Hơn hai ngàn người đến quy y với Bạch Hiếu Tử

gioidinhhue

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
950
Điểm tương tác
47
Điểm
28
Địa chỉ
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
Trích Sự Nghiệp Hoằng Hóa của HÒa Thượng Tuyên HÓa

17- Tùy cơ giáo hóa.

a) Tú tài Quy y.

Từ khi Ngài kết am thủ hiếu bên mộ phần mẹ, có khoảng hơn hai ngàn người đến quy y, không kể xa gần. Lúc ấy một vị tú tài triều Thanh tên là Cốc Giới Tam; học rộng, đa văn, Hán học uyên thâm. Bấy giờ là lúc giao thời mới, cũ. Cốc Giới Tam thuộc loại tú tài “không cần ra cửa mà vẫn biết chuyện thiên hạ” vì ông là hạng hiếm quý khó tìm như lông phượng sừng lân. Vì vậy mọi người đều rất tôn kính ông.



Công việc thường ngày của ông là dạy học. Đối với Phật Pháp ông nghiên cứu rất thâm sâu, chỉ tiếc là không lãnh hội được. Nghe hạnh tu trì của Ngài, ông đến cầu Ngài chỉ giáo. Ngài dạy ông những điểm trọng yếu trong sự tu hành cùng pháp môn tâm địa không lập văn tự. Vừa nghe nghe xong ông rất đỗi vui mừng cảm phục; và cầu xin Quy y Ngài.

Năm Dân Quốc thứ ba mươi hai Ông ngồi xếp bằng mà tịch, gương mặt vẫn an nhiên, hòa nhã như lúc còn sống.

 

b) Cùng, quý do nhân quả.

một vị ăn mày tên là Kỷ Đại Phúc, mỗi ngày đến lều thủ hiếu đảnh lễ Ngài. Ngày nọ sau khi lạy xong, không dằn được, ông bật hỏi:

- Xin Ngài giải thích cho con biết tại sao con bị lâm vào tình cảnh bần cùng như vậy?

Ngài giảng giải cho ông nghe đạo lý nhân quả trong ba đời, và thêm rằng:

- Kinh dạy, vì sao có người đời này sinh ra được hưởng phú qúy? Bởi vì đời trước họ đã từng trì trai, cúng dường Tam Bảo, bố thí cho người nghèo. Tại sao có người đời này phải chịu quả nghèo hèn? Cũng bởi đời trước họ chưa từng cứu giúp người nghèo.

Nghe xong ông cảm nhận được đạo lý nhân quả, nên nói:

-Con tự hỏi rằng trong đời mình chưa làm gì sai trái; mà sao bị nghèo khốn đến nỗi phải đến nhà người xin ăn. Nay mới biết vì trước kia đã bỏn sẻn, không biết báo ứng của sự bố thí. Vậy xin Ngài chỉ dạy, có cách nào để cứu vãn cho hoàn cảnh hiện tại của con không?

- Người Quân tử học cách tạo mạng, nay ông phải nỗ lực tạo nghiệp lành, quảng tích ân đức cho nhiều, tự mình thay đổi vận mạng thì phước gì lại không đến! Xưa kia Chu Kỷ là ăn xin, nhưng hiểu rõ đạo lý nhân quả báo ứng, dốc lòng tạo công đức, ra công làm việc thiện. Đời sau ông ta được sanh vào nhà Đế vương hưởng thọ phước báo tôn vinh của một vị Hoàng tử. Đấy có phải là biện pháp tự cải vận mạng không?

Ký Đại Phúc nghe thế cả mừng, nhìn về tương lai tràn trề hy vọng và thỉnh cầu Quy y Tam Bảo làm đệ tử của Ngài. Từ đó trong lúc hành khất, ông luôn niệm thầm “Nam Mô A Di Đà Phật.” Xin được tiền, gạo ông đều dành dụm chia sẻ lại cho những người khác nghèo khó hơn ông. Ngày thường nếu có cơ hội, ông đều tùy thời làm việc thiện, giúp đỡ người. Sau vài năm tích tụ công đức như vậy vào mùa đông năm Dân Quốc thứ hai mươi chín, ông dự biết ngày vãng sanh. Đến đúng ngày ông niệm Phật an nhiên mà tịch.



c) Chuyển tánh Bà hung hãn.

