KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC - CHƯƠNG III

ly_nhat_minh

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 7 2009
Bài viết
4
Điểm tương tác
0
Điểm
1
CHƯƠNG BA MƯƠI : Sự tu trì của Bồ tát.​

Lại nữa A Nan, tất cả Bồ tát, ở cõi
nước đó, thảy đều đầy đủ, thiền định trí huệ, thần thông oai đức, thông suốt rốt ráo, bí tạng của Phật, điều phục các căn, thân tâm nhu nhuyến, thâm nhập chánh huệ, không còn hoặc lậu, nương theo hạnh Phật, tu bảy giác chi, tám phần Thánh đạo. Thấu suốt năm nhãn, Chân đế Tục đế, Nhục nhãn phân biệt, Thiên nhãn thông đạt, Pháp nhãn trong sạch, Huệ nhãn thấy chân, Phật nhãn đầy đủ, giác ngộ pháp tánh. Có đủ biện tài, và sức tổng trì, tự tại vô ngại. Khéo thấu suốt được, vô biên phương tiện, nói lời thành thật, nghĩa lý sâu xa, độ thoát chúng sanh. Truyền bá chánh pháp, vô tướng vô vi, không buộc không thoát, không có phân biệt xa lìa điên đảo. Đối cảnh thọ dụng, các Bồ tát đó, đều không dính mắc, đi khắp nước Phật, không ưa không chán, không có mong cầu, hay tưởng mong cầu, cũng không có tưởng, ta người oán thù. Tại vì sao thế ? Các Bồ tát đó, đối với chúng sanh, có lòng từ bi, thích làm lợi ích, xa lìa tất cả, chấp trước điên đảo, thành tựu vô lượng, công đức trang nghiêm. Các Bồ tát đó, dùng huệ vô ngại, hiểu pháp như như, biết rõ Tập Diệt, phương tiện âm thanh, nhưng không ưa thích, ngôn ngữ thế tục, ham thích chánh luận, biết được tất cả, pháp đều vắng lặng. Sanh thân phiền não, cả hai đều hết. Các Bồ tát đó, ở trong ba cõi, bình đẳng siêng tu, rốt ráo nhất thừa, đến bờ tuyệt đối, dứt sạch lưới nghi, chứng vô sở đắc, dùng trí phương tiện, tăng trưởng thấy biết. Từ xưa tới nay, các Bồ tát đó, thảy đều an ổn, trụ trong thần thông, được đạo nhất thừa, không từ người khác.

CHƯƠNG BA MƯƠI MỐT : Công đức chân thật
Trí huệ Bồ tát, rộng sâu như biển, sự giác ngộ cao, hơn đỉnh Tu di. Tự thân chiếu sáng, hơn cả nhật nguyệt. Tâm trong sáng sạch, cũng như núi tuyết. Nhẫn nhục như đất, tất cả bình đẳng. Trong sạch như nước, tẩy rửa bụi dơ, rực sáng như lửa, đốt cũi phiền não, không dính như gió, không bị chướng ngại. Tiếng pháp như sấm, thức tỉnh người mê, mưa pháp cam lồ, nhuần thấm chúng sanh. Tâm như hư không, lòng từ bình đẳng. Họ như hoa sen, trong sạch không nhiễm, như cây Ni-câu, che mát khắp cả, như chày Kim cang, đập nát tà chấp, như núi Thiết vi, chúng ma ngoại đạo, không thể lay động. Tâm họ ngay thẳng, quyết định khéo léo, bàn luận chánh pháp, không hề nhàm chán, cầu pháp không mỏi, giới như lưu ly, trong ngoài sáng sạch. Các Bồ tát đó, có nói điều gì, cũng khiến đại chúng, vui vẻ tuân phục. Đánh trống pháp lớn, dựng cao cờ pháp, các Ngài rực sáng, mặt trời trí huệ, chiếu phá tối ngu. Trong sạch ôn hòa, thiền định minh sát, làm bậc Đạo sư, điều phục mình người, dẫn dắt chúng sanh, bỏ các ái trước, xa lìa ba cấu, du hí thần thông, nhờ nơi nguyện lực, sanh ra căn lành, hàng phục quân ma. Kính thờ chư Phật, làm ngọn đèn sáng, phước điền tối thượng, ban sự kiết tường cho các chúng sanh, kham nhận cúng dường, hân hoan vui vẻ, dũng mãnh không sợ. Tướng quý vẻ đẹp, công đức biện tài, của các Bồ tát, trang nghiêm đầy đủ, không ai sánh bằng. Các Bồ tát này, thường được Phật khen, đạt được rốt ráo, các Ba la mật, mà thường an trụ, nơi Tam-ma-địa, chẳng sanh chẳng diệt, đi khắp đạo tràng, xa cảnh nhị thừa.
Lại này A Nan, nay ta nói lược, công đức chân thật, của các Bồ tát, ở nước Cực lạc. Nếu nói rộng ra, thì dù trải qua, trăm ngàn vạn kiếp, cũng không thể hết.

CHƯƠNG BA MƯƠI HAI: Tuổi thọ và sự an lạc vô cùng
Bấy giờ Phật bảo, Bồ tát Di Lặc :
Trí huệ công đức, của hàng trời người, Thanh Văn Bồ tát, ở nước Cực lạc, của Phật Di Đà, không thể nói hết. Nước đó nhiệm màu, an lạc vi diệu, thanh tịnh như thế. Tại sao chúng sanh, ở cõi nước này, không gắng tu thiện, niệm đạo tự nhiên, ra vào cúng dường, xem kinh hành đạo, vui thích tập theo, trí huệ sắc bén, tâm không thối đọa, ý không giải đãi. Bên ngoài chậm chạp, bên trong gấp rút, đồng với hư không, thích hợp trung đạo. Trong ngoài tương ưng, tự nhiên nghiêm chỉnh, kiểm điểm ngay ngắn, thân tâm trong sạch, không còn tham ái, chí nguyện an định, không tăng không giảm, cầu đạo hòa chánh, không bị điên đảo. Hành theo kinh điển, không dám sai sót, như cưa theo mực. Vì mến mộ đạo, tâm không vọng niệm, không có lo âu, tự nhiên vô vi, rổng rang không chấp, đạm bạc không dục. Phát được thiện nghiệp, hết lòng mong cầu, thương xót chúng sanh, lễ hiệp với nghĩa, sự lý viên dung, vượt thoát sanh tử, tự nhiên giữ gìn, chân thật trong sáng, chí nguyện vô thượng, tịch định an lạc. Đến một mai kia, tâm mở sáng suốt, ở trong tự nhiên, có tự nhiên tướng, căn bản tự nhiên, tự có ánh sáng, hồi quang chuyển biến, thành ra tối thắng. Cõi Uất-đơn-việt, trở thành bảy báu, biến hiện vạn vật, ánh sáng chói ngời, phát ra tốt đẹp, không dính trên dưới, rỗng không giới hạn. Mỗi người siêng năng, nổ lực cầu đạo, ắt được siêu việt. Sau sẽ vãng sanh, qua cõi Tịnh độ, của Phật Di Đà, dứt ngang năm đường, lấp kín cõi ác. Thắng đạo vô cực, dễ được vãng sanh, nhưng không người cầu. Nước không nghịch cảnh, tự nhiên tùy thuận, tâm chí lặng lẽ, rộng như hư không, siêng cầu đạo đức, để được sống lâu, thọ mạng vô tận. Tại sao cứ mãi, đắm việc thế gian, vô vàn lo lắng ?

CHƯƠNG BA MƯƠI BA : Khuyến dụ sách tấn
Người đời cùng tranh, những chuyện không đâu. Ở chốn đau khổ, quá cùng cực này, gắng làm kiếm sống. Quý tiện nghèo giàu, lớn nhỏ nam nữ, bị tâm sai sử quá nhiều lo lắng. Không ruộng lo ruộng, không nhà lo nhà, quyến thuộc tài sản, có không cũng lo; được một thiếu một, lo cho bằng người, vừa được chút ít, lại càng lo hơn, lửa cháy nước trôi, trộm cắp kẻ thù, cướp chiếm tài sản. Tâm bền chí vững, chấp chặt không buông, một khi chết đi, bỏ lại tất cả, không mang theo được. Giàu cũng như nghèo, đau khổ lo âu, có trăm ngàn mối. Người trong thế gian, cha con anh em, vợ chồng thân thuộc, phải kính yêu nhau, không nên ganh ghét, giúp đỡ lẫn nhau, không được tham tiếc. Lời nói sắc mặt, thường phải ôn hoà, không được chống trái. Nếu có xích mích, tâm sanh giận hờn, thì qua đời sau, chuyển thành đại oán. Thử xem việc đời, càng thêm họa hại, dù không đến kề, phải nghĩ lìa xa. Người trong ái dục, sống chết một mình, đến đi riêng lẽ, khổ vui tự nhận, không ai thay cho. Quả báo thiện ác, nhanh chóng đổi thay, dẫu đi khác lối, gặp gỡ bất kỳ. Lúc còn mạnh khỏe, sao không cố gắng, tu tập thiện nghiệp, còn đợi lúc nào ?
Người đời thiện ác, không tự thấy được, cát hung hoạ phước, tranh nhau gây tạo, thân ngu tâm tối, chạy theo đạo tà, càng thêm điên đảo, căn bản vô thường, mênh mông mờ mịt. Không tin kinh pháp, tâm không lo xa, chỉ thích hưởng thụ, mê muội sân giận, tham đắm sắc tài, không hề thôi dứt. Than ôi, đáng thương ! Người trước hung ác, không biết đạo đức, không ai nói cho, lún sâu đường khổ, đâu có lạ gì ! Con đường sanh tử, lý lẽ thiện ác, họ không chịu tin, cho là không có. Hãy tự nhìn nhau, rồi tự khắc biết, hoặc cha khóc con, hoặc con khóc cha, anh em vợ chồng, thương khóc lẫn nhau. Một chết một sống, quyến luyến lẫn nhau, ân ái ràng buộc, không mong giải thoát. Lún sâu ân huệ, không lìa dục tình. Họ không thể nào, nghĩ sâu nhớ kỹ, nỗ lực hành đạo, đến khi mạng hết, thì biết làm sao ! Người lầm đạo nhiều, người hiểu đạo ít. Mỗi người như thế, ôm lòng độc hại, ác khí mịt mù, làm việc càn quấy, chống trái đất trời, tha hồ tạo tội, tổn giảm thọ mạng. Sau khi chết rồi, đọa ba đường ác, không mong thoát khỏi. Các ông phải nên, suy nghĩ chín chắn, bỏ các việc ác, làm các việc thiện, siêng năng hành đạo. Ái dục vinh hoa, không thể mãi còn, đều phải lánh xa, không đáng ham thích. Phải siêng tinh tấn, nguyện sanh Cực lạc, trí huệ sáng suốt, công đức thù thắng, chớ theo ý mình, chê bai kinh luật, phải chịu sau người.

CHƯƠNG BA MƯƠI BỐN : Tâm được khai mở, sáng suốt.
Di Lặc bạch Phật :
- Lời Phật dạy bảo, rất sâu rất thiện, chúng con đều nhờ, từ ân của Ngài, giải thoát ưu khổ. Phật là vua pháp, là Thánh của Thánh, ánh sáng chiếu khắp, là Thầy trời người. Chúng con gặp Phật, nghe được danh hiệu, Phật Vô Lượng Thọ, thảy đều vui mừng, tâm được mở tỏ.
Phật bảo Di Lặc :
Tôn kính đức Phật, là việc lành lớn, phải nên niệm Phật, dứt các hồ nghi, bỏ các ái dục, lấp các nguồn ác, dạo chơi ba cõi, không bị chướng ngại, chỉ dạy chánh đạo, độ người chưa độ. Các ông nên biết, chúng sanh mười phương, nhiều kiếp đến nay, xoay chuyển năm đường, khổ lo không dứt. Lúc sanh đã khổ, đến già cũng khổ, bệnh càng khổ nhiều, chết lại khổ hơn. Thân người hôi dơ, không gì đáng ưa. Phải nên quyết định, rửa sạch tâm dơ, nói làm trung tín, trong ngoài hợp nhau. Người phải tự độ, rồi mới độ người, chí tâm cầu nguyện, tích lũy căn lành. Tuy nhọc một đời, tinh tấn tu hành, nhưng thời gian ngắn, sẽ được sanh về, cõi nước Cực lạc, an lạc vô cùng, vĩnh viễn nhổ được, gốc khổ sanh tử, không còn khổ đau, sống trăm ngàn kiếp, tự tại tùy ý. Mỗi người phải nên, tinh tấn nguyện cầu, chớ có nghi ngờ, tự gây tội lỗi. Những người nghi ấy, sau sẽ sanh về, trong thành bảy báu, biên địa nước kia, trong năm trăm năm, chịu các khổ ách.
Di Lặc bạch rằng :
- Con xin vâng theo, lời dạy của Phật, siêng năng tu hành, không dám nghi ngờ.

