Vì Ryochan đã bỏ việc phân phối báo cho các đại lý để dấn thân vào những hoạt động khác nên cuộc sống của chúng tôi trở nên túng thiếu hơn trước, phải dè xẻn lắm mới đủ ăn. Tuy nhiên tôi chỉ coi đó là một thử thách. Tôi biết mình không thể thay đổi được hoàn cảnh như ý muốn nhưng đồng thời cũng biết rằng mình có thể thay đổi được thái độ của mình đối với hoàn cảnh bên ngoài. Nếu giữa tôi và Ryochan có duyên nợ gì với nhaư thì dĩ nhiên tôi phải trả cho hết, nhưng điều này không có nghĩa rằng tôi phải từ bỏ việc học đạo của mình. Ryochan không muốn cho tôi lui tới những nơi chốn có tính cách tôn giáo nhưng không thể cấm tôi tu học tại nhà. Không thể trở lại với lão sư nhưng tôi vẫn có thể thực hành những phương pháp tôi đã được học hỏi. Tôi dọn dẹp lại căn nhà, thiết lập bàn thờ chư thần (Kami), và tiếp tục tu tập phương pháp tĩnh tọa Kannagara-no-michi. Tôi thường tĩnh tọa rất lâu, có khi từ sáng đến tối, và cuối cùng phát âm những chữ a, e, i, o, u thật rõ ràng với tất cả mọi năng lực trong người. Lúc đầu việc tu tập của tôi làm nhiều người trong xóm hiếu kỳ xúm lại xem, trẻ con cũng bắt chước tôi kêu “aa, uu, oo” om sòm nhưng dần dần người ta quen đi và không làm phiền gì tôi nữa.
Ngoài việc tĩnh tọa, tôi còn nghiên cứu pho sách Kojiki của Thần Đạo, để tìm hiểu thêm những ẩn nghĩa trong đó. Tôi chú trọng vào việc phát triển định lực (Joriki) vì nó là một năng lực quan trọng, có thể giúp người ta thích ứng được với những hoàn cảnh thay đổi bên ngoài. Cuốn sách nói rõ rằng một người có định lực cao có thể hoàn toàn làm chủ được mình cũng như hoàn cảnh đời mình; bất cứ chuyện gì cũng không ảnh hưởng đến họ được. Tôi thực hành nhiều phương pháp khác nhau, từ việc nhịn ăn để kiềm chế thể xác, đến việc tẩy uế thân xác bằng nước lạnh. Vào mùa đông, dù tiết trời lạnh thế nào tôi cũng chỉ khoác trên mình một tấm áo mỏng. Khi thực hành nghi thức tẩy uế bằng nước lạnh (misogi), dù nước đã gần đóng thành băng tôi vẫn cố gắng chịu đựng, xối nước lên khắp người để tẩy uế những ô nhiễm đã bám vào thân thể tôi. Bất chấp mọi khó khăn cực nhọc, tôi kiên trì thực hành các nghi thức vì biết đường đạo là một hành trình rất gian nan, nếu không cố gắng, người ta không thể thành công.
Trước cửa nhà tôi có một mảnh sân hẹp mà trẻ con lối xóm thường tụ tập chơi đùa. Hằng ngày mỗi khi thờ cúng, thực hành các nghi thức tẩy uế (O Harae) xong, tôi thường mang lễ vật như oản xôi chia cho lũ nhỏ trong xóm. Gia đình bên cạnh nhà tôi có nuôi một con chó nhỏ tên Koro. Con chó này cũng hay chầu chực trước nhà tôi để xin ăn. Ít lâu sau gia đình đó dọn đi nơi khác, bỏ con Koro lại. Con chó trung thành cứ chầu chực trước nhà chủ cũ, kêu lên những tiếng ảo não bi thương. Khi đói nó chạy qua bên nhà tôi để được cho ăn, nhưng ăn xong nó lại bỏ về trước cửa căn nhà cũ nằm rên rỉ. Một hôm không thấy nó đến như thường lệ, tôi kêu gọi mãi và hỏi lũ nhỏ trong xóm nhưng không ai biết con chó đã bỏ đi đâu. Vài hôm sau tôi đang tĩnh tọa thì nghe tiếng động và thấy con Koro ở đâu chạy vào ngoắc đuổi mừng rỡ. Tôi đưa tay bồng con chó vào lòng vuốt ve thì thấy trên cổ nó có một vết dao đâm rất sâu, chạy dài xuống bụng, dường như nó đã bị ai lột da, mổ thịt. Tôi thất thanh kêu lên: “Koro đã chết” và đột nhiên tỉnh lại. Thì ra trong lúc nhập định tôi đã nhìn thấy con Koro, có lẽ đã bị người ta bắt giết làm thịt. Vào lúc đó những con chó vô chủ, lang thang ngòai đường, bị bắt giết thịt không phải là một điều lạ. Hiển nhiên con Koro không ra ngoài số phận đó nhưng có lẽ nó nhớ đến ơn tôi nuôi nấng nên tìm đến báo tin. Tôi xúc động khóc lóc mất mấy ngày rồi mua hương hoa phẩm vật, tụng kinh siêu độ cho nó. Tôi tập trung định lực chân thành cầu nguyện và khi hoàn tất nghi thức cầu siêu, tự nhiên tôi có cảm tưởng rằng con Koro đã thoát kiếp chó. Đây là một sự kiện lạ lùng, không hiểu sao tôi lại “cảm biết” được như thế. Dường như có một cái gì đã cho tôi biết mà tôi không thể giải thích nhưng tôi biết đó không phải là sự tưởng tượng hay tự kỷ ám thị, mà là một “cái biết” đến rất tự nhiên.
Khoảng một tuần lễ sau, tôi đang tĩnh tọa thì thấy một người đàn ông lạ mặt ở đâu bước vào. Tôi biết cửa nhà đã khóa kỹ, người lạ không thể vào được trừ khi đó là kẻ gian. Lúc đó chúng tôi nghèo túng lắm, trong nhà chẳng có gì quí giá cả nên thay vì hốt hoảng, tôi tập trung định lực để đối phó. Có lẽ khả năng tập trung của tôi đã khá cao nên chỉ trong thoáng giây, tâm hồn tôi đã hết sức bình tỉnh. Tôi biết mình không ngủ mê hay gặp ảo giác mà thấy rõ đó là một người đàn ông trung niên, mặt mày sáng sủa, mặc kimono hiệu O-shima rất đắt tiền. Ông này đứng yên trước mặt tôi một lúc rồi lên tiếng:
- Thưa bà, tôi là cha của Tamataro. Khi còn sống, tôi làm nghề cho vay nặng lãi. Cái nghiệp xấu này ám ảnh tâm thức tôi rất nhiều nên khi qua đời, tôi phải sống trong một cảnh giới tối tăm, nặng trọc. Lúc nào tôi cũng có cảm giác như đang ở trong một vũng bùn nhầy nhụa, muốn ngoi lên nhưng không sao ngoi lên được, càng cử động thì càng bị lún sâu xuống. Thưa bà, khi còn sống tôi chẳng làm điều gì quá xấu nhưng cũng chẳng làm điều gì tốt đẹp nên sau khi chết, thần thức cứ vật vờ trôi nổi trong cảnh giới bùn lầy nước đọng này mãi. May thay nhà tôi là người hiền lương, thường tụng kinh niệm Phật, hồi huớng công đức cho tôi. Hàng ngày tôi nghe được lời kinh của nhà tôi cầu nguyện nên bắt chước đọc theo, nhờ đó tôi hiểu được luật nhân quả và quyết tâm sám hối. Đến nay nghiệp xấu đã trả hết, tôi vừa thoát khỏi cái thế giới đen tối nhầy nhụa đó nên đến đây để nhờ bà chuyển lời cho nhà tôi rằng tôi sắp được siêu thoát lên cõi sáng. Chính nhờ công đức hồi hướng cao cả vô biên của nhà tôi mà tôi được thoát khổ. Tôi muốn nhắn nhà tôi rằng những món nợ người ta vay từ trước xin hãy bỏ qua, đừng tốn công đòi rồi gây phiền muộn cho người khác nữa. Tôi đã không công bình trong việc cho vay nặng lãi, tôi rất hối hận, xin hãy giúp cho tôi được yên tâm để siêu thoát.
Tamataro là một trong những đứa nhỏ hay chơi đùa trước cửa nhà tôi. Cha nó đã qua đời từ nhiều năm nay, mẹ nó ở vậy nuôi con. Bà làm nghề may, chuyên lãnh hàng từ các tiệm buôn về nhà để may cắt. Mặc dù bận rộn như thế nhưng hàng ngày bà vẫn khuya sớm tụng kinh rất chân thành. Khi nghe tôi kể lại câu chuyện, bà gật đầu chùi nước mắt:
- Quả đúng là chồng tôi rồi. Chồng tôi luôn luôn mặc áo kimono hiệu O-shima như vậy. Chồng tôi làm thương mại nên có tiền cho vay lấy lãi. Sau khi ông qua đời, tôi tìm được một rương chứa toàn giấy nợ chưa thanh toán. Xem xét kỹ, tôi thấy ông đã đòi một mức lời quá cao, thật không công bằng chút nào, do đó tuy còn giữ giấy nợ nhưng tôi vẫn ngần ngại không biết phải làm gì. Tôi là đàn bà chân yếu tay mềm, đâu biết đòi nợ ra sao. Chắc hẳn khi qua đời chồng tôi cũng lo lắng, bận tâm về việc này lắm nên mới không siêu thoát được như vậy, Nay nhờ bà cho biết thì tôi mang thùng giấy nợ đi đốt, để chồng tôi không còn phải bận tâm gì nữa.
Tôi ngạc nhiên về kinh nghiệm lạ lùng nay nên viết thư báo cho lão sư. Trước khi nhận được giấy hồi âm thì một sự kiện lạ lùng nữa đã xảy ra. Một hôm tôi có linh tính rằng ngoài tôi và Ryochan, hình như trong nhà còn có sự hiện diện của một người thứ ba nào đó nữa. Vài hôm sau, đang tĩnh tọa, cái cảm giác đó lại nổi lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tôi bèn tập trung định lực để quan sát thì thấy có một người đàn bà, vóc dáng gầy gò yếu ớt đang quanh quẩn trong nhà. Tuy tuổi không cao nhưng mặt bà đầy những vết nhăn, có lẽ vì quá ưu tư lo lắng. Bà nhìn tôi, miệng cứ mấp máy nửa như muốn nói, nửa lại sợ sệt không nói ra. Bà cứ quanh quẩn bên tôi nhưng mỗi khi tôi đến trước bàn thờ làm lễ thì bà lại biến mất. Dĩ nhiên tôi biết đó là một hồn ma nhưng tôi thấy nó không gây trở ngại gì cho nên tôi không quan tâm. Hôm sau trong lúc tĩnh tọa, tự nhiên tôi biết hồn ma đó không phải ai xa lạ mà chính là mẹ của Ryochan. Một lần nữa, cái cảm giác “biết” này làm tôi bối rối. Để kiểm chứng cái năng khiếu ấy, chiều hôm đó tôi hỏi Ryochan:
- Này Ryochan, khi còn sống mẹ anh là người thế nào ? Sao không mấy khi anh nói gì về mẹ anh hết ?
- Gia đình ta có bốn anh em, khi mẹ ta qua đời thì ta mới lên ba tuổi và đứa em nhỏ nhất mới được sáu tháng. Ta không biết gì nhiều về mẹ ta mà chỉ biết tên bà là Shigeko. Bà chết vì bị bệnh lao, năm đó bà mới ngoài hai mươi sáu tuổi...
Tôi suýt kêu lên: “Quả đúng là mẹ của Ryochan rồi”. Một người mẹ qua đời khi con cái còn thơ dại như thế thì làm sao có thể siêu thoát được ! Chắc chắn bà đã lo lắng cho con cái nhiều lắm nên trông bà mới bơ phờ như vậy.
Qua hôm sau, tôi nhận được thư hồi âm của lão sư. Trong thư ông viết vắn tắt:” Con hãy trở về đây ngay, ta chấp nhận cho con được phép tiếp tục học đạo với ta”. Thật khó có thể diễn tả được nỗi vui mừng của tôi. Những điều mong cầu ao ước đã trở thành sự thật. Khi trước lão sư không nhận tôi vì tôi không được phép của gia đình, nhưng hiện nay mọi việc đã đổi khác, ông sẵn sàng thâu nhận tôi vô điều kiện. Tôi sung sướng nhủ thầm: Lần này mọi việc sẽ tốt đẹp. Buổi chiều tôi ngồi tĩnh tọa rất lâu nhưng khi vừa xuất định tôi đã thấy người đàn bà đó đứng trước mặt tôi, vẻ mặt đầy căng thẳng, lo lắng. Có lẽ bà đã biết tôi quyết định rời bỏ Ryochan để lên đường học đạo. Tôi bèn lên tiếng an ủi: “Mẹ Shigeko, xin mẹ đừng quá lo lắng như vậy. Con đã quyết lên đường học đạo nhưng con hứa khi học xong sẽ trở lại săn sóc cho Ryochan. Mẹ cứ yên tâm, hiện nay Ryochan đã lớn khôn, đã trưởng thành, tự lo lấy mọi việc được rồi, mẹ không phải quá lo lắng cho anh ấy nữa. Bây giờ mẹ hãy quay về lo cho chính mình thì hơn”. Tôi nói một cách hết sức chân thành vì dĩ nhiên người ta không thể nói dối một hồn ma được, ở cõi bên kia người ta đọc rõ tư tưởng của nhau như mở một cuốn sách. Sau khi tôi nói xong, tự nhiên hồn ma biến mất, từ đó tôi không hề gặp lại bà nữa.
Ít lâu sau, tôi lên đường trở lại Shikoku để học đạo với lão sư. Lần này tôi ra đi với một tâm trạng thoải mái, không vội vã hay luyến tiếc như lần trước. Trên xe lửa tôi có nghĩ đến Ryochan. Việc từ bỏ một đúa bé như Ryochan, lúc nào tôi cũng chỉ coi Ryochan như một đứa bé, khiến tôi tự hỏi về mối quan hệ giữa mình và hắn. Bất ngờ thay, trước mặt tôi bỗng hiện lên một hình ảnh rõ rệt như một cuốn phim được chiếu trên tường. Đó là một vùng đất hoang vu, cây cối mọc chằng chịt, trông như một khu rừng miền nhiệt đới. Tôi thấy một thanh niên, thân thể vạm vỡ, mặc quần áo may bằng da thú, đang khuân một cái chum lớn bằng đất nung vào một hang đá. Trong hang có một người đàn bà cũng mặc quần áo may bằng da thú, đang chăm chú nhìn người đàn ông đó. Người đàn bà đó chính là tôi, và người đàn ông kia chính là Ryochan. Thì ra chúng tôi đã là hai chị em trong tiền kiếp. Tự nhiên tôi “biết” được sự liên hệ giữa hai chúng tôi như thế nào. Hình ảnh này hiện ra thật rõ ràng, trong lúc tâm hồn tôi đang tĩnh lặng, bình yên. Tôi thản nhiên uống tiếp ly trà nóng trên tay, nghe tiếng gió rì rào ngoài cửa sổ và “biết” rằng sự ràng buộc giữa tôi và Ryochan đã chấm dứt. Quả thật tôi đã phát triển được một khả năng đặc biệt khác thường. Dĩ nhiên cái khả năng này chỉ là kết quả của nhiều năm tu tập về định lực (Joriki) nhưng lúc đó tôi không phân biệt được rằng cái khả năng thần thông này và sự giải thoát là hai việc hoàn toàn khác hẳn nhau.