẽ kinh nghiệm hỷ thứ hai trong bốn hỷ. Trạng thái này được gọi là “tối thượng hỷ” vì niềm vui được trải nghiệm tại thời điểm này lớn hơn hỷ đầu tiên. Một lần nữa, ta có thể duy trì lạc thọ này bằng cách tập trung vào chữ HUM ở trung tâm tim.

Sau khi duy trì tối thượng hỷ một thời gian, ta nên để giọt trắng chảy xuống trung tâm luân xa rốn. Khi việc này xảy ra, ta sẽ kinh nghiệm hỷ thứ ba và thâm chí còn lớn hơn, được gọi là “phi thường hỷ”. Nếu thiền nội hỏa thành công, ta sẽ có thể duy trì trải nghiệm phi thường hỷ này lâu như ta mong muốn.

Khi giọt trắng rời khỏi luân xa rốn, nó chảy xuống trung mạch cho đến khi chạm đến đỉnh của cơ quan sinh dục. Việc này tạo ra hỷ thứ tư trong bốn hỷ, gọi là “đại hỷ tự nhiên”, là một giai đoạn của đại hỷ tự nhiên. Lạc thọ này vượt trội ba hỷ trước đây và có thể duy trì trong thời gian dài. Ở các chúng sinh bình thường, khi giọt trắng chạm đến đỉnh cơ quan sinh dục, nó sẽ nhanh chóng bị giải phóng và sức mạnh của kinh nghiệm hỷ lạc sẽ sớm giảm đi. Tuy nhiên, đối với một thiền giả mật tông thành tựu, điều này không xảy ra. Bởi vì Yogi đã khiến các luồng khí đi vào, trụ lại và hòa tan trong trung mạch và đã kiểm soát được luồng khí hướng xuống, giọt trắng sẽ chỉ chảy trong trung mạch và do vậy có thể được giữ ở đầu của cơ quan sinh dục mà không bị giải phóng.

Khi đạt được lạc thọ này, ta nên sử dụng tâm trí của đại lạc tự nhiên để thiền về tính không, sự thiếu vắng tồn tại cố hữu. Sau ki duy trì kinh nghiệm này một thời gian, ta nên đảo ngược dòng chảy của giọt trắng và khiến nó di chuyển lên trên qua trung mạch. Cho đến khi quen với thiền đi xuống này, chúng ta sẽ cần rất nhiều sự tập trung để thực hiện thiền đảo ngược đi lên. Tuy nhiên, với thực hành, ta có thể đảo ngược dòng chảy của giọt trắng một cách khá tự nhiên và không tốn nhiều công sức.

Khi giọt trắng lên trên, ta sẽ trải nghiệm bốn hỷ càng mạnh mẽ. Bởi vì giọt trắng bâ giờ đang chảy lên trên, chúng được gọi là “bốn hỷ theo thứ tự ngược”. Mỗi trạng thái này là một giai đoạn của đại lạc tự nhiên và nên được kết hợp với thiền về tính không.

Hỷ thứ nhất của trật tự đảo ngược phát sinh khi giọt trắng trôi chảy lên luân xa rốn. Khi nó chảy lên tim, ta kinh nghiệm tối thượng hỷ của thứ tự đảo ngược, rồi khi nó chảy lên cổ họng, ta trải nghiệm phi thường hỷ. Cuối cùng, khi giọt trắng chảy lên trung tâm của luân xa đỉnh đầu, ta kinh nghiệm đại hỷ tự nhiên của thứ tự ngược. Đây là kinh nghiệm cao nhất trong toàn bộ trải nghiệm về hỷ lạc. Khi nó xảy ra, ta được thấm nhuần bởi hỷ lạc lớn lao và ta có thể duy trì trải nghiệm này trong thời gian rất dài. Trên thực tế, ta sẽ tiếp tục trải nghiệm sung sướng này không ngừng, ngay cả khi ta không còn hành thiền nữa. Thực hành trải nghiệm các giai đoạn của đại lạc tự nhiên này và sử dụng những tâm trí này để thiền về tính không chính là bản chất của giai đoạn thành tựu, và chúng ta có thể dành toàn bộ cuộc đời mình để tham gia vào nó một cách có ích.

Như đã đề cập từ trước, Kinh và Mật sử dụng các cấp độ tâm trí khác nhau để thiền về đối tượng không. Tâm trí mạnh mẽ nhất trong số các tâm như vậy là tâm của đại lạc tự nhiên. Nó có sức mạnh lớn hơn nhiều để phá hủy các chướng ngại đối với sự giải thoát và toàn tri hơn bất cứ tâm nào khác vì nó hoàn toàn thoát khỏi những suy nghĩ khái niệm thô kệch và các hiện tượng nhị nguyên. Các khái niệm thô kệch không thể làm nhiễu loạn tâm thức của đại lạc tự nhiên vì những luồng khí hỗ trợ những khái niệm như vậy đã bị tan biến trong trung mạch và vì vậy ngừng hoạt động. Vì không còn nguy cơ can thiệp từ những khái niệm thô kệch này nữa nên chúng ta có thể thiền về tính không với sức mạnh và sự sáng suốt to lớn. Tâm trí chủ thể và tính không đối tượng hòa trộn không thể phân biệt được như nước hòa trộn với nước.

Ngoài việc là phương pháp tối thượng để loại trừ các chướng ngại cho sự giải thoát và toàn tri, thiền định này cũng là phương pháp tối thượng để thành tựu các thân linh thiêng của một vị Phật. Tâm đại lạc tự nhiên là nguyên nhân cốt lõi cho Pháp Thân Phật, còn luồng khí mà nó cưỡi lên là nguyên nhân cốt lõi cho Sắc Thân Phật. Từ đó, ta có thể hiểu rằng thiền về đại lạc tự nhiên cũng là phương pháp tốt nhất để hoàn thành hai tích tập trí tuệ và công đức, tương ứng là nguyên nhân của Pháp Thân và Sắc Thân.

Một thiền giả thành công trong các phương pháp này không cần tham gia vào bất kỳ hoạt động tinh thần nào khác. Đối với những người đủ may mắn để thành thạo các phương pháp như vậy, mọi hành động hàng ngày của họ, dù là đi bộ, ăn uống hay bất cứ việc gì, đều giúp hoàn thành các bộ tích tập trí tuệ và công đức. Mật tông được gọi là “con đường nhanh” vì một thực hành duy nhất, thiền về đại lạc tự nhiên và tính không, cắt đứt hai chướng ngại và hoàn thành hai bộ tích tập.

Một số người có quan điểm hoàn toàn sai lầm về mật tông. Chẳng có bất kỳ kinh nghiệm nào về đại lac và tính không, họ vẫn tuyên bố: “Tôi là một Yogi mật tông”, rồi sau đó uống rượu, hút thuốc lá, sử dụng ma túy, tranh cãi, tham gia vào hoạt động tình dục sai trái, vân vân. Việc gắn liền với hành vi như vậy không nên được coi là giống như đi theo con đường mật tông. Rốt cuộc, những hành động như vậy có thể được thực hiện bởi bất cứ ai. Những người có mong muốn trong sáng trở thành những yogi mật tông thực sự thay vào đó nên nỗ lực thật nhiều để làm chủ thiền định vừa được mô tả, và nên làm như vậy với động lực bồ đề tâm hoàn hảo.

Nếu kinh nghiệm bốn hỷ được phân tích chi tiết hơn, có thể phân ra thành mười sáu hỷ theo thứ tự thuận và mười sáu hỷ theo thứ tự ngược. Ví dụ, khi giọt trắng rơi xuống một phần tư đường giữa đỉnh đầu và luân xa cổ họng, thì phần đầu tiên của hỷ thứ nhất được trải nghiệm. Mỗi hỷ trong bốn hỷ cũng được chia thành bốn phần có cường độ tăng dần, do đó tạo thành tổng cộng ba mươi hai giai đoạn của kinh nghiệm hỷ lạc.

Trong khi an trú trong đại hỷ tự nhiên của thứ tự đảo ngược, tâm nguyên thủy của chúng ta sẽ hoàn toàn chuyển hóa thành bản tính của đại lạc tự nhiên. Một tâm thức như vậy vừa là tâm vi tế vừa là tâm trí nguyên thủy. Theo Kinh, hỷ chỉ có thể là một yếu tố tinh thần chứ không phải là tâm trí nguyên thủy, nhưng trong Mật thì không phải vậy. Ở đây có một tâm trí của đại lạc tự nhiên cũng là tâm trí nguyên thủy.

Nguyên nhân chính của thân huyễn là khí rất vi tế do tâm rất vi tế của tịnh quang thiền về tính không tạo ra. Khi thiền giả xuất quan từ khóa tu mà tâm cô lập của tịnh quang ví dụ tối thượng đã thành tựu, người đó sẽ đắc được một thân không giống với thân vật lý trước đó của mình. Nó sẽ giống về ngoại hình với thân của Thần bản tôn của giai đoạn phát sinh, ngoài trừ việc nó sẽ có màu trắng. Một hình tướng như vậy chỉ có thể được nhận thức bởi một người đã đạt được thân huyễn. Về mặt này thì thân huyễn tương tự như một thân giấc mơ ở chỗ cả thân giấc mơ và thân huyễn đều phát sinh từ khí rất vi tế. Mật điển Bí Mật Tập Hội nói rằng thân giấc mơ và phép ẩn dụ tốt nhất cho thân huyễn và chứng minh rằng có thể đạt được điều đó.

Để đạt được tâm cô lập của tịnh quang ví dụ tối thượng, chúng ta phải thành tựu công năng thiền định về các mạch, khí, giọt. Hơn nữa, để đạt được tâm cô lập của tịnh quang ví dụ tối thượng trước khi tịnh quang của cái chết xuất hiện, cần phải chấp nhận một mudra hành động có phẩm chất. Lama Je Tsongkhapa đã không chấp nhận một ấn hành động vì ông quan tâm đến phúc lợi của các vị chức sắc theo ông. Mặc dù ông đã ở giai đoạn có thể thiền với ấn hành động mà không tích lũy chút tiêu cực nào, mặc dù là một nhà sư nhưng ông đã không làm như vậy. Tại sao không? Ông muốn bảo vệ những đệ tự thiếu kiên nhẫn trong tương lai, những người nghĩ rằng họ có thể noi gương ông mà không đủ điều kiện, sẽ bị cám dỗ để lấy một người phối ngẫu trước thời hạn và do đó sẽ tạo ra nguyên nhân cho tái sinh thấp hơn thay vì giác ngộ.

Je Tsongkhapa được ca ngợi rộng rãi trong suốt cuộc đời và sau đó bởi nhiều Yogi vĩ đại vì công cuộc trình bày tường minh và độc đáo của ông về các thực hành mật tông. Ông đặc biệt nổi tiếng vì những lời giải thích của mình về phương pháp để đạt được thân huyễn. Trong suốt cuộc đời mình, ông đã chứng minh cách đạt được bốn không của tâm cô lập thông qua sức mạnh của pháp trì tụng kim cương trong mật điển Bí Mật Tập Hội. Sau đó, vào ngày 25 của tháng thứ 10 theo lịch Tây Tạng, khi sắp rời bỏ thân xác thô của mình, ông đã đạt được tâm cô lập của tịnh quang ví dụ tối thượng bằng cách hội nhập tịnh quang con và mẹ. Khi xuất khỏi thiền định đó, ông đã đạt được thân huyễn mà nhờ nó ông đạt giác ngộ.

Trên thực tế, Je Tsongkhapa đã là đức Phật Văn Thù giác ngộ viên mãn. Để mang lại lợi ích cho người khác, đức Văn Thù xuất hiện dưới nhiều hình tướng: giác và phàm, tăng và tục. Trong trường hợp này, ông xuất hiện như một vị thầy đáng kính, người đã chứng minh con đường Kinh và Mật thanh tịnh để đạt đến giác ngộ viên mãn trong cuộc sống và công việc của mình và trao cho các đệ tử may mắn của ông một tấm gương tuyệt vời để noi theo. Những hành động của các bậc giác ngộ như đức Văn Thù vượt ngoài phạm vi tâm trí của những chúng sinh bình thường.

Nói chung, có bốn hỷ của giai đoạn phát sinh và bốn của giai đoạn thành tựu. Để đạt được cái trước, không cần phải đưa khí vào trung mạch vì bốn hỷ này chủ yếu đạt được thông qua sức mạnh của sự chú tâm thiền định. Đối với cái sau, chúng là kết quả của sự hòa tan và trôi chảy của giọt trắng bên trong trung mạch. Chúng ta nên tập dượt cho kinh nghiệm này bằng cách thực hành bốn hỷ của giai đoạn phát sinh như được mô tả trong các mật điển Bí Mật Tập Hội, Hung Nộ Tôn, Kim Cương Du Già Nữ, vân vân, và bằng cách làm theo hướng dẫn của một bậc thầy mật tông đủ tiêu chuẩn.

Bốn hỷ của giai đoạn thành tựu được thực hành kết hợp với thiền nội hỏa và các phương pháp khác như tụng niệm kim cương. Đầu tiên, chúng ta nên thực hiện tám giai đoạn thiền nội hỏa như đã mô tả từ trước. Nhiệt sinh ra từ việc này sẽ làm tan chảy giọt trắng ở đỉnh đầu, chảy xuống trung mạch từ đỉnh đầu đến cổ họng, từ cổ họng đến tim, từ tim đến rốn, rồi từ rốn đến đầu cơ quan sinh dục. Điều này sẽ mang lại kinh nghiệm về đại hỷ tự nhiên, chúng ta nên duy trì trải nghiệm này trong khi thiền về tính không. Sau đó, ta nên tạo ra bốn hỷ theo thứ tự ngược lại, tất cả đều là các giai đoạn của đại lạc tự nhiên và do đó tiếp tục thiền về tính không với tâm cực lạc tối thượng. Như vậy là kết thúc phần giải thích về bốn hỷ.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm
Top