CHƯƠNG BA MƯƠI LĂM : Cuộc đời dơ nhớp, nhiều khổ ác.
Phật bảo Di Lặc :
- Các ông có thể, ở cõi nước này, tâm ý đoan chánh, không làm điều ác, công đức thật lớn. Vì sao như thế ? Vì các cõi nước, của Phật mười phương, việc thiện thì nhiều, việc ác thì ít, chúng sanh dễ bảo. Còn thế giới này, có năm điều ác, rất là thống khổ. Ta nay thành Phật, ở tại cõi đây, cốt dạy chúng sanh, khiến bỏ năm ác, trừ năm điều khổ, khỏi năm nóng bức, hàng phục tâm ý, khiến giữ năm thiện, để được phước đức. Năm ác là gì ?
- Một là các loài, chúng sanh thế gian, thích làm điều ác, kẻ mạnh hiếp yếu, trở thành thù nghịch, cố tâm tàn sát, ăn nuốt lẫn nhau, không biết làm thiện. Đời sau phải chịu, mọi thứ hình phạt. Có kẻ nghèo cùng, ăn xin cô độc, đui điếc câm ngọng, si ác điên cuồng, đều do đời trước, không tin đạo đức, không chịu làm thiện. Có người lại được, tôn quý giàu sang, hiền minh trưởng giả, trí dũng tài cao, là do đời trước, từ hiếu tu thiện, tích đức mà thành. Ở trên thế gian, đầy dẫy việc này. Sau khi chết rồi, những chúng sanh đó, lại rơi vào cõi, tối tăm tái sanh, thay hình đổi dạng, hoặc vào địa ngục, hay loài súc sanh, côn trùng nhỏ nhít. Thí như thế gian, pháp luật hình phạt lao ngục khổ sở. Thần hồn tội nhân, tùy tội sanh về, tuổi thọ dài ngắn, theo nhau cùng sanh, đền trả lẫn nhau. Tội ác chưa hết, thì không rời được. Xoay vần trong đó, nhiều kiếp khó tránh, khó được giải thoát, đau khổ khôn cùng. Giữa khoảng trời đất, có việc như thế, báo ứng thiện ác, tuy không tức thời, nhưng không hề mất, khi đến thời kỳ, phải nhận quả báo.
- Hai là nhân dân, ở trong thế gian, không thuận luật pháp, xa xỉ dâm dục, kiêu mạn phóng túng. Trên không sáng suốt, lại không ngay thẳng, hại người oan uổng, giết kẻ trung lương, tâm miệng trái nhau, dối trá đa đoan. trong ngoài trên dưới, khinh khi không chừa. Sân hận ngu si, tham lợi riêng mình, giàu có tài sản, lợi hại hơn thua, kết thành thù oán, phá nhà mất thân, không nghĩ trước sau. Giàu thì keo kiệt, không muốn bố thí, vì tham quá nặng, tâm nhọc thân khổ. Nhưng đến cuối đời, chẳng đem được gì. Họa phước thiện ác, theo cùng mạng sống, hoặc ở chỗ sướng, hoặc vào biển khổ. Họ thấy người thiện, ganh ghét phỉ báng, không chịu hâm mộ. Thường có tâm trộm, muốn lấy của người, để nuôi sống mình, tiêu hết lấy tiếp. Khi chết thần thức, đọa vào cõi ác, nên có địa ngục, ngạ quỹ súc sanh. Chúng sanh xoay vần, nhiều kiếp trong đó, khổ não khó ra, không thể nói hết.
- Ba là người đời, nương nhau sống gởi, sống được bao lâu ! Những người bất lương, thân tâm bất chánh, có lòng tà ác, thường nhớ dâm dục, tâm đầy phiền muộn, nết tà hiển lộ, hao phí gia tài, vào việc phi pháp, những việc đáng làm, lại chẳng chịu làm. Họ tụ hội lại, kết thành bè đảng, đem binh đánh giết, cưỡng bức chiếm đoạt, tài sản kẻ khác, về nuôi vợ con, muốn hưởng dục riêng, mọi người chán ghét, tìm cách làm khổ. Tội ác như thế, người quỷ đều biết, thần minh ghi chép, chết vào đường ác, chịu khổ vô lượng, xoay vần trong đó, nhiều kiếp khó ra, khổ không nói hết.
- Bốn là người đời, không nhớ tu thiện, mà nói những lời, dối trá hai lưỡi, hung ác thêu dệt, ganh ghét người thiện, giết hại người hiền, bất hiếu mẹ cha, khinh khi thầy dạy, không tin bạn hữu, khó được thành thật. Tự tôn tự đại, khoe mình có đủ, đạo đức oai lực, khinh thường người khác, muốn người nể sợ, không tự hổ thẹn, khó giáo hoá được. Những hạng người này, thường hay kiêu mạn, ỷ vào đời trước, được phước hộ trì. Đời này làm ác, phước đức tiêu hết, tuổi thọ không còn, các ác bao vây. Tên tuổi của họ, thần minh ghi rõ, tội lỗi kéo lôi, không thể bỏ được. Đành phải bị đẩy, vào vạc dầu sôi, thân tâm tan nát, khổ cực biết bao
! Đến lúc đó rồi, hối hận không kịp.
- Năm là người đời, ỷ lại lười biếng, không chịu làm thiện, tu sửa thân mình. Cha mẹ dạy bảo, thì chống trái lại, coi như kẻ thù, không phải cha con, vong ân bội nghĩa, không chút báo đền. Họ chỉ phóng túng, đam mê tửu sắc, gây gổ xung đột, không biết tình người, vô nghĩa vô lễ, không thể can ngăn. Nhu cầu quyến thuộc, đầy đủ thiếu thốn, họ không đoái hoài, vong ân cha mẹ, vô nghĩa với thầy. Chỉ nghĩ riêng mình, không làm mảy thiện, không tin kinh pháp, của chư Phật dạy, không tin thiện ác, nhân quả sanh tử, muốn hại bậc Thánh, khuấy rối chúng tăng, ngu si tối tăm, cho là trí huệ, không biết sống chết, từ đâu đến đi. Họ không có lòng, nhân ái hiếu thuận, mà thích sống lâu. Cố công khuyên dạy, không lợi ích gì, vì tâm bít lấp, ý không khai mở. Khi sắp mạng chung, vừa sợ vừa lo, trước không tu thiện, gần chết ăn năn, thì sao cho kịp. Ở giữa trời đất, năm đường rõ ràng, thiện ác báo ứng, họa phước nối nhau, thân mình chịu lấy, không ai thay thế. Còn người làm thiện, từ vui đến vui, từ sáng vào sáng. Riêng người làm ác, từ khổ đến khổ, từ tối đến tối, nào ai có biết. Chỉ Phật biết rõ, dạy bảo khai ngộ, người tin thì ít, vì thế cho nên, sanh tử không thôi, ác đạo không dứt. Những người như thế, khó nói hết được. Do đó tự nhiên, có ba cõi ác, khổ não vô lượng, xoay vần trong đó, đời đời kiếp kiếp, không lúc nào ra, khó thoát khỏi được, khổ không nói hết.
Những điều như thế, năm ác năm khổ, năm ngọn lửa đốt, như đám lửa lớn, thiêu cháy thân người. Nếu chịu tự mình, nhất tâm chế ngự, thân ngay ý chính, ngôn hạnh hiệp nhau, làm việc chí thành, chỉ làm điều thiện, không làm điều ác, bản thân độ thoát, được nhiều phước đức, được mạng sống lâu, của cõi Niết bàn. Đó là năm điều, thiện lớn trong đời.

CHƯƠNG BA MƯƠI SÁU : Lớp lớp khuyên dạy.
Phật bảo Di Lặc :
- Ta bảo các ông, về năm điều ác, năm điều thống khổ, năm lửa thiêu đốt, xoay vần sanh khởi, nếu người nào phạm, thì phải sa đoạ, vào ba đường ác. Hoặc ngay đời này, trước bị bệnh khổ, muốn sống không được, muốn chết không xong. Đại chúng nên biết, người đó khi chết, đọa vào Tam đồ, đau khổ sầu não, tự thiêu đốt mình. Oán thù gặp gỡ, rồi giết hại nhau, trước từ lỗi nhỏ, mà thành họa lớn. Đều do tham đắm, của cải sắc đẹp, chẳng chịu bố thí, chỉ muốn thỏa lòng, không kể phải quấy, bị si dục bức, tranh lợi riêng mình. Phú quý vinh hoa, thỏa thích nhất thời, không chịu nhẫn nhịn, không lo tu thiện. Oai thế không lâu, rồi sẽ mất hết, lưới trời giăng mở, tự nhiên hiển lộ, đau đáu kinh hoàng, lọt vào trong đó, xưa nay đều thế, đau khổ đáng thương.
Các ông được nghe, lời Phật dạy bảo, phải nghĩ kỹ càng, mỗi người tự giữ, suốt đời không lười. Tôn trọng bậc Thánh, kính mến người thiện, nhân từ bác ái, phải cầu giải thoát, nhổ sạch sanh tử, gốc của điều ác, thoát ba đường dữ, lo sợ thống khổ. Các ông làm thiện, điều nào bậc nhất ? Phải nên tự giữ thân mũi tai mắt, miệng lưỡi thẳng ngay. Thân tâm trong sạch, tương ưng với thiện, đừng theo thị dục, phạm các điều ác. Lời nói sắc mặt, phải hiện ôn hòa. Thân hành phải chuyên, động tác nhìn ngó, an định thong thả, đừng có hấp tấp, sau phải ăn năn, vì không xét kỹ, mất đi công phu.

CHƯƠNG BA MƯƠI BẢY : Như người nghèo được của báu
- Các ông hãy nên, vun nhiều công đức, đừng phạm giới cấm, nhẫn nhục tinh tấn, từ bi chuyên nhất, trai giới trong sạch, một ngày một đêm, thì hơn ở cõi, Cực lạc làm thiện, suốt một trăm năm. Tại sao như thế ? Cõi nước Phật đó, tất cả dân chúng, đều chứa việc thiện, không có mảy ác. Cõi này tu thiện, trong mười ngày đêm, hơn ở cõi nước, chư Phật phương khác, làm thiện ngàn năm. Tại sao như thế ? Tại vì cõi nước, của chư Phật khác, phước đức tự nhiên, không nơi tạo ác. Chỉ thế gian này, thiện ít ác nhiều, uống đắng ăn độc, chưa từng ngừng nghĩ. Ta thương các ông, khổ tâm dạy bảo, trao cho kinh pháp, các ông phải cố, giữ gìn suy tư, thực hành tất cả. Nam nữ sang hèn, quyến thuộc bằng hữu, phải khuyên bảo nhau, phải kiểm soát nhau, hòa thuận vui vẻ, yêu thương từ hiếu. Nếu có lỗi lầm, phải tự ăn năn, bỏ ác làm thiện, sáng nghe chiều sửa, phụng trì kinh luật, giống như người nghèo, bắt được của báu, sửa lỗi lầm cũ, đổi mới đề phòng, những lỗi chưa có. Tẩy sạch tâm tư, cải đổi hành vi, tự nhiên cảm thông, nguyện ước thành tựu. Phật đi đến đâu, thành ấp tụ lạc, đều được giáo hóa, thiên hạ hòa thuận, trời trăng trong sáng, mưa gió đúng mùa, tai hoạ đều không, dịch bệnh chẳng có, nước thịnh dân an, binh đao chẳng dùng, tôn trọng nhân đức, chuyên làm lễ nghĩa. Nước không giặc cướp, dân không oan ức, mạnh không hiếp yếu, tất cả ấm no. Ta thương các ông, hơn mẹ thương con. Ta ở cõi này, chứng thành Phật quả, lấy thiện dẹp ác, dứt khổ sanh tử, khiến được năm đức, an ổn vô vi. Ta Niết bàn rồi, kinh đạo lần diệt, nhân dân dua nịnh, làm các việc ác, thì năm điều khổ, năm ngọn lửa đốt, càng nguy hơn trước. Các ông phải nên, khuyên răn lẫn nhau, làm đúng pháp Phật, không được trái phạm.
Bồ tát Di Lặc, chắp tay bạch Phật :
- Người đời khổ ác, nặng nề như thế, Phật đều xót thương, và độ thoát cho, chúng con xin vâng, theo lời Phật dạy, không dám trái phạm.

CHƯƠNG BA MƯƠI TÁM : Đảnh lễ Phật, ánh sáng hiện ra.
Phật bảo A Nan :
- Các ông muốn thấy, Phật Vô Lượng Thọ, thanh tịnh bình đẳng, Bồ tát La Hán, và cõi nước đó, nên hướng về Tây, phía mặt trời lặn, cung kính đảnh lễ, xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật.
A Nan liền từ, chỗ ngồi đứng dậy, quay mặt về Tây, chấp tay đảnh lễ, rồi bạch Phật rằng :
- Nay con nguyện được, thấy nước Cực lạc, và Phật Di Đà, phụng thờ cúng dường, trồng các căn lành.
Trong lúc đảnh lễ, A Nan bỗng thấy, Phật A Di Đà, dung nhan thù thắng, thân tướng cao lớn, vi diệu đoan nghiêm, như núi vàng ròng, vượt lên tất cả, trên các thế giới. A Nan lại nghe, chư Phật mười phương, xưng dương tán thán, đức Phật Di Đà, có nhiều công đức.
A Nan bạch rằng :
- Thế giới trong sạch, của đức Phật đó, thật chưa từng có. Con nguyện
vãng sanh, vào cõi nước ấy.
Đức Phật bảo rằng :
- Người sanh nước đó, đã từng gần
gũi, vô lượng chư Phật, trồng các công đức. Ông muốn sanh về, thì phải nhất tâm, quy y chiêm ngưỡng.
Lúc đức Thế Tôn, nói lời đó rồi, Phật A Di Đà, liền từ bàn tay, phóng ra vô lượng, ánh sáng chiếu soi, khắp các cõi nước. Ngay lúc bấy giờ, các nước chư Phật, cũng đều hiện rõ, nhưng trong một tầm. Do nhờ ánh sáng, của Phật Di Đà, thù thắng trong sạch, nên ở cõi này, các núi lớn nhỏ, Hắc sơn Tuyết sơn, Kim cương Thiết vi . . . sông ngòi tùng lâm, cung điện trời người, tất cả cảnh giới, đều được thấy rõ. Như mặt trời mọc, ánh sáng chiếu soi, khắp cả thế gian, hang động tối tăm, cho đến địa ngục, đều được khai mở, đồng một màu sắc. Như gặp thủy tai, tất cả thế giới, muôn vật chìm ngập, mênh mông trắng xóa, chỉ thấy màu nước. Ánh sáng Phật kia, cũng giống như thế. Tất cả ánh sáng, Bồ tát Thanh Văn, đều bị ánh sáng, của Phật che mờ. Chúng trong pháp hội, trời rồng tám bộ, người và phi nhân, đều thấy các thứ, trang nghiêm thanh tịnh, của nước Cực lạc. Phật A Di Đà, ở trên tòa cao, oai đức vời vợi, tướng tốt chói sáng. Thanh Văn Bồ tát, cung kính vây quanh. Giống như núi chúa, vượt trên mặt biển, ánh sáng chiếu rực, trong sạch thẳng ngay, không có dơ uế, và loại dị hình, chỉ toàn là những, chất liệu quý báu, dùng để trang nghiêm. Trong đó Thánh
hiền, cùng nhau an trụ.
Bấy giờ A Nan, và chúng Bồ tát, đều rất vui mừng, hớn hở đảnh lễ, đầu chạm xuống đất, xưng niệm Nam Mô, A Di Đà Phật.
Chư Thiên nhân dân, các loài côn trùng, thấy ánh sáng này, bịnh khổ được lành. Tất cả sầu lo, đều được giải thoát, đều phát lòng từ, cố gắng tu thiện, mừng rỡ vui thích. Chuông khánh cầm sắt, không hầu nhạc khí, không đánh tự kêu, không trổi tự phát, năm thứ thanh âm. Chư Thiên nhân dân, trong cõi nước Phật, mỗi người cầm hoa, đi trong hư không, đến rải cúng dường. Bấy giờ phương Tây, ở cách rất xa, thế giới Ta bà, đến cả trăm ngàn, câu-chi-na cõi, nhờ thần lực Phật, như ở trước mặt. Như dùng thiên nhãn, thấy một tầm đất, kia thấy cõi nầy, cũng lại như vậy. Mọi người cũng thấy, thế giới Ta bà, có đấng đại giác, Thích Ca Mâu Ni hiện đang nói pháp, và các Tỳ kheo, cung kính vây quanh.

CHƯƠNG BA MƯƠI CHÍN : Bồ tát Từ Thị thuật lại điều mình trông thấy.
Bấy giờ đức Phật, bảo với A Nan ,
Bồ tát Từ Thị :
- Các ông có thấy, cõi nước Cực lạc, đầy những cung điện, lầu gác ao suối, rừng cây vi diệu, trang nghiêm hay không? Các ông có thấy, chư Thiên cõi Dục, cho đến chư Thiên, trời Sắc cứu
cánh, rải các hoa thơm, như mưa khắp cùng, cõi Phật đó không ?
A Nan bạch Phật :
- Vâng, con đã thấy.
- Ông có nghe Phật, Vô Lượng Thọ Quang, dùng đại âm thanh, thuyết pháp giáo hóa, các chúng sanh không?
- Vâng, con đã nghe.
Đức Phật lại nói :
- Các ông có thấy, chúng thuần thanh tịnh, ở cõi nước đó, đi trong hư không, cung điện theo cùng, không bị trở ngại, đi khắp mười phương, cúng dường chư Phật, và niệm hiệu Phật, không hề gián đoạn, cũng như các chim, ở trong hư không, hót ra tiếng hay, đều do Phật đó, biến hóa ra không ?
Di-lặc thưa rằng :
- Như lời Phật nói, con đều đã thấy.
Phật hỏi Di Lặc :
- Những người nước kia, đều do thai sanh, ông có thấy không ?
Di Lặc trả lời :
- Bạch đức Thế Tôn, con thấy những người, nơi cõi nước đó, đang ở trong thai, như ở cung điện, của trời Dạ ma. Lại thấy chúng sanh, ngồi thế kiết già, trong thai hoa sen, tự nhiên hóa sanh. Do nhân duyên gì, mà nhân dân kia, có người thai sanh, có người hóa sanh ?

CHƯƠNG BỐN MƯƠI : Do nghi ngờ mà sanh ở vùng biên địa
Phật bảo Di Lặc :
- Nếu có chúng sanh, dùng tâm nghi ngờ, tu các công đức, nguyện sanh nước đó, không biết Phật trí, Bất tư nghì trí, Bất khả xứng trí, Đại thừa quảng trí, Vô đẳng vô luân, tối thượng thắng trí. Đối các trí này, nghi hoặc không tin, chỉ tin tội phước, mà tu căn lành, nguyện sanh nước đó. Lại có chúng sanh, chứa công đức lành, mong cầu Phật trí, Phổ biến Vô đẳng, oai đức quảng đại, Bất tư nghì trí, nhưng lại đối với, căn lành của mình, thì không tự tin, nên vãng sanh về, cõi thanh tịnh đó, ý chí do dự, tâm không chuyên nhất, nhưng do đời trước, niệm Phật liên tục, kết thành gốc thiện, nguyện được vãng sanh. Những hạng người này, vì nhân duyên đó, tuy cũng được sanh, nhưng không đến trước, Phật Vô Lượng Thọ, chỉ ở biên giới, trong thành bảy báu, của cõi nước kia. Phật không muốn thế, tâm họ hướng về, mà thân cảm nên.
Những chúng sanh này, tự nhiên thọ thân, trong hoa sen báu, nơi ao thất bảo, ăn uống khoái lạc, như trời Đao Lợi, chỉ ở trong thành, không ra khỏi được, nhà ở trên đất, không thể to nhỏ, theo ý mình muốn . Trải năm trăm năm, thường không thấy Phật, không nghe kinh pháp, không thấy được chúng, Bồ tát Thanh Văn. Người này trí huệ, không được sáng suốt, biết kinh pháp ít, tâm không mở tỏ, ý không vui vẻ, cho nên nơi đó, gọi là
thai sanh.
Lại có chúng sanh, hiểu tin trí Phật, là trí thù thắng, dứt bỏ nghi hoặc, tự tin căn lành, của chính mình có, tạo các công đức, chí tâm hồi hướng, đều được hóa sanh, trong hoa sen báu, ngồi thế kiết già, ở trong khoảnh khắc, thân tướng chói sáng, trí huệ công đức, như các Bồ tát, thành tựu đầy đủ.
Di Lặc nên biết, người hóa sanh kia, trí huệ thù thắng, còn người thai sanh, trong năm trăm năm, không thấy Tam bảo, không biết pháp thức, của các Bồ tát, không được tu tập, các công đức lành, không có nhân duyên, phụng thờ đức Phật, Vô Lượng Thọ Quang. Các ông nên biết, người này kiếp trước, không có trí huệ, lại thường nghi ngờ, nên mới như thế.

CHƯƠNG BỐN MƯƠI MỐT : Phiền não hết, thấy được Phật.
Thí như nhà vua, Chuyển Luân Thánh Vương, có ngục bảy báu, vương tử bị tội, đem giam trong đó. Lầu gác cung điện, trướng gấm giường vàng, lan can cửa sổ, bàn ghế trang sức, bằng các châu báu. Ẩm thực y phục, cũng giống như vua, nhưng dùng khóa vàng, xích hai chân lại. Các vương tử nhỏ, thích việc ấy không ?
Di Lặc bạch Phật :
-Thưa Thế Tôn không.Vương tử bị nhốt, tâm không tự tại, dùng mọi phương tiện, để cầu thoát ra, nhờ các cận thần, tâu xin vua cha, không dám phạm nữa. Vua cha vui vẻ, mới được thả ra.
Phật bảo Di Lặc :
- Các chúng sanh đó, cũng lại như thế, nếu có nghi ngờ, mà cầu trí Phật, căn lành của mình, lại không tự tin, nghe được tên Phật, mà khởi lòng tin, nên tuy vãng sanh, ở trong hoa sen, không ra khỏi được. Ở trong thai hoa, tưởng như cung điện, như là vườn hoa. Tại sao như thế ? Nơi đó trong sạch, không có nhơ nhớp, nhưng năm trăm năm, không thấy Tam bảo, không được cúng dường, phụng thờ chư Phật, xa lánh tất cả, căn lành thù thắng, vì thế là khổ, nên không ưa thích. Nếu chúng sanh đó, biết được tội xưa, tự mình ăn năn, cầu ra khỏi đó. Khi tội lỗi hết, mới được ra khỏi, liền đến được chỗ, Phật Vô Lượng Thọ, dự nghe kinh pháp, rất lâu mới được, hiểu rõ hoan hỷ, mới được cúng dường, vô lượng chư Phật, tu tập công đức. Này A Dật Đa,
nên biết nghi ngờ, đối với Bồ tát, rất là tổn hại, mất đi lợi lớn. Do đó phải biết, nên thường hiểu rõ, tin tưởng trí huệ, vô thượng của Phật.
Di Lặc bạch Phật :
- Tại sao cõi này, có hạng chúng sanh, cũng tu pháp thiện, mà không
mong cầu, vãng sanh nước đó ?
Phật bảo Di Lặc:
- Hạng chúng sanh này, trí huệ kém cỏi, cho rằng Tây phương, không
bằng cõi trời, nên không cầu sanh.
Di Lặc bạch Phật :
- Hạng chúng sanh này, phân biệt lầm lẫn, không cầu vãng sanh, về cõi nước Phật, sao khỏi luân hồi ?
Phật bảo Di Lặc :
- Hạng chúng sanh đó, gieo trồng căn lành, không thể lìa tướng, không cầu trí Phật, say đắm thú vui, ở cõi thế tục, phước báo thế gian, tuy cũng tu phước, cầu quả trời người. Lúc có kết quả, đầy đủ tất cả, nhưng không thể ra, khỏi ngục ba cõi. Giả như cha mẹ, vợ con quyến thuộc, muốn cứu vớt họ, nhưng tà kiến mạnh, thường lôi kéo họ, ở trong luân hồi, không được tự tại. Các ông thấy đó, những người ngu si, không trồng căn lành, dùng trí thế tục, tăng thêm tâm tà, làm sao thoát khỏi, nạn lớn sanh tử.
Lại có chúng sanh, tuy trồng căn lành, tạo phước điền lớn, chấp tướng phân biệt, tình chấp sâu nặng, cầu khỏi luân hồi, nhưng không thể được. Dùng trí vô tướng, trồng các công đức, thân tâm trong sạch, xa lìa phân biệt, cầu sanh Tịnh độ, hướng đến đạo quả, giác ngộ của Phật, thì được sanh về, cõi nước chư Phật, vĩnh viễn giải thoát.

CHƯƠNG BỐN MƯƠI HAI : Bồ tát vãng sanh.
Di Lặc bạch Phật :
- Thế giới Ta bà, và những cõi nước, của các Phật khác, Bồ tát bất thoái, sanh về Cực lạc, số ấy bao nhiêu ?
Phật bảo Di Lặc :
- Thế giới này có, bảy trăm hai mươi, ức vị Bồ tát, đã từng cúng dường, vô số chư Phật, trồng các công đức, sẽ được sanh về, cõi nước Phật đó. Bồ tát hạnh nhỏ, tu tập công đức, sẽ vãng sanh về, không thể kể hết. Không riêng Bồ tát, ở thế giới ta, mà các Bồ tát, ở các cõi nước, của chư Phật khác, cũng lại như thế. Từ cõi rất xa, của các đức Phật, mười tám câu chi, na-do-tha số, các Bồ tát lớn, cũng sanh về đó. Phương Đông phương Bắc, nước Phật Bửu Tạng, có chín mươi ức, Bồ tát bất thối, sanh về nước đó. Từ cõi nước của, Phật Vô Lượng Âm, cõi Phật Quang Minh, cõi Phật Long Thiên, cõi Phật Thắng Lực, cõi Phật Sư Tử, cõi Phật Ly Trần, cõi Phật Đức Thủ, cõi Phật Nhân Vương, cõi Phật Hoa Tràng, những vị Bồ tát, ở ngôi bất thoái, vãng sanh về đó, hoặc hai trăm ức, hoặc trăm ngàn ức, hoặc một vạn ức. Phật thứ mười hai, tên Vô Thượng Hoa, ở nơi nước đó, vô số Bồ tát, là bậc bất thoái, trí huệ dũng mãnh, đã từng cúng dường, vô số chư Phật, đầy đủ tinh tấn, hướng về nhất thừa, ở trong bảy ngày, tức được nhiếp thủ, trăm ngàn ức kiếp, các vị Bồ tát, tu pháp kiên cố, sẽ sanh nước đó. Phật thứ mười ba, tên là Vô Úy, Ngài có đệ tử, bảy trăm chín mươi, ức Bồ tát lớn, và Bồ tát nhỏ, các vị Tỳ kheo, không thể tính kể, được sanh về đó.
Danh hiệu chư Phật, và chúng Bồ tát, trong mười phương cõi, xưng dương khen ngợi, kiếp số không cùng.

CHƯƠNG BỐN MƯƠI BA : Không phải Tiểu thừa
Phật bảo Từ Thị :
- Ông nay có thấy, các Bồ tát đó, được lợi nhiều không ? Nếu có những kẻ, thiện nam tín nữ, được nghe danh hiệu, Phật A Di Đà, khởi lên một niệm, vui vẻ ưa thích, quy y chiêm ngưỡng, như thuyết tu hành, phải biết người này, được lợi ích lớn, được các công đức, như đã nói trên, tâm không hạ liệt, cũng không cống cao, căn lành tăng trưởng. Ông nên biết rằng, người này không phải, là hạng Tiểu thừa, mà là Đại thừa, ở trong pháp ta, là đệ tử lớn. Do đó ta bảo, các chúng trời người, A Tu La thảy, nên ham tu tập, sanh tâm hy hữu. Đối kinh pháp này, nên khởi tưởng là, bậc đại Đạo sư, muốn cho chúng sanh, mau mau an trụ, trong quả bất thối, và cũng muốn thấy, cõi nước trang nghiêm, rộng lớn thù thắng, thu nhiếp chúng sanh. Người đủ công đức, nên khởi tinh tấn, nghe pháp môn này, do vì cầu pháp, mà không sanh tâm, lười biếng dua dối, dù vào lửa dữ, cũng không lui sụt. Tại vì sao thế ? Vô số Bồ tát, thảy đều mong cầu, pháp thượng diệu này, tôn trọng nghe nhận, không sanh chống trái. Có những Bồ tát, muốn nghe kinh này, mà chưa được nghe, do đó các ông, phải cầu pháp này.

CHƯƠNG BỐN MƯƠI BỐN : Tiếp nhận sự thọ ký Bồ đề.
- Nếu ở tương lai, lúc pháp sắp diệt, có chúng sanh nào, trồng các căn lành, đã từng cúng dường, vô lượng chư Phật, do sức hộ trì, của đức Phật đó, mà được pháp môn, quá rộng lớn này, tiếp nhận thọ trì, chứng Nhứt thiết trí. Ở trong pháp đó, người ấy có được, hiểu biết rộng lớn, được nhiều vui vẻ, giảng giải cho người, thường thích tu hành. Các nam nữ nào, đối với pháp này, đã cầu đang cầu, sẽ cầu đều được, ích lợi rất lớn. Các ông phải nên, tin tưởng đừng nghi, trồng các căn lành, thường phải tu tập, đừng để nghi
trệ, mà thành tù ngục, trong núi châu báu.
Này A Dật Đa, thế nên những người, không oai đức lớn, thì không nghe được, pháp môn quý này. Vì không có thể, nghe được pháp này, một ức Bồ tát, phải bị lui sụt, đối với quả vị, Vô thượng Chánh giác.
Như chúng sanh nào, đối với kinh này, biên chép cúng dường, thọ trì đọc tụng, vì người giảng giải, dù trong chốc lát, khuyên người khác nghe, đừng sanh nghi ngờ, ngày đêm suy tư, về cõi nước đó, và các công đức, Phật A Di Đà, thì người đó sẽ, không bị lui sụt, đạo vô thượng nữa. Người đó lâm chung, giả sử tam thiên, đại thiên thế giới, đều tràn ngập lửa, cũng vượt qua được, mà sanh nước kia. Người này đã từng, gặp Phật quá khứ, đã được thọ ký, tất cả Như Lai, đều cùng khen ngợi. Vì thế chúng sanh, phải nên chuyên tâm, tiếp nhận tin tưởng, thọ trì đọc tụng, như thuyết mà hành.

CHƯƠNG BỐN MƯƠI LĂM : Chỉ còn kinh này.
Ta nói kinh này, để chúng sanh thấy, Phật Vô Lượng Thọ, và nước Cực lạc, mà mong sanh về, chớ để sau khi, ta nhập Niết bàn, lại sanh nghi hoặc. Đến đời sau này, khi kinh đạo diệt, thương xót chúng sanh, ta dùng thần lực, giữ lại kinh này, trong một trăm năm. Nếu chúng sanh nào, gặp được kinh này, tùy theo ý muốn, đều được độ thoát. Như Lai ra đời, khó gặp khó thấy, các kinh của Phật, cũng khó thấy nghe. Gặp thiện tri thức, nghe pháp thực hành, cũng lại rất khó. Nếu gặp kinh này, tin ưa thọ trì, là khó trong khó, không gì khó hơn. Nếu chúng sanh nào, nghe được tên Phật, tâm từ trong sạch, hớn hở vui mừng, cả mình rởn ốc, hoặc là bậc khóc, là do đời trước, từng tu Phật đạo, do đó không phải, là hạng phàm nhân. Nếu nghe tên Phật, mà sanh hồ nghi, nghe kinh pháp Phật, cũng không tin tưởng, thì chúng sanh đó, đến từ cõi ác, nạn trước chưa hết, chưa được độ thoát, thế nên tâm sanh, hoài nghi không tin.

CHƯƠNG BỐN MƯƠI SÁU : Khuyên nên kiên trì tu hành
Phật bảo Di Lặc :
- Các pháp vô thượng, của các đức Phật, là pháp sâu xa, mười lực vô úy, vô ngại vô trước, cùng với các pháp, Ba-la-mật-đa, của hàng Bồ tát, không phải dễ gặp. Người nói được pháp, cũng khó mở bày, người nghe được pháp, tin tưởng kiên cố, cũng rất khó được. Ta nay như lý, tuyên thuyết pháp môn, vi diệu rộng lớn, tất cả chư Phật, đều đồng khen ngợi. Nay trao các ông, làm người hộ trì, mãi làm lợi ích, cho loài hữu tình, chớ để chúng sanh, phải đọa năm cõi, bị các khổ nạn. Các ông phải nên, siêng năng tu hành, theo lời ta dạy, phải hiếu với Phật, thường nhớ ân Thầy, làm cho pháp này, còn lâu ở đời, phải nên kiên trì, đừng để tiêu mất. Không được hư vọng, thêm bớt kinh pháp, thường niệm miên mật, mau chứng được đạo. Pháp ta như thế, ta đã nói xong, việc làm Như Lai, các ông phải nên, làm theo như vậy, tu những phước lành, cầu sanh Tịnh độ.

CHƯƠNG BỐN MƯƠI BẢY : Có phước huệ mới được nghe.
Ngay lúc bấy giờ Thế Tôn nói kệ :
Nếu đời trước không tu phước huệ
Chánh pháp này sẽ chẳng được nghe
Nếu từng cúng dường chư Như Lai
Tức hay vui vẻ tin pháp này
Kiêu mạn, lười biếng và tà kiến
Khó tin Phật pháp rất nhiệm mầu
Ví như kẻ mù trong đêm tối
Không thể dẫn đường cho người khác
Chỉ người gặp Phật trồng căn lành
Cứu vớt thế gian mới tu được
Nghe xong thọ trì và biên chép
Đọc tụng giảng giải và cúng dường
Như thế nhất tâm cầu Tịnh độ
Quyết định sanh về nước Cực lạc
Giả sử lửa cháy cả đại thiên
Nhờ oai đức Phật đều thoát khỏi
Biển trí rộng sâu của Phật Đà
Chỉ Phật với Phật mới biết được
Thanh Văn ức kiếp suy trí Phật
Hết cả thần lực không lường được
Công đức của Phật, Phật tự biết
Chỉ có Thế Tôn mới chỉ dạy
Thân người khó được, Phật khó gặp
Tín huệ, nghe pháp khó càng khó
Nếu các hữu tình sắp thành Phật
Hạnh siêu Phổ Hiền đến bờ kia
Cho nên người trí biết rộng sâu
Đều phải tin ta lời như thật.
Diệu pháp như thế, may được nghe
Phải thường niệm Phật sanh hoan hỷ
Thọ trì, độ khắp chúng sanh tử
Phật nói người này chính bạn lành.

CHƯƠNG BỐN MƯƠI TÁM : Nghe kinh được lợi ích
Bấy giờ đức Phật, nói kinh pháp này, trời người thế gian, có đến một vạn, hai ngàn do-tha, vạn ức chúng sanh, thoát ly phiền não, chứng được pháp nhãn, hoàn toàn trong sạch. Có hai mươi ức, chúng sanh chứng đắc, quả A Na Hàm; sáu ngàn tám trăm, đại Tỳ kheo chúng, hết các phiền não, tâm được giải thoát; đến bốn mươi ức, các vị Bồ tát, tâm không lui sụt, đối với quả vị, vô thượng Bồ đề, hồi hướng công đức, để tự trang nghiêm; hai mươi lăm ức, các loài chúng sanh, được bất thối nhẫn; bốn trăm vạn ức, số na-do-tha, trăm ngàn chúng sanh, phát tâm Bồ đề, trồng các căn lành, nguyện sanh Cực lạc, thấy Phật Di Đà, đều sẽ vãng sanh, về cõi Phật kia. Ở các nước khác, thứ lớp thành Phật, đồng một danh hiệu, Diệu Âm Như Lai.
Lại có chúng sanh, đang ở mười phương, cõi nước chư Phật, hoặc đời hiện tại, hoặc đời vị lai, thấy Phật Di Đà, mỗi phương đó có, tám vạn câu-chi, na-do- tha người, đều được thọ ký, pháp nhẫn thanh tịnh, thành Vô thượng giác. Các chúng sanh ấy, đều có nhân duyên, đời trước với Phật, hiệu A Di Đà, đều được vãng sanh, về nước Cực lạc.
Bấy giờ ba ngàn, đại thiên thế giới, chấn động sáu cách, đều hiển hiện ra, thần biến ít có, phóng ánh sáng lớn, chiếu khắp mười phương. Chư Thiên trên không, trỗi các âm nhạc, phát ra những thứ, âm thanh vui vẻ. Cho đến chư Thiên, ở trời Sắc giới, thảy đều được nghe, khen chưa từng có. Vô số hoa đẹp, rơi xuống như mưa.
Tôn giả A Nan, Bồ tát Di Lặc, và các Bồ tát, Thanh Văn trời rồng, tám bộ quỷ thần, tất cả đại chúng, nghe lời Phật nói, thảy đều vui vẻ, tin nhận thực hành./.
[/code]
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên