Ngoại cảm

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
Ngoại Cảm ( Psychic ) là người có khả năng tri giác ( Perception ) vượt ngoài mức bình thường như, khả năng thấu thị ( claivoyance ) thấy được ma quỷ , thiên thần , tinh linh , hoặc quá khứ , vị lai ; khả năng thấu thính (clairaudience) nghe được người âm , thiên thần ,các bậc đạo sư vô hình ; khả năng thấu cảm (clairsentience )sờ mó , cảm nhận được những vật vô hình ; khả năng thấu giác (claircognizan )hay linh cảm nhận được tín hiệu trực tiếp từ cõi vô hình , không qua ý thức suy nghĩ .
Medium “ là nhà giao cảm, họ có khả năng giao tiếp và cảm nhận thế giới vô hình bên kia , nên làm trung gian giữa người sống và người âm . Đa số “medium “ đều có những khả năng của Psychic .

<FONT face="Times New Roman">Nếu nói theo danh từ bình dân xưa nay thì “Psychic” giống như thầy bói tướng , còn “medium” giống như đồng cốt .Tạm có thể ví sự khác nhau giữa hai từ này như vậy, nhưng thật ra , thầy bói thường không có khả năng tâm linh như Psychic , họ phải nương vào các vật trung gian để đoán như bói bài , tử vi , xem chỉ tay , chỉ chân ,mai rùa , bát quái ,quẻ , xâm vv.. Còn đồng cốt cũng không có khả năng tâm linh như “medium”mà chỉ là người cho đồng cô , cốt cậu mượn xác nhập vào . Vì vậy đối với người trí thức thì những chuyện bói toán, lên đồng là chuyện nhảm nhí , mê tín dị đoan , dành cho đàn bà con nít nhẹ dạ.<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com
P><P><FONT color=darkorchid><FONT face=
Theo Phật giáo ,con người được cấu tạo bởi năm yếu tố là ngũ uẩn
( sắc,thọ, tưởng ,hành, thức ). Nhưng nếu theo khoa học huyền bí (esoteric ) thì con người có nhiều thể (body) gồm : thể xác ( physical body) , thể phách ( etheric body ) , thể vía (astral body ), thể trí (mental body )và thể nhân ( causal body ). Ngoài thể xác thô kệch, các thể sau đều vi tế và lồng vào thể xác nên mắt trần không trông thấy được .<o:p></o:p>

<o:p></o:p>
Thể xác được cấu tạo bằng xương bằng thịt nên không cần giải nghĩa .<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Thể phách còn được gọi là thể khí ( energetic body ) được cấu tạo bởi chất dĩ thái ( ether) là một chất vi tế gần như hư không nằm giữa vật chất (matter ) và năng lượng ( energy), chính chất ether này chuyên chở sinh lực mà chúng ta gọi là mạng căn . Hình dáng của nó y hệt như thể xác nhưng mờ ảo như mây khói , có màu nửa trắng , nửa xanh lơ .Khi một người già hết sinh lực mà chết thì thể phách cũng tiêu tan theo, nhưng người còn trẻ mà khỏe mạnh mà chết vì tai nạn thì thể phách còn sinh lực nên không tan rã kịp. Do đó lâu lâu trong nghĩa địa ban đêm người ta bắt gặp “ma trơi “ là những bóng trắng cụt đầu , cụt tay ,mất chân , bay là đà trên mặt đất , đó là thể phách của người chết dưới mồ chưa tan rã kịp . Phải mất vài tuần hay vài tháng thì thể phách mới tan rã hết và khi đó ta sẽ không còn thấy những bong trắng này nữa . Nếu so sánh với ngũ uẩn thì thể xác và thể phách tương đương với sắc uẩn .Xin nói thêm là các “ma trơi “ hay thể phách đang tan rã này không phải là người âm mà chỉ là một loại vỏ năng lượng đang tan rã , không có ý thức bên trong . Do đó nếu có dịp gặp ” ma trơi “ thì bạn cứ việc lại gần và đi xuyên qua nó vì nó không phải là một chúng sinh .<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Thể vía được cấu tạo bởi tình cảm và cảm xúc nên còn được gọi là thể tình (emotional body ) , hình dáng của nó cũng y như thể xác nhưng được cấu tạo bởi những nguyên tử vi tế hơn . Khi chúng ta ngũ thì thể vía thường tách rời khỏi thể xác khoảng vài tấc và nằm lơ lửng bên trên, hoặc có khi nó bay đi đây đó du ngoạn và khi gần thức thì nó nhập trở về thể xác .Khi tỉnh giác thì chúng ta có cảm tưởng thấy mình mơ thấy cảnh này cảnh nọ , thể vía được cột với thể xác bằng một sợi dây bạc phía sau ót . Gọi là dây bạc (silver cord ) vì màu nó trắng như bạc và rất dẻo dai , có thể đàn hồi ,thu ngắn , hay kéo dài vô tận . Nhờ sợi dây bạc mà thể vía có thể trở về thể xác trong nháy mắt .Chỉ khi chết thì sợi dây bạc mới tan rã và thể vía không thể nhập lại thể xác nữa . Lúc đó thể vía thực sự đi vào cảnh “ Trung giới “ (tiếng Anh có nhiều từ như intermediate states , astral plan , other side ). Gọi là trung giới vì đây là cảnh tạm thời , chuyển tiếp trước khi đi tái sinh . Thới gian tồn tại của thể vía dài hay ngắn trong trung giới tùy vào tình cảm luyến ái nhiều hay ít . Những người không có nhiều luyến ái thế gian thì thể vía tan rã rất nhanh và chuyển tải năng lượng qua thể trí . Những người quá nhiều tình cảm luyến ái thì thể vía sẽ trụ trong cảnh trung giới một thời gian dài tương ứng với nồng độ luyến ái . So sánh với ngũ uẩn thì thể vía tương đương với thọ uẩn vì tình cảm , cảm xúc đều là những cảm thọ . Những người âm thường có thể liên lạc với chúng ta trong giấc ngủ , vì khi đó chúng ta tạm thời sử dụng thể vía giống như họ . Bởi vậy có những người nằm mơ gặp người thân ở xa đến báo mộng là họ vừa từ trần , và sau khi tỉnh dậy thì nhận được tin là họ đã từ trần thật sự . Chúng ta tưởng mình nằm mơ , nhưng trong giấc ngủ , họ đã thực sự đến gặp ta bằng thể vía của họ . Mỗi khi thể vía của ta nhập trở lại thể xác thì đa số những kinh nghiệm vừa qua đều bị các tế bào ( thô kệch ) của bộ não làm quên hết . <o:p></o:p>
Thể trí được cấu tạo bởi những ý tưởng , tư duy , suy nghĩ. Hình dáng của nó cũng y hệt như thể xác , và nguyên tử cấu tạo vi tế hơn thể vía . Thể trí cũng tồn tại trong trung giới một thời gian dài hay ngắn tùy theo sự dính mắc , bám chấp vào các lý tưởng , quan niệm , tín ngưỡng nhiều hay ít . Khi những bám víu này chấm dứt thì thể trí sẽ tan rã và chuyển hết năng lượng qua thể nhân . So sánh với ngũ uẩn thì thể trí tương đương với tưởng uẩn và hành uẩn . <o:p></o:p>
Thể nhân là cái chứa đựng tất cả nghiệp của hành động , lời nói , suy nghĩ . Chính thể nhân là cái đi tái sinh qua đời sau . So sánh với ngũ uẩn thì thể nhân tương đương với thức uẩn .<o:p></o:p>
<o:p></o:p>

Mỗi thể đều có những giác quan giống như thể xác, nhưng vì chúng ta không biết nên không thể phát triển và sử dụng. Người khai mở được giác quan thể phách có thể thấy được hào quang ( aura ) và các kinh mạch vi tế trong thân ( như 14 kinh mạch Đông Y ) , vì nghe đươc các âm thanh của các bộ phận trong người như tim, gan , phổi , thận..vv.. Người khai mở được giác quan thể vía có thể thấy , nghe được người âm , chư thiên ( devas ) , thiên thần ( angels ) , hướng đạo tâm linh ( spiritual guides ) .vv. .Người khai mở được giác quan của Thể Trí có khả năng đọc được tư tưởng, ý nghĩ của kẻ khác , tương đương với Tha Tâm Thông . Người khai mở được giác quan Thể Nhân có thể thấy được nguyên nhân kiếp trước của kẻ khác , tương đương với Túc mạng thông .<o:p></o:p>
<o:p></o:p>

Trên đây chỉ nói sơ lược về các thể vi tế của con người để chúng ta có thể hiểu được phần nào khả năng của các nhà ngoại cảm .<o:p></o:p>
<o:p></o:p>

Thường xuyên thấy và tiếp xúc được với người âm , đó là do nhãn căn của Thể Vía được khai mở . Còn lâu lâu bất chợt thấy ma hoặc bóng trắng , bóng đen hiện ra rồi biến mất, đó không phải là ngoại cảm . Như đã nói ở trên , nếu bóng trắng hiện ra ở những nơi như nghĩa địa lâu đài cổ và không có vẻ muốn tiếp xúc hay liên lạc với chúng ta , thì đó là những Thể Phách chưa tan rã , hoặc là những “ ký ức Hình , tư tưởng" ( memory of thought form ), không phải là chúng sinh , còn nếu bóng trắng có hình dáng rõ ràng như người sống và có vẻ muốn liên lạc với chúng ta , thì đó là một chúng sinh của Trung Giới , hoặc là chúng sinh thuộc Thượng giới ( chư thiên , thiên thần ) . Việc họ không thể hiện hình lâu hơn vài giây là vì họ phải vận dụng rất nhiều năng lượng để nâng cao tần số rung động (vibration rate ) , khiến các nguyên tử vi tế cô đọng lại thành hình sắc cho chúng ta nhìn thấy . Làm như vậy rất mệt , giống như bắt họ phải chạy hết ga để vượt 100 thước trong vài giây .Vì thế nên họ chỉ hiện ra trong chớp mắt . Còn các bóng đen cũng là người âm nhưng thuộc cảnh Trung Giới thấp . Họ là những chúng sinh nhiều tà kiến , mất đi những tánh thiện ,nên bị kẹt lâu đời khó siêu thoát .<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Có nhiều người thắc mắc làm thế nào để khai mở giác quan Thể Vía ? <o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Có 3 cách :<o:p></o:p>
Do bấm sinh _ ở Âu Mỹ có những trẻ nhỏ sinh ra đã sẵn có khả năng ngoại cảm . Chúng được gọi bằng nhiều danh từ như : “con nít chàm “ ( indigo child ) , trẻ thủy tinh ( crystal child ) , trẻ cầu vồng (rainbow child ). Những khả năng bẩm sinh này có do đời trước đã tu luyện thiền định hoặc các phương pháp huyền bí như đạo cổ Ai Cập , hoặc các giống dân cổ xa xưa như Lemurian , Atlantean ( có nền văn minh tiến bộ hơn hiện nay và có khả năng tâm linh rất cao ) sau khi tái sinh ở các hành tinh khác một thời gian , nay đầu thai trở lại trái đất .<o:p></o:p>
<o:p></o:p>

Do biến cố tai nạn <o:p></o:p>
Có người do té cầu thang , xương cụt bị va đạp mạnh ,kích động luồng hỏa hầu (kundalini ) chạy dọc lên sạn đạo trung ương (sushumna ), xuyên qua các luân xa và khai mở giác quan Thể Vía : có người bị tai nạn như đụng xe, sét đánh , hoặc nghẹt tim chết vài giờ rồi sống lại , vì chết đi trong một thời gian ngắn nên giác quan Thể Vía được khai mở tự nhiên ; có người bị nhiễm độc óc mà không chết , do đó hệ thần kinh đặc biệt là tuyến tùng , và tuyến yên được kích động nên khai mở .<o:p></o:p>

Do tu luyện <o:p></o:p>
Tu thiền định , vào được định sâu và lâu , bặt hết giác qua của Thể Xác . Khi đó các giác quan Thể Vía tự động thức tỉnh , giống như đứa bé sơ sinh , vừa ra khỏi bụng mẹ thì tức khắc mở mắt la khóc, dẫy giụa , hít thở . Ngoài cách tu thiền định bằng phương pháp truyền thống , còn có những phương pháp bí truyền của Mật Tông , hoặc phương pháp khoa học của các ngành tình báo tập luyện cho điệp viên ,mật thám của họ .<o:p></o:p>
Vấn đề kế tiếp được đặt ra là chúng ta làm gì với khả năng ngoại cảm ? ( Hay sự khai mở giác quan Thể Vía ) <o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Đạo Phật chú trọng đến việc diệt trừ tham , sân , si , và ô nhiễm phiền não trong tâm để giải thoát sinh tử luân hồi nên không màng đến việc khai mở thần thông hay khả năng ngoại cảm . Vì thế người tu thiền nếu khai mở được một chút thần thông cũng không quan tâm và bỏ qua thì tự động nó sẽ biến mất . Hoặc có người lấy làm thích thú đạt được nhưng sau một thời gian thấy nó làm chểnh mảng việc tu hành và có khi gây ra phiền não nên cũng bỏ qua .<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Nhưng ngày nay có những nhà “ngoại cảm “ ở Việt Nam , vì không phải là tu sỹ Phật giáo nên có thể đem khả năng hy hữu đó ra phục vụ quần chúng . Ngoài việc đi tìm mồ mả giúp người âm và giúp cho người dương được mãn nguyện , nhà ngoại cảm đã đóng góp và làm sáng tỏ nhiều điều ích lợi sau đây :<o:p></o:p>
Chứng minh có một đời sống sau khi chết <o:p></o:p>
Người chết rồi không phải là hết , là mất tiêu <o:p></o:p>
Tánh tình khi sống làm sao thì sau khi chết vẫn như thế , không thay đổi .<o:p></o:p>
Người chết nặng tình luyến ái ,hoặc có những việc u uẩn chưa giải quyết , thi khó siêu thoát <o:p></o:p>
Nhiều người chết rồi mà không ý thức được mình đã chết , nên mắc kẹt trong cõi trung giới , không siêu thoát
(còn tiếp )
<o:p></o:p>
_ <o:p></o:p>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

tt_chuyenphapluan

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Quản trị viên
Phật tử
Tham gia
6 Thg 8 2010
Bài viết
1,020
Điểm tương tác
193
Điểm
63
Khả năng ngoại cảm không thực sự tồn tại?

Khả năng ngoại cảm không thực sự tồn tại?

Nghiên cứu của ba nhà tâm lý học độc lập vừa bác bỏ khẳng định rằng khả năng ngoại cảm thực sự tồn tại được đưa ra năm ngoái.
Đầu năm ngoái, giáo sư danh dự Dary Bem ở ĐH Cornell (Mỹ) cho biết ông đã dành cả thập kỷ để thực hiện các thí nghiệm mà ông tin rằng khả năng ngoại cảm thực sự tồn tại. Nghiên cứu gây tranh cãi này vừa bị bác bỏ bởi ba nhà khoa học độc lập.
Các thí nghiệm của GS. Bem kiểm tra khả năng của các sinh viên trong việc cảm nhận một số sự kiện ngẫu nghiên, như phát hiện xem một hình ảnh sẽ sáng lên ở góc nào của màn hình máy tính.
Nghiên cứu của Bem xuất bản trên Tạp chí tâm lý học xã hội và tính cách, một tạp chí tâm lý có uy tín, đã khiến nhiều nhà nghiên cứu tức giận, không chỉ vì Bem đã phá hoại những mô hình khoa học từng được yêu mến, mà còn bởi nghiên cứu của ông có sai sót trong dữ liệu và phương pháp, dẫn tới kết luận không chính xác.

Bằng chứng về khả năng ngoại cảm của con người vẫn mơ hồ và gây tranh cãi.
Bem khuyến khích những nhà khoa học khác lặp lại thí nghiệm của mình. Ba nhà khoa học, gồm nhà tâm lý học Stuart Ritchie ở ĐH Edinburgh (Anh), Richard Wiseman ở ĐH Hertfordshire, và Christopher French ở ĐH London thực hiện ba nghiên cứu riêng rẽ với các sinh viên đại học để tìm kiếm bằng chứng về khả năng ngoại cảm.
Một khám phá được coi là khoa học thực sự khi thí nghiệm tìm ra nó có thể lặp lại bởi các nhà khoa học khác. Nếu không nhà nghiên cứu nào khác có thể lặp lại nghiên cứu và kết quả tương tự thì khám phá đó không có thật. Trong thí nghiệm của Bem, các tình nguyện viên được nhìn thấy 48 từ lóe lên trên một màn hình máy tính. Sau đó được cho làm bài kiểm tra trí nhớ bằng cách đánh máy lại tất cả những từ trên màn hình mà họ vừa nhìn thấy.
Sau đó, một 24 từ được chọn ngẫu nhiên trong 48 từ được cho hiển thị lại. Người tham gia làm tiếp một số bài kiểm tra với những từ này. Thí nghiệm kết thúc. Sau khi phân tích kết quả kiểm tra trí nhớ, Bem và các đồng nghiệp kết luận rằng: Các sinh viên thường nhớ lại những từ mà họ sắp được nhìn thấy lại hơn là những từ không hiển thị lại trong bài thử nghiệm sau, như thể họ thấy trước được tương lai.
Tuy nhiên, ba nghiên cứu lặp lại của ba nhà tâm lý đều đưa ra kết luận: “Chúng tôi chẳng tìm ra điều gì”.
Nói cách khác, những từ mà nhóm sinh viên được nhìn lại sau khi làm bài kiểm tra không giúp cải thiện kết quả. “Có thể các số liệu trong thí nghiệm ban đầu chỉ là do may mắn có được. Đôi khi chúng tôi còn thấy các kết quả đối lập", Richie nói.
Đáp lại kết luận này, Bem cho rằng có thể ba nhà nghiên cứu vốn đã không tin vào khả năng ngoại cảm, nên họ đã tác động một cách không chủ ý lên các tình nguyện viên để họ không thể hiện khả năng đoán trước tương lai. Vì thế, Wiseman đề xuất tất cả 4 nhà nghiên cứu sẽ cùng làm lại thí nghiệm của Bem và cùng nhau phân tích dữ liệu. Tuy nhiên, một vấn để lớn là tạp chí từng đăng công trình của Bem từ chối đăng nghiên cứu có kết quả ngược lại.
Nhiều năm nay, nhiều nhà khoa học mang nhiều học hàm học vị khác nhau tuyên bố đã tìm ra những bằng chứng đáng tin cậy về khả năng ngoại cảm của con người. Ví dụ, giáo sư tâm lý Gary Schwartz ở ĐH Arizona (Mỹ), tìm ra (nói chính xác là ông khăng khăng là) có bằng chứng của cuộc sống ở thế giới bên kia trong hàng loạt thí nghiệm mà ông thực hiện vào cuối những năm 1990. Cuốn sách mang tựa đề “Những thí nghiệm về cõi âm” xuất bản năm 2002 được gọi là “bằng chứng khoa học đột phá về cõi âm”, dù cho tới tận bây giờ bằng chứng về tâm linh và ma quỷ vẫn cực kỳ mơ hồ.
Theo:Đất Việt
 

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
TT Chuyển Pháp Luân kính
Hì hì cảm ơn Chuyển Pháp Luân đã đăng bài của Đất Việt <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com<img src=" /><o:p></o:p>
Xin được góp ý với Đất Việt <o:p></o:p>
Đất Việt đã viết:
Nghiên cứu của ba nhà tâm lý học độc lập vừa bác bỏ khẳng định rằng khả năng ngoại cảm thực sự tồn tại được đưa ra năm ngoái


Đất Việt đã viết:
Nhiều năm nay , nhiều nhà khoa học mang nhiều học hàm học vị khác nhau tuyên bố đã tìm ra những bằng chứng đáng tin cậy về khả năng ngoại cảm của con người .
Đất Việt đã viết:
Ví dụ , giáo sư tâm lý Gary Schwarts ở ĐH Arizona (Mỹ) tìm ra ( nói chính xã khăng khăng là ) có cuộc sống ở thế giới bên kia trong hàng loạt thí nghiệm mà ông thực hiện vào cuối năm 1990.<o:p></o:p>
Cuốn sách mang tựa đề “ Những thí nghiệm về cõi âm “ xuất bản năm 2002 được gọi là “bằng chứng khoa học đột phá về cõi âm “ dù cho tới tận bây giờ bằng chứng về tâm linh và ma quỷ vẫn cực kỳ mơ hồ “
<o:p></o:p>

Đất Việt kính <o:p></o:p>
Đọc bài này mình không hiểu ĐV muốn nói : Khả năng ngoại cảm của con người không thực sự tồn tại , hay , cõi người âm không thực sự tồn tại , hay ĐV muốn nói , cả hai sự kiện đều không thực sự tồn tại ?<o:p></o:p>
Chắc có lẽ do vì một trong hai sự kiện không tồn tại , do đó có nghĩa sự kiện còn lại cũng không tồn tại ? Vì không có người âm nên không làm sao có khả năng ngoại cảm , hay khả năng nhìn , nghe thẩm thấu người âm . Hay vì tự thân không nhìn , nghe thẩm thấu cõi người âm , cho nên không thể tin có cõi người âm ? <o:p></o:p>
Theo mình được biết : Khả năng ngoại cảm là một khả năng hy hữu , không phải người nào cũng có .Các thầy. có người cho khả năng nhìn thẩm thấu thấy người âm là một phần của Thiên Nhãn Thông , và khả năng nghe thẩm thấu được người âm nói , là một phần của Thiên Nhĩ Thông <o:p></o:p>
Người âm là một dạng của cái mà danh từ người đời thường gọi là “cô hồn” . “Cô hồn “ có nhiều loại :<o:p></o:p>
_Thân trung ấm<o:p></o:p>
_ Người âm <o:p></o:p>
_ ma quỷ<o:p></o:p>
_ Quỷ đói (ngạ quỷ )<o:p></o:p>
_ hương linh<o:p></o:p>
_ vong linh <o:p></o:p>
_Oan Hồn
_ Hồn ma

Thật ra trong các trạng thái này chỉ có Quỷ đói là một cõi trong sáu cõi chúng sinh được nói trong kinh Phật , còn các dạng kia không phải là một cõi nhất định , tuy vậy người sau khi chết có thể ở dạng đó rất lâu – và dĩ nhiên là lâu hơn 49 ngày thời gian chuyển tiếp sang cõi chúng sinh khác , sau cái chết. <o:p></o:p>
Tại sao các người sau khi chết lại ở dạng người âm rất lâu mà không chuyển sang kiếp khác <o:p></o:p>
_ Nghiệp xấu phải đọa quỷ đói ( ngạ quỷ )<o:p></o:p>
_ Sự hiểu biết sai lầm từ khi còn sống trên dương thế,cho cõi âm ( không thân máu thịt ) là cõi vĩnh hằng <o:p></o:p>
_ Sự nuối tiếc cuộc sống dương thế kiếp vừa qua và không chấp nhận cái chết vừa qua <o:p></o:p>
Do đó ,chúng ta có tục lệ cúng rằm tháng bảy là để nhờ các chư Tăng chú nguyện cho người thân đã mất ở cảnh giới cõi âm thôi không vất vưởng mà được hiểu biết và siêu thoát để thoát cảnh vất vưởng đói khát ( thức ăn, tình cảm , các ham muốn ... )

Theo mình , khoa học không thể giải thích và minh chứng việc có người âm và khả năng nhìn thấy ,nghe thấy người âm là xác thực hay không . Sự hiểu biết này không thể chứng minh bằng vật lý . <o:p></o:p>
Dù vậy khoa học có thể hỗ trợ gián tiếp cho việc giải thích phần nào về khả năng ngoại cảm qua giải thích năng lượng trường sinh học , về khả năng cấu tạo và vai trò của vỏ não … <o:p></o:p>
Kính xin chư tôn túc và quý vị nào có hiểu biết về lãnh vực này xin chỉ bảo, góp ý .

KÍNH
 

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
Phật giáo Nguyên Thủy không có nói về 49 ngày của "Thân Trung Ấm" , nhưng Phật Giáo Đại Thừa vẫn có truyền thống cầu siêu cho người chết trong vòng 49 ngày ( thất tuần ) và nghĩ rằng sau 49 ngày thì vong linh phải đi tái sinh . Có lẽ truyền thống này được phát xuất từ kinh Địa Tạng . Riêng Phật Giáo Tây Tạng rất chú trọng đến việc tụng niệm cầu siêu cho người chết trong vòng 49 ngày theo giáo lý Bardo Thodol ( Tử Thư Tây Tạng ) do ngài Padmasambhava ( Liên Hoa Sinh) trước tác .


Xuyên qua việc tìm mộ chiến sỹ chết trận của nhà ngoại cảm PHAN THỊ BÍCH HẰNG , chúng ta nhận ra một điều đáng chú ý là không phải vong linh nào cũng đi tái sinh sau 49 ngày , mà ngược lại có rất nhiều vong linh bị mắc kẹt , vất vưởng trong cảnh Trung Giới nhiều năm tháng . Đa số quý Thầy thường xếp những vong linh mắc kẹt này vào loài Ngạ Quỷ , cho rằng sau 49 ngày họ đã tái sinh thành ngạ quỷ . Nhưng nếu tái sinh thành ngạ quỷ , đó tức là đi qua một kiếp sống mới , với một hình sắc mới như trong kinh thường tả là bụng to như cái trống , cổ họng nhỏ như cây kim , miệng hôi thối , thở ra lửa , vv... Theo tôi thì những vong linh này chưa tái sinh qua một kiếp sống khác , bởi vì họ vẫn còn mang hình sắc của kiếp sống cũ , và vất vưởng trong cảnh Trung Giới , xen kẽ với cảnh dương thế mà không có cách nào liên lạc được với người thân . Chỉ khi nào được sự giúp đỡ , khai thị , hiểu được hoàn cảnh mắc kẹt hoặc được mãn nguyện thì họ mới đi tái sinh . Do đó thời gian 49 ngày chỉ là khoảng thời gian trung bình chư chưa phải nhất định.

Ở Mỹ hàng năm thường có những " Hội Chợ Ngoại Cảm " (Psychic Fair ) tổ chức tại các thành phố lớn như New York , San Francisco , Houston, Phoenix ... vv...Đến các Hội Chợ này , bạn sẽ thấy đủ loại ngoại cảm như bói bài , xem hào quang , soi kiếp , liên lạc với người quá cố ..vv..Đa số là những người mới hành nghề , họ đến các Hội Chợ này để mời chào khách . Những nhà ngoại cảm nổi tiếng , nhờ viết sách hay nhờ lên ti vi , thường không có mặt trong Hội Chợ này .

Sau đây là tên vài nhà ngoại cảm nổi tiếng như Barba ra Ann Brenan , Sylvia Browne , Allison Dubois , James Van Pragh .
Bà Barbara Ann Brennan không xem mình là một nhà ngoại cảm mà là một người chữa bệnh tâm linh . Bà có khả năng nhìn thấy các thể vi tế , luân xa , kinh mạch , lục phủ , ngũ tạng , và các bướu ung thư trong cơ thể con người chẳng khác gì máy quang tuyến X . Bà cũng nghe được các âm thanh vi tế và giao tiếp với các vị hướng đạo tâm linh ( spritual guides ) vô hình . Những khả năng của bà là một loại ngoại cảm hạng cao , nhưng bà dùng nó vào việc chữa bệnh và nghiên cứu . Bà có mở trường dạy về cách chữa bệnh về các thể vi tế , và bà đã từng làm việc tại trung tâm nghiên cứu không gian NASA . Có nhiều bác sỹ đã gởi bệnh nhân đến cho bà chữa trị , vì họ không tìm ra được căn bệnh với máy móc y khoa thông dụng .

Bà Sylvia Browne là một nhà ngoại cảm nổi tiếng từ lâu , đã viết nhiều sách bán chạy nhất ở Mỹ . Chuyên môn của bà là nói về thế giới bên kia cửa tử , vì bà có khả năng thấy và giao tiếp với người âm . Bà thường được mời đến các ngôi nhà ma ( haunted house ) để tiếp xúc với các vong linh ám ảnh chưa siêu thoát và khuyên bảo họ ra đi ( tái sinh ) . Bà đã xuất hiện nhiều lần trên các kênh truyền hình trên các đài truyền hình của Montel Williams , Larry King, ABC , CNN ..vv..
Bà Allison Dubois là nhân vật gây cảm hứng cho bộ phim "Medium " được chiếu hàng tuần trên đài NBC . Bà có khả năng thấy nghe , tiếp xúc với người âm , và đặc biệt là có thể đọc được tâm ý của kẻ khác . Bà dùng khả năng ngoại cảm để giúp các cơ quan cảnh sát , công an , đi tìm những người mất tích vì bị ám sát hay bắt cóc , và những hung thủ giết người .Ngoài ra bà cũng đóng góp vào những cuộc thử nghiệm của Đại Học A ri zona giúp các nhà khoa học tìm hiểu về thế giới bên kia cửa tử . Vì tốt nghiệp luật sư nên bà cũng tham gia vào các phiên tòa để giúp các Bồi Thẩm Đoàn đạt được quyết định đúng đắn , vì trong các phiên tòa bà thường thấy các nạn nhân bị giết hại , ngồi ngay bên cạnh bà .

Ông James Van Praagh là một nhà ngoại cảm nổi tiếng hiện nay , sách của ông được xếp vào loại bán rất chạy ở Mỹ . Ông là người thực hiện bộ phim "Ghost Whisperer " ( Thì Thầm với ma )được chiếu hàng tuần trên đài CBS , dựa trên cuộc đời của bà Mary Ann Winkowski , một nhà ngoại cảm bạn của ông . Trước khi nổi tiếng ông từng làm nghề Liên lạc với Ma ( spirit communicator )giúp người chết liên lạc với người thân còn sống để giải tỏa những uẫn ức tình cảm , tâm lý hầu giúp họ siêu thoát . Sau khi nổi tiếng rồi thì ông thường đi diễn thuyết khắp nơi trên nước Mỹ và Âu Châu về thế giới của người âm .

Trên đây là sơ lược vài nhà ngoại cảm nổi tiếng ở Hoa Kỳ , ngoài ra còn rất nhiều nhà ngoại cảm khác với khả năng không thua kém gì , nhưng vì họ không viết sách nên ít ai biết đến .Các giới chức trách , công an , cảnh sát , FBI , mỗi khi gặp khó khăn trong sự truy lùng các tội phạm giết người thường tìm đến giúp đỡ của các nhà ngoại cảm và giấu tên của họ để tránh sự trả thù .

Ngày nay ở Việt Nam xuât hiện những nhà ngoại cảm tìm mộ của những thân nhân người chết ( trên chiến trường thời chiến tranh , vì thiên tai động đất sụp lở , những ngôi mộ đã bị cát vùi lấp bởi cát phù sa do lũ lụt , vỡ đê khiến địa hình thay đổi ... ) những nhà ngoại cảm đã giúp cho người âm đươc trở về quê hương với mộ của mình . Những người này lầm chấp thân xác là mình nên cứ lảng vảng quanh hài cốt của mình . Các nhà ngoại cảm nếu biết đạo có thể giảng cho người âm hiểu họ đã chết không nên lệ thuộc vào hài cốt , mồ mả của mình nữa .

Ngoài ra nếu các cơ sở nghiên cứu khoa học biết lợi dụng khả năng hiếm có của các nhà ngoại cảm để tìm hiểu về thế giới vô hình sau khi chết , thì sẽ bỏ đi mê tín dị đoan , cũng như quan niệm không đoạn diệt ; tránh được việc khi sống chỉ chạy theo vật chất đua đòi , sau khi chết phải làm hồn ma mắc kẹt nơi trung giới sống không ra sống chết không ra chết .

( Theo : Thượng Tọa THÍCH TRÍ SIÊU )
 

tt_chuyenphapluan

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Quản trị viên
Phật tử
Tham gia
6 Thg 8 2010
Bài viết
1,020
Điểm tương tác
193
Điểm
63
Thượng tọa Thích Thanh Duệ: Ngoại cảm không "nói chuyện" với hồn!

Thượng tọa Thích Thanh Duệ: Ngoại cảm không "nói chuyện" với hồn!

Cuộc trò chuyện của phóng viên VieTimes với Thượng tọa Thích Thanh Duệ, Phó Trưởng ban Nghi lễ Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đã cho thấy một điều rõ ràng rằng các nhà ngoại cảm chỉ mượn danh Phật giáo để gây thanh thế cho mình. Còn trên thực tế, theo giáo lý nhà Phật không có chuyện người dương có thể tiếp xúc được với người âm.

Phóng viên (PV): Thưa Thượng tọa, hiện nay có rất nhiều nhà ngoại cảm cho rằng họ có thể nói chuyện được với người âm để đi tìm mộ. Nếu chiếu theo huệ nhãn (con mắt thấu suốt) của Phật giáo, điều đó được hiểu như thế nào?
Thượng tọa Thích Thanh Duệ (TT.TTD): Không. Cái đấy không nằm trong hệ thống giáo lý của đạo Phật. Đạo Phật công nhận thế giới tâm linh và thế giới vật chất của con người. Hai thế giới này tồn tại hài hòa thì con người mới tồn tại được. Trong thế giới tâm linh, có 10 bậc, 10 thế giới riêng. Một là thế giới của chư Phật, là những người đã hoàn toàn giác ngộ. Hai là thế giới của bồ tát, là những bậc đã giác ngộ nhưng chưa hoàn toàn. Thứ 3 là thế giới của thanh văn la hán, Thứ 4 là thế giới của chư thiên. Thứ 5 là thế giới của hàng bích chi phật. Thứ 6 là thế giới của loài người. Thứ 7 là thế giới của Atula. Thứ 8 là thế giới của quỷ đói. Thứ 9 là thế giới của súc sinh. Thứ 10 là thế giới của địa ngục. Trong 10 mức độ như thế, đời sống tâm linh có những biểu hiện khác nhau. Phật hoàn toàn tự do tự tại, bồ tát thì một phần. Thế giới bích chi phật thoải mái cho riêng tư mình nhưng vẫn vướng mắc va chạm với xã hội. Còn thế giới Atula là hoàn toàn giải thoát, không phải bị ràng buộc, nhưng người ta luôn luôn luẩn quẩn trong không trung, gây ra những chuyện xấu nho nhỏ và làm ra những chuyện tốt nho nhỏ.

Có thể những nhà ngoại cảm ở đây nghĩ rằng họ "tiếp xúc" được với thế giới Atula. Trong kinh Lăng Nghiêm nói, khi con người thiên vào những cái đó, coi trọng cái đó thì thế giới Atula sẽ nhập vào người đó. Ví dụ như ở nơi nào chính quyền công an vững thì trộm cắp sẽ ít. Nơi nào công an yếu, trật tự an ninh dân phòng yếu thì thế giới trộm cắp phát triển. Cái thế giới đó như người ta gọi là âm thịnh thì dương suy mà dương suy thì âm thịnh. Khi ổn định trật xã hội an toàn thì thế giới đó bị giảm bớt, bị coi thường. Khi trật tự an toàn xã hội kém, thì thế giới đó phát triển.

PV: Vậy việc những nhà ngoại cảm thường đặt bàn thờ Phật trong nhà mình và đôi khi tự nhận mình là đệ tử của Phật giáo, làm theo giáo lý nhà Phật có ý nghĩa gì không?

TT.TTD: Những người luyện tập để có khả năng ngoại cảm không phải theo đạo Phật. Ban đầu họ không theo đạo Phật, nhưng khi hành nghề, họ cảm thấy có liên quan nhiều đến đạo Phật thì họ đưa Phật giáo ra thôi. Họ muốn kéo vào để gây thanh thế.

Tôi không biết về họ để mà nhận xét họ nhưng tôi nghĩ là họ cần một cái “cờ nêu” nào đấy chứ không ông nào, bà nào làm việc ấy lại đưa chúa Jesu ra làm “cờ nêu” được cả. Kể cả những người đồng bóng bói toán cũng toàn đưa đạo Phật làm “cờ nêu”. Bởi vì giáo lý đạo Phật nói về đời sống tâm linh nó gần gũi với đời sống chúng ta và gần gũi với những cái mà người ta nghĩ rằng đời sống tâm linh sẽ tồn tại, phát triển đối với con người.

PV: Theo Thượng tọa, một tín đồ Phật giáo chân chính có nên tin chuyện đó không?

TT.TTD: Một tín đồ Phật giáo nên tin vào giáo lý nhà Phật, tin vào luật nhân quả, nghiệp báo và những khả năng của con người có thể đạt được. Đạo Phật không bao giờ muốn tín đồ của mình tin theo những chuyện như vậy

Trong kinh Hoa Nghiêm nói, con người là trên hết, con người đứng giữa trời đất. Theo quan niệm tam tài của nho giáo, con người đứng giữa trung gian, có thể tạo ra cho mình làm trời những cũng có thể dẫn mình vào địa ngục. Đức Phật dạy rằng: “Nhân vi tối thắng”, con người là hơn hết vì họ có thể tạo ra cái tốt đẹp nhất và tạo ra cái xấu nhất.

PV: Liệu các nhà ngoại cảm có làm được như họ nói là nói chuyện được với linh hồn của một thân xác đã chết?

TT.TTD: Nói như thế là không đúng. Nói chuẩn xác trong giáo lý đạo Phật, người ta nói chuyện với nhau chỉ là nói chuyện với thế giới quỷ thần hay thế giới Atula. Đạo Phật không nói rằng thân này sống là gửi, thác là về. Cái đó là quan điểm của Nho giáo hay tín ngưỡng bản địa nào đó. Chứ đạo Phật nói rằng cái tồn tại vĩnh hằng là nghiệp thức của con người mà người ta quen gọi đó là phần hồn. Cái phần hồn đó nó chỉ chuyển đổi khi con người đạt tới Phật, tức là giác ngộ hoàn toàn. Còn từng giai đoạn một, cái nghiệp thức ấy gắn vào thân người.

Đạo Phật nói rằng cái tồn tại sự sống nó phải kết hợp cả 2 cái hồn và xác. Nếu 2 cái tách rời nhau thì cuộc sống chấm dứt. Ví dụ: tờ giấy này là tứ đại địa thủy hỏa phong, đó là những cái vật chất để cho nó tồn tại. Nhưng để cho nó thành tờ báo hay một quyển sách thì nó phải có cái phần linh hồn, phải in thế này, đóng thế này, trang trí thế này, nội dung thế này. Khi nó không còn tồn tại, người ta đưa vào máy nghiền, cái thành phần vật chất của nó, tức là phần xác của nó tan đi thì phần hồn của quyển sách cũng mất.

PV: Vậy là một người nếu chết đi, phần hồn không thể tồn tại để nói chuyện với người còn sống?

TT.TTD: Không thể tồn tại. Đạo Phật nói rằng con người ta khi chấm dứt sự sống ở kiếp này thì phần hồn sẽ thoát khỏi xác và tùy theo nghiệp, nếu nặng thì vào địa ngục, mà nhẹ thì lên cõi thiên. Sau 49 ngày, phần hồn ấy sẽ được quyết định là đầu thai vào nơi này hay nơi khác. Khi thần thức của con người đã chuyển tiếp rồi thì nó không thể trở lại nói chuyện được với các nhà ngoại cảm nữa.

Ví dụ trong cuộc sống bình thường, bạn là người Việt Nam nhưng không ở Việt Nam nữa mà sang bên Mỹ sống, tự nhiên quên hết cả tiếng Việt, bạn có muốn quay lại Việt Nam cũng không nói được, không giao tiếp được. Hoặc người lớn đưa các cháu ra nước ngoài mà không cho nó học tiếng Việt, thì về Việt Nam nó cũng không thể giao tiếp được. Đấy là chưa nói là đầu thai vào thế giới súc sinh, ngã quỷ nó khác, khác chủng loại, khác ngôn ngữ, biểu đạt. Đầu thai vào loài chim thì nói sao được với người.

PV: Đời sống tâm linh hiện tại của người Việt có rất nhiều những biểu hiện lệch lạc như việc gọi hồn, xem bói toán, cúng bái để hưởng lợi… Thượng tọa có cho rằng như thế là theo đạo Phật ?

TT.TTD: Đời sống tâm linh hiện tại, kế thừa những quan niệm và hệ thống tư tưởng, hệ thống giáo lý của các tôn giáo lớn cũng như các tín ngưỡng của nhân dân có từ xa xưa. Xã hội hiện nay thường đến với đời sống tâm linh khi người ta nghèo nàn hoặc người ta giầu có mà muốn duy trì sựu giàu có đó, muốn cho đời sống nâng lên, muốn cho sự thành đạt được toại nguyện. Ví dụ, quan chức cũng muốn duy trì và gặp may trên bước đường thăng tiến, rồi những người nghèo nàn lạc hậu nhìn thấy cuộc sống đầy đủ của người khác cũng tìm đến cuộc sống tâm linh. Nói đời sống tâm linh là bạn nói chung chung, còn nói cụ thể, là hiện nay người ta tìm cách xây dựng mồ mả tổ tiên để được thăng quan tiến chức, rồi những người nghèo không có cũng cố gắng xây dựng, sửa chữa, tôn tạo mồ mả… Xu hướng đình đền miếu mạo, rồi mồ mả, tổ tiên phát triển mạnh.

Còn giáo lý đạo Phật lại chú trọng về luật nhân quả. Cái hiện tại của con người ta có được hay có duy trì được hay không là do sự tạo dựng cá nhân của chính con người đó. Đạo Phật nói rằng quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, con người hãy sống tốt với hiện tại, tức là tạo dựng cái nhân tốt. Theo luật nhân quả, tạo dựng nhân tốt thì mình sẽ duy trì được những cái danh vọng địa vị, quyền chức, tài sản hoặc cải đổi nghiệp trong quá khứ để được hưởng những cái tốt đẹp trong những ngày hiện tại cũng như trong tương lai.

Đạo Phật không công nhận chuyện phong thủy để dẫn đến hướng nhà, hướng mả, từ đường mà đạo phật chú trọng chuyện gây nhân lành, tạo dựng tốt đẹp cho chúng sinh nói chung.

PV: Tại sao đời sống xã hội hiện đại lại có quá nhiều biểu hiện lệch lạc như vậy?

TT.TTD: Bởi vì trong xã hội chúng ta không chỉ có riêng đạo Phật. Đạo Phật chỉ là một tôn giáo lớn trên thế giới và ở Việt Nam. Sự tồn tại của tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam rất nặng nề. Ví dụ như ở vùng núi, vùng sâu vùng xa, chưa có đạo Phật nhưng người ta vẫn có tín ngưỡng của mình, hoặc tín ngưỡng bản địa, đạo thờ mẫu, thờ vật tổ. Cái đó không phải trong đạo Phật. Nếu những người đi theo đạo Phật, những Phật tử chân chính, người ta không có những biểu hiện lệch lạc như vậy.

Ví dụ, về phong thủy, đạo Phật nói: phong thủy dẫn đến thuận lợi cho cuộc sống con người, ví dụ nhà ở hướng nào mát về mùa hè, ấm về mùa đông, hay ở nơi nào đó mà thuận lợi về môi trường thì khỏe cho con người, tăng thêm sức lao động và sự thoải mái về tinh thần, tất nhiên là điều tốt đẹp sẽ đến với những người đó. Nhưng nếu người ta chú trọng về cái đó thì trở thành mê tín dị đoan. Phật giáo nói: “Phong thủy nhân gian bất khả vô. Toàn bằng âm chất lưỡng tương phù. Phú quý nhược tòng phong thủy đắc. Tái sinh khuếch pháp dã nan đồ”. Có nghĩa là phong thủy để đặt hướng cho nhà cửa, mồ mả, cũng có tác động tốt cho người sống, cho người chết và cộng đồng chung quanh. Nhưng nếu anh chú trọng vào cái đó mà không nỗ lực bản thân thì không thể giải quyết được cái gì. Những ông tổ về phong thủy, dịch lý đấy, nếu ông ấy làm được thì ông ấy phải làm cho nhà ông ấy, cho gia đình ông ấy rồi sau này ông ấy mới làm cho thiên hạ. Mình cứ điểm lại những tác giả của các tác phẩm phong thủy thì sẽ thấy chưa chắc những ông thầy ấy cuộc sống đã thuận lợi, gia đình đã thuận lợi và kinh tế đã phát triển.

PV: Theo thượng tọa, làm thế nào để phát triển tinh thần Phật giáo chân chính, bao trùm được những biểu hiện tiêu cực trong đời sống tâm linh hiện nay?

TT.TTD: Từ khi đất nước giành độc lập, từ những năm 1954-1955, Đảng và Nhà nước đã có một chủ trương gọi là bài trừ mê tín dị đoan bởi vì thực sự nó có tác động rất lớn đến cuộc sống trong xã hội, đến sự phát triển của con người. Nhà nước đưa ra chương trình hoạt động cho các tôn giáo là bài trừ mê tín dị đoan.

Trong điều kiện xã hội hiện nay, cuộc sống không phải phẳng lặng, những cái may rủi xuất hiện nhiều. Thật ra, dân trí thấp thì người ta hay tin vào những thứ mê tín dị đoan. Nếu đã là tiềm năng của con người phát triển thì nó luôn luôn tồn tại, như việc mình học tiếng Anh tiếng Pháp, hay toán học, kiến thức luôn luôn ở đó. Thế mới gọi là phát hiện tiềm năng con người để phát hiện được thế giới tâm linh, thế giới quỷ thần, nhìn được cái xa xôi. Chẳng qua các nhà ngoại cảm nói được với những người nhẹ dạ cả tin.

Khi mình đem giáo lý chân chính của đạo Phật, đem tư tưởng của các tôn giáo chứ không lợi dụng mê tín, truyền lại cho các tín đồ theo đạo, họ sẽ từ bỏ việc mê tín dị đoan. Khi ánh sáng lên thì bóng tối sẽ bị xua tan.

Đối với đạo Phật, được Nhà nước, cơ quan ban ngành, đoàn thể ủng hộ, đạo Phật rất tích cực đem giáo lý giác ngộ quần chúng. Giáo lý gần đây được phát triển bằng băng đĩa, sách báo, nên phần mê tín giảm bớt.

Đối với nhà nước cũng phải quan tâm. Đạo Phật không khuyên người ta đốt vàng mã nhưng xã hội tồn tại những người làm nghề vàng mã thì bắt buộc họ tuyên truyền cho việc đốt vàng mã. Ở Trung Quốc ngày xưa, người ta đã nói rằng khi con người không ý thức được chuyện vàng mã là giả dối, người đốt vàng mã đã tạo ra câu chuyện người chết sống lại được bởi vì nhờ làm lễ hình nhân thế mạng, để người ta duy trì nghề nghiệp của mình. Tôi muốn nói đến những cái vấn đề thuộc về xa xỉ thì nhà nước không nên cho phát triển. Vì phát triển kinh tế, nhà nước mình cho Đài Loan đầu tư một cái nhà máy rất lớn để in tiền đô la âm phủ ở dưới Hải Phòng. Nhà nước một phía khuyên người ta không nên xa xỉ phẩm, nhưng đồng thời Nhà nước lại cho phép sản xuất những cái đó.

PV: Xin cám ơn Thượng tọa!

Theo:viettrade

 

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
TT Chuyển Pháp Luân ,Thượng Tọa Thích Thanh Duệ ,Viettrade kính

Hi hi Nhân mùa Vu Lan để độc giả có dịp nhớ đến tình trạng của cô hồn và sự tiếp xúc với cô hồn , nhân mùa Vu Lan rằm tháng bảy xá tôi vong nhân . Bài này không phải để tranh luận , mà chỉ tán thành các bài viết có nội dung góp ý xây dựng , hoặc tạo cơ hội để người po s t bài góp lời để làm rõ nghĩa hơn , một lần nữa xin nhắc lại bài này không tranh luận . Chỉ riêng xin nêu vài điểm mà Thượng Tọa Thích Thanh Duệ , người post bài và một số bạn đọc có thể hiểu lầm nội dung của bài "Ngoại Cảm ".
Hì hì

Không có chuyện người dương có thể tiếp xúc được với người âm
Nếu không thì tại sao các nhà ngoại cảm có thể được người âm mách bảo chỗ của hài cốt của người ấy .Và theo lời mách bảo ấy mà khai quật lên quả nhiên có hài cốt . Có nhà ngoại cảm _như nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng _đã tiếp xúc với các vong linh và cho đào lên được khoảng 10.000 hài cốt các liệt sỹ mất trên các chiến trường thời chiến tranh .

Hồi thời Đức Phật tại thế , có tỳ kheo Mục Kiền Liên đã đi trên bờ sông Hằng mà tiếp xúc được với các Ngạ quỷ và biết được nhân duyên nghiệp báo của từng ngạ quỷ . Thầy Mục Kiền Liên cũng nhờ khả năng thần thông này mà biết được mẹ của Thầy đang dọa ngạ quỷ đói khát . Chính Mục Kiền Liên cúng không cứu được mẹ ngài , mà phải nhờ sức hộ trì và chú nguyện của một tập thể nhiều Thánh Tăng trợ lực .

Kinh Lương Hoàng Sám có ghi về chuyện Hoàng Phi của vua Lương Võ Đế vì tội ác sau khi chết phải đọa làm thân mãng xà . Đêm bà hiện tiếng nói về vua Lương Võ Đế cầu cứu xin vua có cách gì giúp cho bà thoát thân mãng xà . . Vì vậy hòa thượng Chí Công đã soạn ra bộ kinh sám pháp và cầu cho bà Hy Thị thoát nghiệp chướng nhờ pháp sám hối

Cho nên việc dùng thần thông để biết và tiếp xúc với chúng sanh đã từ trần là việc có nói trong Phật Pháp . Không phải dễ gì có được khả năng này . Có khi người thân đã chết vì ở cảnh giới khổ quá hiện về cầu cứu người thân , như trong kinh Địa Tạng .

Ví dụ: tờ giấy này là tứ đại địa thủy hỏa phong, đó là những cái vật chất để cho nó tồn tại. Nhưng để cho nó thành tờ báo hay một quyển sách thì nó phải có cái phần linh hồn, phải in thế này, đóng thế này, trang trí thế này, nội dung thế này. Khi nó không còn tồn tại, người ta đưa vào máy nghiền, cái thành phần vật chất của nó, tức là phần xác của nó tan đi thì phần hồn của quyển sách cũng mất.

Theo ptd thì quyển sách hay tờ báo chỉ có phần hồn nếu có phần hồn của người đọc sách hay báo , tự thân của quyển sách hay tờ báo hoàn toàn là vô tri vô giác .

Ví dụ trong cuộc sống bình thường, bạn là người Việt Nam nhưng không ở Việt Nam nữa mà sang bên Mỹ sống, tự nhiên quên hết cả tiếng Việt, bạn có muốn quay lại Việt Nam cũng không nói được, không giao tiếp được. Hoặc người lớn đưa các cháu ra nước ngoài mà không cho nó học tiếng Việt, thì về Việt Nam nó cũng không thể giao tiếp được

Chỉ cần một thời gian là nhớ lại tiếng Việt
Còn các trẻ em sanh ở nước ngoài nếu chịu khó học tiếng mẹ để , sẽ nói được . Có học tập là làm được
Việc này giống như việc tu luyện :có tu , có thành đạo. Không tu , không thành đạo

Đạo Phật không công nhận chuyện phong thủy để dẫn đến hướng nhà, hướng mả, từ đường mà đạo phật chú trọng chuyện gây nhân lành, tạo dựng tốt đẹp cho chúng sinh nói chung.

Theo một câu chuyện trong số các câu chuyện của nhà ngoại cảm kể lại về quá trình tìm mộ của cô , ptd được biết có người mất tại chiến trường , hài cốt bị lún sâu vào lòng đất , sau này người ta làm nhà lên , lại làm trúng cái phòng tắm , nhà vệ sinh lên trên chỗ hài cốt của chiến sỹ chôn vùi dưới lớp cát dầy . Có người may mắn hơn mất trong rừng chưa có ai làm nhà lên thì hài cốt còn nguyên dưới đám lá cây , có người có hài cốt vùi bên dưới bên trên thành hồ nước . Có cả những ngôi mộ đã bị cát phù sa lấp vùi mất dấu do vỡ đê.
Nhờ nhà ngoại cảm mà chúng ta thấy sự vô thường của vị trí mồ mả , hài cốt . Đây mới không phải là việc của đạo Phật , vì đao Phật chủ trương không mồ mả hài cốt . Còn vấn đề Phong Thủy trong làm nhà là để tránh tình trạng làm nhà bên trên hài cốt lún sâu của người âm nào đó khiến họ không bằng lòng thì người dương cũng khó làm ăn . (?)Nhờ nhà ngoại cảm mà chúng ta thấy đạo Phât khuyên hỏa táng xác là tốt hơn hết .Nhà ngoại cảm với khả năng của họ là quan trọng cho chúng ta .
KÍNH
 

tt_chuyenphapluan

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Quản trị viên
Phật tử
Tham gia
6 Thg 8 2010
Bài viết
1,020
Điểm tương tác
193
Điểm
63
Ngoại cảm, chết và tái sinh

Ngoại cảm, chết và tái sinh

<table id="tbl_store_imgThumb" border="0" cellpadding="3" cellspacing="0" width="170"> <tbody><tr> <td align="center">
images_2012_quy2_ngoaicam1_432837614_611781065.jpg
</td> </tr> <tr> <td class="img_dsc" valign="top">
</td></tr></tbody></table> Phật giáo đề cập đến khái niệm thần thông tức những năng lực đặc biệt, mà theo ngôn ngữ ngày nay, một phần trong số đó được hiểu đồng nghĩa với ngoại cảm.
I. BA LOẠI NGOẠI CẢM
Ngoại cảm là năng lực truyền thông đặc biệt hai chiều giữa người có năng lực này với người âm ở thế giới vô hình. Năng lực truyền thông đó không sử dụng bằng các giác quan của mắt, tai, mũi, lưỡi và thân như con người ở thế giới thông thường. Năng lực ngoại cảm có thể giúp nhà ngoại cảm cảm nhận được tần số tâm thức với các vùng cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức của vong linh, đặc biệt của người còn sống thông qua phương diện sắc diện, liên hệ đến bệnh tật và tuổi thọ của họ.
Nhà ngoại cảm khi phát hiện ra năng lực đặc biệt này, có người cho rằng đó là người nửa âm, nửa dương, nhưng theo đạo Phật đây là con người đóng vai trò rất quan trọng, mang lại niềm hy vọng và hạnh phúc cho hàng ngàn gia đình, vốn có những thao thức muốn biết thân phận của thân bằng quyến thuộc đã chết trong các cuộc chiến, do thiên tai, chết bất đắc kỳ tử hoặc tai nạn gây ra. Công việc của nhà ngoại cảm là bắt nhịp cầu giúp cho sự đoàn tụ, mang hạnh phúc đến cho người sống và kẻ mất, chẳng những mang ý nghĩa về phương diện xã hội, mà nó còn là nghi thức thực tập mang tính chất trị liệu và chuyển hóa rất lớn. Theo quan điểm Phật giáo, có ba loại ngoại cảm khác nhau.
(1) Ngoại cảm bẩm sinh xuất hiện từ khi con người có mặt trong bụng mẹ. Năng lực ngoại cảm của các nhà ngoại cảm bẩm sinh rất cao, và thời gian tồn tại có thể đến cuối đời. Tại Ấn độ, thời của đức Phật có rất nhiều nhà tiên tri (ngày xưa người ta dùng thuật ngữ là nhà tiên tri). Chẳng hạn nhà tiên tri A-tu-đà biết rất rõ về tướng trạng cùng những dự đoán của ông về cuộc đời đức Phật khá chuẩn xác và thành công.
(2) Ngoại cảm sau một biến cố bệnh lý, liên hệ đến những chấn động mạnh, tác động tích cực đến vùng hải mã ở vỏ não. Từ đó, năng lực này làm khai thông và mở cửa hết tất cả nguồn tiềm năng vốn có ở từng con người và mỗi chúng sanh. Các nhà khoa học hiện đại cho biết bộ não con người giống như máy siêu vi tính, nó là bộ máy vi tính lượng tử chứa đựng tối thiểu từ 100 cho đến 200 tỷ neutron thần kinh. Mỗi neutron thần kinh có chức năng duy trì, giữ các hạt giống của tri thức, tình cảm, nhận thức và hành động của con người. Nó tạo ra vùng nhớ và nhiều sử dụng khác nhau trong đời sống. Nghiên cứu cho thấy, các nhà khoa học chỉ mới sử dụng được vài phần trăm của khối lượng neutron thần kinh, còn người bình thường như chúng ta thì việc khai thác, sử dụng lại còn ít hơn nữa.
Nhà ngoại cảm sau một biến cố chấn động đến lớp vỏ não khiến nó bị thay hình đổi dạng. Dù cũng là con người như bao con người khác, nhưng năng lực nhìn thẩm thấu, nghe thẩm thấu và truyền thông thẩm thấu của họ đặc biệt cao hơn chúng ta. Đến độ trong khoảng thời gian vài năm đầu như trường hợp nhà ngoại cảm Bích Hằng, cô không tin mình có năng lực đó. Năng lực ngoại cảm do biến cố thập tử nhất sinh có thể tồn tại với con người trong 10 năm, 20 năm, 30 năm hoặc có thể suốt đời, tùy theo đời sống tâm linh và sinh hoạt tinh thần của nhà ngoại cảm như thế nào. Nếu nhà ngoại cảm đó có đời sống tinh thần vững chãi như người xuất gia thì năng lực ngoại cảm này có thể sống mãi với họ suốt cả cuộc đời, và theo truyền thống tái sinh của đạo Phật, ở đời sau họ lại tiếp tục duy trì được nguồn năng lực ngoại cảm, cho nên họ có khả năng đặc biệt hơn những người khác.
(3) Ngoại cảm do đào tạo và huấn luyện. Nhà ngoại cảm được đào tạo và huấn luyện có thể học hỏi được một số năng lực truyền thông, nhưng giá trị của năng lực này có một giới hạn nhất định. Họ có thể cảm nhận được sắc thái con người và dự đoán được người này đang bị vương vào chứng bệnh nào, chết theo cách thế ra sao ở mức độ đơn giản, nhưng không thể có được năng lực đặc biệt như nhà ngoại cảm bẩm sinh hoặc nhà ngoại cảm sau biến cố nhất sanh thập tử như vừa nêu.

II. THẦN THÔNG VÀ NGOẠI CẢM
Phật giáo đề cập đến khái niệm thần thông tức những năng lực đặc biệt, mà theo ngôn ngữ ngày nay, một phần trong số đó được hiểu đồng nghĩa với ngoại cảm. Sáu phép thần thông được kinh điển đạo Phật mô tả bao gồm:
(1) Thiên nhãn thông tức khả năng nhìn thẩm thấu của con mắt mà không lệ thuộc vào con mắt giác quan thông thường;
(2) Thiên nhĩ thông tức năng lực nghe các âm thanh đặc biệt không bị giới hạn bởi thời gian hay không gian vật lý;
(3) Thần túc thông - năng lực khinh thân độn thổ, thần biến bằng nhiều hình dạng ở nơi này và nơi khác;
(4) Túc mạng thông tức năng lực nắm bắt được vận mệnh của con người từ đại cương đến chi tiết, diễn ra trong đời quá khứ dựa trên qui luật nhân quả của bản thân và những người khác;
(5) Tha tâm thông tức năng lực thấu rõ tâm trạng, cảm xúc và nhận thức thầm kín của người khác; và
(6) Lậu tận thông tức năng lực và tuệ giác nhìn thấy tất cả khổ đau được nhổ tận gốc rễ khỏi cảm xúc, nhận thức, thân và tâm, đời sống và sinh hoạt.
So với sáu thần thông vừa nêu, ngoại cảm liên hệ đến hai năng lực nhìn thẩm thấu (thấu thị) và nghe thẩm thấu (thấu thính). Cái nhìn thẩm thấu giúp nhà ngoại cảm có thể nhìn xuyên dưới lòng đất, đoán biết, hoặc chỉ vẽ sơ đồ ở một nơi rất xa đến hàng trăm cây số mà họ chưa từng đặt chân tới bao giờ. Thế nhưng các mô tả đó lại chính xác đến từng chi tiết, sự kiện, dữ liệu diễn ra trong quá khứ và có mặt ở hiện tại. Năng lực thẩm thấu đặc biệt này được các nhà khoa học gọi là con mắt thứ ba, và kinh điển đạo Phật gọi đó là Thiên nhãn thông.
Khả năng nghe của con người có thể bắt được các tần sóng âm phù hợp với ngôn ngữ, phong tục tập quán nơi mình sinh ra. Nguồn sóng âm khác với ngôn ngữ con người mà ta có thể tiếp nhận ở mức độ đơn giản. Chẳng hạn loại sóng âm của các loài động vật mà thông qua đó biết được trạng thái cảm xúc vui, buồn, cùng những thông tin truyền thông của chúng ở mức độ tương đối. Nhà ngoại cảm có khả năng nghe rất rõ những cuộc truyền thông và đối thoại trực tiếp với người cõi âm, do bởi họ có một phần của Thiên nhĩ thông. Họ nắm bắt được tần số tâm thức của vong hồn đã qua đời, từ đó tạo ra điểm hội tụ mà khoa học gọi đó là trường sinh học. Mức độ tập trung cao độ bao gồm các yếu tố về tâm lý, sức khỏe, thời tiết và lòng thành của thân bằng quyến thuộc còn sống hỗ trợ cho trường sinh học hội tụ rõ rệt hay mờ ảo. Năng lực tâp trung, đời sống tinh thần và tâm linh của nhà ngoại cảm càng cao thì điểm hội tụ trường sinh học càng lớn, giúp cho độ phán đoán về phương vị cũng như nơi ở của hài cốt hoặc hương linh được chính xác, và không thể nhầm lẫn trong tình huống có sự trùng tên với nhau giữa các hương linh.
Năng lực Tha tâm thông xuất hiện ở một số nhà ngoại cảm đặc sắc và nổi tiếng trên thế giới. Bởi vì một số nhà ngoại cảm có năng lực nhìn thẩm thấu, nhưng lại không có năng lực nghe thẩm thấu. Do đó, trong những cuộc tìm kiếm hài cốt để xác định vong linh đã siêu sinh hay chưa, hoặc đang có mặt ở phương vị nào trên mặt đất thì một số nhà ngoại cảm đạt thành công, do bởi họ có năng lực nhìn thẩm thấu. Ngược lại, một số nhà ngoại cảm lại không có năng lực nghe thẩm thấu và truyền thông thẩm thấu, chính vì vậy mà cơ hội truyền thông giữa người sống và kẻ mất gặp một số trở ngại. Đối với nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, cô có cả hai năng lực này nên mức độ chuẩn xác và thành công lên đến trên 10.000 tình huống.
Bản chất của Thiên nhãn thông giống như sự hội tụ thấu kính có chức năng truyền đạt thông tin, và nhà ngoại cảm có thể nắm bắt sự kiện như một máy chụp ảnh, máy quay phim ghi nhận lại các dữ liệu một cách chuẩn xác. Người bị khiếm thị, nếu biết tập trung năng lực và có sự hướng dẫn cũng có thể phát ra năng lực ngoại cảm, và mức độ thành công trong sự tập luyện này có thể cao hơn người có nhãn quan bình thường như chúng ta.
2. Năng lực thấu thị. Đối với năng lực nhìn thẩm thấu, nhà ngoại cảm có thể nhìn thấy rõ hình thù, vóc dáng cho dù thân thể vật lý, hình hài của người quá cố đã qua đời cách đây vài mươi hoặc vài trăm năm, xương đã tan rã không còn gì để nhận dạng; nhưng năng lực thẩm thấu này với sự tập trung cao độ giúp họ hình dung được từ trường năng lượng sinh học của vong linh, và thông qua đó xác định được phương vị của vong linh hiện đang nằm chỗ nào. Nếu có sự phối hợp đặc biệt giữa nhà ngoại cảm có năng lực nhìn thẩm thấu và nhà ngoại cảm có năng lực nghe thẩm thấu thì kết quả của những cuộc tìm kiếm có thể cao gấp nhiều lần so với những nỗ lực rời rạc, đơn lẻ.
Năng lực thấu thính. Đối với năng lực nghe thẩm thấu, nhà ngoại cảm có thể nghe được các tần sóng âm cao thấp khác nhau từ thượng giới, trung giới, hạ giới, tích tụ và giải mã chúng một cách chuẩn xác về nội dung cũng như những gì mà thế giới cõi âm đang gởi gắm cho thân bằng quyến thuộc đang còn sống. Trường sinh học của con người sau khi qua đời không mất hẳn, nó như bản chất của thế giới vật lý được bảo tồn. Nguồn sinh học về sóng âm này lan tỏa ra, và nhà ngoại cảm khi thiết lập được tần sóng âm tương thích với các vong hồn, họ có thể đọc được tâm trạng của các vong hồn này. Khi ấy, các loại vong hồn sẽ gởi gắm thông tin và lời nhắn nhủ đến thân bằng quyến thuộc. Vì đặt trên nền tảng truyền thông âm thanh, nên một số nhà ngoại cảm khó xác định và hỗ trợ được các vong hồn chết trong bụng mẹ, tức là thai nhi chưa có tiếng nói, chưa chào đời, hoặc vừa chào đời nhưng vì sự cố nào đó đã phải qua đời một cách tức tưởi thì luồng sóng âm tạo ra trường sinh học đó không rõ rệt, vì vậy khó có thể giúp họ được siêu sinh thoát hóa theo tinh thần Phật dạy.
Nhà ngoại cảm Bích Hằng cho biết, cô đã sử dụng năng lực vừa đối thoại vừa vấn thoại, dựa vào cuộc đối thoại với một vong hồn mà cô có chủ đích tìm kiếm. Thỉnh thoảng, cô cũng tình cờ gặp các vong hồn khác không nằm trong đối tượng tìm kiếm của cô. Những cuộc đối thoại được diễn ra, nhờ cô có tài ăn nói khéo léo, tạo thiện cảm đặc biệt với thế giới cõi âm, nên khi tiếp xúc với cô, một số vong hồn ban đầu còn trêu trọc, giỡn đùa, hoặc không nói thật tình, nhưng cuối cùng họ đành phải thành thật vì thấy được tấm lòng từ bi, tình thương đặc biệt của cô nhằm giúp cho thế giới cõi âm được siêu thoát, nên họ hỗ trợ rất đắc lực.

III. CÕI ÂM VÀ TRƯỜNG SINH HỌC CỦA HƯƠNG LINH
Chất liệu hội tụ của trường sinh học là cơ sở dữ liệu quan trọng để nhà ngoại cảm giải mã và phán đoán chính xác đối tượng mà họ đang tìm kiếm. Cho dù hương hồn đã qua đời lúc 3 tháng tuổi, 30 năm tuổi hoặc 100 năm tuổi thì điểm hội tụ của trường sinh học tỏa ra cũng giống hệt cách thức trước khi họ qua đời. Ví dụ một bé gái chết lúc 3 tháng tuổi thì nhà ngoại cảm sẽ cảm nhận được hình thù của vong hồn đó dựa theo cấu hình vật lý trước khi chết với hình thức là 3 tháng tuổi. Một người 30 tuổi, dù đã chết cách đây 100 năm thì nhà ngoại cảm vẫn cảm nhận được người này dưới hình thù vóc dáng là 30 tuổi. Có thể nói, yếu tố trường sinh học hỗ trợ đặc biệt giúp cho nhà ngoại cảm phán đoán thành công.
Thế giới cõi âm là thế giới xã hội giống như con người trên dương thế, tuy nó không có cấu trúc trật tự, không có ranh giới giữa các quốc gia, và người âm xuất thân từ nhiều quốc tịch khác nhau, nhưng khi qua đời họ trở thành những người mà đời sống chỉ liên hệ đến dòng cảm xúc, tri giác, tâm tư và nhận thức. Thế giới vật lý đối với họ chỉ là ảo giác được hình thành bởi những gì quan trọng và ấn tượng nhất trong cuộc đời, và khi qua đời những ấn tượng đó vẫn còn lưu giữ lại tạo ra trường sinh học. Nhờ vào sự hội tụ của trường sinh học mà nhà ngoại cảm có thể tiếp nhận và thấy được vong hồn với vóc dáng, hình thù giống hệt như lúc còn sống.
Tại sao đôi lúc có những hiện tượng thân bằng quyến thuộc chưa siêu thoát trở về nhà yêu cầu người thân hãy cúng giấy tiền vàng mã hay các phẩm vật khác? Họ có thể về báo mộng rằng tôi đang khát sữa, nếu các vong hồn đó là bé trai hoặc bé gái đang sống trong sự chăm sóc, nuôi nấng bằng sữa mẹ. Hoặc những cụ già có thể về báo mộng với con cháu mình rằng cha mẹ đang thiếu quần áo, nên cúng đốt vàng mã gởi xuống cho họ. Theo Phật giáo, sở dĩ có hiện tượng trên là do khi còn sống các vong hồn này từng có những quan niệm sai lầm về thế giới cõi âm. Họ nghĩ rằng cõi âm là cõi tồn tại lâu dài và vĩnh hằng cần phải đầu tư tất cả, còn cõi dương với thời gian tồn tại chỉ vài mươi năm là hết, bởi thế dân gian Trung Hoa thường có câu:“Sanh ký, tử quy” tức là “sống gởi, thác về”.
Kim tự tháp nguy nga tráng lệ của các vị Faraon (vua Ai Cập) cũng phát xuất từ quan niệm sai lầm về hai cảnh giới sự sống này. Một bên vĩnh hằng và một bên tạm thời, vì vậy mà họ đầu tư rất nhiều cho thế giới của cái chết; thậm chí họ chôn theo cả người thân, người thương, gia tài, của cải, châu báu xuống dưới cõi âm để tiếp tục hưởng thụ đời sống đó. Người Trung Hoa khi tiếp thu lại nền văn hóa này đã có những cải biên tích cực. Thay vì chôn người và của cải châu báu thật thì họ cải biên lại bằng nhiều hình thù khác nhau của các loại giấy vàng mã, mà giá trị gởi gắm tình thương cho mối quan hệ giữa người quá cố và người còn sống vẫn được duy trì.
Trong nền văn hóa châu Á, chăm sóc cho người quá cố là đồng nghĩa mang lại hạnh phúc cho những người đang sống ở dương thế. Mối quan hệ tình thân, tình thương giữa người sống và kẻ chết không kết thúc khi người đó nhắm mắt lìa đời, mà tiếp tục đến vài mươi năm hoặc vài kiếp sau nữa. Chính vì vậy, ảo giác sai lầm khi còn sống ảnh hưởng khá trừu tượng đối với thế giới cõi âm. Người không tin có đời sau cho rằng sau khi chết con người không còn gì, hình hài sắc thân trở về với cát bụi, thần thức với bốn loại hình gồm cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức sẽ không còn điều kiện để tồn tại và phát triển. Vì vậy, sau khi qua đời, họ không chuẩn bị cho sự tái sinh, bởi quan niệm rằng chết là dấu chấm cuối cùng trong đời sống của mình.
Có rất nhiều người suốt cả cuộc đời làm việc thiện, phước báu, sống cho quê hương xã tắc, làm những việc đem lại lợi ích cho cộng đồng và xã hội, ấy thế mà họ không ra đi được. Do vì không tin tưởng rằng, có một thế giới tiếp tục trong tiến trình tái sinh tùy theo nghiệp lực. Các ách tắc, trở ngại trong tiến trình tái sinh đều liên hệ đến quan điểm khi còn sống. Bởi phần lớn con người khi chết đi đều chưa chấp nhận cái chết diễn ra với mình là một sự thật, tiếc nuối đó đã mang lại tâm lý sợ hãi. Chính vì thế, chúng ta thường nghe người xưa hoặc nhà ngoại cảm kể lại, tiếp xúc với hương linh thường là nỗi khổ đau cùng cực với những giọt nước mắt sầu thương, họ mong mỏi cuộc sống này có thể kéo dài thêm một vài năm nữa, ấy thế mà cái chết đã đến với họ như một sự thật.
Phủ nhận cái chết diễn ra như một sự thật, các hương hồn trở thành vất vưởng bơ vơ, nay đây mai đó, trở thành những vong hồn“hồn đơn phách chiếc”. Do đó mà công tác tìm kiếm, xác định thông qua sự đối thoại, vấn thoại, cùng những nỗ lực của người còn sống giúp hương linh được siêu sinh gặp khá nhiều khó khăn. Bởi khi còn sống tâm lý của người đó như thế nào thì khi qua đời trạng thái tâm lý đó sẽ ám ảnh và có mặt với hương linh như thế đó, tính khí lúc còn sống ra sao thì khi chết hương linh cũng sẽ mang tính khí đó. Ví dụ lúc còn sống, chàng thanh niên là một người hài hước thì khi qua đời, tiếp xúc với họ cũng sẽ thấy tính cách khôi hài này chẳng khác gì so với lúc còn sống. Hoặc nếu là người cau có, khó chịu, dễ hờn dỗi, tự ái, mặc cảm, sĩ diện thì khi qua đời các trạng thái tâm lý đó vẫn giữ nguyên như vậy. Nếu không có sự trợ niệm đắc lực của những nhà tu hành và thân bằng quyến thuộc thì cấu trúc tâm lý đó vẫn theo đuổi, khiến họ khó có thể gặp được nhà ngoại cảm; mặc dù nhà ngoại cảm đang nỗ lực tìm kiếm, giúp đỡ họ.
Nhà ngoại cảm Bích Hằng cho biết, 40% tình huống bị thất bại, không thành công ngoài các yếu tố vừa nêu còn có yếu tố bản thân của hương linh đó không sẵn sàng chấp nhận sự hỗ trợ, trợ niệm. Họ đã lẩn tránh, vì vậy mà trường sinh học trở nên mờ ảo, khi tồn tại chỗ này, khi hiện hữu chỗ khác, khó có thể nhận dạng được phương vị của họ đang nằm vị trí nào. Có những tình huống vong hồn thì còn nhưng xác và cốt lại được đưa đi nơi khác. Bản chất của hương linh thường bám víu vào nơi cái chết diễn ra với họ, ví dụ như ở chiến trường, họ sẽ giữ lại và xem nơi đó như là cảnh giới sống của họ. Khi cốt được chôn dưới lòng đất, một số hương linh không nhận dạng ra nó đang nằm ở đâu, nhưng đại đa số đều có thể nhận dạng được. Hoặc khi tro cốt được đưa về một nơi nào đó để thờ tự, nhưng do bản chất quyến luyến, không chấp nhận cái chết, khiến họ phải chầu trực mãi ngay tại địa điểm diễn ra cái chết. Chính vì thế, những cuộc tìm kiếm thông qua năng lực của nhà ngoại cảm, đôi lúc thành công khá cao, nhưng đôi lúc cũng bị thất bại không như như ý muốn.
Quan điểm của Phật giáo giữa sự sống và cái chết chỉ là một dấu chấm trên một đường thẳng dài được kết nối bằng hàng triệu, hàng nghìn các dấu chấm khác. Mỗi một đời sống, sanh và tử của mấy mươi năm chỉ là một dấu chấm, đừng quan niệm chết là hết, hoặc chết là dấu chấm cuối cùng. Nhờ niềm tin như thế nên sau khi qua đời, chúng ta hướng tâm về đời sống tùy theo nghiệp dẫn dắt mình đi, từ bỏ được quan niệm tiếc nuối, sợ hãi, chấp trước, nhất là tình cảm giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, tình thân hữu, nghĩa tri kỷ, tình đồng bào v.v… Tất cả sợi dây tình cảm quyến luyến đó đối với thế giới cõi âm đều là sợi dây xích.
Thể hiện tình cảm thương yêu nhiều chừng nào thì sự trói buộc trong tiến trình sinh tử sẽ diễn ra nhiều chừng đó. Mỗi giọt nước mắt, dòng cảm xúc sầu khổ, đau thương, hoặc mỗi sự quyến luyến, bịn rịn của những người còn sống đều có thể khiến cho người quá cố động lòng trắc ẩn, nhất là người có tinh thần trách nhiệm, là trụ cột kinh tế của gia đình sẽ không an tâm mà ra đi vĩnh viễn. Qui luật tâm lý lúc còn sống ảnh hưởng nhiều đối với hương linh sau khi qua đời. Do đó, để có tiến trình tái sinh tốt thì thân bằng quyến thuộc cần hỗ trợ cho hương linh một cách đắc lực.
Hỗ trợ quan trọng liên hệ đến các qui luật mà bản chất của nó giúp hương linh tháo gỡ được sự chấp trước về cái tôi. Theo quan điểm Phật giáo, cái tôi được hình thành bởi năm tổ hợp: hình hài, cảm xúc, tri giác, tâm tư và nhận thức. Khi một hương linh qua đời, năm tổ hợp đó chỉ còn hai đó là hình hài và ý thức. Hình hài và ý thức bắt đầu bị tách đi theo cách thức ly tâm vĩnh viễn, trong khi bản chất tâm thức của hương linh lại cố níu kéo vào hình hài, vóc dáng, và càng níu kéo nhiều chừng nào thì tiến trình tồn tại với cảnh giới cõi âm diễn ra tỉ lệ thuận nhiều chừng đó. Vì vậy, tại sao có tình huống người thì qua đời chỉ vài phút sau là đã đi tái sanh, nhưng cũng có người phải mất đến mấy mươi năm, hoặc thậm chí là vài thế kỷ vẫn chưa thể siêu sinh.
Do bởi hương linh còn tiếc nuối về cảm xúc, tình yêu, gia tài, sự nghiệp, công trình, dự án, tinh thần trách nhiệm nên không thể an tâm mà đi. Trong các cuộc chiến, dù đứng từ bất kỳ góc độ nào, ý thức hệ chính trị nào thì các hương linh sau khi qua đời đều là nạn nhân của sự chấp trước trong cảm xúc, tình cảm hoặc bất kỳ điều gì đối với người còn sống. Sự chấp trước này sẽ làm cho thế giới cõi âm bị kéo dài, khổ đau ngày càng lớn. Vì lẽ đó, trong kinh điển đức Phật thường gọi thế giới cõi âm là ngạ quỷ. Ngạ là đói khát, đói về vật thực, cảm xúc, tình thương, cuộc sống và tất cả những gì họ từng có trong cuộc đời, trong suốt chiều dài của tiến trình sanh và tử.
Sự đói khát về mọi phương diện khiến họ trở thành các cô hồn vất vưởng trong thương đau. Trong các ngôi chùa của Phật giáo Bắc tông, cứ 4 giờ chiều mỗi ngày thì lễ cúng cô hồn thường diễn ra trong nghi thức với sự quán tưởng và hành trì long trọng. Sự quán tưởng và hành trì giúp cho người hành trì thiết lập được tần số tâm thức, và tần số tâm thức này có thể giao tiếp được với trường sinh học của hương linh. Khi hương linh tiếp nhận được tần số tương đương sẽ nghe được lời kinh tiếng kệ, cảm nhận được tấm lòng của người còn sống và đặc biệt là những vị xuất gia trong các ngôi chùa, nương theo Phật pháp nhiệm màu, rũ bỏ sự chấp trước về phương diện cảm xúc, từ đó mới có thể nhẹ nhàng ra đi.
Từ hàng ngàn năm qua, trong các ngôi chùa Phật giáo Bắc tông có nghi thức trai đàn chẩn tế mang ý nghĩa trị liệu và chuyển hóa rất lớn. Lễ trai đàn thường được tổ chức trong khuôn viên ngôi chùa, nơi mà vùng từ trường của lòng từ bi và giá trị trị liệu luôn tỏa ra xung quanh, giúp các hương linh hội tụ về. Trong cuộc chiến, các vong hồn có thể là kẻ thù của nhau lúc còn sống nhưng nhờ ảnh hưởng của vùng từ trường tâm linh và lòng từ bi mà họ trở thành người thân, giải tỏa được bế tắc và thù hận lẫn nhau trong cuộc đời. Nhờ đó, cơ hội giải phóng kiếp cô hồn, ngạ quỷ dưới cõi âm cũng dễ dàng thực hiện.
Việt Nam với diện tích 320.000 km, có trên ba triệu người đã chết trong chiến tranh, trong số đó có khoảng một triệu lính miền Bắc mà hiện vẫn còn một nửa chưa tìm được hài cốt, nếu làm một bài toán thì cứ trung bình một mét vuông có đến mười hài cốt. Các nhà ngoại cảm dù số lượng đã lên đến trên 100 vị và được xem là số lượng lớn nhất thế giới, nhưng vẫn không thể giúp hết cho các hương hồn có cơ hội đoàn tụ với gia đình. Ngoài ra, trên hành tinh này vẫn còn hàng triệu triệu sinh linh khác đã nằm xuống từng ngày, từng giờ, từng giây và từng phút. Nỗ lực của các nhà ngoại cảm rất cần thiết, nếu có sự phối hợp giữa nhà ngoại cảm và nhà tâm linh Phật giáo; giúp hương linh được siêu sinh thoát hóa là đồng nghĩa với việc mang an vui và hạnh phúc cho cõi dương, nhất là thân bằng quyến thuộc của người đang còn sống.

IV. CHẾT KHÔNG PHẢI LÀ HẾT
Các tôn giáo như Do Thái, Thiên Chúa, Tin Lành, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Nho giáo v.v… quan niệm rằng con người có mặt là do Thượng đế ban tặng sự sống, mượn bào thai của người mẹ để hình thành. Các triết gia Hi Lạp cổ đại quan niệm rằng con người đến từ đất, nước, gió hoặc lửa. Chủ nghĩa duy vật hiện đại quan niệm con người đến từ vật chất. Các quan niệm về nguồn gốc có mặt của con người dẫn đến việc thành lập những học thuyết lý giải về sự ra đi và nơi chốn sinh về của con người, hoàn toàn khác nhau.
Các nhà duy vật cho rằng sau khi chết con người sẽ trở về với nguyên lý vật chất. Đời sống con người chỉ có một kiếp sống duy nhất ở hiện tại. Sinh ra từ vật chất, phát triển ý thức, sống và làm việc trong cuộc đời; đến lúc già, bệnh và chết là dấu chấm cuối cùng, sau cái chết sẽ không còn gì nữa. Quan điểm đó được đạo Phật cho là cái nhìn giới hạn (đoạn kiến).
Theo Phật giáo, đối với thế giới sinh học gồm con người và các loài động vật thì cái chết không phải là dấu chấm cuối cùng. Cái chết giống như một con đường thẳng được nối kết bằng nhiều dấu chấm khác nhau. Chết ở nơi này là để tiếp nối sự sống ở nơi khác. Các nhà tôn giáo học hữu thần cho rằng con người được tạo ra bởi Thượng Đế và khi chết chỉ có hai cảnh giới tái sinh, hoặc lên Thiên đường để hưởng nhan đức chúa đời đời nếu tin Chúa. Trái lại, kẻ nào dám đặt vấn đề, không tin Chúa được xem là con chiên ngoài đàng, sau khi chết bị đày xuống hoả ngục và thiêu rụi kiếp kiếp. Quan niệm này Phật giáo cũng gọi là đoạn kiến, vì không phản ánh được bản chất sự sống không có điểm bắt đầu và không có điểm kết thúc.
Hậu quả của cái nhìn đoạn kiến sau khi con người chết là hết sẽ dẫn đến một đời sống buông lung và thiếu trách nhiệm đạo đức. Bởi nếu người thiện và kẻ ác đều có kết cục giống nhau thì cần chi phải làm lành lánh dữ. Có nhiều người, dù không tin có đời sau nhưng do sự giáo dục, tiếp xúc với người hiền lương, nên vẫn là con người tốt trong quãng thời gian nhất định. Đến khi gặp nhiều cạm bẫy, đánh mất sự làm chủ bản thân, người không tin kiếp sau có thể trở thành kẻ bị lún sâu trong vũng lầy nghiệp xấu và tội ác.
Quan điểm của các nhà duy vật Carvaka của Ấn Độ cổ xưa cho rằng sau khi con người chết, thân thể tâm vật lý sẽ trở về với cát bụi. Họ quan niệm rằng ý thức chỉ là một phần của vật chất. Các nhà duy vật biện chứng thời hiện đại, dù tiến bộ hơn nhiều những vẫn cho rằng sau khi chết, không có sự tái sinh.
Đức Phật khẳng định rằng quan niệm chết là hết, không có sự tiếp tục kiếp sau là một quan niệm sai lầm. Học thuyết “bất sanh, bất diệt” trong Bát Nhã Tâm Kinh cho rằng nếu mọi sự vật, hiện tượng không tự nó sanh ra, tức không có nguyên nhân khởi đầu thì nó cũng không có sự kết thúc vĩnh viễn. Sau cái chết, sự sống của con người được chuyển từ hình thái này sang hình thái khác tùy theo nghiệp chung và nghiệp riêng của mỗi người.
Nếu kết cuộc của sự sống và cái chết đều giống nhau, chẳng ai muốn làm lành lánh dữ hay nỗ lực dấn thân phục vụ xã hội để làm gì. Niềm tin có một kiếp sau sẽ giúp con người nghĩ đến tính trách nhiệm đạo đức trong mỗi hành động, lời nói, và việc làm ở hiện tại và tương lai. “Bất sanh bất diệt” vẽ ra tiến trình sống chết của các chúng sinh, nhằm khẳng định rằng chết chỉ là một phần của sự sống. Sự sống nào cũng dẫn đến cái chết. Sống và chết tương tác, như sóng và nước không thể tách rời. Quan niệm sống chết của đạo Phật ngày nay được chứng minh phù hợp với vật lý học hiện đại.

V. KHÔNG CÓ ÂM PHỦ DƯỚI LÒNG ĐẤT
Đạo Phật khẳng định giữa sống và chết có khoảng trung gian quyết định loại hình và cảnh giới sự sống. Khoảng trung gian đó tồn tại dài hay ngắn tùy thuộc vào thái độ buông xả hay dính mắc của người chết trong giờ khắc cái chết diễn ra. Người Phật tử được huấn luyện chuyển hóa sẽ thấy cái chết là điều rất bình thường, không có gì đáng sợ hãi. Nhờ đó, dòng cảm xúc tiếc nuối về sự sống, người thân thương, gia tài sự nghiệp được chuyển hóa, nên tiến trình tái sinh được “thuận buồm xuôi gió”.
Những ai có thói quen tiếc nuối điều gì thuộc về quá khứ mà không chịu chuyển hóa ngay lúc đang còn sống thì khi chết, dòng cảm xúc tiếc nuối là một ách tắc lớn cho tiến trình tái sinh. Cá tính của người còn sống được lưu truyền trong tái sinh dưới hình thức quán tính hoặc thói quen. Năng lực quán tính sẽ định hướng cá tính, nghề nghiệp, sở trườn và thái độ ứng xử của người đó ở đời sau. Tính cách này hiếm khi thay đổi nếu không có sự hỗ trợ tích cực của giáo dục định hướng.
Quan niệm của Nho giáo về “sanh ký tử quy”, nghĩa là “sống gởi thác về” là một nhận thức sai lầm về cảnh giới sống của người chết là dưới lòng đất, cần được thay đổi. Nếu con người nghĩ rằng sống tạm ở nhờ, gởi gấm thân phàm trên cõi đời trong mấy mươi năm thì khó mà sống có chất lượng về đạo đức, tâm linh, đóng góp và phục vụ cho xã hội. Từ quan niệm cõi dương chỉ tồn tại mấy mươi năm, cõi âm mới là cõi tồn tại vĩnh viễn, giới vua chúa Ai Cập đã cho xây dựng các kim tự tháp hoành tráng bằng mồ hôi, nước mắt và cái chết của người dân vô tội, ngay cả người thân thương nhất của vua cũng bị chôn sống theo, cùng với nhiều vàng ngọc châu báu. Bởi họ nghĩ rằng cảnh giới âm phủ giúp họ tồn tại lâu dài nên đã tạo ra những điều bất nhẫn và bất nhân.
Về quan niệm này, người Trung Hoa có sự cải biên. Thay vì chôn người sống, nhà thật, vàng bạc thì họ làm bằng giấy vàng mả. Trong tình huống này, ý niệm về sự chôn cất vẫn còn, sát sanh bằng tâm vẫn thầm lặng diễn ra. Vẫn còn nhiều người tin vào phong tục sai lầm này, nên khi chết đi họ cứ bám vào ảo giác nghĩ rằng mình đang cần áo quần để mặc, nhà cửa để ở, thực phẩm để ăn. Tồn tại với thân trung ấm, các hương linh có cảm giác đói khát về cảm xúc, nhận thức và hưởng thụ của các giác quan, mà khi còn sống họ đã từng trải qua. Đức Phật khẳng định không có âm phủ nào để trở về, chỉ có những cảnh giới để tái sinh, bao gồm năm cảnh giới chính: ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la, con người, và chư Thiên.
Địa ngục không phải là cảnh giới dưới lòng đất và càng không phải là một loại hình sự sống. Kéo dài sự tồn tại dưới hình thức hồn ma bóng vía của thân trung ấm sẽ làm cho người quá cố chất chồng thêm khổ đau không gián đoạn, và cũng không có bất cứ phương tiện nào để thể hiện niềm vui. Đây là hình ảnh diễn tả bản chất nỗi đau đối với loài ma quỷ chưa được siêu.

VI. CHẾT VÀ TÁI SINH THEO NGHIỆP
Về bản chất tái sinh, ngài Na Tiên tỳ kheo đưa ra một ví dụ sâu sắc về hình ảnh cái cây. Cho dù cây có đứng thẳng cách mấy vẫn có độ nghiêng nhất định. Nếu dùng máy cưa hay dụng cụ cắt một thân cây thì chắc chắn cây sẽ ngã về phía nó đang bị nghiêng. Nếu độ nghiêng của cây khoảng 10<sup>0 </sup>trở lên thì sự ngả sẽ diễn ra trước khi cái cây bị cưa đứt, lớp vỏ bên ngoài sẽ bị gãy đổ tức khắc.
Tương tự, dòng chảy của nghiệp qua nghề nghiệp và những gì được lặp đi lặp lại sẽ trở thành quán tính của hành vi. Chính quán tính nghiệp đẩy con người tái sinh theo một quỹ đạo, mà đôi lúc người chuẩn bị ra đi không có sự lựa chọn. Tất cả người chết phải tái sinh theo sức đẩy của nghiệp. Sức đẩy này tạo ra sự thiên sai vạn biệt của sinh giới với những yếu tố bẩm sinh, cá tính, khuynh hướng, lối sống vốn chịu ảnh hưởng từ cộng nghiệp văn hóa, phong tục tập quán khác nhau. Chẳng phải ngẫu nhiên mà con người có và duy trì được phong tục tập quán khác nhau. Trong tiến trình tái sinh, tất cả thói quen của văn hóa, phong tục tập quán và lối sống được lưu giữ lại dưới dạng thức năng lực nghiệp. Năng lực nghiệp chi phối khuynh hướng sống của con người từ lúc có mặt trong bào thai người mẹ.
Nghiệp cảm tương thích giữa người mới chết và cha mẹ tương lai sẽ tạo ra sự đi về của tái sanh. Ở đây cần có sự tương ứng nghiệp, cùng họ hàng nghiệp, sự tái sinh mới hình thành được, theo đó, người mới được sinh ra sau mười tháng có cùng mẫu số nghiệp với cha mẹ và họ hàng, để cùng chịu một hệ cộng nghiệp, được thể hiện qua gien di truyền, tướng mạo, màu da, bối cảnh gia đình và lối sống.
Trong kinh, đức Phật đưa ra ẩn dụ về cây nến, nếu dùng lửa thắp sáng ngọn nến lên thì từ cái không lửa sẽ trở thành có lửa. Lửa có thể bị chong chênh nếu ta dùng tay lắc, hoặc một cơn gió thổi qua thì ánh sáng đó bị lập lòe, do tác động của sự vận chuyển không khí. Nếu tác động này quá mạnh, lửa có thể bị tắt, và lúc này điều gì xảy ra với ngọn lửa? Đức Phật đã đặt ra câu hỏi đó. Một số vị tỳ kheo trả lời:
- Lửa sẽ đi theo hướng của gió thổi. Nếu gió thổi qua từ phía bên tay trái thì lửa sẽ bị tắt và bay về phía tay trái. Tương tự, lửa có thể bay về hướng đông, tây, nam, bắc.
Đang khi nhiều vị tỳ kheo khác im lặng, đức Phật dạy như sau:
- Việc tìm kiếm và định hướng sự ra đi của lửa là điều không cần thiết. Trong khi ngọn lửa đã bị tắt, việc bàn luận nó đi về hướng nào là một vấn đề không thích hợp.
Ví dụ này được Thế Tôn đưa ra để nói về cái chết, về sự ra đi của những vị xuất gia chân chính có một đời sống tu học vững chãi, đạt được giá trị an lạc ở hiện đời thì sự giả định về tiến trình tái sinh của người đó về hướng A, B, hoặc C là điều không thích hợp. Bởi vì các ngài sẽ ra đi theo nguyện ước, thay vì đối với các chúng sinh, sự ra đi là theo nghiệp. Nói cách khác, có hai sự đi của cái chết. Tái sinh theo nghiệp dẫn và tái sinh theo phát nguyện.
Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật đã có câu trả lời làm thỏa mãn những người tò mò về sự ra đi của người đã giác ngộ. Phật đưa ra hình ảnh ẩn dụ về cái chết và tái sinh của các bậc chứng đạo cũng tương tự như vầng mặt trờ. Cũng giống như sự xoay chiếu của mặt trời 12 tiếng vào ban ngày vừa kết thúc thì bóng tối cũng bắt đầu xuất hiện. Lúc đó, không có nghĩa là mặt trời bị mất đi, nó vẫn tiếp tục rọi sáng ở nửa bên kia trái đất, nghĩa là mặt trời vẫn tiếp tục tồn tại vào ban đêm ở cảnh giới mà ta không thấy được. Điều đó chứng tỏ cái chết và tái sinh của các bậc chứng đạo đi theo nguyện ước của các ngài, miễn là nơi nào có nhân duyên, và thông qua nhân duyên đó, sự lợi lạc, an vui và hạnh phúc của chúng sanh được thiết lập.

VII. TÂM LÝ TRƯỚC CÁI CHẾT
Tâm muốn về chỗ nào, nguồn năng lượng tái sinh đẩy ta về chỗ đó. Những đột biến tâm lý vào giờ phút cuối cùng trước khi chết có thể diễn ra theo chiều hướng tốt hoặc xấu. Có người suốt đời làm điều xấu, nhưng những năm tháng cuối đời được hướng dẫn điều hiền lương, đạo đức, nên họ hồi đầu, ăn năn, sám hối, làm lành, ăn chay, tu phước thì cận tử nghiệp này mở ra tiến trình tái sinh tốt đẹp. Còn người chưa chuyển hoá được nội tâm, sự thanh tịnh chưa trọn vẹn thì khi đối diện cái chết, nỗi sợ hãi, sự tiếc nuối v.v… có thể làm sự tái sinh xấu đi.
Thái độ bình thản đối với sự sống và cái chết, không bận lòng bởi các cảnh ngộ sẽ giúp người sắp chết có cái chết an lành. Chết là điều mà sớm hay muộn ai cũng phải một lần trải qua. Vấn đề sống thọ hay chết yểu không quan trọng. Điều quan trọng là sống như thế nào, tức chất liệu và chất lượng đời sống ra sao mới là điều đáng quan tâm. Nếu suốt quá trình sống ta làm lành lánh dữ, an vui, hạnh phúc thì nghiệp này sẽ tạo ra tiến trình cận tử nghiệp có cùng chiều hướng tốt, lúc đó tâm được an và ra đi nhẹ nhàng. Đó là điều phúc cho người quá cố lẫn thân bằng quyến thuộc.
Theo tâm lý học đạo Phật, luyến tiếc vào các kỷ niệm vật sẽ là cản lực lớn cho tiến trình tái sanh. Hương linh sẽ có cơ hội bám víu vào thi thể, kỷ niệm vật, nơi có kỷ niệm hạnh phúc. Trong nền văn hóa phương Tây, người ta có khuynh hướng trang điểm cho người chết trước khi tẩm liệm. Người làm nghề trang điểm sẽ đánh phấn, tô son cho người chết, nhằm làm cho người chết nằm yên nghỉ trong tư thế ngủ an lành. Nhiều người cứ nghĩ rằng làm như thế là thương tưởng, quý trọng người ra đi, mà trên thực tế tình huống này sẽ làm cho hương linh dễ bị chấp trước và dính mắc nhiều hơn. Bởi lúc còn sống mình không đẹp mà khi chết mình lại đẹp như vậy, khiến hương linh có tâm trạng tiếc nuối, muốn bám víu vào hình hài, thân thể đó không muốn ra đi. Do đó, một số lương linh có thể tiếp tục tồn tại dưới hình thức khổ đau của ngạ quỷ.
Khi thái nuối tiếc xuất hiện, hương linh thường bám víu vào bất kỳ kỷ vật nào, bao gồm hài cốt, mộ huyệt, di ảnh, mồ mả, đền thờ họ tộc, giọng nói được ghi âm và các video. Chấp vào các di vật như những bản sao về đời sống quá khứ của hương linh sẽ làm hương linh chấp dính vào, nên bị trì hoãn trong tái sinh. Trong kinh, đức Phật nêu ra các tình huống tiếc nuối:
- Gia tài, sự nghiệp khiến hương linh nuối tiếc, khó có thể buông.
- Tình yêu giữa vợ và chồng (trường hợp này nguy hiểm nhất), giữa cặp tình nhân; tình thương da diếc giữa cha mẹ và con cái, anh chị em.
- Các dự án, kế hoạch chưa làm xong nên họ không sẵn sàng chấp nhận cái chết. Sự tức tối trong tình huống này sẽ khiến hương linh rơi vào trạng thái ngạ quỷ.
Nói chung, bám vào bất kỳ cái gì trên đời này trong giới phút chết có thể làm cho sự ra đi của hương linh gặp trục trặc, kẹt lại một thời gian trong cảnh giới thân trung ấm, vốn là một điều bất hạnh cho người mất.

VIII. LỰA CHỌN CÕI ĐI VỀ
Mấu chốt quan trọng là làm chủ tâm thức trong lúc sống thì khi vô thường, tử biệt đến, người ra đi giữ được trạng thái nhất tâm bất loạn, nhẹ nhàng vẫy tay chào với cuộc đời, tiếp tục tái sinh theo nghiệp. Người chết phải tiếp tục tái sinh ở những gia đình tương thích về nghiệp, nhằm tiếp tục sự sống dở dang. Cõi đi về của con người là tái sinh theo nghiệp lực hoặc tái sinh theo phát nguyện.
Trong bản đồ 10 pháp giới, có 6 pháp giới thuộc cõi phàm, 4 pháp giới thuộc cõi thánh. Bốn cõi Thánh gồm Phật, Bồ-tát, A-la-hán và Thanh văn (Độc giác hoặc Duyên giác). Sáu cõi phàm gồm như sau. Thứ nhất là chư Thiên, nghĩa là con người ngoài hành tinh có phước báu, tuổi thọ, hình thù, sức khỏe, và sự bình an cao hơn con người ở cõi Ta bà này. Thứ hai là nhân, nghĩa là con người chúng ta, sống trong kiếp người ở hành tinh cõi Ta bà này được xem là trung bình về phước và nghiệp.
Thứ ba là A-tu-la, được gọi là các vị thần. Ở Việt Nam, A-tu-la được tôn thờ ở Đình, Bà được tôn thờ ở Miếu. Văn hóa Đình ở miền Bắc gắn liền với chùa, Đình thường được xây dựng cạnh chùa. Đình thờ những vị quan tướng có công với quê hương xã tắc, còn được gọi là Thành Hoàng của địa phương. Đây là nghệ thuật nhớ ơn và ghi nhận công đức của những người có công đóng góp cho quê hương xã tắc.
Thứ tư là súc sinh, những ai lúc còn sống đặt nặng sự hưởng thụ dục lạc đến độ sa đọa, tâm độc ác, thú tính, hoặc tiếc nuối tài sản, sau khi chết nếu hết phước phải sinh vào loài cầm thú, gia súc. Đó là bất hạnh lớn vì loài thú không phát triển ý thức. Khi mang thân phận của loài cầm thú, gia súc thì chẳng biết đến kiếp nào mới có thể đầu thai làm người. Loài thú trong các rạp xiếc có năng lực trực quan mạnh nên nghe, cảm nhận được ngôn ngữ và thực hành theo sự huấn luyện của con người.
Thứ năm là ngạ quỷ, có thể tồn tại nơi mồ mả, bàn hương án, nơi cái chết đã diễn ra, và có mặt giữa ban ngày chứ không chỉ vào ban đêm. Đa số hương linh đều rất cần sự giúp đỡ của những người còn sống. Do đó, ta không nên sợ ma, vì ma không thể hại con người. Ma là đối tượng đáng thương do vì oan ức, tiếc nuối, hận thù, không biết cách tháo gỡ nên họ cứ lẩn quẩn trong cảnh giới sinh tử không siêu thoát được. Ta cần thực tập lòng từ bi hỗ trợ cho hương linh rủ bỏ thân phận khổ đau thông qua các khoá lễ cầu siêu.
Thứ sáu là địa ngục, vốn không có thật, chỉ là cách để răn dạy con người về nhân quả đạo đức. Thực tế, không có địa ngục thật mà chỉ có địa ngục trần gian. Theo kinh Địa Tạng định nghĩa, địa ngục là nỗi đau được tiếp nối không gián đoạn. Kẻ làm ác liên tục, tạo nỗi khổ niềm đau cho người khác là đang thiết lập địa ngục giữa đời thường.
Trên thực tế chỉ có tám cảnh giới, trong đó Thanh văn, Duyên giác và A-la-hán là ba danh xưng khác nhau nhưng chỉ chung một trình độ tâm linh A-la-hán. Bậc Thánh chỉ có ba gồm: Phật, Bồ-tát và A-la-hán. A-la-hán gồm có Thanh văn, Duyên giác, hoặc Độc giác. Bậc phàm gồm năm cảnh giới: nhân, thiên, A-tu-la, ngạ quỷ và súc sinh. Tám cảnh giới này là hệ vận chuyển trên tâm thức baom gồm nghiệp hoặc phước của con người. Vì vậy, khi chết con người đi theo nghiệp hoặc phước.
Tiến trình tái sinh lệ thuộc nhiều vào nghiệp. Nghiệp phước dẫn đến cảnh giới tái sinh tốt, nghiệp tội dẫn đến cảnh giới tái sinh xấu. Tin tưởng vào nhân quả sẽ có cảnh giới tái sinh an lành. Điều quan trọng nhất phải rũ bỏ sự chấp trước mới có thể ra đi nhẹ nhàng.

IX. HỖ TRỢ NGƯỜI RA ĐI
Để hỗ trợ sự ra đi của người chết một cách nhanh chóng và an toàn, ta cần lưu tâm một số nội dung sau đây:
1. Truyền thông điệp buông xả
Trên thực tế, người thân nào cũng muốn người quá cố có nhiều công đức để có thể tái sinh vào một cảnh giới an lành. Nên nhớ rằng đứng trước cái chết, nỗi sợ hãi sẽ có mặt, và càng cố tình phủ định sợ hãi nhiều chừng nào thì nỗi sân hận lại diễn ra nhiều chừng đó. Tình yêu, oan ức, uất hận, hận thù, tai nạn, kế hoạch chưa hoàn tất, trước lúc chết có thể trở thành ách nạn cho tiến trình tái sinh.
Trong lúc làm lễ hộ niệm cho người chết, cần truyền thông điệp rằng: “Bản chất của sự sống và cái chết được qui luật nhân quả trong tự thân mỗi người định đoạt. Hãy hoan hỷ chấp nhận cái chết diễn ra như một sự thật. Đừng bám víu vào thân thể này; đừng bám víu vào những kỷ niệm đẹp và xấu, hạnh phúc và khổ đau hay bất cứ điều gì. Hãy buông bỏ tất cả để nhẹ nhàng ra đi.” Nếu là người theo Phật giáo, người truyền thông điệp nên nhắc nhỡ thêm: “Hãy chuyên tâm niệm Phật để vượt qua nỗi sợ hãi và mọi chấp trước.” Người theo tôn giáo khác có thể niệm đối tượng tôn kính của mình để có giá trị tương tự.
2. Mong người thân được siêu thoát
Người thân nên đến chùa cầu nguyện cho hương linh được siêu sinh thoát hóa. Hoặc đứng trước di ảnh, bàn thờ người quá cố đừng bao giờ cầu nguyện họ trở về nhà. Theo Phật giáo, không người chết nào ăn được thực phẩm cúng, nên đừng cúng các món “ruột” cho người quá cố, theo cách lúc còn sống thèm cái gì thì khi mất cúng cái đó. Điều cần thiết là cúng các thời kinh dạy về nguyên lý vô thường, vô ngã, về qui luật sanh tử không ai có thể tránh khỏi, để hương linh thực tập tái sinh.
Thông thường, khi người chết còn bất kỳ nỗi niềm nào chưa được an tâm không nhắm mắt lúc chết. Đây là phản ứng cơ học tự nhiên của cơ thể, cũng giống như người suy nghĩ nhiều sẽ làm cho mắt và não hoạt động, gây mất ngủ nhiều chừng đó. Phải giúp người chết rũ bỏ mọi chấp mắc thì họ mới nhẹ nhàng tái sinh được.
Phải nguyện cầu bằng lòng chí thành và lặp lại nhiều lần để giúp người quá cố phóng thích được cái gút chấp mắc. Di chúc của người quá cố lúc cuối đời cần được tôn trọng, nhằm giúp hương linh giải phóng các ức chế tâm lý.
3. Gieo trồng công đức, phước báu
Thân bằng quyến thuộc nên nghi thức tống táng đơn giản nhưng có giá trị tâm linh hỗ trợ cho tiến trình tái sinh của người chết. Người thân nên nhân danh người quá cố khi làm các việc công đức và phước báu, rồi hồi hướng cho người quá cố. Theo kinh Địa Tạng, người quá cố hưởng được 1/7 công đức, do cộng hưởng nghiệp thiện từ người thân, đang khi người thân được hưởng 6/7 do trực tiếp làm. Việc làm công đức cho người quá cố tốt nhất là trong thời gian quàng linh cửu để người mất có thể trực tiếp cảm nhận, hoan hỷ với các việc làm này.
Hy vọng rằng mỗi chúng ta ý thức nhiều hơn về sự sống và cái chết như là một qui luật, có thể giúp cho mình và người thân vượt qua được thách đố lớn nhất trong cuộc đời, mà vốn chỉ là một điểm chấm trên tiến trình sinh tử không bờ bến.
Ai sống được như thế thì sẽ rất thản nhiên và không có bất kỳ nỗi sợ hãi nào khống chế mình, nhờ đó đời sống trở nên có ý nghĩa.
Thích Nhật Từ
Nguồn: Đạo Phật Ngày Nay
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên