KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC (HT Thích Minh Cảnh dịch)

ly_nhat_minh

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 7 2009
Bài viết
4
Điểm tương tác
0
Điểm
1
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Hội TậP : Bồ tát giới Hạ Liên Cư
Việt dịch : Tỳ kheo Thích Minh Cảnh

000OO000
CHƯƠNG MỘT : Pháp hội Thánh chúng
Tôi nghe như vầy : Có một thuở nọ, Đức Phật cùng với, một vạn hai ngàn, vị đại Tỳ kheo, ở trong núi Thứu, tại thành Vương Xá. Tất cả các vị ở ngôi đại Thánh, đã đạt thần thông. Các vị ấy là : Trần Như, Xá Lợi, Đại Mục Kiền Liên, Ca Diếp, A Nan, đều là thượng thủ.
Lại có Các vị, Bồ tát Phổ Hiền, Văn Thù, Di Lăc, và các Bồ tát, ở trong hiền kiếp, đều đến tập hội.

CHƯƠNG HAI : Vâng theo đức hạnh Bồ Tát Phổ Hiền
Lại có mười sáu, Chánh Sĩ Bồ tát, làm bậc thượng thủ, các Ngài ấy là : Hiền Hộ, Thiện Tư, Trí Huệ, Biện Tài, Quán Tâm, Vô Trụ, Thần Thông, Quang Anh, Bảo Tràng, Trí Thượng, Tịch Căn, Tín Huệ, Nguyên Huệ, Hương Tượng, Bảo Anh, Trung Trụ, Chế Hành, Giải Thoát.
Các thượng thủ này, tu theo đức hạnh, của Ngài Phổ Hiền, đầy đủ vô lượng, hạnh nguyện an trụ, tất cả công đức. Các Ngài đi khắp, thực hành phương tiện, khéo léo nhập vào, pháp tạng của Phật, đến bờ tuyệt đối, nguyện thành Phật ở, vô lượng thế giới. Lìa cung Đâu suất, giáng sanh cung vua, bỏ ngôi xuất gia, khổ hạnh học đạo. Các vị thị hiện, như thế vì thuận, theo pháp thế gian, dùng sức thiền định, và đại trí huệ, hàng phục ma oán, được pháp vi diệu, thành bậc tối thượng, trời người quy ngưỡng, thỉnh chuyển pháp luân. Các Ngài thường dùng, pháp âm vi diệu, tỉnh giác thế gian, phá thành phiền não, lấp hào dục vọng, tẩy sạch bụi dơ, hiển bày trong sáng, điều phục chúng sanh, tuyên dương diệu lý, tích chứa công đức, chỉ dạy phước điền, dùng các thuốc pháp, cứu vớt ba đường, lên bậc Quán đảnh, thọ ký Bồ đề. Vì dạy Bồ tát, các Ngài làm bậc, A-xà-lê sư, thường tu vô biên, các hạnh tương ưng, thành thục vô biên, căn lành Bồ tát, được vô lượng Phật, cùng hộ niệm cho. Trong các cõi nước, của các đức Phật, các Ngài cũng đều, có thể thị hiện, như nhà ảo thuật, hiện các tướng lạ, trong các tướng đó, đều không có thể, nắm bắt cho được. Các Bồ tát này, đều như thế cả, thông đạt pháp tánh, rõ tướng chúng sanh, cúng dường Chư Phật, dẫn dắt quần mê, hóa thân như chớp, xé nát lưới tà, mở các ràng buộc, vượt lên Thanh Văn, và Bích Chi Phật, vào ba giải thoát : Chân không Vô tướng, Vô nguyện giải thoát, khéo lập phương tiện, chỉ dạy ba thừa. Đối hàng trung căn, và cả hạ căn, hiện nhập Niết bàn, chứng các thiền định, vô sanh vô diệt, chứng được tất cả, môn Đà-la-ni. Tùy lúc mà nhập, Tam muội Hoa Nghiêm, đầy đủ trăm ngàn, Tam muội tổng trì, trụ thiền định sâu, gặp vô lượng Phật. Ở trong khoảnh khắc, các Ngài đi khắp, các cõi nước Phật, đạt đại biện tài, trụ hạnh Phổ Hiền, khéo léo phân biệt, ngôn ngữ chúng sanh, khai hóa chỉ bày, bờ mé chân thật, siêu pháp thế gian, tâm thường an trụ, trong đạo cứu thế. Tự tại các pháp, hay làm người bạn, không cần thỉnh mời, của các chúng sanh. Giữ gìn tạng pháp, sâu xa của Phật, giữ gìn giống Phật, không cho dứt mất. Khởi lòng đại bi, thương xót chúng sanh, thể hiện lòng từ, trao cho pháp nhãn, đóng các đường ác, mở các cửa thiện. Lại xem chúng sanh, như chính thân mình, cứu vớt mọi loài, qua bờ bên kia, được các công đức, của vô lượng Phật, trí huệ sáng tỏ, không thể nghĩ bàn. Vô biên vô lượng, những đại Bồ tát, cùng đến tập họp.
Lại có năm trăm, vị Tỳ kheo ni, bảy ngàn thiện nam, năm trăm tín nữ, chư Thiên cõi Dục, Phạm chúng cõi Sắc, đều đến tụ họp.

CHƯƠNG BA : Duyên khởi đại giáo.
Bấy giờ Thế Tôn, oai quang sáng rỡ, như khối vàng ròng, như tấm gương lớn, ảnh hiện trong suốt, phóng ánh sáng lớn, gấp trăm ngàn lần. Tôn giả A Nan, liền suy nghĩ rằng : “Hôm nay Thế Tôn, các căn thanh tịnh, thảy đều hoan hỷ, dung nhan sáng rỡ, cõi nước trang nghiêm, từ xưa đến nay, chưa từng như vậy.” A Nan bấy giờ, vui vẻ chiêm ngưỡng, sanh tâm hy hữu, liền đứng ngay dậy, bày vai bên phải, quỳ xuống chắp tay, bạch với đức Phật :
- Bạch đức Thế Tôn, hôm nay Ngài nhập, pháp đại thiền định, trụ pháp kỳ đặc, trong các công hạnh. Nơi Đạo sư trụ, là đạo tối thắng, mà Phật quá khứ, hiện tại vị lai, thường tưởng niệm đến. Vậy đức Thế Tôn, hiện đang nghĩ đến, là ở nơi nào, chư Phật quá khứ ? hay Phật vị lai ? Hoặc Phật hiện tại, ở các phương khác ? Vì cớ sao mà, oai thần rực sáng, rỡ ràng như thế ! Xin Phật dạy cho.
Ngay lúc bấy giờ, đức Phật mới bảo, ngài A Nan rằng :
- Lành thay! Lành thay! Nay ông thương xót, muốn làm lợi ích, đem lại an lạc, cho các chúng sanh, mà hỏi nghĩa lý, vi diệu như vậy. Ông hỏi điều này, công đức vượt trội, hơn cả cúng dường, các A La Hán, và Bích Chi Phật, trong một cõi nước, hơn trăm ngàn lần, bố thí nhiều kiếp, cho khắp chư Thiên, loài người côn trùng. Tại vì sao thế ? Chư thiên loài người, và cả muôn loài, sanh ở tương lai, nhờ câu hỏi này, mà được giải thoát.
Lại này A Nan, đức Như Lai đây, do lòng đại bi, xót thương ba cõi, mà hiện ra đời, chỉ đường sáng suốt, giúp kẻ đui mù, ban cho lợi ích, khó gặp khó thấy, như hoa Ưu Đàm, thời gian rất lâu, mới nở một lần. Ông hỏi hôm nay, có nhiều lợi ích.
A Nan nên biết, trí huệ vô thượng, chánh giác của Phật, rất khó suy lường, không có chướng ngại, ở trong khoảnh khắc, có khả năng trụ, vô lượng ức kiếp, thân không tăng giảm. Vì sao như thế ? Bởi sức thiền định, và trí huệ Phật, rốt ráo cùng tột, tự tại tối thắng, với tất cả pháp. A Nan lắng nghe, và khéo suy nghĩ, ta sẽ vì ông, phân biệt giảng nói.

CHƯƠNG BỐN : Nhân địa tu hành của Pháp Tạng

Phật bảo A Nan :
- Ở đời quá khứ, cách vô số kiếp, không thể nghĩ bàn, có Phật ra đời, hiệu là Thế Gian, Tự Tại Như Lai, mười hiệu đầy đủ. Ngài hiện ở đời, giáo hóa chúng sanh, bốn mươi hai kiếp. Lúc Ngài giảng đạo, thuyết pháp giáo hoá, chư thiên loài người, có đại quốc vương, tên Thế Nhiêu Vương, nghe Phật nói pháp, hiểu rõ hoan hỷ, phát tâm Bồ đề, từ bỏ ngôi vua, làm vị sa môn, hiệu là Pháp Tạng. Tu đạo Bồ tát, tài cao trí dũng, siêu xuất thế gian, tin hiểu ghi nhớ, đều là bậc nhất. Pháp Tạng lại có, hạnh nguyện và sức, niệm huệ thù thắng, tăng thượng cho tâm, khiến tâm kiên cố, không hề lay động. Tinh tấn tu hành, không ai sánh kịp. Ngài đến chỗ Phật, đảnh lễ quỳ gối, chắp tay hướng về, dùng kệ tán thán, và phát đại nguyện :
Như Lai vi diệu tướng đoan nghiêm
Tất cả thế gian không ai bằng
Ánh sáng vô lượng chiếu mười phương
Trời, trăng, hỏa châu đều bị át
Thế Tôn diễn nói một âm thanh
Hữu tình tuỳ loại đều nghe hiểu
Sắc thân vi diệu Ngài hiện bày
Các loài chúng sanh đều được thấy
Nguyện con tiếng sạch trong như Phật
Pháp âm vang khắp cõi vô biên
Tuyên dương giới định và tinh tấn
Thông đạt sâu xa pháp nhiệm mầu
Trí huệ rộng sâu như biển cả
Nội tâm trong sạch hết trần lao
Vượt qua vô biên cõi ác thú
Mau đến bờ kia giác tột cùng
Vô minh tham, sân đều dứt cả
Hoặc hết, lỗi trừ, sức tam-muôi
Cũng như vô lượng Phật quá khứ
Làm bậc Đạo sư của quần sanh
Cứu vớt tất cả các thế gian
Sanh già bệnh chết nhiều đau khổ
Thường hành bố thí, giới và nhẫn
Tinh tấn, định, huệ Ba-la-mật
Chúng sanh chưa độ đều được độ
Người được độ rồi mau thành Phật
Ví như cúng dường hằng sa Thánh
Không bằng dũng mãnh cầu thành Phật
Nguyện con an trụ trong thiền định
Thường phóng ánh sáng đến các cõi
Cảm được cõi Phật thường thanh tịnh
Trang nghiêm thù thắng không đâu bằng
Chúng sanh luân hồi trong ác thú
Mau đến cõi con được an lành
Thường dùng từ bi cứu chúng sanh
Độ hết muôn loài đang khổ não
Con tu sức định quyết kiên cố
Chỉ có trí Phật mới chứng tri
Dù cho thân vào trong các khổ
Nguyện con bền chắc vẫn không lùi

CHƯƠNG NĂM : Chí tâm tinh tấn
Tỳ kheo Pháp Tạng, đã nói kệ xong, liền bạch Phật rằng:
- Vì đạo Bồ tát, con nay phát tâm, Vô thượng bồ-đề, nguyện thành Chánh giác, tất cả như Phật, xin Ngài thương con, nói cho pháp mầu. Con sẽ phụng trì, như pháp tu hành, nhổ gốc sanh tử, mau thành Vô thượng, Chánh đẳng Chánh giác. Con mong muốn được, khi con thành Phật, trí huệ sáng tỏ, cõi nước của con, giáo pháp tên gọi, vang khắp mười phương. Chư thiên loài ngưòi, côn trùng nhỏ nhít, khi sanh nước con, đều thành Bồ tát. Con lập nguyện này, sẽ thù thắng hơn, vô số cõi nước, của chư Phật khác. Như thế được chăng ?
Đức Phật Thế Gian, Tự Tại Vương Tôn, liền vì Pháp Tạng, giảng nói kinh pháp:
- Ví như biển cả, có một người nọ, dùng đấu mà lường, trải qua nhiều kiếp, cũng có thể cạn. Còn người chí tâm, cầu thành Phật đạo, tinh tấn không ngừng, thì nhất định sẽ, có kết quả chắc, nguyện nào không thành? Ông tự suy nghĩ, tu phương pháp nào, để thành tựu được, cõi Phật trang nghiêm. Phương pháp tu hành, ông nên tự biết; cõi nước trong sạch, của các đức Phật, ông tự chọn lấy.
Tỳ kheo Pháp Tạng, lại bạch Phật rằng :
- Nghĩa này rộng lớn, lại quá sâu
xa, không phải cảnh giới, của con chứng được. Xin nguyện Như Lai, bậc hiểu biết khắp, nói về vô lượng, cõi nước vi diệu, của các đức Phật. Nếu con được nghe, con sẽ suy xét, tu tập
thành tựu, lời nguyện cầu này.
Đức Phật Thế gian, Tự Tại Vương Tôn, biết được Pháp Tạng, chí nguyện rộng sâu, liền nói rõ tướng, thanh tịnh rộng lớn, viên mãn của cả, hai trăm mười ức, cõi Phật trang nghiêm, xứng với tâm nguyện, của chính Pháp Tạng. Thời nói pháp này, dài ngàn ức năm.
Lúc nghe nói pháp, Pháp Tạng thấy rõ, và phát khởi nguyện, thù thắng vô thượng. Đối với chư Thiên, loài người thiện ác, cõi nước tốt xấu, Pháp Tạng xét suy, một cách rốt ráo, rồi chọn lấy một, thế giới như ý, kết thành nguyện lớn, tinh tấn khẩn cầu, cung kính thận trọng, giữ gìn tích chứa, công đức đầy đủ, suốt cả năm kiếp. Pháp Tạng thấu suốt, công đức trang nghiêm, của hai mươi mốt, Câu chi cõi Phật, như một cõi Phật. Ngài chọn trong ấy, lấy một cõi Phật, thù thắng hơn cả. Đã nhiếp thọ xong, Pháp Tạng trở về, trụ xứ đức Phật, Thế Tự Tại Vương, lạy dưới chân Ngài, đi nhiễu ba vòng, chấp tay đứng hầu, bạch với đức Phật:
- Bạch đức Thế Tôn, con đã thành tựu, được hạnh thanh tịnh, trang nghiêm cõi Phật.
Phật bảo Pháp Tạng :
- Lành thay! Lành thay ! Nay thật phải lúc, ông nói đầy đủ, khiến chúng hoan hỷ, cũng lại khiến cho, chúng nghe pháp này, được lợi ích lớn, có thể ở nơi, cõi Phật tu tập, nhiếp thọ đầy đủ
vô lượng nguyện lớn.

CHƯƠNG SÁU : Phát lời thệ nguyện rộng lớn.
Pháp Tạng bạch rằng :
- Xin đức Thế Tôn, từ bi xét cho. Nếu con chứng được, vô thượng Bồ đề, thì cõi nước con, đầy đủ vô lượng, công đức trang nghiêm, không thể nghĩ bàn, không có địa ngục, ngạ quỉ súc sanh, côn trùng nhỏ nhít. Nếu chúng sanh nào, đọa ba cõi ác, cho dù ở cõi, trời Diêm ma la, muốn được sanh vào, cõi nước của con, chịu sự giáo hóa, đều được thành Phật, không hề trở lại, những cõi ác nữa. Được như nguyện này, thì con thành Phật. Nếu không như thế con không thành Phật..(Nguyện 1: Nguyện trong nước không có ác đạo. Nguyện 2: Không đọa ba đường ác)
Khi con thành Phật, các chúng sanh ở, mười phương thế giới, sanh qua nước con, được đầy đủ cả, ba mươi hai tướng, bậc đại trượng phu, toàn thân phát ra, ánh vàng rực rỡ, dung nghi đoan chánh, thanh tịnh như nhau. Nếu hình tướng họ, đẹp xấu bất đồng, thì con nguyện sẽ, không thành Phật đạo.(Nguyện 3: Nguyện thân có sắc vàng ròng. Nguyện 4: Nguyện có ba mươi hai tướng tốt. Nguyện 5: Nguyện thân không sai biệt)
Khi con thành Phật, có chúng sanh nào, sanh qua nước con, thì tự biết được, quá khứ vô lượng, cuộc đời của mình, làm thiện làm ác, đều thấy nghe rõ, biết cả quá khứ, hiện tại vị lai, ở mười phương cõi. Nếu không như thế, con không thành Phật.(Nguyện 6: Nguyện có túc mạng thông. Nguyện 7: Nguyện có thiên nhãn thông. Nguyện 8: Nguyện có thiên nhĩ thông)
Khi con thành Phật, có chúng sanh nào, sanh qua nước con, thảy đều chứng được, Tha tâm trí thông. Nếu không biết được, tâm niệm chúng sanh, ở trăm ngàn ức, na-do-tha cõi, con không thành Phật.( Nguyện 9: Nguyện tha tâm thông)
Khi con thành Phật, có chúng sanh nào, sanh qua nước con, thảy đều có được, thần thông tự tại, Ba-la-mật-đa. Nếu trong một niệm, không thể vượt qua, trăm ngàn ức muôn, na-do-tha cõi, đi vòng khắp cả, cúng dường chư Phật, con không thành Phật.(Nguyện 10: Nguyện được thần túc thông. Nguyện 11: Nguyện giáp khắp cúng dường chư Phật)
Khi con thành Phật, có chúng sanh nào, sanh qua nước con, thì chúng sanh ấy, xa lìa phân biệt, các căn tịch tĩnh. Nếu không nhất định, chứng Đại Niết bàn, con không thành Phật.(Nguyện12: Nguyện quyết định thành bậc chánh giác)
Khi con thành Phật, thân con phát ra vô lượng ánh sáng, chiếu khắp mười phương, hơn các Phật khác, hơn cả ánh sáng, mặt trời mặt trăng, gấp trăm ngàn lần. Chúng sanh nào thấy, ánh sáng của con, chiếu đến thân mình, thì được an lạc, phát khởi tâm từ, làm các việc thiện, sanh qua nước con. Nếu không như thế, con không thành Phật.(Nguyện 13: Nguyện ánh sáng vô lượng. Nguyện 14: Nguyện chạm Quang minh được an lạc)
Khi con thành Phật, thọ mạng vô lượng, vô số Thanh Văn, Trời, người nước con, cũng số vô lượng. Giả sử chúng sanh, ở tam thiên giới, đều thành Duyên Giác, trong trăm ngàn kiếp, nếu tính biết được, số lượng chúng sanh, ở cõi nước con, con không thành Phật.( Nguyện 15: Nguyện thọ mạng vô lượng. Nguyện 16: Nguyện Thanh Văn vô số)
Khi con thành Phật, vô lượng vô số, chư Phật mười phương, nếu không khen ngợi, danh hiệu của con, và những điều thiện, cùng công đức con, con không thành Phật. (Nguyện 17: Nguyện được chư Phật xưng tán)
Khi con thành Phật, có chúng sanh nào, ở mười phương cõi, nghe được tên con, chí tâm tin ưa, có các căn lành, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh nước con, dù chỉ mười niệm, đều được sanh về. Chỉ trừ hạng người, phỉ báng chánh pháp, phạm năm tội nghịch. Nếu không như thế, con không thành Phật.(Nguyện 18: Nguyện mười niệm tất vãng sanh)
Khi con thành Phật, có chúng sanh nào, trong mười phương cõi, nghe được tên con, phát tâm Bồ đề, tu các công đức, thực hành sáu pháp, Ba la kiên cố, lòng không lui sụt, hồi hướng căn lành, nguyện sanh nước con, một lòng xưng niệm, danh hiệu của con, ngày đêm không dứt. Đến khi lâm chung, con và Bồ tát, hiện ra trước mặt, tiếp rước người ấy. Trong khoảng chốc lát, liền được sanh về, cõi nước của con, tu hạnh Bồ tát, lòng không lui sụt. Nếu không như thế, con không thành Phật.(Nguyện 19: Nguyện nghe danh phát tâm. Nguyện 20: Nguyện lâm chung tiếp dẫn)
Khi con thành Phật, có chúng sanh nào, trong mười phương cõi, nghe được tên con, chuyên tâm nghĩ về, cõi nước của con, phát tâm Bồ đề, bền chắc không lui, gom trồng công đức, chí tâm hồi hướng, muốn về Cực lạc, thảy đều toại nguyện. Nếu có nghiệp ác, của các đời trước, nghe được tên con, liền tự sám hối, làm các thiện nghiệp, tụng kinh trì giới, nguyện sanh nước con, đến khi mạng chung, liền được sanh về, cõi nước của con. Nếu không như thế, con không thành Phật.(Nguyện 21: Nguyện sám hối được vãng sanh)
Khi con thành Phật, cõi nước của con, không có người nữ. Nếu người nữ nào, nghe được tên con, lòng tin trong sạch, phát tâm Bồ đề, nhàm chán thân nữ, nguyện sanh nước con. Sau khi mạng chung, liền thành thân nam, sanh về nước con. Các chúng sanh nào, ở mười phương cõi, sanh về nước con, đều được hóa sanh, trong ao hoa sen, bằng bảy thứ báu. Nếu không như thế, con không thành Phật.(Nguyện 22: Nguyện trong nước không có người nữ. Nguyện 23: Nguyện nhàm chán thân nữ, chuyển thân nam. Nguyện 24: Nguyện liên hoa hóa sanh)
Khi con thành Phật, chúng sanh mười phương, nghe được tên con, vui vẻ tin ưa, lễ bái quy y, đem tâm thanh tịnh, tu hạnh Bồ đề, tất cả trời người thảy đều tôn kính; nếu mà nghe được, danh hiệu của con, sau khi mạng chung, sanh nhà tôn quý, các căn đầy đủ, thường tu thắng hạnh. Nếu không như thế, con không thành Phật.(Nguyện 25: Nguyện Thiên Nhân lễ kính. Nguyện 26: Nguyện văn danh đắc phước. Nguyện 27: Nguyện tu thù thắng hạnh)
Khi con thành Phật, cõi nước của con, không có lời ác. Chúng sanh sanh về, cõi nước của con, đều đồng nhất tâm, trụ nơi Chánh định, xa lìa nóng bức, tâm được mát mẻ, hưởng thọ an lạc, như các Tỳ kheo không còn các lậu. Nếu họ khởi niệm, tham chấp thân thể, con không thành Phật.( Nguyện 28: Nguyện nước không có tên” Bất thiện”. Nguyện 29: Nguyện trụ Chánh định tụ. Nguyện 30: Nguyện vui như Tỳ kheo dứt sạch các lậu. Nguyện 31: Nguyện không tham chấp thân)
Khi con thành Phật, chúng sanh sanh về, cõi nước của con, căn lành vô lượng, được thân Kim cương, sức Na-la-diên, thân và đỉnh đầu, đều phát sáng rực, thành tựu tất cả, trí huệ biện tài, đàm luận khéo léo, các pháp bí yếu, giảng kinh hành đạo, giọng nói như chuông. Nếu không như thế, con không thành Phật. (Nguyện 32: Nguyện được na la diên thân. Nguyện 33: Nguyện Quang minh trí tuệ biện tài. Nguyện 34: Nguyện khéo nói pháp yếu)
Khi con thành Phật, có chúng sanh nào, sanh về nước con, thì đều chứng được, nhất sanh bổ xứ, trừ người có nguyện, làm thân chúng sanh, mặc giáp thệ nguyện, giáo hóa hữu tình, khiến họ phát tâm, tu hạnh Bồ đề, thực hành hạnh nguyện, Bồ tát Phổ Hiền. Tuy sanh nước khác, nhưng đã vĩnh viễn, thoát ly cõi ác, ham thích nói pháp, hoặc thích nghe pháp, hoặc hiện thần thông, tùy ý tu tập, tất cả được đủ. Nếu không như thế, con không thành Phật. (Nguyện 35: Nguyện nhất sanh bổ xứ. Nguyện 36: Nguyện giáo hóa tùy ý)
Khi con thành Phật, người nào sanh về, cõi nước của con, tất cả ẩm thực, y phục phẩm vật, các loại cúng dường, tùy ý hiện đủ. Mười phương chư Phật, ứng theo ý niệm, thọ nhận cúng dường. Nếu không như thế, con không thành Phật.(Nguyện 37: Nguyện y thực tự đến. Nguyện 38: Nguyện ứng niệm thọ cúng)
Khi con thành Phật, vạn vật trong nước thảy đều sáng sạch, đẹp đẽ, khác thường vi diệu tột bực, không thể suy lường. Nếu có chúng sanh, dùng đủ thiên nhãn, phân biệt được hết, hình sắc ánh sáng, danh từ số lượng, diễn đạt được hết, con không thành Phật.(Nguyện 39: Nguyện trang nghiêm vô tận)
Khi con thành Phật, ở cõi nước con, vô lượng cây cao, năm trăm do tuần, cây Bồ đề cao, bốn trăm vạn dặm. Bồ tát trong đó, tuy căn lành ít, cũng hiểu biết được. Nếu muốn được thấy, cõi nước thanh tịnh, trang nghiêm của Phật, thảy đều được thấy, trong cây báu đó, giống như thấy mặt, chính mình trong gương. Nếu không như thế, con không thành Phật.(Nguyện 40: Nguyện có vô lượng cây sắc báu. Nguyện 41: Nguyện cây hiện cõi Phật)
Khi con thành Phật, cõi nước con ở, rộng lớn trang nghiêm, chói sáng như gương, chiếu khắp vô số, cõi nước Chư Phật, ở khắp mười phương, không thể nghĩ bàn. Chúng sanh thấy được, phát tâm hy hữu. Nếu không như thế, con không thành Phật.( Nguyện 42: Nguyện chiếu suốt mười phương)
Khi con thành Phật, từ trên mặt đất, cho đến hư không, cung điện lầu gác, ao sen, cây, hoa, tất cả vạn vật, trong cõi nước con, đều do hương quý, kết hợp quyện thành. Hương đó bay khắp, mười phương thế giới, chúng sanh ngửi được, đều tu hạnh Phật. Nếu không như thế, con không thành Phật.( Nguyện 43: Nguyện hương báu xông khắp)
Khi con thành Phật, các vị Bồ tát, hiện ở mười phương, cõi nước chư Phật, nghe danh hiệu con, đều được thanh tịnh, Phổ Đẳng Tam muội, thiền định sâu xa, cho đến thành Phật. Ở trong thiền định, thường hay cúng dường, tất cả chư Phật, không mất Chánh định. Nếu không như thế, con không thành Phật.(Nguyện 44: Nguyện phổ đẳng tam muội. Nguyện 45: Nguyện trong định cúng Phật)
Khi con thành Phật, các chúng Bồ tát, ở cõi nước khác, nghe danh hiệu con, liền chứng ly sanh, được Đà-la-ni, thanh tịnh hoan hỷ, được bình đẳng trụ, tu hạnh Bồ tát, đầy đủ công đức. Cũng trong lúc đó, nếu không chứng được, pháp nhẫn thứ nhất, pháp nhẫn thứ nhì, pháp nhẫn thứ ba. Đối với Phật pháp, nếu không chứng được, quả vị bất thối, con không thành Phật.( Nguyện 46: Nguyện được môn Tổng trì (Đà la ni). Nguyện 47: Nguyện nghe danh đặng pháp nhẫn. Nguyện 48: Nguyện hiện chúng quả bất thối chuyển)

CHƯƠNG BẢY : Chắc chắn thành Phật
Phật bảo A Nan :
- Tỳ kheo Pháp Tạng, phát nguyện
vừa xong, dùng kệ tụng rằng:
Chí con lập siêu thế
Quyết chứng đạo Bồ đề
Nguyện này không trọn đủ
Thề không thành Chánh giác
Lại làm đại thí chủ
Cứu vớt hết khổ đau
Khiến cho các chúng sanh
Đêm dài không khổ não
Sanh ra các căn lành
Thành tựu quả giác ngộ.
Nếu con thành Phật quả
Tên là Vô Lượng Thọ
Chúng sanh nghe tên này
Đều phát nguyện sanh về.
Thân vàng như thân Phật
Đầy đủ các tướng tốt
Cũng dùng tâm đại bi
Lợi ích các chúng sanh.
Lìa dục chánh niệm vững
Trí huệ tu phạm hạnh.
Nguyện trí huệ của con
Chiếu sáng mười phương cõi
Tiêu diệt ba đường ác
Cứu vớt các hoạn nạn
Dứt sạch khổ ba đường
Diệt trừ phiền não tối
Khai mở mắt trí huệ
Được có thân ánh sáng.
Đóng bít các cõi ác
Mở thông các đường lành
Vì chúng mở kho pháp
Rộng ban công đức quý
Trí vô ngại như Phật
Thực hành lòng từ mẫn
Đấng Đại hùng ba cõi
Thường làm Thầy trời người.
Tiếng như sư tử hống
Độ khắp loài hữu tình
Tròn đủ lời nguyện xưa
Tất cả đều thành Phật.
Nguyện này nếu kết quả
Cả Đại thiên cảm động
Các thiên thần trên không
Rải hoa quý cúng dường.
Phật bảo A Nan :
- Tỳ kheo Pháp Tạng, vừa nói kệ xong, ngay đó mặt đất, chấn động sáu cách, trời mưa hoa đẹp, rải trên Pháp Tạng. Hư không tự nhiên, vang lên âm nhạc, và tán thán rằng : “ Quyết sẽ thành Phật”.

CHƯƠNG TÁM : Tích lũy công đức
Lại này A Nan, Tỳ kheo Pháp Tạng, ở trước đức Phật, Thế Tự Tại Vương, và chúng trời người, phát nguyện lớn xong, trụ huệ chân thật, dũng mãnh tinh tấn, tâm chuyên hướng về, cõi nước trang nghiêm, cõi Phật tu tập, khai mở rộng lớn, kiến lập thế giới, độc nhất siêu việt, không hề suy giảm. Trong vô lượng kiếp, tích lũy đức hạnh, không khởi các tưởng, tham, sân, si, dục, không dính sắc thanh, hương vị xúc pháp, chỉ ưa tưởng niệm, chư Phật quá khứ, tu tập căn lành, hành hạnh tịch tĩnh, thoát ly hư vọng, nương vào Chân đế, mà trồng công đức, không kể khó nhọc, ít muốn biết đủ, cầu pháp thanh tịnh, chuyên làm lợi ích, cho các chúng sanh. Chí nguyện vững mạnh, thành tựu sức nhẫn, giáo hóa hữu tình, lòng thường từ mẫn, nói lời hòa ái, khuyên nhủ cố gắng, cung kính Tam bảo, phụng thờ sư trưởng, không có dối trá. Các hạnh trang nghiêm, đầy đủ khuôn phép, quán sát các pháp, như ảo như hóa, thiền định vắng lặng. Pháp Tạng khéo léo, gìn giữ khẩu nghiệp, không hề bàn luận, điều xấu của người; khéo giữ thân nghiệp, không mất luật nghi; khéo giữ ý nghiệp, trong sạch không nhiễm. Dù có cõi nước, thành ấp xóm làng, quyến thuộc trân bảo, nhưng không tham đắm. Thường tu sáu độ : Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Giáo hóa chúng sanh, khiến cho họ được, an trụ trong đạo, chân chánh vô thượng. Do vì thành tựu, căn lành như thế, cho nên Pháp Tạng, sanh ở chỗ nào, cũng tự nhiên có, vô lượng kho báu, hoặc làm trưởng giả, cư sĩ, quý tộc, hoặc làm Quốc vương, Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc Vua của sáu tầng trời cõi Dục, cho đến Phạm vương. Pháp Tạng tôn trọng, cúng dường chư Phật, chưa từng gián đoạn. Công đức như thế, nói không thể hết. Thân miệng Pháp Tạng, thường tỏa hương thơm, giống hương chiên đàn, mùi hoa Ưu Bát. Chính mùi hương này, xông thơm lan toả, vô lượng cõi nưóc. Sanh ra nơi nào, Pháp Tạng cũng đủ, ba mươi hai tướng, của đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp, thân tướng đoan nghiêm. Trong tay của Ngài, thường hiện vô số, đồ dùng quý báu. Tất cả đồ dùng, đều đẹp bậc nhất để cho Pháp Tạng, lợi ích chúng sanh. Do nhân duyên đó, vô số chúng sanh, phát tâm Vô thượng, Chánh đẳng Chánh giác.

CHƯƠNG CHÍN : Thành tựu viên mãn.
Phật bảo A Nan :
Tỳ kheo Pháp Tạng, tu hạnh Bồ tát, tích lũy công đức, vô lượng vô biên, tâm được tự tại, với tất cả pháp, không thể nào dùng, ngôn ngữ phân biệt, mà biết rõ được, những điều phát nguyện, đều được thành tựu. Pháp Tạng như thật, an trụ cõi Phật, đầy đủ oai đức, trang nghiêm rộng lớn.
A Nan nghe Phật, nói điều đó xong, bạch với Phật rằng :
- Bồ tát Pháp Tạng, thành tựu giác ngộ, là Phật quá khứ ? Hay Phật tương lai ? Hay Phật hiện tại, ở cõi nước khác?
Lúc ấy Thế Tôn, lại bảo A Nan :
Chính đức Phật đó, không từ đâu đến, đi không về đâu, không sanh không diệt, không phải quá khứ, hiện tại vị lai. Vì nguyện độ sanh, Pháp Tạng thành Phật, hiệu A Di Đà, ở nước Cực lạc, về chính phương Tây, cách Diêm phù đề, trăm ngàn Câu chi do tha cõi Phật, đã hơn mười kiếp. Hiện nay Phật ấy, đương nói pháp mầu, vô lượng vô số, Bồ tát Thanh Văn, cung kính vây quanh.

CHƯƠNG MƯỜI : Nguyện tất cả đều thành Phật
Đức Phật nói về, Phật A Di Đà, lúc làm Bồ tát, cầu được nguyện này, vương tử A Xà, năm trăm Trưởng giả, nghe được vui mừng, mỗi vị đều cầm, một chiếc lọng vàng, cùng đến trước Phật, đảnh lễ dâng lọng. Cúng dường Phật xong, ngồi qua một bên, nghe kinh vi diệu, đều phát nguyện rằng :
- Khi tôi thành Phật, tất cả đều như, Phật A Di Đà.
Đức Phật biết được, bảo các Tỳ kheo :
- Các Vương tử này, sau sẽ thành Phật. Đời trước họ đã, tu hạnh Bồ tát, đã từng cúng dường, bốn trăm ức Phật, trong vô số kiếp. Thời Phật Ca Diếp, các vương tử đó, làm đệ tử ta, hôm nay lại được, gặp và cúng dường.
Các thầy Tỳ kheo, nghe Phật nói thế, thảy đều hoan hỷ.

CHƯƠNG MƯỜI MỘT : Cõi nước thanh tịnh trang nghiêm
Phật bảo A Nan :
- Cõi nước Cực lạc, đầy đủ vô lượng,
công đức trang nghiêm, vĩnh viễn không có, danh từ đau khổ, ma não, ác thú, các thứ tai nạn; cũng không có cả, bốn mùa lạnh nóng, mưa gió khác nhau; lại cũng không có, sông biển lớn nhỏ, gò, nổng, hầm, hố, gai gốc, đá sỏi, Tu Di, Thiết Vi. Tất cả đều bằng, bảy thứ quý báu, đất bằng vàng ròng, rộng lớn bằng phằng, không có giới hạn, đẹp đẽ trong sạch, trang nghiêm tốt đẹp, vượt hơn tất cả, cõi nước mười phương.
A Nan nghe xong, bạch đức Thế Tôn :
- Nếu cõi nước đó, không núi Tu di, thì Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên Vương, sẽ trụ nơi đâu ?
Phật hỏi A Nan :
- Tất cả cõi trời, Dạ ma, Đâu suất, Sắc, Vô sắc giới, nương đâu mà trụ ?
A Nan bạch Phật :
- Nương vào nghiệp lực, không thể nghĩ bàn.
Phật bảo A Nan :
- Nghiệp lực sâu nặng, không nghĩ bàn đó, ông có biết không ? Quả báo thân ông, cũng không nghĩ bàn. Nghiệp báo chúng sanh, cũng không nghĩ bàn, thiện căn chúng sanh, cũng không nghĩ bàn, Thánh lực chư Phật, cõi nước chư Phật, cũng không nghĩ bàn. Chúng sanh nước đó, dùng công đức lành, trụ nơi hạnh nghiệp, nương nhờ thần lực, Phật A Di Đà, mà thành như vậy.
A Nan bạch Phật :
- Nghiệp nhân quả báo, không thể nghĩ bàn. Con đối pháp này, thật không nghi ngờ. Chỉ muốn phá trừ, lưới nghi tất cả, chúng sanh đời sau, mà hỏi câu này.

CHƯƠNG MƯỜI HAI : Ánh sáng chiếu khắp
Phật bảo A Nan :
- Ánh sáng oai thần, của Phật Di Đà, rất là cao quý, chư Phật mười phương, đều không thể bằng, chiếu rọi khắp soi, hằng sa cõi Phật, phương Đông phương Tây, phương Nam phương Bắc, phương trên phương dưới, và bốn phương phụ, cũng giống như thế. Hào quang trên đỉnh, của đức hóa Phật, chỉ chiếu một hai, ba bốn do tuần, hoặc là trăm ngàn, vạn ức do tuần. Ánh sáng Phật khác, chỉ chiếu xa được, một hai cõi Phật, hoặc là một trăm, một ngàn cõi Phật. Chỉ có ánh sáng, của Phật Di Đà, chiếu soi rộng khắp, vô số vô biên, vô lượng cõi Phật. Ánh sáng Phật khác, chiếu xa hoặc gần, vốn do đời trước, cầu đạo, phát nguyện, công đức lớn nhỏ, không đồng đều nhau. Đến khi thành Phật, thì chính tự mình, có được ánh sáng, làm ra điều gì, cũng được tự tại, không cần dự tính. Còn ánh sáng của, Phật A Di Đà, thù thắng chói sáng, hơn cả ánh sáng, mặt trời mặt trăng, ngàn ức vạn lần. Trong những ánh sáng, chỉ có ánh sáng, của Phật Di Đà, là cao quý nhất, là vua ánh sáng. Cũng vì lẽ đó, Phật Vô Lượng Thọ, còn được gọi là, Phật Vô Lượng Quang, cũng còn gọi là, Phật Vô Biên Quang, Phật Vô Ngại Quang, Phật Vô Đẳng Quang, Phật Trí Huệ Quang, Phật Thường Chiếu Quang, Phật Thanh Tịnh Quang, Phật Hoan Hỷ Quang, Phật Giải Thoát Quang, Phật An Ổn Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang, Bất Tư Nghì Quang. Ánh sáng như thế, chiếu khắp tất cả, cõi nước mười phương. Nếu chúng sanh nào, gặp ánh sáng này, thì phiền não diệt, pháp thiện phát sanh, thân tâm nhu nhuyến. Nếu ở ba cõi, cùng cực khổ đau, thấy ánh sáng nầy, thì đau khổ dứt. Sau khi mạng chung, liền được giải thoát. Nếu có chúng sanh, có thể nghe được, oai thần công đức, của ánh sáng này, chí tâm xưng tán, thì sẽ được sanh, về cõi nước ấy, tùy theo ý muốn.

CHƯƠNG MƯỜI BA : Mạng sống Phật và đại chúng đều vô lượng
Phật bảo A Nan :
- Phật Vô Lượng Thọ, mạng sống dài lâu, không thể tính lường, lại có vô số, đại chúng Thanh Văn, thần trí thông đạt, oai lực tự tại, có thể nắm giữ, tất cả thế giới, trong bàn tay mình. Trong đệ tử ta, Đại Mục Kiền Liên, thần thông bậc nhất, trong một ngày đêm, có thể biết được, số lượng chúng sanh, trong mười phương cõi. Giả sử chúng sanh, ở trong mười phương, đều thành Duyên Giác, mỗi một Duyên Giác, sống lâu vạn ức, đều có thần thông, như Mục Kiền Liên, thì dù cho có, vận hết trí lực, để cùng với nhau, suy tính số lượng, của các Thanh Văn, trong hội Phật đó, thì sẽ không được, một phần vạn lần. Ví như biển cả, sâu rộng vô biên, giả sử có lấy, một sợi lông nhỏ, phân ra trăm phần, nghiền như vi trần. Lấy mao trần đó, chấm giọt nước biển, thì nước trên đầu, của mao trần đó, so với nước biển, nước nào nhiều hơn ?
Lại này A Nan, số lượng Thanh Văn, mà các Duyên Giác, và Mục Kiền Liên, có thể biết được, như là số nước, trên một mao trần, còn điều chưa biết, thì như biển kia. Mạng sống Phật đó, và mạng trời người, Thanh Văn Bồ tát, cũng giống như vậy, không thể nào dùng, toán số ví dụ, mà biết hết được.

CHƯƠNG MƯỜI BỐN : Cây báu cùng khắp cõi nước
Cõi nước Phật đó, có nhiều cây báu. Hoặc toàn bằng vàng, hoặc toàn bằng bạc, toàn bằng lưu ly, hoặc là toàn bằng, thủy tinh hổ phách, ngọc quý mã não. Những thứ cây ấy, thuần là do một, chất báu mà thành, chứ không xen tạp. Lại có các cây, toàn bằng hai ba, cho đến bảy báu, cộng lại mà thành. Gốc, thân, cành ngọn, đều do những chất, báu ấy tạo ra. Hoa lá và quả, bằng chất báu khác. Lại có các cây, gốc vàng thân bạc, lưu ly làm cành, thủy tinh làm ngọn, hổ phách làm lá, mỹ ngọc làm hoa, mã não làm quả. Còn những cây khác, cũng do bảy báu, cùng nhau tạo thành, gốc thân cành lá, hoa quả tốt tươi. Mỗi loại tự xếp, thành hàng khác nhau, hàng hàng thẳng tắp, lối lối ngang bằng, lá cành cùng hướng, hoa trái đối nhau. Màu sắc tươi thắm, chói sáng không thể, nhìn tả hết được. Gió mát thổi lên, chạm lá phát ra, năm loại âm thanh, cung bậc vi diệu, tự nhiên hòa hợp, các cây báu này, khắp cõi nước ấy.

CHƯƠNG MƯỜI LĂM : Đạo tràng Bồ đề.
Đạo Tràng lại có, cây Bồ đề cao, bốn trăm vạn dặm, chu vi gốc cây,
năm ngàn do tuần, cành lá tỏa rộng, ra khắp bốn phía, hai mươi vạn dặm, đều do các báu, tự nhiên hiệp thành. Hoa quả tươi tốt, chói sáng cùng khắp. Các loại ngọc quý, là vua loài ngọc, hồng lục trắng xanh, kết chuỗi anh lạc. Mây ngọc vòng quanh, trang sức trụ báu. Linh vàng chuông ngọc, giăng khắp mọi nơi. Lưới báu trân châu, che trùm khắp cả, trăm ngàn màu sắc, ánh chiếu lẫn nhau, vô lượng hào quang, sáng soi vô cực. Mọi sự trang nghiêm, tùy ứng hiện. Gió mát thổi nhẹ, vào các cành lá, lay động tạo thành, tiếng pháp vô lượng. Âm thanh vi diệu, vang khắp cõi Phật, thanh tao hòa nhã, trong trẻo tuyệt vời, là tiếng hay nhất, trong các âm thanh, mười phương thế giới. Nếu chúng sanh nào, thấy được đạo thọ, nghe được âm thanh, ngửi được mùi hương, nếm được diệu quả, chạm được ánh sáng, nhớ nghĩ công đức, của cây báu này, sáu căn thanh tịnh, không còn phiền não, trụ nơi bất thối, thành tựu Bồ đề. Lại còn vầy nữa, do thấy cây này, đạt ba loại nhẫn : Âm hưởng, Nhu thuận, Vô sanh pháp nhẫn.
Phật bảo A Nan :
Cõi nước của Phật, trang nghiêm như thế, dùng cây hoa quả, và các chúng sanh, mà làm Phật sự. Đó là do nhờ, sức của oai thần, sức của bản nguyện của đức Phật kia. Nguyện lực đầy đủ, rõ ràng kiên cố, mà được như thế.

CHƯƠNG MƯỜI SÁU : Nhà cửa lầu gác.
Lại nữa A Nan, giảng đường tinh xá, lầu gác lan can, của đức Phật đó, cũng thảy đều do, bảy báu kết thành, ngọc Ma Ni trắng, xếp thành những đường, trong sáng đẹp đẽ, không thể so sánh. Cung điện Bồ tát, cũng bằng chất quý. Trong đó hoặc có các vị Bồ tát hiện ở trên đất, giảng kinh, tụng kinh, nghe kinh, kinh hành, ngồi thiền, tư duy, về Tám đạo chánh. Các vị Bồ tát, ở trên hư không, giảng kinh, nghe nhận, tụng đọc, kinh hành, tọa thiền, tư duy. Có người chứng được, quả Tu Đà Hoàn, có người chứng được, quả Tư Đà Hàm, quả A-Na-Hàm, và A-La-Hán. Người nào chưa được, quả vị bất thối, thì sẽ chứng được, quả vị bất thoái, mọi người tự mình, suy niệm về đạo, trong niềm hoan hỷ.

CHƯƠNG MƯỜI BẢY : Công đức của ao suối
Lại nữa A Nan, hai bên giảng đường, có ao suối mát, chảy thông với nhau, sâu cạn, dài rộng, phân thành từng loại. Hoặc mười do tuần, hai mươi do tuần, cho đến một trăm, một ngàn do tuần, trong trẻo thơm tho, đầy nước tám đức. Trên bờ ao kia, có vô số loại, cây Chiên đàn hương, cây Kiết tường quả, hoa trái tỏa hương, ánh sáng rực rỡ. Cành lá xum xuê, che mát cả ao, thoảng hương thơm ngát, hương của thế gian, không thể sánh bằng, theo gió hương bay, theo dòng hương tỏa.
Lòng ao trang sức, bằng bảy thứ báu, đáy bằng cát vàng. Trong đó có hoa, sen xanh, sen hồng, sen vàng, sen trắng, đầy cả mặt nước, muôn màu tươi thắm. Chúng sanh nước đó, xuống ao này tắm. Họ muốn nước ấy, đến chân đến gối, đến lưng đến cổ, muốn nước rửa thân, muốn nước lạnh ấm, muốn nước mạnh yếu, tất cả thảy đều, chìu theo ý muốn. Tắm xong đều được, khai thần mở trí, thân thể sảng khoái, sáng sạch nhẹ nhàng. Cát vàng sáng chói, dù ở chỗ sâu, vẫn ánh lên mặt. Sóng gợn lăn tăn, nối nhau không dứt, phát ra vô lượng, vi diệu âm thanh, như tiếng Tam bảo, tiếng Ba la mật, tiếng vô sanh diệt, tiếng ngừng vắng bặt, mười lực, vô úy, vô tánh, vô tác, vô ngã vô nhân, tiếng đại từ bi, tiếng đại hỷ xả, cam lồ quán đảnh, thọ nhận giai vị. Chúng sanh nghe được, những âm thanh ấy, tâm liền thanh tịnh, không còn phân biệt, chánh trực bình đẳng, thành tựu căn lành. Theo nghĩa được nghe, tương ưng với pháp, tùy nguyện muốn nghe, đều được toại nguyện, còn âm thanh khác, thì không nghe thấy. Họ được vĩnh viễn, không bị lui sụt, nơi tâm Vô thượng, Chánh đẳng Chánh giác.
Các chúng sanh ở, mười phương thế giới, sanh về cõi đó, tự nhiên hóa sanh, trong hoa sen đẹp, nơi ao bảy báu, thân thể sáng sạch, cao quý vô cùng. Họ không còn nghe, tên ba đường khổ; tên còn không nghe, huống chi khổ thật. Chỉ có thứ tiếng, tự nhiên an lạc, vì thế nước ấy, gọi là Cực lạc.

CHƯƠNG MƯỜI TÁM : Ít có, siêu việt thế gian
Ở nước Cực lạc, chúng sanh sanh về, dung mạo đẹp đẽ, không ai sánh bằng, tất cả cùng loại, không có sai biệt, vì thuận phong tục, có tên trời, người.
Phật bảo A Nan :
- Ví như có người, ăn xin nghèo khổ, đứng cạnh nhà vua, diện mạo, hình trạng, có khác nhau không ? Đem nhà vua đó, nếu so sánh với, Chuyển Luân Thánh Vương, thì sẽ xấu xí, như người ăn xin, bên cạnh vua vậy. Chuyển Luân Thánh Vương, oai tướng bậc nhất, nhưng đem so với, vua trời Đao Lợi , lại càng xấu hơn. Giả như Đế Thích, so Đệ Lục Thiên, thì tất không bằng, một phần ngàn lần. Đệ Lục Thiên Tử, nếu so sánh với, Bồ tát, Thanh Văn, ở cõi Cực lạc, nhan sắc dung mạo, không bằng một phần, trăm vạn ức lần; cung điện, y phục, thức ăn, thức uống, của các Bồ tát, và chúng Thanh Văn, giống hệt như trời, Tha Hóa Tự Tại, cho đến oai đức, thần thông biến hóa, tất cả trời người, không thể sánh bằng, một phần trong số, trăm vạn ức lần.
A Nan nên biết, cõi nước Cực lạc, của Phật Di Đà, công đức trang nghiêm, không thể nghĩ bàn, là như thế đó.

CHƯƠNG MƯỜI CHÍN : Thọ dụng được đầy đủ
Lại nữa A Nan, chúng sanh đã sanh, đang sanh sẽ sanh, qua nước Cực lạc, đều có hình tướng, đẹp đẽ, đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại. Tất cả thọ dụng, đều đầy đủ cả. Cung điện, phục sức, hương hoa, phan lọng, đồ dùng trang nghiêm, tùy ý mà có. Chúng sanh cõi đó, muốn ăn thì có, bát bằng bảy báu, tự nhiên hiện đến, với đầy đủ cả, trăm món uống ăn. Tuy nói thức ăn, nhưng thực không ăn, chỉ ý thọ dụng, sắc thanh hương vị, sắc lực tăng trưởng, không có đại tiểu, tiện lợi dơ uế. Thân tâm nhu nhuyến, không đắm trước vị. Khi đã dùng xong, các món ăn uống, tự nhiên biến mất, đúng thời lại hiện. Lại có các loại, áo báu đẹp đẽ, mũ bằng anh lạc, vô lượng ánh sáng, trăm ngàn diệu sắc, tự nhiên đầy đủ. Nhà ở đẹp đẽ, xứng với hình tướng, lưới báu che phủ, trên lưới treo linh. Tất cả giao kết, lẫn nhau cùng khắp, ánh sáng chiếu diệu, rực rỡ, tráng lệ. Lại có lầu gác, bao lơn nhà cửa, phòng ốc rộng hẹp, vuông tròn lớn nhỏ, dù ở mặt đất, hay trên hư không, thanh tịnh an ổn, vi diệu an lạc, theo ý hiện ra, thảy đều đầy đủ.

CHƯƠNG HAI MƯƠI : Gió đức, mưa hoa
Cõi nước Phật đó, khi đến giờ ăn, tự nhiên có làn, gió đức thổi nhẹ, rung các mành lưới, và hàng cây báu, từ đó phát ra, âm thanh vi diệu. Những âm thanh ấy, diễn pháp vô thường, khổ không vô ngã, các Ba-la-mật. Gió mang vạn loại, hương đức thơm nhẹ, lan tỏa khắp nơi. Người nào nghe được, không còn sanh khởi, trần lao cấu uế. Gió chạm đến thân, tự nhiên cảm thấy, an vui hòa nhã, giống như Tỳ kheo, chứng Diệt tận định. Gió thổi cây báu, mang hoa xếp lại, thành từng đống lớn, màu nào sắc nấy, không có xen lẫn. Cánh hoa mềm mại, sáng sạch như là, hoa Đâu-la-miên. Chúng sanh nước ấy, đi bước trên hoa, lún sâu bốn tấc, vừa giở chân lên, hoa lại như cũ. Sau khi ăn xong, hoa tự biến mất, mặt đất trong sạch. Gió lại tung rải, một lớp hoa mới, đúng theo thời tiết, sáu lần như thế.

CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT : Hoa sen báu và ánh sáng Phật
Lại có rất nhiều, hoa sen quý báu, cùng khắp thế giới. Tất cả hoa đó, có ngàn ức cánh, ánh sáng nhiều màu. Hoa sen màu xanh, phóng ánh sáng xanh, hoa sen màu trắng, phóng ánh sáng trắng, hoa vàng hoa đỏ, mầu sắc ánh sáng, cũng lại như thế. Vô lượng vật báu, cùng trăm ngàn ngọc, Ma-ni chói sáng, át cả nhật nguyệt. Những hoa sen ấy, hoặc nửa do tuần, hoặc hai ba bốn, cho đến một trăm, một ngàn do tuần. Trong mỗi hoa sen, đều ánh phát ra, ba mươi sáu trăm, ngàn ức tia sáng. Trong mỗi tia sáng, hiện ba mươi sáu, trăm ngàn ức Phật, thân màu vàng ròng, đầy đủ tướng quý, vẻ đẹp lạ thường. Mỗi đức Phật đó, lại phóng trăm ngàn, tia sáng chói lọi, nói pháp vi diệu, đến khắp mười phương. Chư Phật như thế, dẫn dắt chúng sanh, trụ trong chánh đạo.

CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI : Quyết định chứng quả cao nhất
Lại nữa A Nan, cõi nước Phật đó, không có bóng tối, không có ánh lửa, không có ánh sáng, mặt trời mặt trăng, và các tinh tú, không có tướng trạng, của ngày và đêm, cũng không có tên, tháng năm kiếp số. Chúng sanh cũng không, chấp trước gia đình, không nêu tên hiệu. Lại cũng không có, thủ xả, phân biệt, tất cả hưởng thụ, an lạc thanh tịnh. Nếu như có người, thiện nam, tín nữ, hoặc là đã sanh, hoặc sẽ sanh về, thảy đều được trụ, ở Chánh định tụ, quyết định thành tựu, Vô thượng đẳng giác. Vì sao như thế ? Nếu là Tà định, và Bất định tụ, thì không thấu suốt, và không thể nào, biết lập nhân ấy.

CHƯƠNG HAI MƯƠI BA : Mười phương Chư Phật đều nghe pháp
Lại nữa A Nan, hằng sa cõi nước, ở về phương Đông, trong mỗi thế giới, có hằng sa Phật, mỗi vị Phật ấy, đều dùng tướng lưỡi, dài rộng, phóng ra, vô lượng ánh sáng, nói lời chân thật, tán thán công đức, Phật Vô Lượng Thọ, không thể nghĩ bàn. Chư Phật hằng sa, các nước phương Nam, phương Tây phương Bắc, và bốn phương phụ, phương trên phương dưới, cũng đều xưng tán. Tại vì sao thế ? Chư Phật muốn khiến, chúng sanh các nước, trong thế giới khác, nghe được danh hiệu, Phật Vô Lượng Thọ, phát tâm trong sạch, nhớ nghĩ thọ trì, quy y cúng dường, dù chỉ một niệm, tín tâm trong sạch, đem công đức này, chí tâm hồi hướng, nguyện sanh nước đó. Những chúng sanh đó, đều được vãng sanh, ở vị bất thoái, cho đến chứng thành, quả vị Chánh giác.

CHƯƠNG HAI MƯƠI BỐN : Ba hạng vãng sanh
Phật bảo A Nan :
- Chư Thiên loài người, ở trong thế giới, mười phương ức cõi, nếu chí tâm nguyện, sanh về Cực lạc, thì có ba bậc :
Bậc thượng là người, bỏ nhà lìa dục, làm bậc sa môn, phát tâm Bồ đề, một lòng nghĩ nhớ, đức Phật Di Đà, tu tập công đức, nguyện sanh nước đó. Những chúng sanh này, đến lúc lâm chung, Phật A Di Đà, và các Thánh chúng, hiện ra trước mặt, trong khoảng chốc lát, người đó theo Phật, sanh về nước ấy, lại được hóa sanh, trong ao bảy báu, trí huệ dũng mãnh, thần thông tự tại. Do đó A Nan, nếu có chúng sanh, muốn ngay đời này, thấy Phật Di Đà, thì nên phát tâm, Vô thượng Bồ đề, lại nên chuyên nhớ, về nước Cực lạc, gom góp căn lành, hồi hướng nước kia. Sau sẽ thấy Phật, sanh về nước đó, được quả bất thoái, cho đến quả Phật.
Bậc trung tuy là, không làm sa môn, tu công đức lớn, nhưng lại phát tâm, vô thượng Bồ đề, một lòng nhớ nghĩ, Phật A Di Đà, tùy sức tu hành, thành tựu công đức, giữ gìn trai giới, xây dựng chùa tháp, tô đắp tôn tượng, cúng dường sa môn, thắp đèn treo phan, rải hoa đốt hương, đem công đức này, hồi hướng nguyện sanh, về cõi nước kia. Người này lâm chung, sẽ được hóa thân, Phật A Di Đà, đầy đủ tướng quý, và muôn vẻ đẹp, sáng như Phật thật, hiện ra trước mặt, cùng với đại chúng, cung kính vây quanh, tiếp dẫn người đó. Người đó tức thì, theo hóa thân Phật, mà được vãng sanh, chứng quả bất thoái, cho đến quả vị, Vô thượng Bồ đề. Công đức trí huệ, của những người này, kém hơn bậc thượng.
Còn về bậc hạ, giả như không làm, các thứ công đức, mà lại phát tâm, Vô thượng Bồ đề, một lòng nhớ nghĩ, đến Phật Di Đà, vui vẻ, tin ưa, không sanh nghi hoặc, thành tâm nguyện sanh, về cõi nước đó. Khi những người này, sắp phải mạng chung, mộng thấy đức Phật, cũng được vãng sanh. Công đức trí huệ, của những người này, kém hơn bậc trung.
Nếu có chúng sanh, trụ pháp Đại thừa, dùng tâm thanh tịnh, hướng về đức Phật, Vô Lượng Thọ Quang, niệm danh hiệu Ngài, dù chỉ mười niệm, nguyện sanh nước kia, đến khi nghe được, diệu pháp thâm sâu, liền sanh tin hiểu. Cho đến một niệm, tâm nghĩ nhớ đến, đức Phật Di Đà, thì những người này, khi sắp lâm chung, như là trong mộng, thấy Phật Di Đà, quyết định vãng sanh, được bất thoái chuyển, cho đến quả Phật .

CHƯƠNG HAI MƯƠI LĂM : Chánh nhân của vãng sanh.
Lại nữa A Nan, nếu có những người, thiện nam thiện nữ, nghe kinh điển này, thọ trì đọc tụng, biên chép cúng dường, ngày đêm không dứt, cầu được vãng sanh, về cõi nước kia. Phát tâm Bồ đề, giữ gìn giới cấm, bền chắc không lui, lợi ích chúng sanh, bao nhiêu căn lành, đều đem ban phát, cho các chúng sanh, để họ an lạc, luôn luôn nhớ nghĩ, đến Phật Di Đà, và nước Cực lạc. Với những người này, sau khi mạng chung, thân tướng tốt đẹp trang nghiêm như Phật, được sanh nước ấy, mau được nghe pháp, vĩnh viễn không còn, lui sụt Bồ đề.
Lại nữa A Nan, nếu có chúng sanh, muốn sanh nước kia, tuy không tu tập, tinh tấn thiền định, mà lại chí thành, tụng đọc tôn kinh, giữ gìn giới cấm, làm các việc thiện, như không sát sinh, không trộm không dâm, không nói dối trá, thêu dệt, hung ác, không nói đôi chiều, không tham sân si. Như thế ngày đêm, người đó nghĩ nhớ, công đức trang nghiêm, của Phật Di Đà, ở cõi phương Tây, chí tâm quy y, đảnh lễ cúng dường. Người này lâm chung, không còn sợ hãi, tâm không điên đảo, liền được vãng sanh, về cõi Phật đó.
Nếu như người nào, vì nhiều sự duyên, không thể xuất gia, không có thời gian, tu tập trai giới, nhưng lòng trong sạch, trong lúc rảnh rỗi, đoan thân chánh niệm, lìa dục bỏ lo, từ bi tinh tấn, giữ tâm không hề, sân hận ganh ghét, tham lam keo kiệt, hối hận giữa chừng, không chút nghi ngờ. Sống đời hiếu thuận, chí thành trung tín, tin tưởng sâu xa, những lời Phật dạy, tin thiện được phước, phụng trì như thế, không hề thiếu sót. Muốn được độ thoát, thường phải phát nguyện, sanh về Tịnh độ, của Phật Di Đà, từ một đến mười, ngày đêm không dứt. Đến khi lâm chung, người này sẽ được, vãng sanh nước kia, hành Bồ tát đạo, đạt được bất thoái, đầy đủ thân vàng, ba mươi hai tướng, sẽ được thành Phật. Người ấy muốn được, thành Phật nước nào, cũng được như ý, tùy sự tinh tấn, cầu đạo không dừng, mà đạt sở nguyện.
Lại này A Nan, vì lợi ích này, nên Chư Phật ở, vô lượng vô số, các cõi nước kia, đều cùng tán thán, Phật Vô Lượng Thọ, có nhiều công đức.

CHƯƠNG HAI MƯƠI SÁU : Đảnh lễ, cúng dường, nghe pháp
Lại nữa A Nan, các chúng Bồ tát, ở khắp mười phương, ai muốn chiêm ngưỡng, đảnh lễ đức Phật, Vô Lượng Thọ Quang, ở cõi Cực lạc, mỗi người hãy đem hương hoa, phướn lọng, đi đến chỗ Phật, cung kính cúng dường, nghe nhận kinh pháp, tuyên dương giáo hóa, khen ngợi công đức, trang nghiêm thanh tịnh, của nước Cực lạc.
Bấy giờ Đức Phật, bèn nói kệ rằng :
Cõi Phật ở phương Đông
Nhiều như cát sông Hằng
Vô lượng chư Bồ tát
Đến lễ Phật Di Đà
Nam, Tây, Bắc tất cả
Trên dưới đều như thế.
Hoặc dùng tâm tôn trọng
Cúng dường các vật báu
Nói ra lời hòa nhã
Ca tụng đấng Vô Thượng
Đạt được thần thông huệ
Nhập vào pháp sâu xa
Nghe tên Phật Thánh đức
An ổn được lợi lớn
Trong các loại cúng dường.
Siêng tu không mỏi mệt
Quán cõi nước thù thắng
Vi diệu khó nghĩ bàn
Công đức trang nghiêm khắp
Cõi Phật khác khó bằng.
Nhân phát tâm vô thượng
Nguyện mau chứng Bồ đề
Liền đó Phật Di Đà
Hiện thân vàng mĩm cười
Từ miệng phóng ánh sáng
Chiếu khắp cả mười phương
Thâu lại xoay quanh Phật
Ba vòng rồi vào đảnh.
Bồ tát thấy tướng này
Liền chứng vị bất thoái
Tất cả chúng trong hội,
Đều cùng nhau hoan hỷ.
Tiếng Phật như sấm dậy
Tám âm diễn giọng hay
Bồ tát mười phương đến
Ta đều biết nguyện ấy
Chí cầu cõi Tịnh độ
Thọ ký sẽ thành Phật.
Biết rõ tất cả pháp,
Như mộng huyễn, tiếng vang
Đầy đủ các đại nguyện
At thành cõi như thế.
Biết cõi như bào ảnh
Thường phát lời nguyện lớn
Rốt ráo đạo Bồ tát
Đầy đủ các công đức
Tu thắng hạnh Bồ đề
Thọ ký sẽ thành Phật.
Thông suốt tánh các pháp
Tất cả không, vô ngã
Chuyên cầu cõi Phật tịnh
Ắt thành tựu như thế
Nghe pháp vui nhận làm
Được đến nơi trong sạch
Ắt được Phật Di Đà
Thọ ký sẽ thành Phật
Cõi thù thắng vô biên
Đều do sức Phật nguyện
Nghe tên muốn vãng sanh,
Đều được không lui sụt,
Bồ tát phát chí nguyện
Nguyện cõi mình cũng vậy
Luôn nhớ độ tất cả
Được phát tâm Bồ đề
Bỏ thân luân hồi này
Đều được đến bờ kia.
Phụng thờ vạn ức Phật
Bay đi khắp các cõi
Cung kính hoan hỷ rồi
Trở về nước An Dưỡng.

CHƯƠNG HAI MƯƠI BẢY : Ca tụng tán thán công đức của Phật
Phật bảo A Nan :
- Các vị Bồ tát, ở cõi nước đó, nương sức oai thần, của đức Phật kia, trong khoảng bữa ăn, qua đến vô lượng, vô biên Tịnh độ, trong khắp mười phương, cúng dường chư Phật. Các món cúng dường, chư Phật Bồ tát, như là hương hoa, phướn lọng vi diệu, vừa nghĩ liền có, quý đẹp lạ thường, thế tục không có. Hoa rải trong không, hiệp lại thành một, tất cả hoa ấy, khi rơi xuống dưới, xếp thành vòng tròn, rồi biến thành lọng, trăm ngàn màu sắc, mỗi sắc mỗi hương, hương thơm xông khắp. Lọng hoa nhỏ nhất, cũng mười do tuần, rồi lớn dần lên, cho đến đầy cả, ba ngàn thế giới, cứ theo thứ tự, trước mất sau hiện. Nếu không hoa mới, lớp trước vẫn còn. Rồi trong hư không, cùng tấu âm nhạc, âm thanh vi diệu, ca tụng tán thán, công đức của Phật. Ở trong khoảnh khắc, các Bồ tát ấy, trở về nước mình, cũng tụ họp lại, ở đại giảng đường, lắng nghe đức Phật, Vô Lượng Thọ Quang, giảng nói đại pháp, tất cả vui vẻ, tâm đạt được đạo. Ngay trong khi đó, gió mát thổi vào, các cây bảy báu, phát ra năm loại, âm thanh vi diệu, vô lượng hoa đẹp, bay ra bốn phía, tự nhiên cúng dường, như thế không dứt. Tất cả chư Thiên, mỗi người mang theo, trăm ngàn hương hoa, vạn thứ âm nhạc, cúng dường đức Phật, và các đại chúng, Bồ tát Thanh Văn, lần lượt kéo đến, hớn hở vui mừng. Đó đều là do, bản nguyện của Phật, Vô Lượng Thọ Quang, gia trì công đức, cúng dường chư Phật, căn lành tương tục, không có khuyết giảm. Lại do vì họ, khéo léo tu tập, nhiếp thọ thành tựu, mà được như thế.

CHƯƠNG HAI MƯƠI TÁM : Thần thông và ánh sáng của Bồ tát.
Phật bảo A Nan :
- Các chúng Bồ tát, trong cõi nước đó, thấy suốt nghe thấu, các việc quá khứ, hiện tại, vị lai, ở khắp mười phương. Chư Thiên, loài người, côn trùng, tâm ý, thiện ác thế nào, miệng muốn nói gì, khi nào giải thoát, chứng đạo, vãng sanh, tất cả điều đó, các Bồ tát ấy, đều dự biết trước. Thanh Văn nước đó, thân có ánh sáng, chiếu xa một tầm. Ánh sáng Bồ tát, chiếu rọi rất xa, một trăm do tuần. Có hai Bồ tát, tôn quý bậc nhất, oai thần ánh sáng, của hai vị đó, chiếu khắp ba ngàn, đại thiên thế giới.
A Nan bạch Phật :
- Hai vị Bồ tát, danh hiệu là gì ?
Phật bảo A Nan :
- Tên hai vị ấy, là Quán Thế Âm, và Đại Thế Chí. Cả hai vị này, tu hạnh Bồ tát, ở cõi Ta bà, khi vãng sanh về, cõi nước Cực lạc, thường hầu thân cận, hai bên phải trái, đức Phật Di Đà. Nếu hai vị đó, muốn đến cõi khác, ở khắp mười phương, thì tùy tâm đến. Nay hai vị ấy, đang trụ cõi này, làm lợi chúng sanh. Nếu có thiện nam, hoặc tín nữ nào, ở tại thế gian, bị nạn khổ gấp, chỉ cần xưng niệm, Bồ tát Quán Âm, thì được giải thoát.

CHƯƠNG HAI MƯƠI CHÍN: Sức thệ nguyện rộng sâu
Lại nữa A Nan, các vị Bồ tát, ở cõi nước đó, dù là hiện tại, hay ở vị lai, rốt ráo đều được, nhất sanh bổ xứ. Chỉ trừ người nào, có chí nguyện lớn, đi vào sanh tử, để độ chúng sanh, rống tiếng sư tử, mang giáp trụ dày, đội mũ Đại thừa, dùng sức công đức, thệ nguyền rộng lớn, để tự trang nghiêm. Tuy phải sanh vào, đời ác năm trược, thị hiện cũng giống, như một chúng sanh, đến khi thành Phật, cũng không bao giờ, rơi vào cõi ác. Dù sanh ở đâu, Bồ tát đều biết, kiếp trước của mình. Phật Vô Lượng Thọ, muốn độ chúng sanh, mười phương cõi nước, muốn cho chúng sanh, sanh về nước kia, nên khiến cho họ, chứng được Niết bàn, giáo hóa Bồ tát, chứng được quả Phật. Khi đã thành Phật, tiếp tục chỉ dạy, độ thoát chúng sanh. Lần lượt dạy dỗ, độ thoát như thế, không thể tính kể. Thanh Văn, Bồ tát, các loài chúng sanh, ở khắp mười phương, sanh về nước đó, chứng được Niết bàn, sẽ được thành Phật, số đó nhiều lắm, không thể kể hết.
Cõi nước Phật đó, thường hằng như một, không có tăng giảm. Vì sao như thế ? Ví như biển cả, là vua sông rạch, các dòng sông lớn, đều chảy về biển, mà nước biển ấy, nào có tăng giảm ? Vô số nước Phật, ở khắp mười phương, cõi Phật Di Đà, rộng lớn trường cửu, sáng suốt đẹp đẽ, an lạc hơn cả. Có được như thế, là bởi do Ngài, lúc làm Bồ tát, thề nguyện cầu đạo, tích lũy công đức, vô lượng vô biên. Phật A Di Đà, bố thí ân đức, khắp mười phương cõi, vô cùng sâu rộng, nói không thể hết.

CHƯƠNG BA MƯƠI : Sự tu trì của Bồ tát.
Lại nữa A Nan, tất cả Bồ tát, ở cõi
nước đó, thảy đều đầy đủ, thiền định trí huệ, thần thông oai đức, thông suốt rốt ráo, bí tạng của Ph
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên