LÒNG THƯƠNG YÊU SỰ SỐNG (THE LOVE of LIFE)
Tác giả: G.B. Talovick - Người dịch: HT. Thích Trí Chơn
Nhà Xuất Bản TP.HCM, Năm 2003 - 62 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 1
Tập 1
MỤC LỤC
1. Chú Tiểu Sa Di Cứu Sống Đàn Kiến
2. Đại Sư Hsin Cầu Nguyện Chấm Dứt Nạn Hạn Hán
3. Giải cứu những Con Thỏ Bị Sập Bẩy
4. Đại Tướng Mao Và Con Rùa
5. Những Con chim Lo Việc Mai Táng
6. Đàn Ong Ngăn Chặn Một Vụ Án Xử Oan
7. Con Rùa Chữa Lành Bịnh Cho Người Hầu Gái
8. Một Ông Nhà Giàu Không Có Con
9. Những Viên Ngọc Rắn
10. Giải Cứu Đứa Con Của Long Vương
11. Quả Báo Của Một Việc Làm Ác
12. Một Trăm Mạng Sống
13. Tên Đồ Tể Đền Tội
14. Cái Lưỡi Dê
15. Sự Trả Thù Cuả Những Con Ếch
16. Tên Đồ Tể Biến Thành Miếng Thịt Hầm
17. Bị Đoạ Làm Chó
18. Những Con Lươn Trả Thù
19. Mười Một kiếp Đầu thai Làm Thân bò
20. Ao sen Và Con Rết
21. Một tai Nạn vì Săn bắn
22. Thần Linh trừng Phạt Người Ăn Thịt Chó
CHÚ TIỂU SA DI CỨU SỐNG ĐÀN KIẾN
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời. Chú học đạo rất nhanh.
Thầy của chú rất sáng suốt có thể đoán biết trước được chuyện tương lai. Lần đầu tiên mới gặp, vị thầy xem tướng biết thọ mạng của chú học trò nhỏ này sẽ kéo dài không lâu. Ngày nọ, ông ta tính ra và nhận thấy rằng chú học trò này chỉ còn sống được bảy ngày nữa thôi. Vị thầy rất buồn.
Ông ta gọi người đệ tử lại và bảo rằng: “Này con, đã lâu lắm con không được gặp mẹ con. Thầy nghĩ con cần nghỉ một thời gian để về nhà thăm mẹ con và sau tám ngày hãy trở lại đây.” Vị thầy dạy như vậy với hy vọng rằng chú này có thể chết tại nhà cha mẹ của chú.
Khi người đệ tử đi rồi, vị Thầy cảm thấy rất buồn cho chú. Ông ta nghĩ rằng ông không bao giờ có thể gặp lại chú nữa.
Tám ngày sau, người đệ tử trở lại. Vị thầy mừng rỡ và rất ngạc nhiên thấy chú vẫn khỏe mạnh. Chú không lộ vẻ gì cho thấy rằng chú giống như người sắp lìa đời.
Cuối cùng, vị thầy muốn tìm hiểu nguyên nhân tại sao. Ông nói với người đệ tử: “Này con, ta đã nhiều lần xem tướng đoán việc tương lai, và chưa bao giờ sai lầm.
Ta bảo con trở về thăm nhà vì ta biết chắc rằng con sẽ chết trong vòng bảy ngày. Nhưng bảy ngày đã trôi qua, không những con vẫn còn sống mà trông con có vẻ khỏe mạnh. Yểu tướng sắp lìa đời nơi con đã biến mất. Vậy con đã làm sao mà được như vậy?”
Nghe nói thế, người đệ tử sửng sốt. Chú không biết phải trả lời với Thầy thế nào. Vị Thầy liền bắt đầu nhập định và biết rõ sự việc.
“Trên đường về nhà có phải con đã cứu sống một đàn kiến?”
“Thưa thầy, dạ có. Trên đường về nhà, con gặp thấy một đàn kiến rơi xuống nước. Nhìn thấy đàn kiến sắp bị chết đuối, con liền đưa một khúc gỗ xuống để cứu chúng.”
“Ðúng vậy. Do lòng từ bi cứu đàn kiến mà con được sống lâu. Các thánh nhân đã dạy rằng: ‘Cứu một mạng sống, phước đức lớn hơn xây dựng một ngọn tháp bảy tầng.’ Con nhờ cứu hàng trăm chúng sanh, mà con sẽ được sống trường thọ.
“Nay tương lai của con thật huy hoàng, nhưng con vẫn nên tiếp tục cứu độ cho mọi chúng sanh. Con cần phải truyền bá giáo lý của đức Phật. Hãy dạy cho mọi người nên có lòng từ bi. Và khuyên tất cả đừng nên sát sanh. Hãy để cho mọi thú vật sống an lành.”
Người đệ tử không bao giờ quên lời thầy dạy. Chú đã nỗ lực tinh tấn tu hành và trở thành một đại sư. Chú đã sống rất thọ, và trường thọ.
Đại Sư Tín Cầu Nguyện Chấm Dứt Nạn Hạn Hán
Ðại sư Tín là một vị Tăng có nhiều trí tuệ và thần lực. Ðây là thành quả do con người nỗ lực tu tập mới có được. Tánh tình nhà sư rất hiền hậu và có lòng thương bao la.
Một hôm, nhà sư gặp một ông lão già đánh cá, tay xách cái giỏ. Nhìn vào, nhà sư thấy đầy một giỏ rùa. Nhà sư biết rằng ai mua những con rùa này, họ sẽ giết chúng để nấu ăn. Nhà sư liền nghĩ: “Này những con rùa đáng thương, các con không muốn người ta giết thịt phải không?” Vị sư liền lấy tiền ra mua hết giỏ rùa và đem thả chúng xuống “Hồ Nước Sống Giải Thoát.”
Vài năm sau, xảy ra một trận hạn hán khủng khiếp. Mọi người nông dân đều lo lắng, vì nếu trời không mưa, lúa không mọc được thì họ sẽ có thể bị chết đói. Dân chúng biết rõ về hiểm họa chết đói ấy vì nó vẫn thường xảy ra. Khi có nạn hạn hán, hàng trăm người sẽ bị thiếu ăn. Người ta phải ăn cỏ hoặc vỏ cây để sống, và nhiều người sẽ chết đói.
Trước đây khi bắt đầu xảy ra hạn hán, các nông dân thường giết bò và dê cúng tế để cầu mưa, nhưng thường thì không mang lại kết quả mấy.
Lần này có nông dân đưa ra một ý kiến hay: “Chúng ta nên đến nhờ đại sư Tín giúp đỡ. Vì đại sư có nhiều quyền phép nên ngài có thể cứu giúp chúng ta được.”
Ðông đảo dân chúng kéo lên chùa và thỉnh cầu đại sư Tín làm cách nào để có mưa. Vị sư cười và bảo họ: “Chắc chắn được, không khó khăn gì. Tôi sẽ cầu nguyện cho trời mưa, nhưng trước hết quý vị hãy giúp cho điều này. Từ nay đến ngày làm lễ không ai có thể giết hại sinh vật. Ngoài ra, mọi người đều phải ăn chay. Nếu không thì, việc cầu nguyện sẽ không có kết quả.”
Ngay cả những người có tâm địa hẹp hòi không thể sống mà không có thịt nghĩ rằng dùng thực phẩm chay chứ đâu phải nhịn không ăn gì hết đâu nên mọi người đã kính trọng vâng lời đại sư Tín và tất cả đều hứa họ sẽ không giết hại bất cứ sinh vật nào cũng như sẽ không ăn thịt hay thực phẩm làm bằng thịt.
Vào ngày lễ, dân chúng địa phương lên chùa với lễ vật trái cây và hương đèn. Ðại sư Tín đang chờ họ. Khi mọi người đã sẵn sàng, nhà sư thắp hương và bắt đầu khấn nguyện đọc chú: “Om! Dajrta Salo Salo.”
Một vài người nói: “Tôi không hiểu ông ta đọc cái gì.”
Mấy bạn khác hỏi người bên cạnh: “Ông có nghĩ rằng mọi việc đang diễn tiến tốt đẹp?”
Nhiều người nói: “Nếu nhà sư cầu đảo cho mưa được, từ nay tôi sẽ phát nguyện ăn chay.”
Ðại sư Tín chú tâm cầu nguyện, và trước khi cây hương đầu tiên vừa cháy hết, mây đen hiện ra trên bầu trời và đổ mưa như trút nước xuống mặt đất khô cằn. Mọi người đều thành kính quỳ xuống, tỏ lòng biết ơn nhà sư với nước mắt chảy ràn rụa trên mặt của họ chan hòa với nước mưa đẫm ướt.
Giải cứu những Con Thỏ Bị Sập Bẩy
Ngài Huệ Năng, một đại sư Trung Hoa sống vào những năm 638 đến 713 sau Tây Lịch. Gia đình ngài rất nghèo đến nỗi ngài không bao giờ được cắp sách đến trường để học đọc hay viết. Ngài vốn có trí tuệ đặc biệt, và sau khi tìm hiểu Phật giáo, ngài đã xuất gia đi tu. Ngài tinh tấn tu hành, và ít lâu sau ngài chứng quả, giác ngộ. Thầy của ngài, vị tổ thứ năm của Thiền tông đã trao cho ngài y bát của vị tổ đầu tiên, ngài Bồ Ðề Ðạt Ma, mang từ Ấn Ðộ sang Trung Quốc. Ngài Huệ Năng trở thành vị tổ thứ sáu của Thiền tông, mà người Nhật gọi là Thiền (Zen).
Sau khi chứng đạo giác ngộ, ngài nhận thấy con người đã tự gây ra sự đau khổ cho mình bởi họ đã giết loài vật để ăn thịt. Ngài khuyên mọi người nên chấm dứt việc sát hại lẫn nhau để khỏi gặp thảm họa nhưng không ai chịu nghe!
Ngài Huệ Năng rất buồn thấy những người thợ săn thường hay giết thú rừng cho nên ngài đã cởi bỏ y áo và giữ tóc dài để không ai biết ngài là nhà sư. Rồi ngài tham gia vào đoàn người thợ săn và theo họ đi săn tháng này qua tháng khác trong rừng hoặc trên núi.
Ngài Huệ Năng không thể bắn hay sập bẫy, bởi vậy đoàn thợ săn đã giao cho ngài trông coi các chiếc lưới. Ðó là công việc mà ngài ưa thích. Khi thấy con nai hay con thỏ nào bị mắc vào lưới. Nếu nhìn xung quanh không có người thợ săn nào, ngài liền tháo lưới để cho những con vật chạy thoát.
Nếu có mặt những người thợ săn, ngài liền van xin yêu cầu họ thả chúng ra.
Ngài chung sống với đoàn thợ săn trong mười sáu năm. Nhờ vậy không những ngài đã cứu thoát được nhiều thú vật, mà còn giáo hóa cho những tên thợ săn thấy được sự tàn ác của việc làm sát sinh này để họ tìm một nghề sinh sống khác lương thiện hơn.
Ngài Huệ Năng về sau đã xây dựng một ngôi chùa. Với lòng thương bao la và trí tuệ sáng suốt của ngài khiến cho mọi người từ khắp nơi xa xôi đã đến học đạo với ngài, và trở thành những người Phật tử. Các đệ tử của ngài đã truyền bá Thiền Tông vào Ðại Hàn, Nhật Bản, và hiện nay sang Châu Âu và Châu Mỹ.
Đại Tướng Mao Và Con Rùa
Tại Trung Hoa và đời nhà Tấn khoảng hơn 1.600 năm trước, có một nhà thông bác tên Mao Bảo rất thương yêu loài vật. Một hôm nọ, trước khi trúng tuyển kỳ thi của triều đình và trở thành một quan chức của chính phủ, ông gặp một người đánh cá đang xách một con rùa anh ta vừa bắt được để mang ra chợ bán. Ông Mao Bảo liền mua con rùa và thay vì làm thịt để ăn, ông mang nó ra thả nơi hồ nước gần đó.
Sau này, ông Mao Bảo trở nên một vị đại tướng có nhiều thế lực. Các đại tướng dù tài giỏi đến đâu, đôi lúc cũng bị thất trận; cho nên tại chiến trường ở Chuch’eng, quân đội của đại tướng Mao bị đánh bại bởi tướng Chilung và quân của Mao phải trốn chạy để tìm đường sống.
Quân thù rượt đuổi theo rất khẩn cấp. Ðại tướng Mao cũng chạy nhanh không kém. Khi ông đến một hồ nước lớn nhưng nhìn quanh ông không thấy một chiếc cầu hay thuyền bè nào. Không có cách gì để vượt qua hồ nước. Ðại tướng Mao cũng không biết bơi; và hơn nữa, mặc áo giáp nhà binh nặng nề, khi xuống nước chắc ông sẽ bị chìm xuống đáy hồ.
Ông nhìn lui thấy quân thù rượt đuổi gần kề. Ông nhìn lên trời và than: “Trời đất đã bỏ rơi tôi rồi!”
Ðể khỏi rơi vào tay kẻ thù, đại tướng Mao nghĩ đến chuyện tự sát. Ngay khi ông vừa muốn tự tử ông liền thấy một vật gì to lớn hiện trồi lên mặt nước và đang tiến sát cạnh bờ hồ, nơi ông dự tính sẽ tự kết liễu đời mình.
Ðại tướng Mao không còn có thì giờ để suy nghĩ về vật thể đang trồi nổi trên mặt hồ. Quân thù rượt đuổi theo càng ngày càng gần ông hơn. Ông tự nghĩ: “Nếu tự sát ở đây, quân thù sẽ cướp lấy thân xác và điều đó sẽ làm nhục cho quốc thể và vị hoàng đế của ta. Vậy tốt hơn ta nên gieo mình xuống hồ nước và như thế quân thù sẽ không tìm thấy xác của ta.” Cuối cùng, ông liền nhảy xuống hồ nước.
Nhưng ông ngạc nhiên thấy chân mình như chạm đứng trên một vật gì và vật đó bắt đầu rời bờ, vượt qua hồ nước tiến sang bờ bên kia. Ðại tướng Mao vô cùng kinh ngạc.
Quân thù rượt đuổi sát cạnh hồ nước. Chúng bắn tên như mưa vào đại tướng Mao, nhưng ông ta đã vượt thoát ra xa. Những mũi tên đều rơi xuống nước và không trúng ông.
Ðại tướng Mao nhìn xuống và nhận thấy mình đang đứng trên lưng một con rùa to lớn. Nó đã mang đưa ông vượt qua đến bờ hồ bên kia. Ðại tướng Mao bước lên bờ. Con rùa hiện trồi lên mặt nước, và chào ông. Rồi nó lặn xuống hồ và bơi đi.
Ðại tướng Mao liền nhớ lại mười hai năm trước ông đã cứu thoát một con rùa và thả nó xuống hồ nước, chính ngay tại hồ này!
Giờ đây khi gặp nạn cùng đường con rùa biết ơn đó đã hiện ra để cứu sống cho ông. Ðúng là, xưa người cứu vật sống, nay vật cứu sống người!
Những Con chim Lo Việc Mai Táng
Ngày xưa, có một vị ẩn tu sống trong một túp lều nhỏ.
Tên của vị đó là Tôn Lương. Ông ta rất nghèo, nhưng tính tình chân thật và có lòng thương loài vật. Ông ta làm nhiều công việc lặt vặt. Và tiền ông kiếm được rất ít. Khi thấy con vật nào bị sập bẫy, nếu có đồng nào, ông liền mua con vật đó để thả cho nó chạy vào rừng.
Bằng cách này, ông đã cứu thoát vô số loài vật, nhưng ông không thể để dành được nhiều tiền, do đó ông vẫn rất nghèo.
Khi đến tuổi già không làm gì được nữa, ông phải đi xin ăn để sống qua ngày. Ngày nọ, khi già trên 70 tuổi ông quá yếu phải nằm trên giường không ngồi dậy nổi và ít lâu sau, ông từ trần.
Tôn Lương không có bạn bè và thân nhân. Ông nghèo đến nổi không có tiền để mua một chiếc hòm. Ðối với người Trung Hoa, điều bất hạnh nhất là khi mình chết mà không có ai lo việc chôn cất. Ông Tôn Lương cũng không có một người thân chăm sóc. Ða số những người láng giềng đều nghèo như ông. Họ không hay biết là ông đã qua đời, nhưng dù họ có biết chăng nữa, chắc chắn họ cũng không có đủ tiền để sắm nổi một chiếc hòm và lo việc mai táng cho ông.
Vào buổi sáng sau khi ông Tôn Lương mất, người hàng xóm ngạc nhiên thấy trên trời hiện ra đầy chim chóc. Hàng nghìn con chim từ khắp nơi bay đến chỗ túp lều của ông. Những người láng giềng đổ xô lại xem cho biết việc gì đã xảy ra. Họ thấy ông Tôn Lương đang nằm chết trên giường. Họ tưởng rằng những con chim đó bay lại để rỉa rứt ăn thịt ông.
Rồi họ ngạc nhiên thấy mỗi con chim ngậm nơi mõ của nó một ít đất và nhả đất này xuống trên thân xác của ông Tôn Lương. Ðàn chim bay lại để tỏ lòng biết ơn và lo việc mai táng cho người đã từng cứu sống chúng.
Hàng nghìn và hàng nghìn con chim đã bay đến. Chúng bay lui bay tới. Vào trước buổi trưa, chúng đã thả đất lấp đầy túp lều của ông; và xây thành một nấm mộ cho ông Tôn Lương.
Những người hàng xóm đều vô cùng xúc động khi nhìn thấy cảnh tượng này. Từ đó về sau, họ không bao giờ đặt lưới hay bẫy sập một con vật nào.
Đàn Ong Ngăn Chặn Một Vụ Xử Oan
Ngày xưa, có ông chủ một quán ăn trông thấy một con ong bay rớt vào trong hủ rượu của ông. Người chủ quán cảm thấy tội nghiệp cho con ong bé nhỏ, ông liền hạ thấp chiếc đũa để cho nó leo lên đó mà bò ra. Ông đặt chiếc đũa xuống và nhìn con ong đang tìm cách tự làm khô mình. Nó đập nhẹ hai cánh để mau khô hơn. Khi con ong hoàn toàn khô rồi, nó bay lên và kêu vo vo.
Sau đó, người chủ quán nhận thấy những con ong khác cũng bị thu hút bởi mùi rượu nên đã bay tới rớt vào và chết đuối trong hủ rượu. Từ đó, ông chú ý đến chúng và đã cứu sống được rất nhiều con ong.
Ông làm việc phước đức này tiếp tục trong nhiều năm. Một ngày nọ, ông giật mình thấy lính của nhà vua vào quán, và không một lời giải thích họ còng tay áp giải ông tới pháp đình. Khi đến nơi, người chủ quán mới biết rằng ông bị người ta vu oan giá họa. Vài tên cướp bị bắt đã tố cáo ông nằm trong băng đảng của họ; cho nên quan tòa thụ lý vụ án đã quyết định xử chém đầu ông cùng với những tên cướp khác.
Người chủ quán đã kêu than rằng ông ta vô tội, nhưng bọn cướp vẫn nhứt quyết bảo rằng ông có tội; cho nên quan tòa đã tuyên bố rằng ông ta phạm tội. Lòng người chủ quán vẫn bìnhthản không chút sợ hãi khi nhìn thấy vị quan tòa cầm bút lông đỏ phê bản án tử hình buộc tội ông ta.
Ngay vừa lúc ông chánh án cầm bút lông định phê bản án thì ông nghe tiếng vo ve ồn ào mỗi lúc một gần và ngày càng rõ hơn. Một đàn ong bay vào cửa sổ và bu đậu nơi đầu bút lông đỏ của vị quan tòa. Ông vảy mạnh ngọn bút lông để hất mấy con ong ra, nhưng nhiều con khác lại tiếp tục bay đến. Ðàn ong không chích đốt, nhưng chúng không chịu bay đi.
Vị quan tòa nhận thấy đây là một việc hết sức kỳ lạ. Ông liền suy nghĩ: “Có thể những con ong này bay đến để ngăn chận không cho ông phê chuẩn một bản án hoàn toàn oan ức.”
Do đó, vị quan tòa cho xem xét lại hồ sơ những tên cướp này và tìm thấy có nhiều mâu thuẩn trong lời khai của chúng. Ông liền cho điều tra bọn cướp trở lại. Lần này ông chắc rằng ông đã kết án một người vô tội.
Chỉ sau khi bản án tử hình của người chủ quán được vị quan tòa hủy bỏ những đàn ong mới chịu bay đi! Rồi ông quan tòa hỏi tên chủ quán có biết tại sao đàn ong bay đến cứu thoát cho ông không?
“Thưa ngài tôi thực sự không biết, nhưng có thể là do tôi đã cứu sống nhiều con ong bị chết đuối trong những hủ rượu của tôi. Chúng ngửi thấy mùi rượu nên bay đến, rơi vào trong đó và không thể thoát ra được. Thấy vậy, tôi luôn luôn cứu sống chúng. Giờ đây, chúng bay đến để cứu giúp lại tôi. Thưa ngài, tôi nghĩ chắc là như vậy.”
“Thực là một việc hết sức mầu nhiệm! Ông gặp cảnh ngộ thập tử nhứt sanh. Nhưng ông thoát chết nhờ ông đã hành thiện. Vậy ông nên cố gắng làm nhiều việc lành hơn nữa. Chắc chắn tương lai ông sẽ hưởng toàn quả phúc
Những lời dạy của vị quan tòa chứng tỏ đã đúng với sự thực. Người chủ quán đã làm tất cả mọi việc lành mà ông có thể. Công việc làm ăn của ông mỗi năm mỗi phát triển. Ông sống cuộc sống trường thọ, giàu sang, hạnh phúc, và chết một cách an lành.
Con Rùa Chữa Lành Bịnh Cho Người Hầu Gái
Vợ chồng ông Trần vì có chút việc bận đi ra ngoài nên đã dặn người đầy tớ gái: “Cô nhớ rửa thật sạch con rùa trước khi nấu chín nó. Vì con rùa quá lớn nên cô phải cẩn thận luộc nó cho thật kỹ. Cố gắng làm tốt công việc của cô nghe.”
Cô hầu gái trả lời: “Chắc chắn, tôi biết nấu mà.” Khi mọi người đi rồi, cô ta vào trong bếp, đứng nhìn con rùa và nghĩ đến cách phải nấu ra làm sao. Ngay lúc cô trông thấy con rùa đang nằm trên nền nhà, cô cảm thấy thương hại nó. Cô bảo thầm: “Này con rùa khốn khổ. Hẳn chắc rằng con thích bơi lội dưới sông hơn là trong nồi nước xúp?”
Tại sao người hầu gái xót thương con rùa đặc biệt này? Cô đã giết nấu nhiều rùa cho gia đình ông Trần vì họ thích ăn thịt rùa. Cô cảm thấy tội nghiệp cho con rùa nên cô đã nhặt nó lên mang ra cửa và thả cho nó bò đi.
Rồi cô nghĩ: “Ta không thể làm vậy được vì khi ông bà Trần trở về mong dự bữa tiệc thịt rùa mà ta lại bảo rằng tôi lấy làm tiếc là đã phóng thích nó đi mất thì họ sẽ bực mình như thế nào? Hơn nữa dù cho ông bà Trần có đánh đập cô thì điều đó cũng không làm cô đau đớn nhiều bằng con rùa bị đem bỏ vào nồi nấu.” Rồi cô quyết định thả cho nó đi.
Khi ông bà Trần trở về nhà sửa soạn dự tiệc thì thấy trên bàn ăn trống trơn, ông bà nổi giận mắng nhiếc và đánh đập người hầu gái. Nhưng cô nhẫn nhục chịu đựng.
Sau này khi trong vùng xảy ra bệnh dịch. Người tớ gái bị đau nặng. Ông bà Trần mời bác sĩ đến khám bệnh cho cô và bác sĩ đã bảo họ nên chuẩn bị mua hòm vì cô sắp chết đến nơi rồi.
Tối hôm đó, người hầu gái nằm mơ thấy một con vật mình ướt và lấm bùn, bò lên khỏi hồ nước. Nó bò gần lại phía cô ta. Mỗi lúc nó càng tiến lại gần sát cô hơn nữa. Rồi con vật đó tiến vào phòng leo lên và bò vào giường cô, nhưng cô không cảm thấy sợ hãi.
Rồi con vật ướt lấm bùn đó bò lên thân mình người tớ gái và cô cảm thấy khắp toàn thân cô mát mẻ. Nhiều ngày qua cô không cảm thấy được dễ chịu như vậy.
Hôm sau, ông bà Trần cầm cái thước dây đi vào phòng đo kích thước để mua hòm cho người hầu gái và thấy cô đã ngồi dậy. Khắp thân mình cô lấm bùn, nhưng trông cô khỏe hơn trước. Bà Trần hỏi:
“Cô đã thức dậy?” Cô đáp: “Vâng, thật là kỳ lạ, hôm nay tôi cảm thấy đã bớt nhiều?”
“Tại sao khắp thân mình cô dính đầy bùn như vậy?”
Cô liền kể cho bà Trần nghe về mọi việc xảy ra tối qua. Bà Trần hết sức lo lắng vì nghĩ rằng người tớ gái đã mê sảng. Ðêm đó, bà quyết định canh chừng để coi.
Vào giữa khuya, ông bà Trần nhìn thấy con rùa lớn mà người hầu gái phóng thích trước kia, nay nó trở lại bò vào phòng và đắp bùn lên khắp thân mình cô ta. Ông bà Trần không tin điều mình thấy là có thật, nhưng vài ngày sau người hầu gái của họ đã bình phục, và cô là người duy nhất sống sót thoát khỏi nạn bệnh dịch.
Cũng từ ngày ấy, ông bà Trần không bao giờ ăn thịt rùa nữa.
Một Ông Nhà Giàu Không Có Con
Vào thời đại nhà Nguyên (1279-1368) khi Thành Cát Tư Hản xua quân Mông Cổ xâm lăng Trung Hoa, có một ông phú hộ rất giàu có nhưng không có một mụn con nào. Cả hai vợ chồng sống rất cô độc. Họ mong ước sinh một đứa con, nhưng không làm sao có được.
Ông nhà giàu luôn luôn buồn rầu về việc đó. Ông ta nghĩ: “Có nhiều tiền mà không con cái để chia xẻ cho chúng nó thì đâu có hạnh phúc gì.”
Bạn ông ta khuyên: “Tại sao ông không lên chùa nhờ thầy trụ trì giúp cho? Vị sư ấy có thể hiểu rõ chuyện xảy ra trong quá khứ và tương lai. Tôi nghĩ ông ta là người có khả năng giúp bạn được.”
Nghe vậy, hai vợ chồng ông phú hộ liền đi lên chùa. Họ vào lễ Phật. Sau đó hai người đến gặp vị sư và quỳ xuống lạy trán cúi sát úp trên nền nhà.
“Thưa thầy, chúng con lạy thầy, nhờ thầy chỉ dạy cho biết chúng con đã gây nên điều ác đức gì. Tại sao chúng con ước mong có một đứa con mà không cách gì có được.”
Vị sư coi tướng số của hai vợ chồng, và dùng thần lực để hiểu biết việc quá khứ lẫn tương lai của họ. Rồi ông bảo người phú hộ.
“Kiếp trước ông đã vay một món nợ to lớn là bởi ông đã giết các sinh vật. Ông đã sát hại nhiều con nhỏ của các thú vật cho nên đời này ông bà không có con được.
“Món nợ đó thực quá sâu dày, ông bà không dễ gì trả hết được. Ông bà cần phải tụng kinh sám hối cho nhiều. Nếu ông bà có thể cứu thoát được tám triệu mạng sống may ra ông bà mới hoàn trả xong món nợ đó. Nếu ông bà vô ý giết thêm một con rệp hay một con sâu ông bà phải cứu thêm một trăm mạng sống nữa để bù vào cho đủ.
“Ðây là phương cách tốt nhất để ông bà cải đổi số kiếp của mình mới mong có con được.”
Ông phú hộ vô cùng cảm động. Ông lên chùa vào chánh điện lễ Phật và phát nguyện sẽ không bao giờ sát sanh nữa. Sau đó, hai vợ chồng về nhà nỗ lực phóng sanh và dùng phần lớn tài sản của họ vào công việc phước đức này. Họ đi chợ mua nhiều heo, gà và ngỗng mang về thả nuôi chúng sống tự nhiên trong vườn chùa. Hai vợ chồng cũng mua cá, cua và lươn đem thả chúng xuống nước. Họ rất thành tâm thường xuyên lên chùa làm nhiều việc phước đức; để sám hối những việc làm tội lỗi của họ đã gây ra trong kiếp trước.
Hai vợ chồng làm các việc lành như thế trong nhiều năm. Sau một thời gian họ cứu thoát đến tám triệu mạng sống của thú vật, nhờ vậy mà bà vợ đã sinh được một cháu trai khỏe mạnh và kháu khỉnh.
Ðứa bé rất thông minh, lớn lên cháu học giỏi, và đỗ đạt dễ dàng các kỳ thi của triều đình.
Những Viên Ngọc Rắn
Một người lính gác hỏi: “Cái gì vậy?” Người bạn của ông ta đáp: “Con rắn. Hãy giết nó đi.” Rồi họ cầm cây giáo định, đâm chết con rắn nhỏ màu sắc đỏ.
Vị chỉ huy của họ la lên “Ðừng giết.” Cả hai tên lính hoảng sợ khi thấy người ra lịnh cho họ không được sát hại con rắn là Quận Công của nhà Tùy ở Trung Hoa. “Các ngươi không thấy nó bị thương rồi sao? Tội nghiệp con vật.” Hẳn chắc họ thấy con rắn đã bị thương nơi đầu.
Viên Quận Công dùng cây gậy nhẹ nhàng nâng con rắn lên và mang nó ra bờ sông. Rồi ông bảo mấy tên lính thả cho con rắn bò đi.
Một lát sau, một người lính gọi anh bạn nói: “Trông kìa, con rắn ban nãy trở lại.”
“Và nó ngậm vật gì nơi miệng.”
“Này, bạn nhìn nơi đó phải không?” Nó mang một viên ngọc!” Những người lính nghe nói vậy liền chạy đến. Con rắn nhỏ vẫn bò hướng về phía trước. Mấy anh lính bảo: “Ðể xem thử nó bò đi đâu.” Họ tránh sang một bên, và con rắn bò thẳng vào lều ông Quận Công và nhả viên ngọc nơi chân của ông.
Viên Quận Công nói với con rắn: “Thực bạn quá tốt với ta, nhưng bạn nên biết rằng là quan chức của triều đình, ta không bao giờ nhận tặng phẩm.” Con rắn vẫn nằm im không nhúc nhích cho đến khi ông Quận Công lượm viên ngọc bỏ vào túi quần.
Ðêm hôm đó, viên Quận Công nằm mơ thấy ông vô ý bước đạp nhằm một con rắn. Ông giật mình thức giấc nhìn xuống tưởng chân ông bị rắn cắn... nhưng không, đó chỉ là điềm chiêm bao. Nhưng cái gì đây? Ông thấy một viên ngọc khác nằm bên cạnh chân ông, và đó là sự thật chứ không phải là giấc mơ.
Hai viên ngọc quá đẹp! Ông Quận Công là người có tâm hiền lành và thực tình ông không muốn nhận được quà thưởng vì đã cứu sống con rắn, nhưng giờ đây ông có hai viên ngọc rất quý mà không biết giao trả cho ai, cho nên ông đành phải cất giữ chúng làm vật kỷ niệm để ghi nhớ việc ông làm phước cứu độ mọi chúng sanh.
Việc làm thiện của ông Quận Công trên đây được loan truyền xa gần khắp nơi và giúp cho nhiều người nhận biết rằng ngay cả loài vật bò trên mặt đất cũng tham sống sợ chết. Câu chuyện này cũng khiến cho những ai có tâm độc ác muốn sát sanh hại vật phải suy nghĩ để cải đổi lối sống của họ. Con người ngày càng biết yêu thương sự sống, chấm dứt việc giết chóc và hành hạ loài vật.
Riêng ông Quận Công nhà Tùy đó là điều quý báu hơn cả hai viên ngọc giá trị!
Giải Cứu Đứa Con Của Long Vương
Ngày xưa, có một vị bác sĩ già tên Tôn. Ông rất hiền lành, và nhất là có lòng thương yêu loài vật.
Vào một ngày mùa thu đẹp trời, trong khi ông đang đi dạo chơi ngoài làng, thình lình ông gặp hai đứa trẻ nhỏ bắt một con rắn. Chúng đùa giỡn với nó và con rắn quá mệt đừ gần như sắp chết. Ông Tôn không muốn nhìn thấy con rắn chết, cho nên đã móc túi lấy tiền ra mua con rắn nơi mấy đứa nhỏ. Rồi ông mang con rắn ra gần bờ ao và thả cho nó bò đi.
Vài ngày sau, khi ông đang ngồi đọc sách nghiên cứu. Ông thiu thiu ngủ thì mơ thấy một người mặc áo màu xanh lục bước vào nhà và bảo bác sĩ Tôn đi theo ông ta. Người lạ mặt dắt ông Tôn đến một lâu đài tráng lệ. Và ông không biết rõ nơi đó là ở đâu.
Khi bác sĩ Tôn và người hướng dẫn ông bước vào cái phòng lớn, một nhân vật quan trọng tiếp đón ông Tôn và nói: “Ðứa con của tôi đi ra ngoài chơi, nếu ngài không cứu giúp nó, thưa bác sĩ, tôi sợ rằng con tôi đã không bảo toàn được mạng sống.”
Rồi ông ta bảo những người giúp việc dọn tiệc đãi ông khách quý. Dùng tiệc xong, người cha lấy tặng đồ nữ trang và châu báu cho ông Tôn, nhưng bác sĩ đã không nhận vật gì hết. Người cha năn nỉ, và ông Tôn biết mình hiện giờ đang ở đâu, cho nên cuối cùng ông nói: “Tôi được biết tại Cung Ðiện Thủy Tinh của Long Vương này, ngài cất giữ nhiều vị thuốc thần diệu có thể chữa lành các thứ bệnh nhẹ và nặng mà người đời mắc phải. Nếu ngài có lòng tốt trao truyền cho tôi một vài toa thuốc đặc biệt của ngài để tôi cứu chữa cho các bệnh nhân khổ đau thì đó sẽ là hành động phước đức vô cùng.”
Người cha hóa hiện thành vị Long Vương, lấy ngay mấy tấm thẻ bằng ngọc có ghi khắc 36 toa thuốc và trao cho ông Tôn
Sau khi nhận các toa thuốc quý, bác sĩ Tôn trở lại công việc nghiên cứu. Ông giật mình thức dậy và nhận biết rằng mọi việc xảy ra vừa qua chỉ là một giấc chiêm bao.
Nhưng điều ý nghĩa nhất là từ đó về sau, khi bác sĩ Tôn khám bất cứ bệnh nhân nào, dù bệnh của họ có nặng đến đâu, họ vẫn được tức khắc chữa lành. Nhờ vậy mà bác sĩ Tôn đã cứu chữa được nhiều, rất nhiều bệnh nhân đau khổ.
Quả Báo Của Một Việc Làm Ác
Ðời nhà Ðường (618-907) bên Trung Hoa có một anh nông phu rất tàn ác. Trưa hôm nọ, ông ta ra xem xét công việc ngoài đồng ruộng. Ông thấy con bò bên nhà hàng xóm chạy lạc vào đám ruộng của ông. Nó đang gặm lúa và dẫm đạp hoa màu.
Người nông dân vô cùng tức giận bảo rằng: “Tao làm lụng cực khổ mới có thóc lúa này, bây giờ mày đến gặm ăn và phá hoại mùa màng của tao! Mày phải trả một giá đắt cho sự ăn vụng này. Ông liền rút dao ra và nói: “Tao không muốn giết chết mày, nhưng vì mày đã ăn hại thóc lúa của tao nên tao phải cắt lưỡi của mày bỏ lại đây. Ðể tao coi mày còn dám ăn vụng, phá hoại mùa màng của tao nữa không!”
Con bò nhận biết mình có lỗi nên nó đã cúi đầu xuống và tỏ vẻ hối tiếc. Người nông dân nghèo khó đã nắm sừng ghì chặt đầu con bò xuống và dùng dao cắt cái lưỡi của nó. Con bò vô cùng đau đớn, nhưng cũng không kêu van gì được.
Về sau, người nông dân tàn ác này đã lập gia đình và có ba đứa con. Nhưng đứa nào cũng bị câm nửa năm đầu trước khi chúng biết nói. Ông không hiểu tại sao mấy đứa con của ông đều bị câm. Ông đưa chúng đi khám nhiều bác sĩ danh tiếng nhưng không một loại thuốc nào của các vị này cho có thể chữa lành giúp chúng nói được.
Người nông dân liền nhớ lại khoảng mười hai năm trước ông đã cắt lưỡi của một con bò đực. Ông ta hiểu rõ nguyên nhân tại sao ba đứa con của ông bị câm. Chính do nhân tàn ác ông gây ra đã mang lại quả báo khổ đau cho mấy đứa con trong gia đình ông
Một Trăm Mạng Sống
“Bữa nay, em cảm thấy khỏe hơn không?” Ông Phan biết vợ mình mắc bệnh lao rất khó chữa lành nên ông đã hết lòng chăm sóc cho vợ.”
Vợ ông mệt mỏi trả lời: “Cám ơn anh đã quá lo lắng cho em.”
Ông Phan đã mời bác sĩ Trần giỏi nhất để chữa bệnh cho vợ ông. Bác sĩ Trần sau khi khám bệnh người vợ, đã gặp riêng ông Phan.
Bác sĩ bảo: “Mặc dù vợ ông bệnh quá nặng đấy nhưng vẫn có cách chữa được. Theo toa thuốc này, cần đến một trăm đầu con chim sẽ để chế vị thuốc đó. Sang ngày thứ ba và thứ bảy, vợ ông cần phải dùng óc của chim sẻ. Ðây là vị thuốc bí mật do ông bà của tôi truyền lại và nó không bao giờ không có kết quả. Nhưng nên nhớ rằng ông phaủi giết đủ một trăm con chim sẻ, chứ thiếu một con cũng không được.”
Ông Phan hết lòng muốn cứu sống vợ nên đã gấp rút đi mua một trăm con chim sẻ. Chúng bị nhốt chật trong một cái lồng lớn. Chúng nhảy nhót và kêu thảm thiết vì không đủ chỗ cho chúng bay nhảy thỏa thích. Có thể chúng cũng biết rằng chúng sắp sửa bị giết chết.
Bà Phan hỏi chồng: “Anh định làm gì với những con chim sẻ đó?”
Người chồng vui vẻ trả lời: “Ðây là vị thuốc đặc biệt của bác sĩ Trần! Anh đang chuẩn bị giết chúng để chế vị thuốc ấy, và em dùng sẽ tức khắc lành bệnh.”
Bà Phan liền ngồi dậy trên giường và nói: “Anh không thể làm một việc ác như thế. Anh không nên giết một trăm mạng sống để cứu lấy sự sống của riêng mình em! Em đành chịu chết còn hơn để anh sát hại một trăm con chim sẻ để cứu mạng sống cho em!”
Ông Phan không biết làm sao.
Bà vợ tiếp tục bảo: “Nếu anh thực tình thương em, thì anh nên nghe lời em là hãy mở lồng thả hết những con chim sẻ đó ra. Như thế dù em có chết em cũng mãn nguyện để nhắm mắt.” Ông Phan đã giải quyết thế nào? Ông mang lồng chim vào trong rừng và phóng sanh tất cả một trăm con chim sẻ đó. Chúng bay vào các bụi rậm, đậu trên cây và kêu hót líu lo. Chúng lộ vẻ vô cùng sung sướng vì được thả tự do.
Vài ngày sau, bà Phan rời khỏi giường, mặc dù bà đã không uống thuốc gì hết. Bà con và bạn bè kéo nhau đến chúc mừng bà đã nhanh chóng bình phục khỏi cơn bệnh hiểm nghèo. Mọi người đều hết sức vui mừng.
Năm sau, bà Phan sinh được một cháu trai. Em bé mạnh khỏe và rất dễ thương, nhưng điều buồn cười là trên mỗi cánh tay của nó có một cái dấu bớt; và các dấu bớt này trông hình giống như những con chim sẻ!
Tên Đồ Tể Đền Tội
Châu là người thô lỗ, nhưng rất giàu, vì ông kiếm được nhiều tiền nhờ bán thịt bò. Mỗi ngày, ông giết thịt ít nhất là ba con bò. Trải qua một thời gian, do bán nhiều thịt bò mà ông trở nên một trong những người giàu nhất trong quận.
Vào khoảng đầu thế kỷ thứ 19, khi ông Châu già cả, con ông là Quang đứng ra lo việc buôn bán cho gia đình. Hai cha con hãnh diện với nghề bán thịt này bằng cách đặt một gốc cây già ngay trước cổng nhà của họ. Nhiều năm qua, họ dùng gốc cây đó làm tấm thớt cắt thịt. Họ thường kê đầu con bò trên đó để đập mạnh cho chết. Khi hành khách đi ngang qua nhìn thấy gốc cây này họ đều biết rằng đó là quán bán thịt.
Nhưng vào đêm nọ, một việc kỳ lạ bất ngờ đã xảy ra. Cái tấm thớt gốc cây biến thành đầu con bò và nó lăn vòng quanh khắp các đường trong thành phố! Mọi người trông thấy đều hết sức kinh ngạc.
Tối hôm đó, khi đi ngang qua nhà ông Châu người ta nghe bên trong có tiếng ồn ào của nhiều con bò húc báng lộn nhau. Nhưng không ai hiểu rõ được việc gì đang xảy ra!
Một hai ngày sau, ông Quang vẫn đứng bán quán như thường lệ, và có một người lính vào mua thịt. Vì là nhân viên của chính quyền nên ông ta muốn mua thịt với giá đặc biệt thật rẻ.
Ông Quang hét to nạt tên lính: “Ông điên rồi sao? Tôi lỗ nhiều quá!” Vì bị mất mát tiền bạc, ông nổi cơn giận dữ. Rồi hai người gây gỗ với nhau. Ông Quang nổi điên cầm dao cắt thịt chém mạnh vào đầu anh lính!
Khi hay tin con mình giết chết tên lính ông Châu hoảng hốt, té xuống ngất xỉu và từ trần.
Ông Quang bị nhà cầm quyền xử tử. Sau này người ta gặp thấy bà vợ và mấy đứa con ông Quang, mặc quần áo rách rưới đi xin ăn ngoài đường phố. Bà con hàng xóm bảo: “Chúng ta thật không ngờ vợ con ông Châu giàu có trước đây ngày nay lại dắt nhau đến xin ăn ngay ở ngôi nhà cũ của họ.”
Theo Phật giáo giải thích: “Chính ông Châu đã gây nên cảnh gia đình suy sụp tan nát, vì họ đã giết hại nhiều thú vật. Nếu bạn làm việc lành, bạn và thân quyến sẽ gặp điều tốt. Nếu bạn hành động ác, gây đau khổ cho kẻ khác, bạn và gia đình sẽ gặp nhiều khổ đau.
“Do đó, bạn không nên ăn thịt. Bạn cần cố gắng dứt trừ tâm độc ác, và nên thương yêu đừng sát hại các sinh vật, nhờ vậy mà mọi chúng sanh đều an lạc.”
Mọi người đều nghĩ rằng đó là điều công bằng hợp lý. Những người giết thịt trong vùng đều nhận biết rằng điều bất hạnh xảy ra cho gia đình ông Châu; một ngày nào cũng có thể dễ dàng xảy đến với họ, cho nên tất cả đều đóng cửa các hàng thịt và họ đã thay đổi tìm nghề sinh sống khác.
Hơn nữa, ngày nay y khoa đã chứng minh cho thấy rằng dùng nhiều thịt bò sẽ gây ảnh hưởng xấu cho sức khỏe con người. Nó sẽ tạo ra các bệnh tim và ung. Cho nên dù bạn có suy nghĩ như thế nào, thì việc ăn nhiều thịt vẫn là điều không tốt cho sức khỏe của bạn.
Cái Lưỡi Dê
Triều đại nhà Ðường từ năm 618 đến năm 907 sau tây lịch là một trong những thời đại huy hoàng nhất của lịch sử Trung Hoa. Bấy giờ ông Phan Quả sống tại kinh đô là một quân nhân nghệ sĩ có tài cho nên ông được mời giữ một chức vụ trong triều đình khi ông còn rất trẻ. Ông dễ dàng kết thân với mọi người; do đó ông có nhiều thân hữu trong số những người bạn trẻ cùng làm chung với ông.
Ngày nọ, nhóm bạn của ông đang đi dọc theo một nghĩa trang. Giữa những ngôi mộ, ông gặp thấy một con dê đi lạc. Nó đang chăm chú gặm cỏ. Ông Phan cùng với mấy người bạn đến bao quanh và lôi con dê về nhà. Nó bắt đầu kêu la. Bọn họ sợ người chăn dê nghe tiếng kêu sẽ đi tìm nó. Cho nên ông Phan đã tới dùng rễ cây mà kéo đứt cái lưỡi con dê ra. Ông ta hãnh diện đã làm cái việc ác đức này quá nhanh.
Sau khi về tới nhà những người bạn của ông Phan đã làm thịt và quay con dê. Rồi họ vui vẻ hả hê nhậu rượu với thịt dê.
Năm sau, ông Phan hoảng hốt khi thấy cái lưỡi của mình co rút lại. Mỗi ngày nó càng ngắn thêm và cuối cùng ông ta không nói được. Ông không thể tiếp tục đến sở làm và rồi ông Phan đành phải nghỉ việc. Ông đi tìm thầy để chữa trị cái lưỡi.
Ông Trịnh, người cấp trên của ông Phan nghĩ rằng ông ta lười biếng nên đã bảo ông đưa lưỡi ra để ông xem thử, ông Pan có thực đau không. Ông Trịnh ngạc nhiên thấy cái lưỡi của ông Pan đã biến mất. Chỉ còn lại một chút nơi gốc cái lưỡi thôi. Ông Cheng muốn tìm hiểu tại sao xảy ra như vậy. Ông Pan cầm lấy bút lông và viết trả lời: “Chắc bởi tại năm ngoái chúng tôi bắt trộm một con dê và khi nó bắt đầu kêu la, tôi liền kéo đứt cái lưỡi nó ra.”
Ông Trịnh biết rằng ông Phan bị mất cái lưỡi để bù trả lại cái lưỡi mà ông đã tướt đoạt của con dê. Ông khuyên ông Phan nên làm những Phật sự và hồi hướng các phước đức ấy cho con dê để mong bù đắp sự khổ đau thiệt thòi của nó. Ông Trịnh bảo ông Phan sao chép lại kinh Pháp Hoa.
Ông Phan ân hận về hành động ác mà ông đã làm. Ông thề nguyền sẽ không bao giờ ăn thịt thú vật nữa và hết lòng cố gắng tạo sự an lạc cho con dê, qua những việc làm phước đức, giúp đỡ chùa chiền và cầu nguyện của ông.
Một năm sau cái lưỡi của ông Phan bắt đầu mọc trở lại. Ông ta vui mừng thấy lưỡi của mình đang từ từ dài ra. Ông Phan đến sở làm để báo tin cho ông Trịnh biết. Ông Trịnh hãnh diện thấy ông Phan đã ăn năn sám hối sửa lỗi của mình.
Khi ông Phan có thể nói được trở lại bình thường, ông Trịnh đã thăng chức cho ông. Ông Trịnh là con người thành thực và sáng suốt, cho nên ông rất được mọi người kính mến. Tiếng đồn về những việc làm tốt của ông Trịnh đã đến tai vua Thái Tông, một trong những vị vua hiền đức nhất trong lịch sử Trung Hoa. Và vào năm 635 tây lịch, tức năm thứ 9 dưới triều đại của ngài, ông Trịnh đã được nhà vua thăng cấp lên đến chức Giám Sát Quan là một trong những chức vụ cao cấp nhất triều đình.
Ông Trịnh tâu với đức vua rằng ông được thăng chức là do điều lành mà ông đã tạo ra nhằm giúp cho con dê đau khổ vì mất lưỡi có được hạnh phúc.
Sự Trả Thù của Những Con Ếch
Ngày xưa có một người thợ cạo tên Lương ở tỉnh An huy nước Trung Hoa. Ông có cặp mắt ty hý như mắt chuột. Mặt mày ông xấu xí. Vẻ đẹp bên ngoài không mấy quan trọng, nhưng ngay cả trong tâm ông cũng không tốt gì. Ông luôn luôn gây gỗ và so đo. Ông không bao giờ cố gắng sửa đổi những thói hư tật xấu của ông.
Ông Lương cũng tham lam. Món ăn ông thích nhất là ếch mà người Trung Hoa gọi là “Gà ở Ðồng Ruộng.” Ông không thể dùng bửa nếu không có món ăn này. Ông sành sỏi đến mười hai cách nấu món ăn thịt ếch. Ông có rất nhiều bạn mà tánh tình của họ cũng chẳng tốt gì hơn ông và tất cả đều bảo rằng nếu ếch mà trao vào tay ông Lương thì nó sẽ biến thành món ăn tuyệt hảo.
Bạn bè càng khen ngợi tài nấu thịt ếch của Lương bao nhiêu ông càng giết chết nhiều ếch bấy nhiêu; chẳng khác gì chúng là những kẻ thù mà ông muốn tiêu diệt. Ông sát sanh như vậy mãi đến năm ông bốn mươi tuổi.
Một đêm nọ, trong lúc đang say ngủ, ông cảm thấy khắp thân mình ngứa ngáy. Rồi ông thấy trên giường bao phủ đầy những con ếch. Chúng ở trong mền và cả trên gối! Chúng cũng có mặt trên ván giường. Ếch khắp mọi nơi!
Ông Lương tự bảo: “Thật kỳ lạ. Ðược rồi, ta có cách giải quyết tụi bây.” Ông bắt những con ếch này bỏ chúng vào trong cái hủ. Ông trở lại phòng ngủ và thấy giường ông phủ đầy nhiều ếch hơn nữa!
Ông Lương đã thức suốt đêm để bắt những con ếch bỏ ra khỏi giường.
Hôm sau, ông gặp mấy người bạn và nói với họ tối qua ông đã lùa những con ếch xuống giường. Các bạn bè của ông không làm sao tin nổi điều đó. Thình lình ông Lương chụp lấy vai ông. Ông hét lên: “Những con ếch trở lại!”
Một người bạn ông nói: “Tôi không thấy gì hết.”
“Ngay đây này, một con ếch ở trên lông mày tôi. Một con khác đang bu trên tóc tôi.” Ông Lương la hoảng lên, nhưng các bạn ông ngạc nhiên, sửng sốt, vì họ không thấy con ếch nào cả. Họ nhìn ông Lương đang chạy quanh tay cầm dao cạo cắt vạch lông mày và tóc của ông. Nhưng không ai nhìn thấy một con ếch nào cả. Họ xầm xì: “Chắc ông ta điên rồi.”
Từ đó, ông Lương thấy những con ếch xúm lại tấn công ông mỗi ngày. Ông cố gắng tự bảo vệ với chiếc lưỡi dao cạo, nhưng những con ếch vẫn tiếp tục hiện đến. Ông cầu cứu các bạn bè giúp ông, nhưng chỉ một mình ông nhìn thấy những con ếch đó, mà thôi. Ông Lương đã sống như một người điên kéo dài đến hơn sáu năm nữa trước khi ông qua đời.
Ông kiệt sức vì phải đương đầu chống trả với những con ếch? Chúng đã trả thù ông? Hay ông trở thành người mất trí?
Không ai có thể trả lời. Tuy nhiên mọi người đều biết rằng ông Lương chắc chắn sẽ không gặp quả báo đau khổ khủng khiếp như vậy nếu ông không giết nhiều ếch để nấu ăn.
Tên Đồ Tể Biến Thành Miếng Thịt Hầm
“Dù muốn hay không mày cũng phải đi!” Người hàng thịt tàn ác đã ra sức kéo sợi dây thừng. Ðằng cuối sợi dây, con bò già biết rõ việc gì đang xảy ra. Nó cúi đầu xuống và không chịu nhúc nhích.
“Hãy nhanh lên mày!” Người bán thịt cầm cây roi vừa mắng nhiếc và quất mạnh vào con bò già. Cả hai tranh chấp dằn co như thế ở ngoài đường, một bên vừa chửi rủa và lôi mạnh đi còn bên kia thì im lặng trì kéo lại.
Khi cả hai tiến đến trước một ngân hàng, con bò bất chợt quỳ gối xuống trước cửa và bắt đầu kêu khóc. Nước mắt chảy ràn rụa xuống khuôn mặt đau thương của nó. Ông giám đốc ngân hàng bước ra nhìn thấy cảnh tượng thật quá thương tâm. Con bò lộ vẻ hết sức buồn rầu!
Ông ta hỏi: “Này anh bán thịt, con bò này giá bao nhiêu?”
“Nó giá 8.000, nhưng tôi không bán nó đâu!”
“Ông nói thế nào? Tôi sẽ trả ông 10.000.” Ông giám đốc ngân hàng nhìn con bò khóc ông vô cùng xúc động, và có ý định muốn cứu mạng sống cho nó.
Nhưng anh bán thịt nhạo báng và nói: “Con bò này đã gây nên nhiều khó khăn cho tôi. Tôi sắp chặt đầu và giết chết nó; và đó là điều mà tôi đang sắp làm. Tôi sẽ không bán nó cho ông, vậy xin ông đừng làm phiền tôi mà tăng giá lên!”
Con bò già dường như hiểu được tiếng người nói. Khi nghe biết vậy, nó thở dài đứng dậy và đi theo người bán thịt.
Anh bán thịt rất giận dữ vì thấy con bò cứ van nài xin tha tội chết cho nó. Thay vì đưa ra chợ ông dắt nó về nhà và chặt con bò ra thành nhiều khúc. Ông bỏ nấu thịt của chúng trong một cái nồi thực lớn.
Ðến khuya, ông đặt nồi thịt bò trên bếp lửa cháy suốt đêm; để sáng mai thịt được nấu chín nhừ và ngon. Rồi ông đi ngủ.
Sáng sớm hôm sau, bà vợ thấy ông thức dậy. Ông nói: “Ðể tôi xuống coi lửa củi và xem nồi thịt nấu ra sao.” Rất lâu, bà vợ thấy ông đã không trở vào. Bà liền đứng dậy đi tìm ông. Nơi nhà bếp, bà thấy lửa đang còn cháy dưới nồi thịt nhưng chồng bà đã bị té ngã vào trong chiếc nồi lớn để cùng chung nấu với thịt bò!
Bị Đoạ Làm Chó
Phong King là một ngôi làng rất đẹp. Phần đông dân chúng sống ở đó là những nông dân chất phát. Họ rất thật thà và chăm chỉ làm việc. Mọi người đều ăn ở hòa thuận với nhau nên cuộc sống của họ rất hạnh phúc.
Trong làng có một gã hèn mọn xấu xa, tên Trần. Ông ta làm chủ một cửa tiệm nhỏ, việc làm ăn buôn bán khá phát đạt, nhờ vậy lần hồi ông dành dụm được một số tiền nhỏ.
Trần thích uống rượu và ăn thịt chó. Khi rảnh rỗi, ông mua rượu và nấu thịt chó để tổ chức ăn nhậu.
Ông thường nói với mọi người: “Thịt chó có mùi vị thơm tho và ăn thật hết xẩy. Không có gì ăn khoái khẩu bằng thịt chó nấu đúng điệu và nhậu nó với rượu thật ngon!” Ông Trần thích mời bạn bè đến dự tiệc, và trong nhiều năm, ông đã giết một số thịt chó.
Năm 1756 ông Trần bị ốm. Ngày nọ, ông ngất xỉu, phải lên giường nằm, nhưng các bác sĩ không biết ông đau bệnh gì.
Vợ ông hết lòng ở bên cạnh chăm sóc, nhất là sau khi ông bị liên tục té xỉu ngất đi. Vào một đêm khuya, ông Trần quay tròn và nhào lộn, nhưng bà vợ không thể giúp ông được gì. Rồi bà nghe ông nói lảm nhảm. Bà ghé sát tai vào và hoảng kinh khi nghe ông nói:
“Kìa, con chó đen khác đến!
“Con chó vá tới cắn tôi!
“Hai, ba, bốn và nhiều con chó khác nữa đếm không hết, xin bà con đến lôi giúp mấy con chó ra và xua đuổi chúng đi giùm cho!”
Rồi ông Trần la hét lớn tiếng khiến mọi người trong nhà thức giấc. “Hãy giúp tôi! Hãy giúp tôi! Ai đó, hãy đến cứu tôi với!” Mọi người đều nghe tiếng ông, nhưng không ai thấy con chó nào hết. Tất cả đều chứng kiến cảnh ông Trần quay tròn và nhào lộn trên giường với cặp mắt ông nhìn thật dữ tợn.
Các thân nhân của ông đều lắc đầu buồn rầu nói: “Chắc ông ta điên rồi”
Ngay trước khi chết, ông Trần bò quanh dưới giường. Ông khom lưng đi bằng hai tay với hai đầu gối, gầm gừ và sủa như chó cho đến lúc ông qua đời.
Con người vào lúc sắp lâm chung nhắm mắt thường có các tướng trạng hiện ra báo trước cho biết họ sẽ tái sinh vào cảnh giới nào sau khi mất. Người chết một cách an lành, sẽ sinh lên cõi Trời hưởng nhiều phúc lạc. Kẻ nào bị đọa vào địa ngục cũng có thể biết trước. Sự khổ đau bắt đầu hiện ra trước khi họ lìa đời và họ chết một cách đau đớn.
Ông Trần chắc sẽ bị đầu thai kiếp sau làm thân con chó. Và nhìn gương ông bị quả báo nhãn tiền, một số người đã sợ hãi không dám ăn thịt chó nữa.
Những Con Lươn Trả Thù
Qúy Châu là một trong những vùng kém mở mang ỏ Trung Hoa. Nó là tỉnh núi rừng nằm ở phía tây nam. Tại đây có một người tên Lục rất thích ăn thịt lươn đến nỗi ông không thể dùng cơm nếu không có thức ăn nấu với lươn.
Nếu có ai hỏi tại sao ông khoái ăn thịt lươn như vậy, ông luôn luôn trả lời vì “món ăn đó rất ngon.”
Vào năm sáu mươi tuổi, một hôm ông ra chợ mua mấy con lươn rất mập. Người bán hàng hỏi: “Ông muốn mua cá không? Cá sống, tươi và lớn ngay đây.”
Ông Lục hỏi: “Có lươn không?”
Anh bán lươn đáp: “Ngay đây trong hủ này.” Ông Lục vén áo đưa tay vào hủ để lựa những con lươn béo mập. Ông có nhiều kinh nghiệm, bằng cách này, ông có thể chọn mua những con lươn béo mập, mặc dù ông không nhìn thấy chúng.
Hôm đó, mọi việc xảy ra khác hẳn. Khi ông đưa cánh tay vào hủ, mặt ông trở nên tái xanh và ông thét lên một tiếng như con bò đực bị thương. Mọi người đều nhìn vào ông và thấy những con lươn trong hủ đang tấn công, và cắn cánh tay ông dữ dội.
Không ai biết làm sao. Họ không thể giựt mấy con lươn ra khỏi cánh tay ông. Vài người chạy về nhà báo tin và mấy đứa con ông Lục mang kéo nhọn ra cứu ông. Con ông cắt những con lươn ra làm đôi, nhưng đầu của chúng vẫn bám chặt nơi cánh tay và răng chúng cắn sâu vào thịt ông. Một lúc sau, mấy người con ông cắt đứt hết đầu những con lươn với nhiều thịt xẻo khỏi cánh tay ông Lục, và cuối cùng ông chết một cách đau đớn.
Mười Một Kiếp Đầu thai Làm Thân Bò
Vào năm 1815 có một người tên Lâm qua đời. Gia đình và bạn bè ông rất buồn vì ông là người hiền lành.
Ông Lâm nhận biết mình đang ở cảnh giới địa ngục. Lúc ấy vị Diêm Vương đang xử án. Các tên cai ngục toàn là những quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa. Một vài con quỷ khác đang chờ lên dương thế bắt người kế tiếp xuống địa ngục. Trên tường treo đầy các dụng cụ tra tấn khủng khiếp. Ðây là cảnh giới do ý nghĩ và việc làm xấu ác của chúng ta tạo ra chứ không phải bởi thần linh hay ma quỷ nào cả.
Ðến lượt bác sĩ Doản bị dẫn đưa vào tòa án.
Những tên cai ngục quát lớn: “Hãy quỳ xuống!” Ông Doản quỳ và thấy có vài người đang quỳ bên cạnh ông. Rồi ông nhận ra một tội nhân khác – đó là ông Lý người bạn chủ hàng thịt ở địa phương ông.
Giờ đây, ông Lý tỏ vẻ không có chút gì thân thiện. Khi thấy bác sĩ Doản ông chỉ vào mặt và thưa với vị Diêm Vương:“Tất cả đều do lỗi của ông ta! Chính ông là tội phạm! Nếu ông Doản không ăn thịt bò, thì tôi đã không giết bò! Xin ngài hãy bắt ông Doản và thả tôi ra!”
Bác sĩ Doản đáp lại: “Thưa ngài, tôi không có lỗi gì hết. Nếu ông Lý không giết, bán thịt, thì tôi đã không ăn thịt bò.” Ông Lý tức giận khi nghe ông Doản nói vậy. Những tên cai ngục liền can ngăn hai người ra.
Vị Diêm Vương đập mạnh tay xuống bàn và quát lớn: “Hãy im đi!” Một người giết, còn người kia thì ăn. Cả hai đều có tội hết!
Diêm Vương nói: “Các ngươi không có chút lương tâm gì hết sao? Trâu bò cày ruộng để trồng lúa nuôi sống con người mà quý vị đã không biết ơn lại còn giết hại ăn thịt những con vật vô tội này. Nếu người ta ăn nhiều thịt bò, nhiều bò sẽ bị sát hại. Nếu người đời dùng ít thịt thì vài con bò bị giết thôi. Nếu không ai ăn thịt thì sẽ không có con bò nào bị giết chết. Các ngươi có biết như vậy không?” Cả hai đều tuân phục gật đầu.
Diêm Vương phán tiếp: “Ông Lý! Tội của ngươi là không có lòng thương và giết hại các sinh vật, ta đày ngươi vào cảnh giới Ðịa Ngục, để ngươi nhận chịu quả báo bị hành hạ khổ đau cho đến khi nào ngươi biết ăn năn hối cải. Hãy lôi nó đi!” Các tên cai ngục hò hét đá vào ông Lý bán thịt kêu la và lôi dắt ông ta đi.
“Còn bác sĩ Doản! Tội ông là đã ăn quá nhiều thịt bò. Mỗi lần bệnh nhân mời đãi ông dùng cơm tối, ông luôn luôn đòi ăn thịt bò. Nhà ngươi có biết đã dùng thịt hết bao nhiêu con bò rồi không? Vậy ông đã thấy tội của ông chưa?” Bác sĩ Doản ngước lên và gật đầu.
“Không những thế, ông còn giết chết mười một bịnh nhân do sự chữa trị ngu dốt và bất cẩn của ông.”
“Với những tội ác này, ta trừng phạt bắt ngươi phải nhận đâù thai trong mười một kiếp làm thân bò để trả món nợ do sự chữa bịnh sai lầm mà ông đả gây ra cho các bệnh nhân đó.
Ông sẽ kết liễu mỗi kiếp sống của mình một cách đau đớn dưới lưỡi dao của tên hàng thịt để mong chuộc cái tội ông gây đau khổ cho các sinh vật hiền lành. Hảy dắt nó đi!” Bác sỉ Doản kêu thét lên, và những tên cai ngục nắm lôi đẩy ông ra ngoài tòa án.
Diêm Vương lại quay sang ông Lâm, nói với gọng ôn tồn: “Riêng phần ông, vì ăn ở hiếu thảo với cha mẹ và có lòng yêu thương tổ quốc, nên chưa đến phiên ông, vậy nhà ngươi có thể trở về dương thế. Nhưng hãy kể cho mọi người biết những điều ông đả thấy ở đây để họ ăn hiền ở lành hầu tránh khỏi bị đọa vào cảnh giới địa ngục khổ đau này.”
Và nhờ vậy, ông Lâm đã sống trở lại.
Ao Sen Và Con Rết
Vào khoảng 400 năm trước có vị đại sư tên “Liên Trì,” có nghĩa là Ao Sen. Ông cầu mong tất cả mọi người được vãng sanh về Ao Sen nơi cảnh giới Tịnh Ðộ của đức Phật A Di Ðà.
Ngày nọ, vị sư gặp một người xách những con rết được cột vào một thanh tre. Chúng đang đau khổ. Sư Liên Trì hỏi: “Ông có thể mở rộng lòng thương mà thả hết những con rết này ra không?”
“Không được! Những con rít độc hại này dùng làm thuốc rất hay! Tôi không muốn thả chúng ra, nhưng nếu ông mua thì tôi có thể bán.”
“Rất tốt. Ông muốn bán với giá bao nhiêu?” Mặc dù người đó rất thô lỗ, nhưng sư Liên Trì vẫn tươi cười và nói chuyện rất lễ độ. Vị sư mua hết những con rết đó, nhưng vì bị xâu vào que tre cho nên phần lớn chúng đã chết. Chỉ có một con đang còn sống. Nó nhìn sư Liên Trì rất lâu. Rồi nó bò đi.”
“Một lát sau, nhà sư Liên Trì đang ngồi nói chuyện với người bạn về giáo lý đức Phật. Thình lình mặt đạo hữu này bỗng tái đi và ông la lên: “Hãy trông kìa con rết!”
Một con rết to lớn, nhiều lông và ghê rợn đang bò trên tay áo của nhà sư Liên Trì. Người bạn chạy lấy một que gỗ để hất con rết xuống nhưng nó vẫn không chịu đi. Sư Liên Trì tỏ vẻ không chút sợ hãi.
Nhà sư hỏi con rết: “Phải chăng ngươi là con rết mà ta đã mua và thả ra ban nãy? Nếu chính là con thì hãy ở lại đây để ta thuyết pháp cho nghe.”
Con rết nằm yên không cử động, và sư Liên Trì dịu dàng bảo nó: “Bất cứ ai thông suốt những lời dạy của chư Phật đều hiểu biết rằng bản thể của vạn vật trong thế giới vật chất này đều do tâm chúng ta tạo ra.
“Mọi cuộc sống đều do tâm làm chủ. Con người có ý tưởng xấu xa, ích kỷ sẽ trở thành chó sói hay cọp beo. Người nào có tâm nham hiểm sẽ biến thành loài rắn dữ, bò cạp hay loại sâu bọ độc hại khác.
“Kiếp này con làm thân con rết có chất độc. Phải chăng đó chỉ là việc tình cờ? Không phải, mà chính do đời trước con đã có cái tâm ác độc. Nếu con muốn hết khổ đau, con phải dứt trừ cái tâm xấu ác, và con sẽ được giải thoát. Nhưng chỉ có con mới cứu thoát được cho con.
“Con hiểu chưa? Thôi khá đủ rồi. B?
Tác giả: G.B. Talovick - Người dịch: HT. Thích Trí Chơn
Nhà Xuất Bản TP.HCM, Năm 2003 - 62 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 1
Tập 1
MỤC LỤC
1. Chú Tiểu Sa Di Cứu Sống Đàn Kiến
2. Đại Sư Hsin Cầu Nguyện Chấm Dứt Nạn Hạn Hán
3. Giải cứu những Con Thỏ Bị Sập Bẩy
4. Đại Tướng Mao Và Con Rùa
5. Những Con chim Lo Việc Mai Táng
6. Đàn Ong Ngăn Chặn Một Vụ Án Xử Oan
7. Con Rùa Chữa Lành Bịnh Cho Người Hầu Gái
8. Một Ông Nhà Giàu Không Có Con
9. Những Viên Ngọc Rắn
10. Giải Cứu Đứa Con Của Long Vương
11. Quả Báo Của Một Việc Làm Ác
12. Một Trăm Mạng Sống
13. Tên Đồ Tể Đền Tội
14. Cái Lưỡi Dê
15. Sự Trả Thù Cuả Những Con Ếch
16. Tên Đồ Tể Biến Thành Miếng Thịt Hầm
17. Bị Đoạ Làm Chó
18. Những Con Lươn Trả Thù
19. Mười Một kiếp Đầu thai Làm Thân bò
20. Ao sen Và Con Rết
21. Một tai Nạn vì Săn bắn
22. Thần Linh trừng Phạt Người Ăn Thịt Chó
CHÚ TIỂU SA DI CỨU SỐNG ĐÀN KIẾN
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời. Chú học đạo rất nhanh.
Thầy của chú rất sáng suốt có thể đoán biết trước được chuyện tương lai. Lần đầu tiên mới gặp, vị thầy xem tướng biết thọ mạng của chú học trò nhỏ này sẽ kéo dài không lâu. Ngày nọ, ông ta tính ra và nhận thấy rằng chú học trò này chỉ còn sống được bảy ngày nữa thôi. Vị thầy rất buồn.
Ông ta gọi người đệ tử lại và bảo rằng: “Này con, đã lâu lắm con không được gặp mẹ con. Thầy nghĩ con cần nghỉ một thời gian để về nhà thăm mẹ con và sau tám ngày hãy trở lại đây.” Vị thầy dạy như vậy với hy vọng rằng chú này có thể chết tại nhà cha mẹ của chú.
Khi người đệ tử đi rồi, vị Thầy cảm thấy rất buồn cho chú. Ông ta nghĩ rằng ông không bao giờ có thể gặp lại chú nữa.
Tám ngày sau, người đệ tử trở lại. Vị thầy mừng rỡ và rất ngạc nhiên thấy chú vẫn khỏe mạnh. Chú không lộ vẻ gì cho thấy rằng chú giống như người sắp lìa đời.
Cuối cùng, vị thầy muốn tìm hiểu nguyên nhân tại sao. Ông nói với người đệ tử: “Này con, ta đã nhiều lần xem tướng đoán việc tương lai, và chưa bao giờ sai lầm.
Ta bảo con trở về thăm nhà vì ta biết chắc rằng con sẽ chết trong vòng bảy ngày. Nhưng bảy ngày đã trôi qua, không những con vẫn còn sống mà trông con có vẻ khỏe mạnh. Yểu tướng sắp lìa đời nơi con đã biến mất. Vậy con đã làm sao mà được như vậy?”
Nghe nói thế, người đệ tử sửng sốt. Chú không biết phải trả lời với Thầy thế nào. Vị Thầy liền bắt đầu nhập định và biết rõ sự việc.
“Trên đường về nhà có phải con đã cứu sống một đàn kiến?”
“Thưa thầy, dạ có. Trên đường về nhà, con gặp thấy một đàn kiến rơi xuống nước. Nhìn thấy đàn kiến sắp bị chết đuối, con liền đưa một khúc gỗ xuống để cứu chúng.”
“Ðúng vậy. Do lòng từ bi cứu đàn kiến mà con được sống lâu. Các thánh nhân đã dạy rằng: ‘Cứu một mạng sống, phước đức lớn hơn xây dựng một ngọn tháp bảy tầng.’ Con nhờ cứu hàng trăm chúng sanh, mà con sẽ được sống trường thọ.
“Nay tương lai của con thật huy hoàng, nhưng con vẫn nên tiếp tục cứu độ cho mọi chúng sanh. Con cần phải truyền bá giáo lý của đức Phật. Hãy dạy cho mọi người nên có lòng từ bi. Và khuyên tất cả đừng nên sát sanh. Hãy để cho mọi thú vật sống an lành.”
Người đệ tử không bao giờ quên lời thầy dạy. Chú đã nỗ lực tinh tấn tu hành và trở thành một đại sư. Chú đã sống rất thọ, và trường thọ.
Đại Sư Tín Cầu Nguyện Chấm Dứt Nạn Hạn Hán
Ðại sư Tín là một vị Tăng có nhiều trí tuệ và thần lực. Ðây là thành quả do con người nỗ lực tu tập mới có được. Tánh tình nhà sư rất hiền hậu và có lòng thương bao la.
Một hôm, nhà sư gặp một ông lão già đánh cá, tay xách cái giỏ. Nhìn vào, nhà sư thấy đầy một giỏ rùa. Nhà sư biết rằng ai mua những con rùa này, họ sẽ giết chúng để nấu ăn. Nhà sư liền nghĩ: “Này những con rùa đáng thương, các con không muốn người ta giết thịt phải không?” Vị sư liền lấy tiền ra mua hết giỏ rùa và đem thả chúng xuống “Hồ Nước Sống Giải Thoát.”
Vài năm sau, xảy ra một trận hạn hán khủng khiếp. Mọi người nông dân đều lo lắng, vì nếu trời không mưa, lúa không mọc được thì họ sẽ có thể bị chết đói. Dân chúng biết rõ về hiểm họa chết đói ấy vì nó vẫn thường xảy ra. Khi có nạn hạn hán, hàng trăm người sẽ bị thiếu ăn. Người ta phải ăn cỏ hoặc vỏ cây để sống, và nhiều người sẽ chết đói.
Trước đây khi bắt đầu xảy ra hạn hán, các nông dân thường giết bò và dê cúng tế để cầu mưa, nhưng thường thì không mang lại kết quả mấy.
Lần này có nông dân đưa ra một ý kiến hay: “Chúng ta nên đến nhờ đại sư Tín giúp đỡ. Vì đại sư có nhiều quyền phép nên ngài có thể cứu giúp chúng ta được.”
Ðông đảo dân chúng kéo lên chùa và thỉnh cầu đại sư Tín làm cách nào để có mưa. Vị sư cười và bảo họ: “Chắc chắn được, không khó khăn gì. Tôi sẽ cầu nguyện cho trời mưa, nhưng trước hết quý vị hãy giúp cho điều này. Từ nay đến ngày làm lễ không ai có thể giết hại sinh vật. Ngoài ra, mọi người đều phải ăn chay. Nếu không thì, việc cầu nguyện sẽ không có kết quả.”
Ngay cả những người có tâm địa hẹp hòi không thể sống mà không có thịt nghĩ rằng dùng thực phẩm chay chứ đâu phải nhịn không ăn gì hết đâu nên mọi người đã kính trọng vâng lời đại sư Tín và tất cả đều hứa họ sẽ không giết hại bất cứ sinh vật nào cũng như sẽ không ăn thịt hay thực phẩm làm bằng thịt.
Vào ngày lễ, dân chúng địa phương lên chùa với lễ vật trái cây và hương đèn. Ðại sư Tín đang chờ họ. Khi mọi người đã sẵn sàng, nhà sư thắp hương và bắt đầu khấn nguyện đọc chú: “Om! Dajrta Salo Salo.”
Một vài người nói: “Tôi không hiểu ông ta đọc cái gì.”
Mấy bạn khác hỏi người bên cạnh: “Ông có nghĩ rằng mọi việc đang diễn tiến tốt đẹp?”
Nhiều người nói: “Nếu nhà sư cầu đảo cho mưa được, từ nay tôi sẽ phát nguyện ăn chay.”
Ðại sư Tín chú tâm cầu nguyện, và trước khi cây hương đầu tiên vừa cháy hết, mây đen hiện ra trên bầu trời và đổ mưa như trút nước xuống mặt đất khô cằn. Mọi người đều thành kính quỳ xuống, tỏ lòng biết ơn nhà sư với nước mắt chảy ràn rụa trên mặt của họ chan hòa với nước mưa đẫm ướt.
Giải cứu những Con Thỏ Bị Sập Bẩy
Ngài Huệ Năng, một đại sư Trung Hoa sống vào những năm 638 đến 713 sau Tây Lịch. Gia đình ngài rất nghèo đến nỗi ngài không bao giờ được cắp sách đến trường để học đọc hay viết. Ngài vốn có trí tuệ đặc biệt, và sau khi tìm hiểu Phật giáo, ngài đã xuất gia đi tu. Ngài tinh tấn tu hành, và ít lâu sau ngài chứng quả, giác ngộ. Thầy của ngài, vị tổ thứ năm của Thiền tông đã trao cho ngài y bát của vị tổ đầu tiên, ngài Bồ Ðề Ðạt Ma, mang từ Ấn Ðộ sang Trung Quốc. Ngài Huệ Năng trở thành vị tổ thứ sáu của Thiền tông, mà người Nhật gọi là Thiền (Zen).
Sau khi chứng đạo giác ngộ, ngài nhận thấy con người đã tự gây ra sự đau khổ cho mình bởi họ đã giết loài vật để ăn thịt. Ngài khuyên mọi người nên chấm dứt việc sát hại lẫn nhau để khỏi gặp thảm họa nhưng không ai chịu nghe!
Ngài Huệ Năng rất buồn thấy những người thợ săn thường hay giết thú rừng cho nên ngài đã cởi bỏ y áo và giữ tóc dài để không ai biết ngài là nhà sư. Rồi ngài tham gia vào đoàn người thợ săn và theo họ đi săn tháng này qua tháng khác trong rừng hoặc trên núi.
Ngài Huệ Năng không thể bắn hay sập bẫy, bởi vậy đoàn thợ săn đã giao cho ngài trông coi các chiếc lưới. Ðó là công việc mà ngài ưa thích. Khi thấy con nai hay con thỏ nào bị mắc vào lưới. Nếu nhìn xung quanh không có người thợ săn nào, ngài liền tháo lưới để cho những con vật chạy thoát.
Nếu có mặt những người thợ săn, ngài liền van xin yêu cầu họ thả chúng ra.
Ngài chung sống với đoàn thợ săn trong mười sáu năm. Nhờ vậy không những ngài đã cứu thoát được nhiều thú vật, mà còn giáo hóa cho những tên thợ săn thấy được sự tàn ác của việc làm sát sinh này để họ tìm một nghề sinh sống khác lương thiện hơn.
Ngài Huệ Năng về sau đã xây dựng một ngôi chùa. Với lòng thương bao la và trí tuệ sáng suốt của ngài khiến cho mọi người từ khắp nơi xa xôi đã đến học đạo với ngài, và trở thành những người Phật tử. Các đệ tử của ngài đã truyền bá Thiền Tông vào Ðại Hàn, Nhật Bản, và hiện nay sang Châu Âu và Châu Mỹ.
Đại Tướng Mao Và Con Rùa
Tại Trung Hoa và đời nhà Tấn khoảng hơn 1.600 năm trước, có một nhà thông bác tên Mao Bảo rất thương yêu loài vật. Một hôm nọ, trước khi trúng tuyển kỳ thi của triều đình và trở thành một quan chức của chính phủ, ông gặp một người đánh cá đang xách một con rùa anh ta vừa bắt được để mang ra chợ bán. Ông Mao Bảo liền mua con rùa và thay vì làm thịt để ăn, ông mang nó ra thả nơi hồ nước gần đó.
Sau này, ông Mao Bảo trở nên một vị đại tướng có nhiều thế lực. Các đại tướng dù tài giỏi đến đâu, đôi lúc cũng bị thất trận; cho nên tại chiến trường ở Chuch’eng, quân đội của đại tướng Mao bị đánh bại bởi tướng Chilung và quân của Mao phải trốn chạy để tìm đường sống.
Quân thù rượt đuổi theo rất khẩn cấp. Ðại tướng Mao cũng chạy nhanh không kém. Khi ông đến một hồ nước lớn nhưng nhìn quanh ông không thấy một chiếc cầu hay thuyền bè nào. Không có cách gì để vượt qua hồ nước. Ðại tướng Mao cũng không biết bơi; và hơn nữa, mặc áo giáp nhà binh nặng nề, khi xuống nước chắc ông sẽ bị chìm xuống đáy hồ.
Ông nhìn lui thấy quân thù rượt đuổi gần kề. Ông nhìn lên trời và than: “Trời đất đã bỏ rơi tôi rồi!”
Ðể khỏi rơi vào tay kẻ thù, đại tướng Mao nghĩ đến chuyện tự sát. Ngay khi ông vừa muốn tự tử ông liền thấy một vật gì to lớn hiện trồi lên mặt nước và đang tiến sát cạnh bờ hồ, nơi ông dự tính sẽ tự kết liễu đời mình.
Ðại tướng Mao không còn có thì giờ để suy nghĩ về vật thể đang trồi nổi trên mặt hồ. Quân thù rượt đuổi theo càng ngày càng gần ông hơn. Ông tự nghĩ: “Nếu tự sát ở đây, quân thù sẽ cướp lấy thân xác và điều đó sẽ làm nhục cho quốc thể và vị hoàng đế của ta. Vậy tốt hơn ta nên gieo mình xuống hồ nước và như thế quân thù sẽ không tìm thấy xác của ta.” Cuối cùng, ông liền nhảy xuống hồ nước.
Nhưng ông ngạc nhiên thấy chân mình như chạm đứng trên một vật gì và vật đó bắt đầu rời bờ, vượt qua hồ nước tiến sang bờ bên kia. Ðại tướng Mao vô cùng kinh ngạc.
Quân thù rượt đuổi sát cạnh hồ nước. Chúng bắn tên như mưa vào đại tướng Mao, nhưng ông ta đã vượt thoát ra xa. Những mũi tên đều rơi xuống nước và không trúng ông.
Ðại tướng Mao nhìn xuống và nhận thấy mình đang đứng trên lưng một con rùa to lớn. Nó đã mang đưa ông vượt qua đến bờ hồ bên kia. Ðại tướng Mao bước lên bờ. Con rùa hiện trồi lên mặt nước, và chào ông. Rồi nó lặn xuống hồ và bơi đi.
Ðại tướng Mao liền nhớ lại mười hai năm trước ông đã cứu thoát một con rùa và thả nó xuống hồ nước, chính ngay tại hồ này!
Giờ đây khi gặp nạn cùng đường con rùa biết ơn đó đã hiện ra để cứu sống cho ông. Ðúng là, xưa người cứu vật sống, nay vật cứu sống người!
Những Con chim Lo Việc Mai Táng
Ngày xưa, có một vị ẩn tu sống trong một túp lều nhỏ.
Tên của vị đó là Tôn Lương. Ông ta rất nghèo, nhưng tính tình chân thật và có lòng thương loài vật. Ông ta làm nhiều công việc lặt vặt. Và tiền ông kiếm được rất ít. Khi thấy con vật nào bị sập bẫy, nếu có đồng nào, ông liền mua con vật đó để thả cho nó chạy vào rừng.
Bằng cách này, ông đã cứu thoát vô số loài vật, nhưng ông không thể để dành được nhiều tiền, do đó ông vẫn rất nghèo.
Khi đến tuổi già không làm gì được nữa, ông phải đi xin ăn để sống qua ngày. Ngày nọ, khi già trên 70 tuổi ông quá yếu phải nằm trên giường không ngồi dậy nổi và ít lâu sau, ông từ trần.
Tôn Lương không có bạn bè và thân nhân. Ông nghèo đến nổi không có tiền để mua một chiếc hòm. Ðối với người Trung Hoa, điều bất hạnh nhất là khi mình chết mà không có ai lo việc chôn cất. Ông Tôn Lương cũng không có một người thân chăm sóc. Ða số những người láng giềng đều nghèo như ông. Họ không hay biết là ông đã qua đời, nhưng dù họ có biết chăng nữa, chắc chắn họ cũng không có đủ tiền để sắm nổi một chiếc hòm và lo việc mai táng cho ông.
Vào buổi sáng sau khi ông Tôn Lương mất, người hàng xóm ngạc nhiên thấy trên trời hiện ra đầy chim chóc. Hàng nghìn con chim từ khắp nơi bay đến chỗ túp lều của ông. Những người láng giềng đổ xô lại xem cho biết việc gì đã xảy ra. Họ thấy ông Tôn Lương đang nằm chết trên giường. Họ tưởng rằng những con chim đó bay lại để rỉa rứt ăn thịt ông.
Rồi họ ngạc nhiên thấy mỗi con chim ngậm nơi mõ của nó một ít đất và nhả đất này xuống trên thân xác của ông Tôn Lương. Ðàn chim bay lại để tỏ lòng biết ơn và lo việc mai táng cho người đã từng cứu sống chúng.
Hàng nghìn và hàng nghìn con chim đã bay đến. Chúng bay lui bay tới. Vào trước buổi trưa, chúng đã thả đất lấp đầy túp lều của ông; và xây thành một nấm mộ cho ông Tôn Lương.
Những người hàng xóm đều vô cùng xúc động khi nhìn thấy cảnh tượng này. Từ đó về sau, họ không bao giờ đặt lưới hay bẫy sập một con vật nào.
Đàn Ong Ngăn Chặn Một Vụ Xử Oan
Ngày xưa, có ông chủ một quán ăn trông thấy một con ong bay rớt vào trong hủ rượu của ông. Người chủ quán cảm thấy tội nghiệp cho con ong bé nhỏ, ông liền hạ thấp chiếc đũa để cho nó leo lên đó mà bò ra. Ông đặt chiếc đũa xuống và nhìn con ong đang tìm cách tự làm khô mình. Nó đập nhẹ hai cánh để mau khô hơn. Khi con ong hoàn toàn khô rồi, nó bay lên và kêu vo vo.
Sau đó, người chủ quán nhận thấy những con ong khác cũng bị thu hút bởi mùi rượu nên đã bay tới rớt vào và chết đuối trong hủ rượu. Từ đó, ông chú ý đến chúng và đã cứu sống được rất nhiều con ong.
Ông làm việc phước đức này tiếp tục trong nhiều năm. Một ngày nọ, ông giật mình thấy lính của nhà vua vào quán, và không một lời giải thích họ còng tay áp giải ông tới pháp đình. Khi đến nơi, người chủ quán mới biết rằng ông bị người ta vu oan giá họa. Vài tên cướp bị bắt đã tố cáo ông nằm trong băng đảng của họ; cho nên quan tòa thụ lý vụ án đã quyết định xử chém đầu ông cùng với những tên cướp khác.
Người chủ quán đã kêu than rằng ông ta vô tội, nhưng bọn cướp vẫn nhứt quyết bảo rằng ông có tội; cho nên quan tòa đã tuyên bố rằng ông ta phạm tội. Lòng người chủ quán vẫn bìnhthản không chút sợ hãi khi nhìn thấy vị quan tòa cầm bút lông đỏ phê bản án tử hình buộc tội ông ta.
Ngay vừa lúc ông chánh án cầm bút lông định phê bản án thì ông nghe tiếng vo ve ồn ào mỗi lúc một gần và ngày càng rõ hơn. Một đàn ong bay vào cửa sổ và bu đậu nơi đầu bút lông đỏ của vị quan tòa. Ông vảy mạnh ngọn bút lông để hất mấy con ong ra, nhưng nhiều con khác lại tiếp tục bay đến. Ðàn ong không chích đốt, nhưng chúng không chịu bay đi.
Vị quan tòa nhận thấy đây là một việc hết sức kỳ lạ. Ông liền suy nghĩ: “Có thể những con ong này bay đến để ngăn chận không cho ông phê chuẩn một bản án hoàn toàn oan ức.”
Do đó, vị quan tòa cho xem xét lại hồ sơ những tên cướp này và tìm thấy có nhiều mâu thuẩn trong lời khai của chúng. Ông liền cho điều tra bọn cướp trở lại. Lần này ông chắc rằng ông đã kết án một người vô tội.
Chỉ sau khi bản án tử hình của người chủ quán được vị quan tòa hủy bỏ những đàn ong mới chịu bay đi! Rồi ông quan tòa hỏi tên chủ quán có biết tại sao đàn ong bay đến cứu thoát cho ông không?
“Thưa ngài tôi thực sự không biết, nhưng có thể là do tôi đã cứu sống nhiều con ong bị chết đuối trong những hủ rượu của tôi. Chúng ngửi thấy mùi rượu nên bay đến, rơi vào trong đó và không thể thoát ra được. Thấy vậy, tôi luôn luôn cứu sống chúng. Giờ đây, chúng bay đến để cứu giúp lại tôi. Thưa ngài, tôi nghĩ chắc là như vậy.”
“Thực là một việc hết sức mầu nhiệm! Ông gặp cảnh ngộ thập tử nhứt sanh. Nhưng ông thoát chết nhờ ông đã hành thiện. Vậy ông nên cố gắng làm nhiều việc lành hơn nữa. Chắc chắn tương lai ông sẽ hưởng toàn quả phúc
Những lời dạy của vị quan tòa chứng tỏ đã đúng với sự thực. Người chủ quán đã làm tất cả mọi việc lành mà ông có thể. Công việc làm ăn của ông mỗi năm mỗi phát triển. Ông sống cuộc sống trường thọ, giàu sang, hạnh phúc, và chết một cách an lành.
Con Rùa Chữa Lành Bịnh Cho Người Hầu Gái
Vợ chồng ông Trần vì có chút việc bận đi ra ngoài nên đã dặn người đầy tớ gái: “Cô nhớ rửa thật sạch con rùa trước khi nấu chín nó. Vì con rùa quá lớn nên cô phải cẩn thận luộc nó cho thật kỹ. Cố gắng làm tốt công việc của cô nghe.”
Cô hầu gái trả lời: “Chắc chắn, tôi biết nấu mà.” Khi mọi người đi rồi, cô ta vào trong bếp, đứng nhìn con rùa và nghĩ đến cách phải nấu ra làm sao. Ngay lúc cô trông thấy con rùa đang nằm trên nền nhà, cô cảm thấy thương hại nó. Cô bảo thầm: “Này con rùa khốn khổ. Hẳn chắc rằng con thích bơi lội dưới sông hơn là trong nồi nước xúp?”
Tại sao người hầu gái xót thương con rùa đặc biệt này? Cô đã giết nấu nhiều rùa cho gia đình ông Trần vì họ thích ăn thịt rùa. Cô cảm thấy tội nghiệp cho con rùa nên cô đã nhặt nó lên mang ra cửa và thả cho nó bò đi.
Rồi cô nghĩ: “Ta không thể làm vậy được vì khi ông bà Trần trở về mong dự bữa tiệc thịt rùa mà ta lại bảo rằng tôi lấy làm tiếc là đã phóng thích nó đi mất thì họ sẽ bực mình như thế nào? Hơn nữa dù cho ông bà Trần có đánh đập cô thì điều đó cũng không làm cô đau đớn nhiều bằng con rùa bị đem bỏ vào nồi nấu.” Rồi cô quyết định thả cho nó đi.
Khi ông bà Trần trở về nhà sửa soạn dự tiệc thì thấy trên bàn ăn trống trơn, ông bà nổi giận mắng nhiếc và đánh đập người hầu gái. Nhưng cô nhẫn nhục chịu đựng.
Sau này khi trong vùng xảy ra bệnh dịch. Người tớ gái bị đau nặng. Ông bà Trần mời bác sĩ đến khám bệnh cho cô và bác sĩ đã bảo họ nên chuẩn bị mua hòm vì cô sắp chết đến nơi rồi.
Tối hôm đó, người hầu gái nằm mơ thấy một con vật mình ướt và lấm bùn, bò lên khỏi hồ nước. Nó bò gần lại phía cô ta. Mỗi lúc nó càng tiến lại gần sát cô hơn nữa. Rồi con vật đó tiến vào phòng leo lên và bò vào giường cô, nhưng cô không cảm thấy sợ hãi.
Rồi con vật ướt lấm bùn đó bò lên thân mình người tớ gái và cô cảm thấy khắp toàn thân cô mát mẻ. Nhiều ngày qua cô không cảm thấy được dễ chịu như vậy.
Hôm sau, ông bà Trần cầm cái thước dây đi vào phòng đo kích thước để mua hòm cho người hầu gái và thấy cô đã ngồi dậy. Khắp thân mình cô lấm bùn, nhưng trông cô khỏe hơn trước. Bà Trần hỏi:
“Cô đã thức dậy?” Cô đáp: “Vâng, thật là kỳ lạ, hôm nay tôi cảm thấy đã bớt nhiều?”
“Tại sao khắp thân mình cô dính đầy bùn như vậy?”
Cô liền kể cho bà Trần nghe về mọi việc xảy ra tối qua. Bà Trần hết sức lo lắng vì nghĩ rằng người tớ gái đã mê sảng. Ðêm đó, bà quyết định canh chừng để coi.
Vào giữa khuya, ông bà Trần nhìn thấy con rùa lớn mà người hầu gái phóng thích trước kia, nay nó trở lại bò vào phòng và đắp bùn lên khắp thân mình cô ta. Ông bà Trần không tin điều mình thấy là có thật, nhưng vài ngày sau người hầu gái của họ đã bình phục, và cô là người duy nhất sống sót thoát khỏi nạn bệnh dịch.
Cũng từ ngày ấy, ông bà Trần không bao giờ ăn thịt rùa nữa.
Một Ông Nhà Giàu Không Có Con
Vào thời đại nhà Nguyên (1279-1368) khi Thành Cát Tư Hản xua quân Mông Cổ xâm lăng Trung Hoa, có một ông phú hộ rất giàu có nhưng không có một mụn con nào. Cả hai vợ chồng sống rất cô độc. Họ mong ước sinh một đứa con, nhưng không làm sao có được.
Ông nhà giàu luôn luôn buồn rầu về việc đó. Ông ta nghĩ: “Có nhiều tiền mà không con cái để chia xẻ cho chúng nó thì đâu có hạnh phúc gì.”
Bạn ông ta khuyên: “Tại sao ông không lên chùa nhờ thầy trụ trì giúp cho? Vị sư ấy có thể hiểu rõ chuyện xảy ra trong quá khứ và tương lai. Tôi nghĩ ông ta là người có khả năng giúp bạn được.”
Nghe vậy, hai vợ chồng ông phú hộ liền đi lên chùa. Họ vào lễ Phật. Sau đó hai người đến gặp vị sư và quỳ xuống lạy trán cúi sát úp trên nền nhà.
“Thưa thầy, chúng con lạy thầy, nhờ thầy chỉ dạy cho biết chúng con đã gây nên điều ác đức gì. Tại sao chúng con ước mong có một đứa con mà không cách gì có được.”
Vị sư coi tướng số của hai vợ chồng, và dùng thần lực để hiểu biết việc quá khứ lẫn tương lai của họ. Rồi ông bảo người phú hộ.
“Kiếp trước ông đã vay một món nợ to lớn là bởi ông đã giết các sinh vật. Ông đã sát hại nhiều con nhỏ của các thú vật cho nên đời này ông bà không có con được.
“Món nợ đó thực quá sâu dày, ông bà không dễ gì trả hết được. Ông bà cần phải tụng kinh sám hối cho nhiều. Nếu ông bà có thể cứu thoát được tám triệu mạng sống may ra ông bà mới hoàn trả xong món nợ đó. Nếu ông bà vô ý giết thêm một con rệp hay một con sâu ông bà phải cứu thêm một trăm mạng sống nữa để bù vào cho đủ.
“Ðây là phương cách tốt nhất để ông bà cải đổi số kiếp của mình mới mong có con được.”
Ông phú hộ vô cùng cảm động. Ông lên chùa vào chánh điện lễ Phật và phát nguyện sẽ không bao giờ sát sanh nữa. Sau đó, hai vợ chồng về nhà nỗ lực phóng sanh và dùng phần lớn tài sản của họ vào công việc phước đức này. Họ đi chợ mua nhiều heo, gà và ngỗng mang về thả nuôi chúng sống tự nhiên trong vườn chùa. Hai vợ chồng cũng mua cá, cua và lươn đem thả chúng xuống nước. Họ rất thành tâm thường xuyên lên chùa làm nhiều việc phước đức; để sám hối những việc làm tội lỗi của họ đã gây ra trong kiếp trước.
Hai vợ chồng làm các việc lành như thế trong nhiều năm. Sau một thời gian họ cứu thoát đến tám triệu mạng sống của thú vật, nhờ vậy mà bà vợ đã sinh được một cháu trai khỏe mạnh và kháu khỉnh.
Ðứa bé rất thông minh, lớn lên cháu học giỏi, và đỗ đạt dễ dàng các kỳ thi của triều đình.
Những Viên Ngọc Rắn
Một người lính gác hỏi: “Cái gì vậy?” Người bạn của ông ta đáp: “Con rắn. Hãy giết nó đi.” Rồi họ cầm cây giáo định, đâm chết con rắn nhỏ màu sắc đỏ.
Vị chỉ huy của họ la lên “Ðừng giết.” Cả hai tên lính hoảng sợ khi thấy người ra lịnh cho họ không được sát hại con rắn là Quận Công của nhà Tùy ở Trung Hoa. “Các ngươi không thấy nó bị thương rồi sao? Tội nghiệp con vật.” Hẳn chắc họ thấy con rắn đã bị thương nơi đầu.
Viên Quận Công dùng cây gậy nhẹ nhàng nâng con rắn lên và mang nó ra bờ sông. Rồi ông bảo mấy tên lính thả cho con rắn bò đi.
Một lát sau, một người lính gọi anh bạn nói: “Trông kìa, con rắn ban nãy trở lại.”
“Và nó ngậm vật gì nơi miệng.”
“Này, bạn nhìn nơi đó phải không?” Nó mang một viên ngọc!” Những người lính nghe nói vậy liền chạy đến. Con rắn nhỏ vẫn bò hướng về phía trước. Mấy anh lính bảo: “Ðể xem thử nó bò đi đâu.” Họ tránh sang một bên, và con rắn bò thẳng vào lều ông Quận Công và nhả viên ngọc nơi chân của ông.
Viên Quận Công nói với con rắn: “Thực bạn quá tốt với ta, nhưng bạn nên biết rằng là quan chức của triều đình, ta không bao giờ nhận tặng phẩm.” Con rắn vẫn nằm im không nhúc nhích cho đến khi ông Quận Công lượm viên ngọc bỏ vào túi quần.
Ðêm hôm đó, viên Quận Công nằm mơ thấy ông vô ý bước đạp nhằm một con rắn. Ông giật mình thức giấc nhìn xuống tưởng chân ông bị rắn cắn... nhưng không, đó chỉ là điềm chiêm bao. Nhưng cái gì đây? Ông thấy một viên ngọc khác nằm bên cạnh chân ông, và đó là sự thật chứ không phải là giấc mơ.
Hai viên ngọc quá đẹp! Ông Quận Công là người có tâm hiền lành và thực tình ông không muốn nhận được quà thưởng vì đã cứu sống con rắn, nhưng giờ đây ông có hai viên ngọc rất quý mà không biết giao trả cho ai, cho nên ông đành phải cất giữ chúng làm vật kỷ niệm để ghi nhớ việc ông làm phước cứu độ mọi chúng sanh.
Việc làm thiện của ông Quận Công trên đây được loan truyền xa gần khắp nơi và giúp cho nhiều người nhận biết rằng ngay cả loài vật bò trên mặt đất cũng tham sống sợ chết. Câu chuyện này cũng khiến cho những ai có tâm độc ác muốn sát sanh hại vật phải suy nghĩ để cải đổi lối sống của họ. Con người ngày càng biết yêu thương sự sống, chấm dứt việc giết chóc và hành hạ loài vật.
Riêng ông Quận Công nhà Tùy đó là điều quý báu hơn cả hai viên ngọc giá trị!
Giải Cứu Đứa Con Của Long Vương
Ngày xưa, có một vị bác sĩ già tên Tôn. Ông rất hiền lành, và nhất là có lòng thương yêu loài vật.
Vào một ngày mùa thu đẹp trời, trong khi ông đang đi dạo chơi ngoài làng, thình lình ông gặp hai đứa trẻ nhỏ bắt một con rắn. Chúng đùa giỡn với nó và con rắn quá mệt đừ gần như sắp chết. Ông Tôn không muốn nhìn thấy con rắn chết, cho nên đã móc túi lấy tiền ra mua con rắn nơi mấy đứa nhỏ. Rồi ông mang con rắn ra gần bờ ao và thả cho nó bò đi.
Vài ngày sau, khi ông đang ngồi đọc sách nghiên cứu. Ông thiu thiu ngủ thì mơ thấy một người mặc áo màu xanh lục bước vào nhà và bảo bác sĩ Tôn đi theo ông ta. Người lạ mặt dắt ông Tôn đến một lâu đài tráng lệ. Và ông không biết rõ nơi đó là ở đâu.
Khi bác sĩ Tôn và người hướng dẫn ông bước vào cái phòng lớn, một nhân vật quan trọng tiếp đón ông Tôn và nói: “Ðứa con của tôi đi ra ngoài chơi, nếu ngài không cứu giúp nó, thưa bác sĩ, tôi sợ rằng con tôi đã không bảo toàn được mạng sống.”
Rồi ông ta bảo những người giúp việc dọn tiệc đãi ông khách quý. Dùng tiệc xong, người cha lấy tặng đồ nữ trang và châu báu cho ông Tôn, nhưng bác sĩ đã không nhận vật gì hết. Người cha năn nỉ, và ông Tôn biết mình hiện giờ đang ở đâu, cho nên cuối cùng ông nói: “Tôi được biết tại Cung Ðiện Thủy Tinh của Long Vương này, ngài cất giữ nhiều vị thuốc thần diệu có thể chữa lành các thứ bệnh nhẹ và nặng mà người đời mắc phải. Nếu ngài có lòng tốt trao truyền cho tôi một vài toa thuốc đặc biệt của ngài để tôi cứu chữa cho các bệnh nhân khổ đau thì đó sẽ là hành động phước đức vô cùng.”
Người cha hóa hiện thành vị Long Vương, lấy ngay mấy tấm thẻ bằng ngọc có ghi khắc 36 toa thuốc và trao cho ông Tôn
Sau khi nhận các toa thuốc quý, bác sĩ Tôn trở lại công việc nghiên cứu. Ông giật mình thức dậy và nhận biết rằng mọi việc xảy ra vừa qua chỉ là một giấc chiêm bao.
Nhưng điều ý nghĩa nhất là từ đó về sau, khi bác sĩ Tôn khám bất cứ bệnh nhân nào, dù bệnh của họ có nặng đến đâu, họ vẫn được tức khắc chữa lành. Nhờ vậy mà bác sĩ Tôn đã cứu chữa được nhiều, rất nhiều bệnh nhân đau khổ.
Quả Báo Của Một Việc Làm Ác
Ðời nhà Ðường (618-907) bên Trung Hoa có một anh nông phu rất tàn ác. Trưa hôm nọ, ông ta ra xem xét công việc ngoài đồng ruộng. Ông thấy con bò bên nhà hàng xóm chạy lạc vào đám ruộng của ông. Nó đang gặm lúa và dẫm đạp hoa màu.
Người nông dân vô cùng tức giận bảo rằng: “Tao làm lụng cực khổ mới có thóc lúa này, bây giờ mày đến gặm ăn và phá hoại mùa màng của tao! Mày phải trả một giá đắt cho sự ăn vụng này. Ông liền rút dao ra và nói: “Tao không muốn giết chết mày, nhưng vì mày đã ăn hại thóc lúa của tao nên tao phải cắt lưỡi của mày bỏ lại đây. Ðể tao coi mày còn dám ăn vụng, phá hoại mùa màng của tao nữa không!”
Con bò nhận biết mình có lỗi nên nó đã cúi đầu xuống và tỏ vẻ hối tiếc. Người nông dân nghèo khó đã nắm sừng ghì chặt đầu con bò xuống và dùng dao cắt cái lưỡi của nó. Con bò vô cùng đau đớn, nhưng cũng không kêu van gì được.
Về sau, người nông dân tàn ác này đã lập gia đình và có ba đứa con. Nhưng đứa nào cũng bị câm nửa năm đầu trước khi chúng biết nói. Ông không hiểu tại sao mấy đứa con của ông đều bị câm. Ông đưa chúng đi khám nhiều bác sĩ danh tiếng nhưng không một loại thuốc nào của các vị này cho có thể chữa lành giúp chúng nói được.
Người nông dân liền nhớ lại khoảng mười hai năm trước ông đã cắt lưỡi của một con bò đực. Ông ta hiểu rõ nguyên nhân tại sao ba đứa con của ông bị câm. Chính do nhân tàn ác ông gây ra đã mang lại quả báo khổ đau cho mấy đứa con trong gia đình ông
Một Trăm Mạng Sống
“Bữa nay, em cảm thấy khỏe hơn không?” Ông Phan biết vợ mình mắc bệnh lao rất khó chữa lành nên ông đã hết lòng chăm sóc cho vợ.”
Vợ ông mệt mỏi trả lời: “Cám ơn anh đã quá lo lắng cho em.”
Ông Phan đã mời bác sĩ Trần giỏi nhất để chữa bệnh cho vợ ông. Bác sĩ Trần sau khi khám bệnh người vợ, đã gặp riêng ông Phan.
Bác sĩ bảo: “Mặc dù vợ ông bệnh quá nặng đấy nhưng vẫn có cách chữa được. Theo toa thuốc này, cần đến một trăm đầu con chim sẽ để chế vị thuốc đó. Sang ngày thứ ba và thứ bảy, vợ ông cần phải dùng óc của chim sẻ. Ðây là vị thuốc bí mật do ông bà của tôi truyền lại và nó không bao giờ không có kết quả. Nhưng nên nhớ rằng ông phaủi giết đủ một trăm con chim sẻ, chứ thiếu một con cũng không được.”
Ông Phan hết lòng muốn cứu sống vợ nên đã gấp rút đi mua một trăm con chim sẻ. Chúng bị nhốt chật trong một cái lồng lớn. Chúng nhảy nhót và kêu thảm thiết vì không đủ chỗ cho chúng bay nhảy thỏa thích. Có thể chúng cũng biết rằng chúng sắp sửa bị giết chết.
Bà Phan hỏi chồng: “Anh định làm gì với những con chim sẻ đó?”
Người chồng vui vẻ trả lời: “Ðây là vị thuốc đặc biệt của bác sĩ Trần! Anh đang chuẩn bị giết chúng để chế vị thuốc ấy, và em dùng sẽ tức khắc lành bệnh.”
Bà Phan liền ngồi dậy trên giường và nói: “Anh không thể làm một việc ác như thế. Anh không nên giết một trăm mạng sống để cứu lấy sự sống của riêng mình em! Em đành chịu chết còn hơn để anh sát hại một trăm con chim sẻ để cứu mạng sống cho em!”
Ông Phan không biết làm sao.
Bà vợ tiếp tục bảo: “Nếu anh thực tình thương em, thì anh nên nghe lời em là hãy mở lồng thả hết những con chim sẻ đó ra. Như thế dù em có chết em cũng mãn nguyện để nhắm mắt.” Ông Phan đã giải quyết thế nào? Ông mang lồng chim vào trong rừng và phóng sanh tất cả một trăm con chim sẻ đó. Chúng bay vào các bụi rậm, đậu trên cây và kêu hót líu lo. Chúng lộ vẻ vô cùng sung sướng vì được thả tự do.
Vài ngày sau, bà Phan rời khỏi giường, mặc dù bà đã không uống thuốc gì hết. Bà con và bạn bè kéo nhau đến chúc mừng bà đã nhanh chóng bình phục khỏi cơn bệnh hiểm nghèo. Mọi người đều hết sức vui mừng.
Năm sau, bà Phan sinh được một cháu trai. Em bé mạnh khỏe và rất dễ thương, nhưng điều buồn cười là trên mỗi cánh tay của nó có một cái dấu bớt; và các dấu bớt này trông hình giống như những con chim sẻ!
Tên Đồ Tể Đền Tội
Châu là người thô lỗ, nhưng rất giàu, vì ông kiếm được nhiều tiền nhờ bán thịt bò. Mỗi ngày, ông giết thịt ít nhất là ba con bò. Trải qua một thời gian, do bán nhiều thịt bò mà ông trở nên một trong những người giàu nhất trong quận.
Vào khoảng đầu thế kỷ thứ 19, khi ông Châu già cả, con ông là Quang đứng ra lo việc buôn bán cho gia đình. Hai cha con hãnh diện với nghề bán thịt này bằng cách đặt một gốc cây già ngay trước cổng nhà của họ. Nhiều năm qua, họ dùng gốc cây đó làm tấm thớt cắt thịt. Họ thường kê đầu con bò trên đó để đập mạnh cho chết. Khi hành khách đi ngang qua nhìn thấy gốc cây này họ đều biết rằng đó là quán bán thịt.
Nhưng vào đêm nọ, một việc kỳ lạ bất ngờ đã xảy ra. Cái tấm thớt gốc cây biến thành đầu con bò và nó lăn vòng quanh khắp các đường trong thành phố! Mọi người trông thấy đều hết sức kinh ngạc.
Tối hôm đó, khi đi ngang qua nhà ông Châu người ta nghe bên trong có tiếng ồn ào của nhiều con bò húc báng lộn nhau. Nhưng không ai hiểu rõ được việc gì đang xảy ra!
Một hai ngày sau, ông Quang vẫn đứng bán quán như thường lệ, và có một người lính vào mua thịt. Vì là nhân viên của chính quyền nên ông ta muốn mua thịt với giá đặc biệt thật rẻ.
Ông Quang hét to nạt tên lính: “Ông điên rồi sao? Tôi lỗ nhiều quá!” Vì bị mất mát tiền bạc, ông nổi cơn giận dữ. Rồi hai người gây gỗ với nhau. Ông Quang nổi điên cầm dao cắt thịt chém mạnh vào đầu anh lính!
Khi hay tin con mình giết chết tên lính ông Châu hoảng hốt, té xuống ngất xỉu và từ trần.
Ông Quang bị nhà cầm quyền xử tử. Sau này người ta gặp thấy bà vợ và mấy đứa con ông Quang, mặc quần áo rách rưới đi xin ăn ngoài đường phố. Bà con hàng xóm bảo: “Chúng ta thật không ngờ vợ con ông Châu giàu có trước đây ngày nay lại dắt nhau đến xin ăn ngay ở ngôi nhà cũ của họ.”
Theo Phật giáo giải thích: “Chính ông Châu đã gây nên cảnh gia đình suy sụp tan nát, vì họ đã giết hại nhiều thú vật. Nếu bạn làm việc lành, bạn và thân quyến sẽ gặp điều tốt. Nếu bạn hành động ác, gây đau khổ cho kẻ khác, bạn và gia đình sẽ gặp nhiều khổ đau.
“Do đó, bạn không nên ăn thịt. Bạn cần cố gắng dứt trừ tâm độc ác, và nên thương yêu đừng sát hại các sinh vật, nhờ vậy mà mọi chúng sanh đều an lạc.”
Mọi người đều nghĩ rằng đó là điều công bằng hợp lý. Những người giết thịt trong vùng đều nhận biết rằng điều bất hạnh xảy ra cho gia đình ông Châu; một ngày nào cũng có thể dễ dàng xảy đến với họ, cho nên tất cả đều đóng cửa các hàng thịt và họ đã thay đổi tìm nghề sinh sống khác.
Hơn nữa, ngày nay y khoa đã chứng minh cho thấy rằng dùng nhiều thịt bò sẽ gây ảnh hưởng xấu cho sức khỏe con người. Nó sẽ tạo ra các bệnh tim và ung. Cho nên dù bạn có suy nghĩ như thế nào, thì việc ăn nhiều thịt vẫn là điều không tốt cho sức khỏe của bạn.
Cái Lưỡi Dê
Triều đại nhà Ðường từ năm 618 đến năm 907 sau tây lịch là một trong những thời đại huy hoàng nhất của lịch sử Trung Hoa. Bấy giờ ông Phan Quả sống tại kinh đô là một quân nhân nghệ sĩ có tài cho nên ông được mời giữ một chức vụ trong triều đình khi ông còn rất trẻ. Ông dễ dàng kết thân với mọi người; do đó ông có nhiều thân hữu trong số những người bạn trẻ cùng làm chung với ông.
Ngày nọ, nhóm bạn của ông đang đi dọc theo một nghĩa trang. Giữa những ngôi mộ, ông gặp thấy một con dê đi lạc. Nó đang chăm chú gặm cỏ. Ông Phan cùng với mấy người bạn đến bao quanh và lôi con dê về nhà. Nó bắt đầu kêu la. Bọn họ sợ người chăn dê nghe tiếng kêu sẽ đi tìm nó. Cho nên ông Phan đã tới dùng rễ cây mà kéo đứt cái lưỡi con dê ra. Ông ta hãnh diện đã làm cái việc ác đức này quá nhanh.
Sau khi về tới nhà những người bạn của ông Phan đã làm thịt và quay con dê. Rồi họ vui vẻ hả hê nhậu rượu với thịt dê.
Năm sau, ông Phan hoảng hốt khi thấy cái lưỡi của mình co rút lại. Mỗi ngày nó càng ngắn thêm và cuối cùng ông ta không nói được. Ông không thể tiếp tục đến sở làm và rồi ông Phan đành phải nghỉ việc. Ông đi tìm thầy để chữa trị cái lưỡi.
Ông Trịnh, người cấp trên của ông Phan nghĩ rằng ông ta lười biếng nên đã bảo ông đưa lưỡi ra để ông xem thử, ông Pan có thực đau không. Ông Trịnh ngạc nhiên thấy cái lưỡi của ông Pan đã biến mất. Chỉ còn lại một chút nơi gốc cái lưỡi thôi. Ông Cheng muốn tìm hiểu tại sao xảy ra như vậy. Ông Pan cầm lấy bút lông và viết trả lời: “Chắc bởi tại năm ngoái chúng tôi bắt trộm một con dê và khi nó bắt đầu kêu la, tôi liền kéo đứt cái lưỡi nó ra.”
Ông Trịnh biết rằng ông Phan bị mất cái lưỡi để bù trả lại cái lưỡi mà ông đã tướt đoạt của con dê. Ông khuyên ông Phan nên làm những Phật sự và hồi hướng các phước đức ấy cho con dê để mong bù đắp sự khổ đau thiệt thòi của nó. Ông Trịnh bảo ông Phan sao chép lại kinh Pháp Hoa.
Ông Phan ân hận về hành động ác mà ông đã làm. Ông thề nguyền sẽ không bao giờ ăn thịt thú vật nữa và hết lòng cố gắng tạo sự an lạc cho con dê, qua những việc làm phước đức, giúp đỡ chùa chiền và cầu nguyện của ông.
Một năm sau cái lưỡi của ông Phan bắt đầu mọc trở lại. Ông ta vui mừng thấy lưỡi của mình đang từ từ dài ra. Ông Phan đến sở làm để báo tin cho ông Trịnh biết. Ông Trịnh hãnh diện thấy ông Phan đã ăn năn sám hối sửa lỗi của mình.
Khi ông Phan có thể nói được trở lại bình thường, ông Trịnh đã thăng chức cho ông. Ông Trịnh là con người thành thực và sáng suốt, cho nên ông rất được mọi người kính mến. Tiếng đồn về những việc làm tốt của ông Trịnh đã đến tai vua Thái Tông, một trong những vị vua hiền đức nhất trong lịch sử Trung Hoa. Và vào năm 635 tây lịch, tức năm thứ 9 dưới triều đại của ngài, ông Trịnh đã được nhà vua thăng cấp lên đến chức Giám Sát Quan là một trong những chức vụ cao cấp nhất triều đình.
Ông Trịnh tâu với đức vua rằng ông được thăng chức là do điều lành mà ông đã tạo ra nhằm giúp cho con dê đau khổ vì mất lưỡi có được hạnh phúc.
Sự Trả Thù của Những Con Ếch
Ngày xưa có một người thợ cạo tên Lương ở tỉnh An huy nước Trung Hoa. Ông có cặp mắt ty hý như mắt chuột. Mặt mày ông xấu xí. Vẻ đẹp bên ngoài không mấy quan trọng, nhưng ngay cả trong tâm ông cũng không tốt gì. Ông luôn luôn gây gỗ và so đo. Ông không bao giờ cố gắng sửa đổi những thói hư tật xấu của ông.
Ông Lương cũng tham lam. Món ăn ông thích nhất là ếch mà người Trung Hoa gọi là “Gà ở Ðồng Ruộng.” Ông không thể dùng bửa nếu không có món ăn này. Ông sành sỏi đến mười hai cách nấu món ăn thịt ếch. Ông có rất nhiều bạn mà tánh tình của họ cũng chẳng tốt gì hơn ông và tất cả đều bảo rằng nếu ếch mà trao vào tay ông Lương thì nó sẽ biến thành món ăn tuyệt hảo.
Bạn bè càng khen ngợi tài nấu thịt ếch của Lương bao nhiêu ông càng giết chết nhiều ếch bấy nhiêu; chẳng khác gì chúng là những kẻ thù mà ông muốn tiêu diệt. Ông sát sanh như vậy mãi đến năm ông bốn mươi tuổi.
Một đêm nọ, trong lúc đang say ngủ, ông cảm thấy khắp thân mình ngứa ngáy. Rồi ông thấy trên giường bao phủ đầy những con ếch. Chúng ở trong mền và cả trên gối! Chúng cũng có mặt trên ván giường. Ếch khắp mọi nơi!
Ông Lương tự bảo: “Thật kỳ lạ. Ðược rồi, ta có cách giải quyết tụi bây.” Ông bắt những con ếch này bỏ chúng vào trong cái hủ. Ông trở lại phòng ngủ và thấy giường ông phủ đầy nhiều ếch hơn nữa!
Ông Lương đã thức suốt đêm để bắt những con ếch bỏ ra khỏi giường.
Hôm sau, ông gặp mấy người bạn và nói với họ tối qua ông đã lùa những con ếch xuống giường. Các bạn bè của ông không làm sao tin nổi điều đó. Thình lình ông Lương chụp lấy vai ông. Ông hét lên: “Những con ếch trở lại!”
Một người bạn ông nói: “Tôi không thấy gì hết.”
“Ngay đây này, một con ếch ở trên lông mày tôi. Một con khác đang bu trên tóc tôi.” Ông Lương la hoảng lên, nhưng các bạn ông ngạc nhiên, sửng sốt, vì họ không thấy con ếch nào cả. Họ nhìn ông Lương đang chạy quanh tay cầm dao cạo cắt vạch lông mày và tóc của ông. Nhưng không ai nhìn thấy một con ếch nào cả. Họ xầm xì: “Chắc ông ta điên rồi.”
Từ đó, ông Lương thấy những con ếch xúm lại tấn công ông mỗi ngày. Ông cố gắng tự bảo vệ với chiếc lưỡi dao cạo, nhưng những con ếch vẫn tiếp tục hiện đến. Ông cầu cứu các bạn bè giúp ông, nhưng chỉ một mình ông nhìn thấy những con ếch đó, mà thôi. Ông Lương đã sống như một người điên kéo dài đến hơn sáu năm nữa trước khi ông qua đời.
Ông kiệt sức vì phải đương đầu chống trả với những con ếch? Chúng đã trả thù ông? Hay ông trở thành người mất trí?
Không ai có thể trả lời. Tuy nhiên mọi người đều biết rằng ông Lương chắc chắn sẽ không gặp quả báo đau khổ khủng khiếp như vậy nếu ông không giết nhiều ếch để nấu ăn.
Tên Đồ Tể Biến Thành Miếng Thịt Hầm
“Dù muốn hay không mày cũng phải đi!” Người hàng thịt tàn ác đã ra sức kéo sợi dây thừng. Ðằng cuối sợi dây, con bò già biết rõ việc gì đang xảy ra. Nó cúi đầu xuống và không chịu nhúc nhích.
“Hãy nhanh lên mày!” Người bán thịt cầm cây roi vừa mắng nhiếc và quất mạnh vào con bò già. Cả hai tranh chấp dằn co như thế ở ngoài đường, một bên vừa chửi rủa và lôi mạnh đi còn bên kia thì im lặng trì kéo lại.
Khi cả hai tiến đến trước một ngân hàng, con bò bất chợt quỳ gối xuống trước cửa và bắt đầu kêu khóc. Nước mắt chảy ràn rụa xuống khuôn mặt đau thương của nó. Ông giám đốc ngân hàng bước ra nhìn thấy cảnh tượng thật quá thương tâm. Con bò lộ vẻ hết sức buồn rầu!
Ông ta hỏi: “Này anh bán thịt, con bò này giá bao nhiêu?”
“Nó giá 8.000, nhưng tôi không bán nó đâu!”
“Ông nói thế nào? Tôi sẽ trả ông 10.000.” Ông giám đốc ngân hàng nhìn con bò khóc ông vô cùng xúc động, và có ý định muốn cứu mạng sống cho nó.
Nhưng anh bán thịt nhạo báng và nói: “Con bò này đã gây nên nhiều khó khăn cho tôi. Tôi sắp chặt đầu và giết chết nó; và đó là điều mà tôi đang sắp làm. Tôi sẽ không bán nó cho ông, vậy xin ông đừng làm phiền tôi mà tăng giá lên!”
Con bò già dường như hiểu được tiếng người nói. Khi nghe biết vậy, nó thở dài đứng dậy và đi theo người bán thịt.
Anh bán thịt rất giận dữ vì thấy con bò cứ van nài xin tha tội chết cho nó. Thay vì đưa ra chợ ông dắt nó về nhà và chặt con bò ra thành nhiều khúc. Ông bỏ nấu thịt của chúng trong một cái nồi thực lớn.
Ðến khuya, ông đặt nồi thịt bò trên bếp lửa cháy suốt đêm; để sáng mai thịt được nấu chín nhừ và ngon. Rồi ông đi ngủ.
Sáng sớm hôm sau, bà vợ thấy ông thức dậy. Ông nói: “Ðể tôi xuống coi lửa củi và xem nồi thịt nấu ra sao.” Rất lâu, bà vợ thấy ông đã không trở vào. Bà liền đứng dậy đi tìm ông. Nơi nhà bếp, bà thấy lửa đang còn cháy dưới nồi thịt nhưng chồng bà đã bị té ngã vào trong chiếc nồi lớn để cùng chung nấu với thịt bò!
Bị Đoạ Làm Chó
Phong King là một ngôi làng rất đẹp. Phần đông dân chúng sống ở đó là những nông dân chất phát. Họ rất thật thà và chăm chỉ làm việc. Mọi người đều ăn ở hòa thuận với nhau nên cuộc sống của họ rất hạnh phúc.
Trong làng có một gã hèn mọn xấu xa, tên Trần. Ông ta làm chủ một cửa tiệm nhỏ, việc làm ăn buôn bán khá phát đạt, nhờ vậy lần hồi ông dành dụm được một số tiền nhỏ.
Trần thích uống rượu và ăn thịt chó. Khi rảnh rỗi, ông mua rượu và nấu thịt chó để tổ chức ăn nhậu.
Ông thường nói với mọi người: “Thịt chó có mùi vị thơm tho và ăn thật hết xẩy. Không có gì ăn khoái khẩu bằng thịt chó nấu đúng điệu và nhậu nó với rượu thật ngon!” Ông Trần thích mời bạn bè đến dự tiệc, và trong nhiều năm, ông đã giết một số thịt chó.
Năm 1756 ông Trần bị ốm. Ngày nọ, ông ngất xỉu, phải lên giường nằm, nhưng các bác sĩ không biết ông đau bệnh gì.
Vợ ông hết lòng ở bên cạnh chăm sóc, nhất là sau khi ông bị liên tục té xỉu ngất đi. Vào một đêm khuya, ông Trần quay tròn và nhào lộn, nhưng bà vợ không thể giúp ông được gì. Rồi bà nghe ông nói lảm nhảm. Bà ghé sát tai vào và hoảng kinh khi nghe ông nói:
“Kìa, con chó đen khác đến!
“Con chó vá tới cắn tôi!
“Hai, ba, bốn và nhiều con chó khác nữa đếm không hết, xin bà con đến lôi giúp mấy con chó ra và xua đuổi chúng đi giùm cho!”
Rồi ông Trần la hét lớn tiếng khiến mọi người trong nhà thức giấc. “Hãy giúp tôi! Hãy giúp tôi! Ai đó, hãy đến cứu tôi với!” Mọi người đều nghe tiếng ông, nhưng không ai thấy con chó nào hết. Tất cả đều chứng kiến cảnh ông Trần quay tròn và nhào lộn trên giường với cặp mắt ông nhìn thật dữ tợn.
Các thân nhân của ông đều lắc đầu buồn rầu nói: “Chắc ông ta điên rồi”
Ngay trước khi chết, ông Trần bò quanh dưới giường. Ông khom lưng đi bằng hai tay với hai đầu gối, gầm gừ và sủa như chó cho đến lúc ông qua đời.
Con người vào lúc sắp lâm chung nhắm mắt thường có các tướng trạng hiện ra báo trước cho biết họ sẽ tái sinh vào cảnh giới nào sau khi mất. Người chết một cách an lành, sẽ sinh lên cõi Trời hưởng nhiều phúc lạc. Kẻ nào bị đọa vào địa ngục cũng có thể biết trước. Sự khổ đau bắt đầu hiện ra trước khi họ lìa đời và họ chết một cách đau đớn.
Ông Trần chắc sẽ bị đầu thai kiếp sau làm thân con chó. Và nhìn gương ông bị quả báo nhãn tiền, một số người đã sợ hãi không dám ăn thịt chó nữa.
Những Con Lươn Trả Thù
Qúy Châu là một trong những vùng kém mở mang ỏ Trung Hoa. Nó là tỉnh núi rừng nằm ở phía tây nam. Tại đây có một người tên Lục rất thích ăn thịt lươn đến nỗi ông không thể dùng cơm nếu không có thức ăn nấu với lươn.
Nếu có ai hỏi tại sao ông khoái ăn thịt lươn như vậy, ông luôn luôn trả lời vì “món ăn đó rất ngon.”
Vào năm sáu mươi tuổi, một hôm ông ra chợ mua mấy con lươn rất mập. Người bán hàng hỏi: “Ông muốn mua cá không? Cá sống, tươi và lớn ngay đây.”
Ông Lục hỏi: “Có lươn không?”
Anh bán lươn đáp: “Ngay đây trong hủ này.” Ông Lục vén áo đưa tay vào hủ để lựa những con lươn béo mập. Ông có nhiều kinh nghiệm, bằng cách này, ông có thể chọn mua những con lươn béo mập, mặc dù ông không nhìn thấy chúng.
Hôm đó, mọi việc xảy ra khác hẳn. Khi ông đưa cánh tay vào hủ, mặt ông trở nên tái xanh và ông thét lên một tiếng như con bò đực bị thương. Mọi người đều nhìn vào ông và thấy những con lươn trong hủ đang tấn công, và cắn cánh tay ông dữ dội.
Không ai biết làm sao. Họ không thể giựt mấy con lươn ra khỏi cánh tay ông. Vài người chạy về nhà báo tin và mấy đứa con ông Lục mang kéo nhọn ra cứu ông. Con ông cắt những con lươn ra làm đôi, nhưng đầu của chúng vẫn bám chặt nơi cánh tay và răng chúng cắn sâu vào thịt ông. Một lúc sau, mấy người con ông cắt đứt hết đầu những con lươn với nhiều thịt xẻo khỏi cánh tay ông Lục, và cuối cùng ông chết một cách đau đớn.
Mười Một Kiếp Đầu thai Làm Thân Bò
Vào năm 1815 có một người tên Lâm qua đời. Gia đình và bạn bè ông rất buồn vì ông là người hiền lành.
Ông Lâm nhận biết mình đang ở cảnh giới địa ngục. Lúc ấy vị Diêm Vương đang xử án. Các tên cai ngục toàn là những quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa. Một vài con quỷ khác đang chờ lên dương thế bắt người kế tiếp xuống địa ngục. Trên tường treo đầy các dụng cụ tra tấn khủng khiếp. Ðây là cảnh giới do ý nghĩ và việc làm xấu ác của chúng ta tạo ra chứ không phải bởi thần linh hay ma quỷ nào cả.
Ðến lượt bác sĩ Doản bị dẫn đưa vào tòa án.
Những tên cai ngục quát lớn: “Hãy quỳ xuống!” Ông Doản quỳ và thấy có vài người đang quỳ bên cạnh ông. Rồi ông nhận ra một tội nhân khác – đó là ông Lý người bạn chủ hàng thịt ở địa phương ông.
Giờ đây, ông Lý tỏ vẻ không có chút gì thân thiện. Khi thấy bác sĩ Doản ông chỉ vào mặt và thưa với vị Diêm Vương:“Tất cả đều do lỗi của ông ta! Chính ông là tội phạm! Nếu ông Doản không ăn thịt bò, thì tôi đã không giết bò! Xin ngài hãy bắt ông Doản và thả tôi ra!”
Bác sĩ Doản đáp lại: “Thưa ngài, tôi không có lỗi gì hết. Nếu ông Lý không giết, bán thịt, thì tôi đã không ăn thịt bò.” Ông Lý tức giận khi nghe ông Doản nói vậy. Những tên cai ngục liền can ngăn hai người ra.
Vị Diêm Vương đập mạnh tay xuống bàn và quát lớn: “Hãy im đi!” Một người giết, còn người kia thì ăn. Cả hai đều có tội hết!
Diêm Vương nói: “Các ngươi không có chút lương tâm gì hết sao? Trâu bò cày ruộng để trồng lúa nuôi sống con người mà quý vị đã không biết ơn lại còn giết hại ăn thịt những con vật vô tội này. Nếu người ta ăn nhiều thịt bò, nhiều bò sẽ bị sát hại. Nếu người đời dùng ít thịt thì vài con bò bị giết thôi. Nếu không ai ăn thịt thì sẽ không có con bò nào bị giết chết. Các ngươi có biết như vậy không?” Cả hai đều tuân phục gật đầu.
Diêm Vương phán tiếp: “Ông Lý! Tội của ngươi là không có lòng thương và giết hại các sinh vật, ta đày ngươi vào cảnh giới Ðịa Ngục, để ngươi nhận chịu quả báo bị hành hạ khổ đau cho đến khi nào ngươi biết ăn năn hối cải. Hãy lôi nó đi!” Các tên cai ngục hò hét đá vào ông Lý bán thịt kêu la và lôi dắt ông ta đi.
“Còn bác sĩ Doản! Tội ông là đã ăn quá nhiều thịt bò. Mỗi lần bệnh nhân mời đãi ông dùng cơm tối, ông luôn luôn đòi ăn thịt bò. Nhà ngươi có biết đã dùng thịt hết bao nhiêu con bò rồi không? Vậy ông đã thấy tội của ông chưa?” Bác sĩ Doản ngước lên và gật đầu.
“Không những thế, ông còn giết chết mười một bịnh nhân do sự chữa trị ngu dốt và bất cẩn của ông.”
“Với những tội ác này, ta trừng phạt bắt ngươi phải nhận đâù thai trong mười một kiếp làm thân bò để trả món nợ do sự chữa bịnh sai lầm mà ông đả gây ra cho các bệnh nhân đó.
Ông sẽ kết liễu mỗi kiếp sống của mình một cách đau đớn dưới lưỡi dao của tên hàng thịt để mong chuộc cái tội ông gây đau khổ cho các sinh vật hiền lành. Hảy dắt nó đi!” Bác sỉ Doản kêu thét lên, và những tên cai ngục nắm lôi đẩy ông ra ngoài tòa án.
Diêm Vương lại quay sang ông Lâm, nói với gọng ôn tồn: “Riêng phần ông, vì ăn ở hiếu thảo với cha mẹ và có lòng yêu thương tổ quốc, nên chưa đến phiên ông, vậy nhà ngươi có thể trở về dương thế. Nhưng hãy kể cho mọi người biết những điều ông đả thấy ở đây để họ ăn hiền ở lành hầu tránh khỏi bị đọa vào cảnh giới địa ngục khổ đau này.”
Và nhờ vậy, ông Lâm đã sống trở lại.
Ao Sen Và Con Rết
Vào khoảng 400 năm trước có vị đại sư tên “Liên Trì,” có nghĩa là Ao Sen. Ông cầu mong tất cả mọi người được vãng sanh về Ao Sen nơi cảnh giới Tịnh Ðộ của đức Phật A Di Ðà.
Ngày nọ, vị sư gặp một người xách những con rết được cột vào một thanh tre. Chúng đang đau khổ. Sư Liên Trì hỏi: “Ông có thể mở rộng lòng thương mà thả hết những con rết này ra không?”
“Không được! Những con rít độc hại này dùng làm thuốc rất hay! Tôi không muốn thả chúng ra, nhưng nếu ông mua thì tôi có thể bán.”
“Rất tốt. Ông muốn bán với giá bao nhiêu?” Mặc dù người đó rất thô lỗ, nhưng sư Liên Trì vẫn tươi cười và nói chuyện rất lễ độ. Vị sư mua hết những con rết đó, nhưng vì bị xâu vào que tre cho nên phần lớn chúng đã chết. Chỉ có một con đang còn sống. Nó nhìn sư Liên Trì rất lâu. Rồi nó bò đi.”
“Một lát sau, nhà sư Liên Trì đang ngồi nói chuyện với người bạn về giáo lý đức Phật. Thình lình mặt đạo hữu này bỗng tái đi và ông la lên: “Hãy trông kìa con rết!”
Một con rết to lớn, nhiều lông và ghê rợn đang bò trên tay áo của nhà sư Liên Trì. Người bạn chạy lấy một que gỗ để hất con rết xuống nhưng nó vẫn không chịu đi. Sư Liên Trì tỏ vẻ không chút sợ hãi.
Nhà sư hỏi con rết: “Phải chăng ngươi là con rết mà ta đã mua và thả ra ban nãy? Nếu chính là con thì hãy ở lại đây để ta thuyết pháp cho nghe.”
Con rết nằm yên không cử động, và sư Liên Trì dịu dàng bảo nó: “Bất cứ ai thông suốt những lời dạy của chư Phật đều hiểu biết rằng bản thể của vạn vật trong thế giới vật chất này đều do tâm chúng ta tạo ra.
“Mọi cuộc sống đều do tâm làm chủ. Con người có ý tưởng xấu xa, ích kỷ sẽ trở thành chó sói hay cọp beo. Người nào có tâm nham hiểm sẽ biến thành loài rắn dữ, bò cạp hay loại sâu bọ độc hại khác.
“Kiếp này con làm thân con rết có chất độc. Phải chăng đó chỉ là việc tình cờ? Không phải, mà chính do đời trước con đã có cái tâm ác độc. Nếu con muốn hết khổ đau, con phải dứt trừ cái tâm xấu ác, và con sẽ được giải thoát. Nhưng chỉ có con mới cứu thoát được cho con.
“Con hiểu chưa? Thôi khá đủ rồi. B?