Trong làng Ngài có một người đàn bà tên Viên Mộ Hàng nổi danh hung ác, ngang ngược. Thường ngày đánh mắng chồng, vô lễ với cha mẹ chồng, không thuận với chị em dâu. Đối với thân bằng quyến thuộc, bà con láng giềng thì cộc cằn thô lỗ. Bà ta coi thường và hủy báng quỷ thần lại càng không tin nhân quả; Nói chung bà ta đã không làm một việc lành nào, còn bao nhiêu điều xấu thì bà đều có phần. Thế nên mọi người trong làng đều gọi bà là”âLão Cọp Cái”. Nghe danh Ngài, vì hiếu kỳ bà ta muốn đi tìm hiểu nên ngày nọ, bà cùng những người khác đến lều thủ hiếu. Thấy Ngài đang ngồi kiết già chắp tay, mặt quay về hướng tây, và niệm Nam Mô A Di Đà Phật không dứt. Vì không biết Ngài làm thế với mục đích gì, nên bà hỏi:

- Thầy đang làm gì vậy?

- Mẹ tôi đã làm lụng vất vả để nuôi dưỡng tôi, cho nên tôi muốn báo đáp ân đức sanh thành dưỡng dục bằng cách niệm Phật để cầu cho mẹ được siêu thoát, hy vọng mẹ tôi sẽ sớm vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đây cũng là đạo căn bản làm người.

Bà vốn không tin Trời Đất, nghe Ngài nói thế lại càng thêm nghi mà hỏi rằng:

- Có phải sau khi chết, con người thật biến thành quỷ không?

- Sao chỉ nói người chết rồi mới thành quỷ? Có người lúc còn sống, tâm chứa toàn tâm quỷ,

nói lời quỷ, làm việc quỷ, vậy có khác gì với ma quỷ đâu? Người thường sân hận tức là quỷ mặt đỏ, người thường oán hờn tức quỷ mặt vàng, người hay buồn não tức quỷ mặt trắng, người dễ nóng giận tức quỷ mặt xanh, người thường phiền muộn tức quỷ mặt đen. Nếu dùng sân, oán, não, nộ, phiền mà đối đãi với người thì là năm loài quỷ trên, sẽ luôn quấy phá gia đình, trong nhà tuyệt đối không an, lại tổn tài hao khí, tai hoạn xảy đến liên miên.

Ngài lại dạy:

- Tâm là thần; thần cũng là tâm. Nếu bà làm chuyện chi cũng khởi từ lương tâm, tức là trọng kính đối với thần, nếu bội ngược lương tâm thì cũng như là khi dối thần. Sau khi chết chắc chắn sẽ bị đọa vào địa ngục, chịu bao thứ khổ. Khi ấy muốn thoát khổ, e rằng không còn kịp nữa. Nhân vì chúng sanh đã quay lưng với sự giác ngộ, hợp với trần lao, mê chân theo vọng, xa rời bổn tánh của mình, tìm cầu vật chất ảo huyền ở thế gian, nên phải tự thọ lãnh quả báo. Nếu biết xoay chuyển lại, bỏ trần hiệp giác, xã vọng qui chân, thì đồng Phật không khác, mãi mãi thoát ly lục đạo luân hồi, chấm dứt sanh tử.

Bà nghe xong chợt nhớ lại bao tội ác của mình xưa kia, nên run động, khinh hoàng sợ hãi, khóc lên rằng:

- Lúc trước con không hiểu đạo lý làm người, lại không tin báo ứng nhân qủa nên đã gây biết bao nhiêu tội. Nay nhờ Thầy từ bi chỉ dạy, mới biết tội mình quá ư thâm trọng, con nay thật ăn năn hối hận, nhưng e không còn kịp để hối lỗi. Vậy con phải làm sao đây?

- Bà đã nhận rõ những việc sai quấy lúc trước là dấu hiệu cho thấy rằng thiện căn phát khởi, mầm thiện căn này sẽ đâm chòi nẩy nở. Bà nên thường sám hối tội lỗi chớ quá bi thương; vả lại là người chớ nào phải Thánh Hiền, ai mà không có tội lỗi? Tội ác của Bà dầu thâm trọng nhưng nếu bà thành tâm sám hối, thì những tội nặng sẽ được tiêu trừ, điều cần thiết là phải chí thành sám hối, Bà hãy quán xét hành động trong quá khứ y như bà đã chết hôm qua và sanh trở lại ngày hôm nay. Sau khi thành tâm sám hối, bà phải nên phát nguyện làm trọn bổn phận của người cư sĩ, gắng sức hoằng dương Phật Pháp, khuyên người làm lành, Quy y Tam Bảo. Khi công đức của bà được viên mãn, thì những tội lỗi xưa tất sẽ tiêu tan. Tại sao? Vì khi người đại ác biết xoay đầu cải thiện thì thành người đại thiện; còn ngược lại người đại thiện tạo tội, lần lần cũng sẽ thành người đại ác.

Nghe thế tâm bà vui mừng khôn xiết, đứng dậy hướng Ngài lạy ba lạy, cầu thỉnh Quy y, chánh thức thành đệ tử của Ngài. Sau khi Quy y Tam Bảo, không những sửa đổi tâm tánh mà còn tự thân đi khắp nơi chỉ dạy người đời làm lành bỏ ác; hơn tám trăm người được bà cảm hóa đến quy y Ngài.

Khi ấy thân bằng quyến thuộc trong làng thấy bà thay đổi tâm tánh hoàn toàn nên rất kinh ngạc, xem bà như một con người mới, do đó biệt hiệu Lão Cọp Cái tự nhiên không còn nhắc mà đổi lại gọi bà là “Quán Âm tiếp dẫn.”

Bà ăn chay niệm Phật, khuyến hóa người đời trong mười năm, ngày nào cũng như nào. Vào hạ tuần tháng tám năm Dân Quốc thứ ba mươi ba, bà biết trước được ngày vãng sanh nên bảo người nhà:

- Tôi xưa vốn tạo bao ác nghiệp, nhưng sau khi Quy y Tam Bảo, sửa đổi tâm tánh hướng thiện, cùng khuyến hóa người do công đức đó tôi nay biết được rằng 19 tháng 9 là ngày tôi sẽ vãng sanh Tịnh Độ. Xin các vị chớ nên buồn bã khóc lóc mà nhớ niệm Phật giúp tôi!

Quả nhiên đến ngày ấy bà tắm gội sạch sẽ, mặc chỉnh tề chấp tay mĩm cười niệm Phật mà vãng sanh, hưởng thọ sáu mươi chín tuổi.



d) Phương thức học giỏi: “Ba Trong, Ba trên”

Vùng cạnh Thôn Ngài, có một học sinh họ Đường mười bốn tuổi, thân thể yếu ớt, thường hay bệnh hoạn, lại rất ngu độn, học chi rồi cũng quên hết. Tuy cha mẹ, Thầy cô giáo bao lần đốc thúc nghiêm khắc dạy dỗ nhưng chẳng được kết quả gì. Chính bản thân em cũng phiền não về sự ngu si của mình.

Khi ấy, em thường nghe người trong Thôn kể về sự tích của Ngài, nên có ý định đến xem vị cao Tăng này có thể giúp được em không? Ngày nọ, em hẹn với mười lăm bạn đồng học đến lạy Ngài, cầu xin Quy y và khẩn cầu Ngài từ bi chỉ dạy làm thế nào khai mở trí tuệ, thuộc bài dễ dàng, và nhớ dai hơn?

Ngài bảo chúng:

- Muốn học giỏi, phải theo phương pháp Ba trong, ba trên. Ba trong là khi học bài phải đặt vào ba chỗ:

1) trong tâm,

2) trong miệng,

3) trong mắt.


Tức là dùng mắt xem bài, dùng miệng đọc bài, và dùng tâm để tư duy bài học.

Ba trên nghĩa là phải học luôn luôn:

1) trên đường,

2) trên gối,

3) trên cầu vệ sinh.


Lúc đi trên đường thường nên suy gẩm, nhớ lại bài học mà thầy cô vừa dạy, về nhà, lúc lên giường, trước khi nhắm mắt ngủ, phải đọc qua một lần những bài vừa học ở Trường, và lúc ngồi trên cầu vệ sinh đừng để uổng phí thời giờ nghĩ viễn vong mà nên chuyên tâm, nhớ lại những gì mình học vừa qua.

- Khi học bài phải để hết cả tâm trí vào bài vở và chỉ thấy có quyển sách thôi, nếu có ai thổi kèn bên tai các con, các con cũng không nghe. Nếu có những màu sắc sáng chói, lộng lẫy chiếu trước mắt, các con cũng không thấy. Các con nếu cứ thế mà chuyên tâm nhất ý, thì không việc gì mà không đạt được, huống chi nói về việc học thuộc bài?

Bọn học trò nghe qua hiểu rõ, và ghi khắc lời dạy vào lòng. Sau khi trở về, chúng y theo lời dạy của Ngài, quả nhiên trí tuệ khai sáng. Từ học sinh bình thường, chúng trở thành xuất sắc, thông minh. Cha mẹ và Thầy Cô giáo của các em đều không khỏi kinh ngạc. Chuyện truyền ra xa, học sinh từ khắp nơi không ngừng tìm đến Ngài xin Quy y và cầu Ngài dạy dỗ.

e) Hiếu tử Trịnh Đức

Tại Tỉnh Kiết Lâm Huyện Ngũ Thường, có một em bé tên Trịnh Đức, lúc năm sáu tuổi đã bắt đầu lễ lạy cha mẹ, rất mực hiếu thuận. Danh hiếu thảo của em vang khắp nơi, có nhiều Đạo sĩ, Thuật sĩ muốn nhận em làm đệ tử. Tuy còn nhỏ, nhưng em thẳng thắn vô cùng, em nói với họ rằng:

- Nếu các vị chuyên bày chuyện dị đoan, gạt gẩm, hù hiếp để hại người đời, tất không phải là người tốt.

Năm em mười một tuổi, Ngài nghe đến hạnh hiếu thảo của em bé nên đích thân tìm đến, xem em bé hiểu hạnh hiếu thuận với cha mẹ như thế nào?

Từ song cửa nhìn ra thấy Ngài đang bước vào sân nhà em liền thưa với mẹ:

- Thưa mẹ Thầy của con đang đến kìa.

- Ai là Thầy của con?

Trịnh Đức chưa đáp lời mẹ đã vội vàng chạy ra ngoài sân nghinh tiếp, cúi đầu đảnh lễ Ngài. Sau khi vào nhà ngồi xuống xong Ngài hỏi:

- Ai dạy con lễ lạy cha mẹ vậy?

- Con nghe danh mười bốn người con chí hiếu ở Huyện Song Thành nên con mới noi theo gương họ.

Cha của Trịnh Đức ra chiều hãnh diện, vui vẻ nói:

- Đây thật nhờ phước đức tổ tiên nên chúng con mới có đứa con hiếu thảo này, mong cầu Phật, Bồ Tát từ bi gia hộ.

Đàm đạo một hồi, Ngài từ trên bộ ván bước xuống thì không thấy đôi giày đâu cả chỉ thấy em quỳ dưới đất khẩn cầu:

- Thầy đã đến đây, con kính thỉnh Thầy ở lại dùng cơm trưa với gia đình con. Ngài chấp thuận lời thỉnh cầu của em.

Dùng cơm xong, Ngài dạy em Trịnh Đức:

- Con đã Quy y gọi ta bằng Thầy vậy con nghe lời Thầy hay Thầy nghe lời con?

Em thật rất thông minh lập tức nhận ra lỗi của mình.

- Bạch Thầy, đương nhiên đệ tử phải nghe lời Thầy, con nay xin sám hối.

- Tu đạo tâm phải thẳng thắn, như con vừa giấu đôi giày của Thầy, đó là thủ đoạn trước tiên khống chế người để bắt người theo ý mình, đây không phải là cách tôn trọng đạo.

Nghe thế em xấu hổ muốn khóc Ngài bèn đọc bài kệ dạy em:

Niệm Phật năng niệm vô gián đoạn

Khẩu niệm Di Đà đả thành phiến

Tạp niệm bất khởi đắc Tam muội

Vãng sanh Tịnh Độ định hữu phần.


Chung nhật yếm phàn Ta Bà khổ

Tài tương hồng trần tâm niệm đạm

Cầu sanh Cực Lạc ý niệm trọng

Phóng hạ nhiễm niệm, qui tịnh niệm.

Tạm dịch:

Niệm Phật phải niệm không gián đoạn,

Miệng niệm Di Đà mãi thành phiến,

Chẳng khởi tạp niệm đắc Tam muội,

Vãng sanh Tịnh Độ sẽ có phần,

Cõi Ta Bà phiền khổ cả ngày,

Nhàm bụi trần lao, tâm coi nhẹ

Chủ ý cầu sanh về Tịnh Độ

Xả bỏ niệm nhơ, qui niệm tịnh.

Đối với các đệ tử trẻ tuổi, Ngài thường dạy họ phương pháp tọa thiền, riêng Trịnh Đức Ngài dạy em chuyên tu pháp môn Tịnh Độ. Y chiếu các câu kệ trên mà tu, nếu không phải người có trí thì sẽ không nhận thức được chân lý thâm sâu bên trong: “Tiền nhân hậu quả” tức trước là nhân, sau là quả vậy.
(còn tiếp)

chuakimquang.com/vn/Gioi-Thieu/Bai-Viet/...-Kiem-Thanh-Hieu-Tu/
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên