Nhân đọc lời tự thú của một Sư Cô.

Bạch Vân Nhi

Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (thán
Phật tử
Tham gia
27 Tháng 5 2009
Bài viết
2,518
Điểm tương tác
888
Điểm
113
Địa chỉ
CANADA
[NEN="http://giaoluututuong.com/trangchu/picture.php?albumid=12&pictureid=4018"]

Nhân đọc lời tự thú của một Sư Cô.
<table align="left" border="0" cellpadding="3" cellspacing="0" width="1"> <tbody><tr><td>
timthumb.png
</td></tr><tr><td style="padding-left: 5px; padding-right: 5px;" align="Center">HƯƠNG SEN
</td></tr></tbody></table>Lâu nay, nhiều người được đọc một bài viết nhan đề: “Lời tự thú của một Sư Cô” (1) được phổ biến rộng rãi trên mạng lưới thông tin điện tử và báo giấy tiếng Việt toàn cầu. Đây là lời “tự thú” của một nữ tu sĩ Phật giáo, 50 tuổi đời và có hơn 30 năm tuổi đạo. Tuy lai lịch thực hư của tác giả chưa được xác định rõ ràng, nhưng người viết đã nói lên hai vấn đề được đề cập khá rộng rãi và thường xuyên trong sinh hoạt đạo Phật từ xa xưa đến bây giờ: Trí tuệ và Pháp môn.
Theo lời tự giới thiệu của tác giả bài viết – sư cô Thích Nữ Tuệ Nhi (?) – thì bản thân sư cô trong suốt hơn 30 năm qua vừa tu hành, vừa học hành nên đã đạt được “4 văn bằng đại học, 2 bằng tiến sĩ, làm giảng sư; nhưng chưa hiểu được gì về con đường tu hành cầu giác ngộ của đạo Phật cả.” Sư cô đem bản thân mình so với thân phụ và thân mẫu: Hai cụ tuy không có điều kiện học hành, ít chữ nghĩa; song lúc về già chỉ chuyên tâm niệm Phật mà “phát minh được trí huệ qua quá trình niệm Phật… nên khi chết được vãng sanh về cõi Phật.” Trong khi đó, sư cô Tuệ Nhi tự đánh giá bản thân qua lời tự thú rằng, tuy sư cô có bằng cấp đầy mình nhưng vẫn còn lạc hướng vì “chỉ có sở học thế gian mà chưa hiểu đạo để phát minh trí huệ” mà tu hành, cầu tìm con đường giải thoát chân chính. (Xin mời xem nguyên văn “lời tự thú” của sư cô Tuệ Nhi trong phần phụ chú).
Độc giả, kẻ đang viết những dòng nầy, đã có “duyên” được đọc thì cũng xin “trợ duyên” mạo muội góp đôi lời sơ luận:
*
Đi vào một thế giới Phật giáo thật sự không phải là đi vào một thiền lâm kinh điển tôn giáo; nhưng là đi vào một thế giới sống động muôn màu muôn vẻ của dòng đời đa dạng mà ngôn từ Phật giáo thường gọi là Vạn Pháp. Tuy nhiên dẫu vạn pháp mênh mông qua biểu hiện hình tướng thì tự bản chất của lý tưởng giác ngộ giải thoát cũng chỉ quy hướng về một mối – vạn pháp quy nhất – không ta, không người; không đối tượng, không chủ thể nào còn tồn tại. Cái “nhất” lắng đọng, thanh tịnh hầu như tuyệt đối đó mới là con người thật của chính mình. Cái “Vô ngã thuần khiết tuyệt đối – Purely absolute non-egoism” của lý tính phương Tây chỉ mới dừng lại ngang ý thức và vô thức. Chỉ có lý nhà Phật mới tìm đến thể tánh mà trong kinh điển Hán tạng thường gọi là “bản lai diện mục” với bản thể thanh tịnh không hề sinh mà cũng chẳng hề diệt. Cái Thật hay Không Thật đều sẽ không còn. Tất cả đều không cần dựa vào một đối thể nào khác mà chỉ còn chân tánh (Phật tánh) thường hằng tự tại, như như bất động.
Khi không còn Ta và Người đối đãi nhau thì những cái Mình – Ngã – đầy vọng tưởng như ta, tôi, tớ, ông, bà, chú, bác, anh, chị, em… và vô vàn cái mũ, chiếc áo xác định thân tướng sẽ tan biến; tâm ý sạch làu; tất cả đều tuyệt diệt không còn chỗ dựa là ở trạng thái giác ngộ. Người tìm được trạng thái giác ngộ là bậc giác ngộ, là Phật. Có hằng hà sa số chư Phật đã lấy vô lượng pháp môn làm phương tiện mà đi đến giác ngộ đều giống nhau, nghĩa là cùng một bản lai diện mục, cùng một tính Phật như nhau. Đức Phật Thích Ca trong đêm Giác Ngộ đã chiến thắng huy hoàng bảy đợt tiến công của sáu binh đoàn loài quỷ Lục căn Mara mà đợt quyết liệt nhất trước bình minh là sự đối mặt với Quỷ vương dữ dằn, hung hãn và nguy hiểm nhất, đó là “Quỷ Vương Ta.” Cái Ta bất trị không thể quên, không thể cùm, không thể khóa, không thể phân, không thể diệt được. Cái Ta chỉ chịu biến mất tạm thời hay vĩnh viễn giữa rỗng lặng, trong diệu không. Đó là khi Ngã không còn gì, kể cả chính nó. Khi Ngã không còn điểm tựa, mặt trời Giác Ngộ bừng sáng chiếu hào quang từ trong cõi Tâm – diệu ứng thanh tịnh vô ngã – của Ngài.

Đạo Phật lấy Từ Bi để cứu khổ và giải thoát đau khổ; lấy Trí Tuệ để làm phương tiện tiến tới chỗ giác ngộ tròn đầy, viên mãn. Không có Từ Bi thì Phật giáo chỉ là một trường phái học thuật không thể giải thoát ra khỏi khổ đau, chẳng cứu được ai ra khỏi tam đồ ác đạo. Không có Trí Tuệ thì Phật giáo chỉ là quần thể thực hành bái vọng phiếm thần không thể đạt đến giác ngộ, thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử. Trí tuệ tròn đầy và phương tiện dùng đúng (trí tuệ viên mãn, pháp môn diệu dụng) là điều kiện lý tưởng để hành giả nương nhờ.
Tam tạng kinh điển nhà Phật trùng trùng như núi cao, biển rộng cũng chỉ hướng đến một điểm đích sau cùng: Phá sự tối tăm để phát huy trí tuệ .

Trí tuệ trong đạo Phật.
Khái niệm trí tuệ là gì và vai trò của trí tuệ trong đạo Phật như thế nào là một đề tài đã được chư thiền đức của nhiều môn phái, các luận sư, cũng như các bậc thiện tri thức tu và học Phật minh định, luận bàn và lý giải đủ mọi chiều hướng, nhiều góc cạnh xưa nay. Từ những lý thuyết cao xa cho đến những ý nghĩ gần gũi và đơn giản nhất, tuy có khác nhau về đại thể nhưng vẫn có điểm chung nhất gặp nhau: Phải có cái học rốt ráo, tinh thâm trước đã thì trí tuệ mới phát sinh. Bước vào cửa Thiền thì phải hiểu khái niệm về cái học theo một nghĩa thoáng rộng và tích cực hơn là cái học chỉ biết gói trọn trong nhà trường và sách vở. Xưa nay, chỉ có đạo Phật mới tôn xưng các “Bậc Vô Học”lên trên hàng “Hữu Học”, ngang tầm á thánh.
Học có hai bậc: Bậc hữu học và bậc vô học.
Bậc hữu học có sự hiểu biết nhờ nghe, đọc và quan sát lời giảng, bài viết, chĩ dẫn từ những bậc thầy, bậc thiện tri thức (văn). Sau đó tự mình suy nghĩ, quán chiếu (tư). Đem hiểu biết ứng dụng vào hành trì (tu). Văn-Tư-Tu là tam huệ học.
Bậc vô học là người “vô sư tự ngộ”, nghĩa là tự chính mình học, tư duy, quán chiếu bằng phương tiện tự thân như nghiêm trì giới luật (giới), công phu thiền định (định), rồi đi sâu vào quán niệm sự lý để phát sinh trí tuệ (huệ). Giới-Định-Huệ là tam-vô-lậu học.
Đức Phật Thích Ca cũng đã từng trải nghiệm cả hai bậc học. Khi còn là thái tử Tất Đạt Đa, ngài đã được học với những bậc danh sư khắp nơi được mời về cung giáo huấn. Khi xuất gia, sau năm năm học đạo với các đạo sư và sáu năm khổ hạnh công phu, tu sĩ Cồ Đàm vẫn chưa tìm ra chân lý liễu thoát sanh tử. Cầu bên ngoài không tìm ra con đường đạo, ngài phải quay lại nhìn Bến Tâm của chính mình. Bi và Trí chưa đủ. Phải cần hạnh Dũng mới bứt phá được trùng vây của vô minh che khuất tự tánh. Bốn mươi chín ngày đêm thiền định dưới gốc cây bồ đề trong rừng vắng, ngài đã tự mình thắp đuốc lên mà đi. Trên trời, dưới đất chẳng có nơi nào để dựa. Chỉ có mình ta duy nhất (duy ngã độc tôn) phải tự chính mình vượt cửa ngõ cuối cùng đi vào nội tâm. Mọi khởi niệm sơ xưa, mọi vọng tưởng mong cầu, mọi chấp trước bỉ thử đều vắng bặt. Ngài tìm được Bến Mình, Bến Tâm, Bến Thật như nháy mắt đột phá long trời “Big Bang” của vũ trụ và hốt nhiên đại ngộ. Người đời sau kể chuyện Phật giác ngộ cũng giông giống như các nhà khoa học kể chuyện Big Bang xẩy ra 14 tỷ năm về trước…
Những nhà nghiên cứu Phật học vẫn thường phân biệt hai thành phần Trí ThứcTrí Tuệ, tương tự như người đời thường phân biệt Học ThứcTrí Thức. Như một học giả thâm uyên biết rộng khắp mọi khái niệm về khổ và lý thuyết diệt khổ thì mới chỉ được phần trí thức. Nhưng có đạt được trí tuệ hay không là do công hạnh hành trì thực chứng.
Đỉnh cao nhất của trí thức thiền lâm là trí tuệ. Nhưng có chăng được sự sở đắc trí tuệ mà không cần qua quá trình học và tập và để khai mở tuệ giác của tri thức?
Những trường hợp không thông qua cái sở học bình thường mà vẫn đạt tới được trí tuệ viên mãn như biểu tượng Lục Tổ Huệ Năng hay ẩn dụ về một đại đệ tử thời đức Phật tại thế là Châu Lợi Bàn Đà, một người chịu nghiệp độn căn từ tiền kiếp, đi tu mà học hoài không thuộc mấy câu kinh nên đức Phật chỉ cho học hai chữ “cái chổi”. Nhưng từ cái chổi đó mà quét được màn vô minh và chứng ngộ. Tưởng cũng cần gột rửa bớt thói quen ước lệ thiếu chân xác về cái sở học thế nhân. Không biết đọc những ký hiệu quy ước của một nhóm người hay xã hội nào đó (như hình thức ký hiệu abc... được tạm gọi là chữ viết chẳng hạn) không có nghĩa là “mù chữ”. Không học những mớ hiểu biết quy ước của một quần thể xã hội nào đó (tạm gọi là kiến thức) không có nghĩa là “vô học”! Học là một quá trình động não và động tâm lâu dài để tìm tòi và thấy được ý nghĩa thật sự của dòng sống bên trong đối tác với xã hội và thế giới bên ngoài. Đến trường, học thầy, đọc sách... chỉ mới là một hình thức phương tiện trong muôn vàn phương tiện của cái học.

Trường hợp sư cô Tuệ Nhi tự thú nhận là Cô chỉ có thuần trí thức mà không phát huy được trí tuệ. Sau giấc ngủ dài 30 năm chỉ biết bắt chước và làm theo thói quen mà có người dẹ nhạ gọi là “luật”, sư cô Tuệ Nhi trăn trở tìm đường thoát ra khỏi ngục tù của khái niệm về tri thức. Nhưng không sao đâu, thưa Sư cô, chư tổ thiền lâm đều dạy rằng, khi một người tự biết mình có tri thức mà chưa có được trí tuệ thì đó là đang có được ánh sáng khởi đầu của trí tuệ. Tự biết mình là sự khám phá khai tâm đầu tiên và quan trọng nhất trên đường tìm trí tuệ.

Định nghĩa người có trí thức – đặc biệt là “trí thức Phật giáo” – như thông thường được hiểu và người có trí tuệ như đạo Phật thường định nghĩa là một cách cường điệu hóa hay tuyệt đối hóa căn cứ trên những tiêu chuẩn và phạm trù chỉ có về mặt lý thuyết hơn là thực tế. Trong xã hội đời thường, những phẩm chất biến hiện và tương tác qua lại giữa người có sở học cao (học thức) và kẻ biết đem tài năng học vấn giúp đời (trí thức) có sự dẫm chân và giao hưởng với nhau. Đóng những cái khung định nghĩa lý thuyết có vẻ như là một hình thức chơi chữ mang tính giả định. Trên thực tế, sẽ rất hiếm mà tìm ra được hai mẫu “khuôn đúc” học thức và trí thức rạch ròi tách biệt nhau giữa đời nầy. Cũng tương tự như thế, sự phân định một Phật tử thuần túy là học giả, trí thức đời thường và một Phật tử chỉ có ròng tuệ giác, trí tuệ thiền lâm tách biệt nhau rạch ròi giữa hai biên giới như đen với trắng là điều không thật có giữa đời thường.
Xuất phát từ biên kiến phân biệt đầy giả định đó, trong một quá khứ không xa và quán tính còn rơi rớt lại ngày nay là khuynh hướng học Phật mang nặng tính chấp trước. Đấy là khuynh hướng cho rằng, muốn tu hành đoan nghiêm và hành trì giới luật nghiêm cẩn thì kẻ tu hành phải tránh xa cái học của thế nhân. Gay gắt hơn nữa là định kiến khư khư về tác dụng tiêu cực của bằng cấp, học vị đời thường chẳng những đã không có lợi mà còn làm cho cái học kinh tạng, nội điển của kẻ tu hành bị lệch hướng, sai đường. Nhiều vị bổn sư trú trì chùa viện đã “bế môn, tỏa chiết” không cho đệ tử mình theo học trường ốc bên ngoài mà bắt phải ở trong bốn bức tường của Hán tạng “nội điển”. Hoặc giả như trường hợp sư cô Tuệ Nhi đã nêu dẫn ở trên, người đã đạt “hai bằng tiến sĩ” và làm giảng sư nhưng lại tự thú nhận là chẳng hiểu gì về Phật học và con đường tu hành thanh tịnh cả. Có chăng hiện tượng nghịch lý khi một “giảng sư tiến sĩ tu sĩ” đã thọ đại giới mà lại đi giảng mây, giảng khói không biết mình nói gì trong suốt ba mươi năm làm giáo thọ?! Trong cái học phổ thông, Đông cũng như Tây, tiến sĩ là cấp học của người nghiên cứu tương đối độc lập theo những phương pháp luận (methodology) khảo chứng, phân tích và tổng hợp các dữ kiện khoa học và nhân văn. Không rõ sư cô Tuệ Nhi đã đi theo trường phái học thuật nào mà cấp học cao nhất lại dẫn đến sự trống trải của tri thức khiến cô phải ân hận muộn màng đến như thế?
Trên thực tế, nền học thuật kinh viện nội điển cũng như ngoại thư của Phật giáo có sự gắn bó hỗ tương với nền học thuật hàn lâm ở ngoài đời. Đại học Phật giáo Ananda được xây dựng từ thế kỷ thứ 2 tại Ấn Độ với một quy mô lớn lao trên 10.000 thành viên theo học đã đào tạo ra những nhà Phật học uyên bác như Long Thọ, Thế Thân, Huyền Trang… đã phát huy văn hóa Phật giáo trên đường học thuật suốt cả nghìn năm. Tuy đại học Ananda bị các thế lực Hồi giáo du mục cực đoan phá hủy năm 1197; nhưng kho tàng tri thức từ chốn thiền lâm học hiệu nầy vẫn còn lan tỏa mỗi ngày càng xa và càng rộng cho đến ngày nay. Những danh tăng trong suốt chiều dài lịch sử Phật giáo đều là những học giả thâm uyên. Ngày nay, việc đào tạo Tăng, Ni là một quá trình tu và học song song. Ở Tây Tạng, muốn trở thành một nhà sư đúng nghĩa phải qua một quá trình học tập gian khổ suốt 15 năm. Hầu hết các nhà sư Tây Tạng đều có bằng cấp tương đương với tiến sĩ Phật học gọi là Geshi. Các tu sĩ thuộc thế hệ trẻ ở Việt Nam, Thái Lan, Đài Loan, Nhật Bản ngày nay đa số tốt nghiệp Cao đẳng Phật học. Đạo Phật lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy tuệ thị nghiệp) để tu cầu giác ngộ. Ngoại trừ những trường hợp biệt lệ “vô sư tự ngộ” hiếm hoi thì quá trình học hỏi (văn), suy tư (tư) để hành đạo (tu) vẫn là một tiến trình phổ biến trong sinh hoạt Phật giáo từ xưa đến nay. Bởi vậy, phủ nhận vai trò quan trọng của tri thức và giáo dục là hoàn toàn không khế hợp với tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ căn bản của Phật giáo.

Pháp môn Niệm Phật Vãng Sanh.
Đạo Phật là một phương tiện tìm cầu thoát khổ và chứng ngộ. Đức Phật không đóng vai trò của thần linh quá cao viễn và xa vời mà thường tự nhận là một phương tiện khai phóng giác ngộ. Người giác ngộ là Phật. Sinh thể mọi loài đều có hạt giống giác ngộ tự thân nên đều có khả năng thành Phật. Dẫu là bậc Thiên Nhân Sư nhưng đức Phật Thích Ca không tự cho mình là cứu cánh. Ngài luôn luôn tự coi mình là một phương tiện như người thầy thuốc và giáo lý nhà Phật là những vị thuốc chữa bệnh vô minh, đau khổ của trần gian.
Đạo là con đường mà đạo Phật là con đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể không ai giống ai mà đi theo con đường thích hợp.
Phật giáo từ Ấn Độ du nhập vào Trung Hoa. Hai nguồn tư tưởng Vệ Đà và Lão Trang Khổng gặp nhau trên chiếc cầu Phật Giáo kéo theo hai truyền thống văn hóa và xã hội Ấn – Hoa vừa dò tìm nhau vừa tương tác với nhau. Hoa sen Phật giáo Ấn Độ nở trên hồ Động Đình Trung Hoa nửa thực, nửa hư. Nguồn tư tưởng tâm linh nầy vừa cao sâu chót vót nhưng cũng vừa chất phác nông dân; vừa bén rễ vào hiện thực nhưng cũng vừa trổ hoa huyền thoại. Qua hơn hai nghìn năm, Phật giáo Trung Hoa đã lan tỏa tới những vùng lân cận. Đạo Phật cung đình và thiền lâm tự viện đi vào đại chúng, khế hợp với truyền thống văn hóa và tín ngưỡng của xứ nầy:
Đạo Phật có gần ba mươi bộ phái, nhưng nổi bật trên đất Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam là các tông phái có luật tắc riêng làm tông chỉ: Thiền (đến thẳng lòng người, thấy tánh thành Phật), Mật (lấy Tam Mật – thân, miệng, ý tương ưng – và ấn chú để truyền thừa), Tịnh Độ (một lòng niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương Cực Lạc), Hoa Nghiêm (lìa thế gian, nhập pháp giới), Thiên Thai (mở toang mọi cánh cửa để tìm về cái thấy và cái biết của Phật), Tam Luận (lìa cả hai bên để tìm về Trung Đạo), Luật (hành trì và giữ gìn giới luật nghiêm cẩn), Pháp Tướng (đem vạn pháp về chân Duy Thức)... và vô lượng pháp môn tu. Sự phóng khoáng và cao viễn của đạo Phật phản ánh qua truyền thống dung hợp và hóa giải tinh thần “vô lượng pháp môn” nầy. Có vẻ như hành giả tịnh tu càng ngày càng hiếm và con người ồn ào, vọng niệm càng ngày càng nhiều. Đó là hiện tượng khi người ta không tự an trú trong pháp môn của mình đang theo mà cứ kiểng chân, chỉ tay vào pháp môn của người khác để phản bác hay cho là “tà kiến ngoại đạo”. Pháp môn Tịnh Độ – niệm Phật vãng sanh – mà Sư cô Tuệ Nhi nói đến trong “lời tự thú” là một trường hợp điển hình của tình trạng biên kiến pháp môn nầy. Phật giáo Trung Hoa và Nhật Bản cũng đã trải qua những thời kỳ tương tự. Pháp môn Tịnh Độ được xiển dương rầm rộ. Tu sĩ, hành giả tận dụng hết mọi lời hay, ý cả để nói về sự cao siêu mầu nhiệm của pháp môn Niệm Phật cầu vãng sanh. Nhưng rất nhiều trường hợp, sự luận giải đã đi quá xa; vô hình chung, tiến gần đến khuynh hướng mê tín dị đoan và cuồng tín. Thậm chí, họ biến đức Phật A Di Đà thành một hình tượng Thượng Đế toàn năng đang dang tay đưa hết thảy sinh linh quy phục mình về Nước Trời và biến cảnh Tây Phương Cực Lạc thành một thế giới Thiên Đường đầy ảo vọng. Vọng niệm cực đoan là nguyên nhân suy thoái trong sinh hoạt Phật giáo bất kỳ ở xứ nào. Nhiệt tình đem pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật cầu vãng sanh ra để làm cái dù che chắn hết tinh hoa của những pháp môn khác thì chẳng khác gì hành động lấy con đường làm phương tiện cho cổ xe. Trường hợp sư Nhật Liên (Nichiren; 1222-1282), cao tăng Nhật Bản, khai tổ Nhật Liên Tông là một thí dụ điển hình. Bình sinh, sư Nhật Liên quan niệm rằng, chỉ có bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa mới là tuyệt đỉnh tín lý của đạo Phật. Chỉ có bộ kinh nầy mới cứu độ được chúng sanh còn tất cả mọi kinh tạng và môn phái khác đều là rơm rác. Sư muốn đưa Nhật Liên Tông lên làm quốc giáo Nhật và chỉ trích gay gắt chính quyền đương thời đến nỗi bị lên án tử hình; nhưng may sau được thoát trong một trường hợp lạ lùng đặc biệt. Khuynh hướng độc tôn của sư Nhật Liên đã tạo ra một thời kỳ dao động. Các môn phái chống báng nhau làm ô nhiễm và nghèo đi một chặng đường trong Phật giáo sử Nhật Bản, nhất là thời kỳ giới Samurai thuộc phái Thần Đạo và Thiền Tông mở đường “phản công” cho rằng: Tịnh Độ Tông là một pháp môn dễ dãi, thiếu tri thức văn chương hay triết lý và chẳng phải là một dòng nhánh của Phật giáo chân truyền. Do vậy, Tịnh Độ Tông chỉ để dành cho đại chúng bình dân ít học, kẻ hạ căn và ông già bà lão “cầu vãng sanh” và chấp trụ vào tha lực A Di Đà như một sự thoát ly, chạy trốn chính mình và hiện thực mà chẳng cần quán niệm hay động não ... (!)

Tuy nhiên, mọi hình thức cực đoan thể hiện qua lối suy nghĩ mang tính cố chấp và vọng động không có lý do tồn tại trong đạo Phật. Đại chúng Nhật Bản đã nhận định tương đối công bằng, rằng: “Mật Tông và Thiên Thai Tông thích hợp với hàng quý phái; Thiền Tông thích hợp với giới Võ Sĩ đạo; và Tịnh Độ Tông thích hợp với giới bình dân. Vì giới bình dân chiếm đa số trong xã hội nên Tịnh Độ Tông thường được nhắc đến nhiều hơn, quảng bá rộng rãi hơn, gây ra cảm giác bề mặt sai lạc như pháp môn Niệm Phật cầu vãng sanh là cao hơn các pháp môn khác trong đạo Phật. Thế nhưng thuốc hay đâu phải vì nhãn hiệu lớn nhỏ, quí tiện mà vì chữa được bệnh; pháp hay đâu phải vì tiếng đồn cao thấp mà vì hợp với căn tánh, giúp người theo có được tâm từ bi và an lạc.”

Mỗi thế giới Phật có một cõi Tịnh Độ. Có hàng hà sa số Phật nên cũng có vô số cõi Tịnh Độ. Tịnh Độ chẳng phải là một Vùng Đất Hứa để khi chết mới được về. Tịnh Độ là một cõi bản nhiên an lạc, như như thường tại trong chính mỗi sinh thể. Cõi Tịnh Độ của thế giới Ta Bà nầy có đức Phật A Di Đà thọ chứng. Hai bên có bồ tát Đại Thế Chí tượng trưng cho sự khai mở trí tuệ chỉ đường giải thoát và bồ tát Quán Thế Âm là biểu tượng của năng lực thần kỳ cứu nguy, giải nạn. Đức Quán Thế Âm cũng là bồ tát Quán Tự Tại, nghĩa là năng lực cứu nguy, diệt khổ ở tự trong ta.
Chết vãng sanh?
Đối với Phật giáo thì Chết là một hình thức biến tướng xẩy ra trong từng sát na từ vô thủy đến vô chung qua 3 cấp độ: Vi biến, tiểu biến hệ biến.
Vi biến là trạng thái đổi thay xẩy ra trong chớp mắt như thoáng vui, thoáng buồn, thoáng yêu, thoáng ghét (như: Yêu là chết ở trong lòng một ít - XD).
Tiểu biến là hình thái thay đổi xảy ra trong một giai đoạn ngắn dài nào đó như người khỏe mạnh, giàu có biến thành người bệnh tật, khốn khổ sau một tai nạn hay biến cố (như: Thi đỗ hàn Nho thành quan trạng; mắc lừa Từ Hải chịu vong thân - NT).
Hệ biến là sự biến đổi cả một hệ thống. Đối với con người là hệ thống tuần hoàn, là sự sống chết, là hình thái biến tướng từ kiếp nầy sang kiếp khác (như: Chết là hết, hết đau, hết khổ. Nhưng cũng hết vầng trăng soi sáng trên đầu - LĐ)
Hình thức biểu hiện có khác nhau, nhưng khuynh hướng căn bản của tất cả các pháp môn đều hướng tới một mục đích chính: Chết về đâu và giải quyết cái chết như thế nào để sau cái chết, nếu có chăng một đời sống mới thì phải khá hay huy hoàng hơn đời sống cũ.
Pháp môn niệm Phật thì đặt trên một niềm tin nhất quán và tuyệt đối rằng, con người ta khi sắp chết, nếu nhất tâm niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà thì người đó sẽ được Phật Di Đà và thánh chúng tiếp dẫn về cõi Tây Phương Cực Lạc. Nơi đây họ được sống trong cảnh thần tiên của thế giới Cực Lạc và tiếp tục tu học, tìm cầu nẻo đạo thoát khỏi luân hồi sinh tử. Kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, hay Tịnh Độ Vãng Sanh Luận của bồ tát Thế thân là những kinh điển xương sống của pháp môn Tịnh Độ. Nhìn chung, đó là những áng văn tả cảnh (cảnh trời Cực Lạc) tuyệt vời. Vàng ngọc, châu báu vô giá của trần gian cũng chỉ là đất cát tầm thường nơi miền Cực Lạc. Cuộc sống thần tiên an lạc trong biển hào quang hóa độ của đức Phật A Di Đà và thánh chúng thật là một nơi an nghĩ tuyệt diệu cho kiếp đời sinh diệt tối tăm. Nhiều Phật tử vẫn mường tượng và chấp chặt cảnh Tây Phương Cực Lạc là vùng đất hứa. Nhưng chỉ cần một khởi niệm chấp chặt thì hành giả niệm Phật đã xa rời Chân Tướng; trong khi Chân Tướng đó mới chính là cảnh trời Cực Lạc Tây Phương.
Thật ra, Niết Bàn, Thiên Đường hay Miền Cực Lạc cũng chỉ là những sản phẩm của sự ước mơ. Đời sống mà không có sự ước mơ cũng như đất không có hoa và ước mơ quá xa vời với hiện thực cuộc sống thì cũng như có hoa mà không đất. Đức Phật thường sử dụng biểu tượng ước mơ như những thí dụ làm phương tiện giáo hóa. Thuốc để chữa bệnh không phải là sự lành bệnh mà phải cần 3 yếu tố: Thầy giỏi, thuốc hay và người bệnh thực hành uống thuốc đúng theo lời chỉ dẫn.
Sự sống chết xảy ra thường xuyên và liên tục ở một trong ba cấp độ vừa trình bày ở trên. Cái chết nầy là cánh cửa cuối cùng mở ra cho sự sống kia bắt đầu: Nụ cuời hoan hỷ sau khi sự hiểu lầm được giải tỏa, anh học trò nghèo vừa thi đỗ đại khoa, một sinh thể vừa mới được sinh ra... đều là những biểu hiện chết sống diễn ra liên tu bất tận ở mọi cấp độ. Nếu tín lý Đại Thừa xây dựng niềm tin có đức A Di Đà dang tay tiếp dẫn thì không phải chờ đến khi hệ biến (từ trần) mới tới đón mà phải biết tìm cầu Ngài ở ngay chính ta trong chính cái sát na đương niệm hiện tiền nầy. Niệm “lục đại tự” – Nam Mô A Di Đà Phật – thường xuyên là cốt giúp giữ lòng thanh tịnh để có đủ khoảng trống cần thiết tâm thức của chính hành giả (nhất tâm bất loạn) mà an trú trong hiện tại, không sợ hãi khổ đau, xem nụ cười lành, nhìn chỗ đứng an lạc, được sinh thuận tử an... chính là cõi Tịnh Độ giữa trần gian gió bụi nầy chứ không phải là những ảo vọng “viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết bàn Tam thế chư Phật” hay dựa vào tha lực của thế giới Cực Lạc hữu vi – hoàn toàn trái ngược với tinh thần cốt tủy của Phật giáo – để van vỉ, cầu xin mới thật sự là được vãng sanh Tịnh Độ.
Một thời khắc đại định của vị thiền sư Hoa Nghiêm Tông , một hành động buông dao của người đồ tể và một câu niệm Phật A Di Đà của song thân sư cô Tuệ Nhi đều có năng lực giữ cho nhất tâm bất loạn. Một bài triết lý xa xôi của môn đồ Socrate trên đỉnh núi Pyrenee chắc gì có tác dụng làm lắng đọng tâm tư cao hơn một tiếng hát tiều phu trên triền núi Trường Sơn mây khói. Vạn pháp bình đẳng, không phân biệt hình thức phương tiện hay hoàn cảnh xuất thân. Mọi sự chuyển đổi pháp môn không ứng hợp với căn cơ của hành giả sẽ làm cho “đa tâm bấn loạn”. Sự câu nệ pháp môn, do đó, là biểu hiện một tinh thần cực đoan phi Phật giáo.

Nói gọn lại
Đạo Phật hay bất cứ một hình thức tôn giáo nào khác sẽ không có lý do ra đời và có điều kiện tồn tại, phát huy nếu không đóng một vai trò đáp ứng khát vọng tâm linh mới mẽ và tích cực trong một khung cảnh nhân văn nhất định nào đó. Tại một xã hội đa giáo, đa thần như Ấn Độ thời cổ nếu thiếu đi một con đường trí tuệ khác biệt, độc sáng và cao rộng hơn những hệ thống đức tin và lý thuyết tôn giáo đã có mặt lâu đời ở xứ nầy như Bà La Môn, Ấn Độ giáo thì bất cứ một hệ thống tư tưởng tâm linh nào cũng chỉ là một sự lập lại dễ quên, chóng tàn.
Hơn ba nghìn năm, trước khi đức Phật ra đời, dọc con sông thiêng Hằng Hà từ Hy Mã Lạp Sơn xuống tận biển đã có hằng vạn hành giả, pháp môn, hệ phái tôn giáo hành đạo theo cách riêng của mình. Trong tác phẩm Những Dấu Ấn Tâm Linh Hằng Hà của Krishna Kanvatar, hình ảnh Phật giáo nổi lên nhờ sự giác ngộ Trung Đạo của đức Thích Ca giữa hai bờ đối đãi cực đoan của Bà La Môn giáo, Bái Vật giáo và Phiếm Thần giáo… thời bấy giờ. Cũng theo Kanvatar thì nếu thiếu đi cái xương sống là sự minh triết trí tuệ mang ánh sáng khai phóng, để chỉ lập lại hay cải biên những nguyên tắc, lý thuyết cổ xưa của Vệ Đà, Áo Nghĩa Thư… thì đức Phật và đạo Phật về sau cũng đã chìm khuất trong những khu rừng của hàng nghìn đạo sĩ, danh môn và tông phái của Ấn Độ từ hơn hai nghìn năm trước.

Đạo Phật là hình ảnh của một dòng sông tư tưởng và tâm linh không thối chuyển. Tuy nhiên, mỗi thời đại, mỗi khung cảnh quốc gia và xã hội đều có những vấn đề và yêu cầu riêng khác nhau. Trong xã hội hiện tại, nhất là với bối cảnh đặc biệt của người Việt Nam trong cũng như ngoài nước, đạo Phật đang có khuynh hướng tiến ra ngoài và vượt lên trên một hình thức thờ cúng, bái vọng mang tính chất “xưa bày nay làm” mang màu sắc thần thánh mặc khải vốn là bản chất của các tôn giáo. Sự phát triển của đạo Phật trong khung cảnh toàn cầu hóa, đặc biệt là tại các nước Âu Mỹ ngày nay, đậm nét tri thức và trí tuệ hơn là chỉ có niềm tin tôn giáo thuần túy. Sự đa dạng và phong phú của các pháp môn trong đạo Phật đã đáp ứng được những nhu cầu hiểu biết và tâm linh từ hàng bình dân đến lớp học giả, trí thức. Bởi vậy, thái độ khư khư chấp chặt vào một pháp môn phương tiện là vô tình bỏ quên “viên ngọc trong chéo áo” để cam chịu nghèo nàn, lu thu cuối bãi đầu ghềnh giữa một biển trời mênh mông lộng gió! Đạo Phật phát triển, Bắc truyền (Đại thừa) của Việt Nam đã mềm dẽo và tích cực phát huy tinh thần phước huệ tương hành, thiền tịnh song tu.
Dẫu là hiện thực hay hư cấu, kẻ viết những dòng nầy cũng xin đảnh lễ sư cô Thích Nữ Tuệ Nhi, người đã đưa ra vấn đề liên quan đến khía cạnh hoằng pháp độ sanh của đạo Phật thời hiện đại. Sự phát huy trí tuệ trong tinh thần thanh tịnh và tinh tấn của Phật giáo có khả năng mở ra vạn nẻo quanh co của lý luận và tranh biện. Nhưng cuối cùng vẫn gặp nhau ở một điểm chung là Sự Thật tỏa sáng qua nụ cười giải thoát, an lạc. Tín tâm chân thực bao giờ cũng là biểu tượng của đóa sen thơm ngát trong lòng người Phật tử.
Nếu có những Phật tử xuất gia như sư cô Tuệ Nhi, nửa đường nhìn lại, để từ đó thấy được mình và tìm ra một pháp môn thích hợp với căn cơ của riêng cá nhân mình mà đi tiếp thì cũng có những vị “nửa đường bỏ cuộc... chơi!”. Nhắc đến trường hợp sư cô Tuệ Nhi không khỏi làm người ta liên tưởng tới trường hợp của cựu Đại đức Thích Huệ Nhật. Trước khi tự thú nhận là “xù Phật theo Chúa” để trở thành một Mục sư – mục sư Nguyễn Huệ Nhật – thầy Huệ Nhật đã viết trong tác phẩm tự truyện “Từ Áo Cà Sa Đến Thập Tự Giá”(2) rằng, lý thuyết Phật giáo quá nhiêu khê, với nhiều góc khuất tối tăm khó hiểu; thậm chí có những tín lý mâu thuẫn nhau. Quả thật, đây cũng là một lời tự thú chân thành nên rất đáng trân trọng. Nếu nhìn qua lăng kính của lý thuyết thần học phương Tây thì nhị nguyên luận hình thức làm sao lý giải rạch ròi khái niệm “Sắc chẳng khác Không; Không chẳng khác Sắc. Sắc tức là Không; Không tức là Sắc...” của tư tưởng Kim Cương Bát Nhã nhất nguyên luận thể tánh cho được. Ông Xã Xệ làng ta vừa lên tỉnh lần đầu, dạo phố bị lạc đường, cho là những con đường làm sai. Những con đường và ông Xã Xệ không có bên nào sai cả; nhưng hai bên đã lạc nhau vì tri thức và thực tại không có cùng mẫu số nhất quán song hành.
Cũng tương tự như thế, pháp môn là phương tiện nên đừng để rơi vào thế Xã Xệ và con đường mà tội. Rancho Seco, mùa Phật Đản 2011
Trần Kiêm Đoàn
<hr align="left" width="33%" size="1">(1) http://www.duongvecoitinh.com/index.php/2010/04/loi-tu-thu-cua-mot-su-co/

(2) http://www.giaodiemonline.com/thuvien/debate/casacross-tkd.htm

Lời Tự Thú Của Một Sư Cô
Tôi là Thích nữ Tuệ Nhi xuất gia tu hành năm 17 tuổi. Lứa tuổi đầy năng động. Sẵn thông minh nhạy cảm tôi theo đuổi sự học hành và được Sư phụ trợ duyên cho ăn học. Sau nhiều năm vừa tu vừa học tôi đã đạt được 4 bằng cấp đại học và tự mãn rằng mình có kiến thức học vị thế gian và cả Phật pháp có thể giúp ích cho Tín đồ.
Cha tôi tên Lại văn Từ một người ít học lại là người Tàu ở Chợ Lớn. Công việc của ông là buôn bán đồ phế thải. Hàng ngày ông bôn ba khắp nơi để thu nhặt những đồ đạc người ta không dùng và bán đi để nuôi sống gia đình.
Phước may cho ông gần cuối đời có người mách bảo phương pháp tu hành niệm Phật. Ông thật thà chất phác nghe tin theo và làm một bàn thờ tại nhà để ngày ngày niệm Phật cầu vãng sanh. Mẹ tôi cũng thế.
Bất ngờ một ngày nọ khi ông ở lứa tuổi 75. Ông tự tuyên bố với gia đình ngày 14 tháng 7 ông sẽ vãng sanh Cực Lạc. Mọi người trong nhà bán tin bán nghi.
Trước khi vãng sanh ông bị một cơn bệnh nặng phải đi cấp cứu tại bệnh viện. Nhưng đến ngày 11 tháng 7 năm đó. Ông bình tĩnh xin được xuất viện về nhà.
Ông hỏi gia đình hôm nay là ngày mấy? Gia đình trả lời là ngày 11 tháng 7. Ông nói ba ngày nữa ba sẽ vãng sanh . Đức Phật đã báo trước rồi. Nấu cho nị ba trái khoai lang cúng Phật. Đúng ngày đấy ông an nhiên niệm Phật ra đi một cách êm nhẹ có đầy đủ ân chứng vãng sanh. Mẹ tôi cũng được vãng sanh sau đó vài năm.
Tôi thấy cha mẹ tôi rất ít học nhưng tin Phật pháp chỉ niệm Phật mà được giải thoát. Nhìn lại tôi đã 50 mươi tuổi học thức đầy đủ, toàn văn bằng Tiến sĩ Đại học nhưng tôi không cảm thấy mình có thể giải thoát bằng cách nào?
Bằng cấp tôi đạt được chỉ để giúp truyền đạt kiến thức thế gian. Quả thực không có thực dụng cho sự nghiệp thành tựu trí tuệ thực chứng. Tôi cảm thấy cha mẹ tôi thực sự đã phát minh được trí huệ qua quá trình niệm Phật mà tôi nghĩ quá đơn giản.
Bây giờ tôi mới liễu ngộ được sự thật là học vấn của tôi chỉ là một hình thức vọng tưởng, tôi đã nhét vào đầu những học vị tiến sĩ bằng cấp cao học này nọ chỉ là để thỏa mãn cái ta một cách trơ trẽn thực sự không ích lợi cho tôi về phương diện thực chứng chân lý.
Cha mẹ tôi tuy ít học nhưng hai người biết nhét vào đầu họ những câu niệm Phật đơn giản. Chính vì sự quá đơn giản này mà không ai ngờ nó ẩn chứa trong đó một sức mạnh tâm linh và trí tuệ siêu thoát vĩ đại bởi sức gia trì của chư Phật.
Từ nay với lứa tuổi 50 tôi phải dũng mãnh dừng lại sự giảng dạy, lập tức quay đầu niệm Phật. Đời sống có ý nghĩa gì khi ta không thể nhận thức vòng sanh tử luân hồi vô gián đoạn đã kéo lê kiếp sống vô minh mà ở đó nỗi thống khổ và đau đớn thê lương của mình cùng hàng triệu sinh linh luôn luôn đè nặng.
Tôi không dám dụng ý khuyên mọi người niệm Phật theo tôi. Nhưng tôi muốn bày tỏ sự giác ngộ của mình khi nhìn thấy song thân tôi không có một trình độ chi hết mà được tái sanh nơi cõi Phật trong khi đó tôi là một người tu hành xuất thế lại có nhiều bằng cấp học vị tiến sĩ mà rốt cuộc vẫn mù mờ trong ý niệm siêu thoát tâm linh.
Phải chăng tôi đã làm những cái không cần thiết mà tôi tưởng rằng vinh dự? Tuy cha mẹ tôi là người thế tục lại ít học nhưng đã biết làm những cái cần thiết trong cuộc đời quá ngắn ngủi này. Phải chăng tôi dù học rất nhiều nhưng vẫn không đạt được trí tuệ để hiểu lời dạy rất đơn giản của đức Phật là “hãy tinh tấn lên để giải thoát” (không phải tinh tấn để cầu danh hão thế gian).
Tôi cũng không thực sự hiểu là bản hoài của chư Phật ra đời là để dạy dỗ tâm linh cho mọi người đặng sớm chấm dứt vòng sanh tử chứ không phải để mưu cầu cái gì khác từ thế giới huyền ảo này.
Cái vô minh mà đức Phật thường nhắc đến trong kinh điển phải chăng ám chỉ mọi người không biết MÌNH LÀ AI? PHẢI LÀM GÌ? Và CHẾT ĐI VỀ ĐÂU? trong cuộc đời quá ngăn ngủi này.
Thích Nữ Tuệ Nhi
Nguồn: huongquang.com



[/NEN]
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

hoatigon

Active Member
Thượng toạ
Tham gia
25 Tháng 5 2009
Bài viết
374
Điểm tương tác
45
Điểm
28
<!--[if gte mso 9]><xml> <o:OfficeDocumentSettings> <o:RelyOnVML/> <o:AllowPNG/> </o:OfficeDocumentSettings> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:DoNotOptimizeForBrowser/> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> [NEN="http://i950.photobucket.com/albums/ad346/Thuhanguynth/nenhoati2.jpg"]




Đồng ý là "Có bằng cấp Tiến sĩ" không có nghĩa là người này đã chứng quả vị gì, nhưng...cũng không có nghĩa là quá dốt như thế này.

Lời tự thú này chỉ "xí gạt" được Phật tử bình dân mà thôi. Chỉ cần đọc thoáng qua mọi người đều có thể thấy rõ : ĐÂY LÀ MỘT CÂU CHUYỆN PHÓNG TÁC.
Vì một người Việt gốc Hoa có thể rất dốt tiếng Việt, rất dốt tiếng Hán, nhưng không bao giờ nói lộn từ NGỘ và NỊ (Tao và Mầy _ I & YOU) cả :
Nấu cho nị ba trái khoai lang cúng Phật.
Câu nầy lẻ ra phải là :
Nấu cho ngộ ba trái khoai lang cúng Phật.
Bạn nghĩ sao khi mà một sư cô người Việt gốc Hoa, có 2 bằng Tiến sĩ lại gỏ lộn bàn phím từ chữ NGỘ ra chữ NỊ ?.

Bạn nghĩ sao khi một sư cô có trình độ Tiến sĩ Phật Học lại sử dụng từ LIỄU NGỘ một cách hời hợt như thế này ? :
Bây giờ tôi mới liễu ngộ được sự thật là học vấn của tôi chỉ là một hình thức vọng tưởng


Bạn nghĩ sao khi một sư cô có trình độ Tiến sĩ Phật Học lại sử dụng từ GIÁC NGỘ một cách hời hợt như thế này ? :
Tôi không dám dụng ý khuyên mọi người niệm Phật theo tôi. Nhưng tôi muốn bày tỏ sự giác ngộ của mình


Người sáng tác ra LỜI TỰ THÚ này chỉ muốn "lấy điểm" với Phật A-Di-Đà, muốn LÔI KÉO TÍN ĐỒ hay là muốn cho "Thùng Công Đức" của chùa được đầy lên ?



[/NEN]
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
bản thân sư cô trong suốt hơn 30 năm qua vừa tu hành, vừa học hành nên đã đạt được “4 văn bằng đại học, 2 bằng tiến sĩ, làm giảng sư; nhưng chưa hiểu được gì về con đường tu hành cầu giác ngộ của đạo Phật cả.” Sư cô đem bản thân mình so với thân phụ và thân mẫu: Hai cụ tuy không có điều kiện học hành, ít chữ nghĩa; song lúc về già chỉ chuyên tâm niệm Phật mà “phát minh được trí huệ qua quá trình niệm Phật… nên khi chết được vãng sanh về cõi Phật.”
<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>
<o:p> </o:p>
Rõ ràng, bàn luận cho lắm cũng chẳng ích gì. Thông hiểu Phật pháp, luận giảng thao thao, khi chết cũng xuống địa ngục, (vì chưa chứng mà tự xem là đã chứng, mắng Phật, quở tổ, để nâng cao cái tôi của mình)
<o:p> </o:p>
Không bằng một người chỉ biết có sau chữ “<?xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:eek:ffice:smarttags" /><st1:country-region w:st="on"><st1:place w:st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> mô A Di Đà Phật” mà được giải thoát.
Vì sao thế ?
Vì “trí thức” chẳng bằng “tâm thành”
Trí thức thuộc về vọng, còn tâm thành thuộc về chơn.
<o:p> </o:p>
<o:p> </o:p>
 

hoatigon

Active Member
Thượng toạ
Tham gia
25 Tháng 5 2009
Bài viết
374
Điểm tương tác
45
Điểm
28
<!--[if gte mso 9]><xml> <o:OfficeDocumentSettings> <o:RelyOnVML/> <o:AllowPNG/> </o:OfficeDocumentSettings> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:DoNotOptimizeForBrowser/> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> [NEN="http://i950.photobucket.com/albums/ad346/Thuhanguynth/nenhoati2.jpg"]




ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>[/I]
<o:p> </o:p>
Rõ ràng, bàn luận cho lắm cũng chẳng ích gì. Thông hiểu Phật pháp, luận giảng thao thao, khi chết cũng xuống địa ngục, (vì chưa chứng mà tự xem là đã chứng, mắng Phật, quở tổ, để nâng cao cái tôi của mình)
<o:p></o:p>
Không bằng một người chỉ biết có sau chữ “ffice:smarttags" /><st1:country-region w:st="on"><st1:place w:st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> mô A Di Đà Phật” mà được giải thoát.
Vì sao thế ?
Vì “trí thức” chẳng bằng “tâm thành”
Trí thức thuộc về vọng, còn tâm thành thuộc về chơn.
<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
Có lý nào Trưởng Ban Kiểm Soát lại là người phạm luật đầu tiên :
Xin bác Bình chỉ rõ
AI LÀ NGƯỜI MẮNG PHẬT , QUỞ TỔ ?
(Xin trích dẫn rõ ràng)
Kính !



[/NEN]
 

cunconmocoi

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
7 Tháng 5 2009
Bài viết
467
Điểm tương tác
106
Điểm
43
Địa chỉ
vn
<!--[if gte mso 9]><xml> <o:OfficeDocumentSettings> <o:RelyOnVML/> <o:AllowPNG/> </o:OfficeDocumentSettings> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:DoNotOptimizeForBrowser/> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> [NEN="http://i854.photobucket.com/albums/ab102/cunconmocoi/rong3.jpg"]



ffice:eek:ffice" /><o:p></o:p>[/I]
<o:p> </o:p>
Rõ ràng, bàn luận cho lắm cũng chẳng ích gì. Thông hiểu Phật pháp, luận giảng thao thao, khi chết cũng xuống địa ngục, (vì chưa chứng mà tự xem là đã chứng, mắng Phật, quở tổ, để nâng cao cái tôi của mình)
<o:p></o:p>
Không bằng một người chỉ biết có sau chữ “ffice:smarttags" /><st1:country-region w:st="on"><st1:place w:st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> mô A Di Đà Phật” mà được giải thoát.
Vì sao thế ?
Vì “trí thức” chẳng bằng “tâm thành”
Trí thức thuộc về vọng, còn tâm thành thuộc về chơn.
<o:p></o:p>
<o:p></o:p>

Chỉ có người bình dân mới tuỳ tiện dùng từ GIẢI THOÁT, hoặc giả khi ban hộ niệm đang tung kinh cầu siêu mà đương sự mấp mái môi như muốn trăn trối điều gì, mọi người liền phao tin rằng người ấy đang niệm Phật, nếu sau đó bệnh nhân ngừng thở thì liền được "phong Thánh" là đã VÃNG SANH.

Đọc trên mạng cuncon thấy rất rất nhiều trường hợp VÃNG SANH DO NHỮNG NGƯỜI DỐT GIÁO LÝ "HOANG TƯỞNG" GÁN GHÉP CHO.
Sao lại có vị Tiến sĩ Phật học lại dễ tin như thế này nhĩ ?

Đức Phật đã báo trước rồi. Nấu cho nị ba trái khoai lang cúng Phật. Đúng ngày đấy ông an nhiên niệm Phật ra đi một cách êm nhẹ có đầy đủ ân chứng vãng sanh. Mẹ tôi cũng được vãng sanh sau đó vài năm.

Người học Phật chân chính phải biết "Thế nào là GIẢI THOÁT ?" Về Tây phương Cực Lạc chưa phải là Giải Thoát. Chỉ khi nào đương sự xuất hiện từ Hoa sen nở ra, đủ tướng trượng phu "HOA KHAI KIẾN PHẬT NGỘ VÔ SANH". Đến lúc "Ngộ Vô Sanh" hành giả mới Giải Thoát, còn trước đó, thần thức ngủ li bì trong thai sen hàng tỷ tỷ năm, là giai đoạn hoá giải Ác nghiệp, giai đoạn nầy hành giả chẳng có Giải Thoát tí tẹo nào cả.

Ở đoạn trích dẫn trên, cuncon thấy bác Bình _ người dám chú giải nhiều Kinh sách Thiên Tông thì không còn là người "bình dân" nữa _ sao lại có thể phát ngôn một câu thiếu trí tuệ như thế này :

Không bằng một người chỉ biết có sau chữ “ffice:smarttags" />Nam mô A Di Đà Phật” mà được giải thoát.
Đọc câu nầy cuncon rất ngở-ngàng, thất vọng.


[/NEN]
 

gioidinhhue

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
950
Điểm tương tác
47
Điểm
28
Địa chỉ
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
Bài này là do Thầy Admin đăng đầu tiên của diễn đàn Trung Tâm Từ Tâm . GDH rất cảm kích và biết ơn admin là một vị du học có tri thức về Phật học nhưng lại coi trọng lòng chân thật chân thành tu hành hơn là những kiến thức thu lượm từ những người khác ...

Quả thật chỉ có người hành pháp mới hiểu người hành Pháp , đầu môi chót lưỡi thì nghe rất hay nhưng không giúp ích gì cho sinh tử .

Cứ học theo sự ngu dốt của những ông già bà cả một lòng chân thành mà niệm " Nam Mô A Di Đà Phật " mặc cho người đời chửi mắng , họ giúp ta thành tựu nhẫn nhục , họ giúp ta tiêu đi nghiệp chướng nặng nề , do đó càng phải biết ơn họ , ...chỉ mong sao có thể làm lợi ích cho chúng sanh và có thể liễu sanh tử là tốt rồi .




 

admin

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Thượng toạ
Phật tử
Tham gia
13 Thg 7 2010
Bài viết
321
Điểm tương tác
86
Điểm
28
Mến chào Giới Định Tuệ và đại chúng.
Bài viết này Admin đã xóa trong diễn đàn trungtamtutam.com
Việc học hành trên các trường Phật Học hoặc tự nghiên cứu Phật Học mà không lo tu, không áp dụng lời Phật dạy vào trong cuộc sống thì cũng giống như cái đãi đựng kinh sách, không có giúp ích nhiều cho sự giải thoát sinh tử, nhưng chỉ giúp ích cho việc bổ sung kiến thức Phật Học.
Còn nếu mình tu mà không học thì cũng giống như tu mù, không biết đâu để phân biệt chánh - tà và thường căn cứ theo sở kiến của mình cho đó là đúng.
Do vậy, tu và học cần phải song song với nhau.
Trong giáo lý mà Phật dạy, chúng ta cũng đã tìm hiểu.
Nếu chúng ta không thực hành, áp dụng vào cuộc sống, chúng ta không thể lãnh hội các những giá trị tiềm ẩn bên trong của nó.
Chúng ta nếu dùng các kiến thức căn bản phổ thông của mình mà không thông qua quá trình tu luyện, thực nghiệm các giá trị Phật Pháp mà dùng nó để diễn đạt Phật Pháp, lắm lúc, chúng ta dễ bị lầm lạc, không đúng xác thực ý nghĩa mà Phật muốn truyền đạt cho chúng ta.
Bài viết bình luận liên quan vấn đề "Nhân đọc lời tự thú của một Sư Cô" của Trần Kiêm Đoànbài viết "lời tự thú của một Sư Cô" của tác giả Thích Nữ Tuệ Nhi.
Admin không biết tác giả Thích Nữ Tuệ Nhi này có phải là người thật, nói việc thật hay chỉ là ai đó tạo ra một nhân vật Sư Cô mang pháp danh Thích Nữ Tuệ Nhi để nói lên ý của mình muốn nói.
Do vậy các vị nên tìm hiểu vấn đề này trước khi bàn luận để tránh các ý nghĩ không tốt, lệch lạc.
Cả 2 bài viết này trông có vẻ chủ trương nói về khuyến tu Tịnh Độ và lý giải các vấn đề Phật Học nhưng các ý bên trong có những ý không phù hợp với lời Phật dạy, chẳng qua là dùng kiến thức phổ thông do việc tìm hiểu Phật Pháp để nói ý mình muốn nói nhưng thực chất chẳng phải do thực nghiệm mà thấy được các giá trị đích thực về lời Phật dạy nên có một số ý tứ lệch lạc.
Trong đây có vị nào đã thường xuyên đem lời Phật dạy để ứng dụng hiệu quả trong cuộc sống và cố nhiều kinh nghiệm trong quá trình tu hành sẽ thấy rõ điều đó.
Admin không bình luận thêm, các vị tự tìm hiểu thêm và từ từ các vị sẽ hiểu về sự khác biệt giữa kiến thức phổ thông Phật Học và kiến thức của những hành giả chuyên lo tu theo lời Phật dạy, thấm nhuần và sống tinh thần theo lời Phật dạy, thân tâm bớt chấp ngã, an vui trong mọi hoàn cảnh.
Đây cũng là điểm các ngoại đạo hoặc các vị học giả thông thường không thể thất triệt lời Phật dạy. Bởi vì họ chỉ tìm hiểu Phật Học để lấy kiến thức, chứ không có thực nghiệm tu tập các lời Phật dạy để thấu triệt các giá trị chân thật có trong Kinh Tạng mà Đức Phật đã đề cập. Họ thường dùng các kiến thức phổ thông đó để lý luận lệch lạc bên vực cho các quan điểm của mình liên quan một chủ trương gì đó mà họ đề ra.
Vài dòng kính gửi các vị.
Admin



 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
CÚN thương !
Đức PHẬT THÍCH-CA kể cho chư TĂNG nghe : vào 1 kiếp lâu xa , lâu....xa dử lắm - có 1 ông nọ vô rừng [ bt hỏng nhớ để làm gì ] - mà
bị con sư tử nó thấy - nó rượt chạy - xong rồi quýnh quá ổng leo lên cây - Nhưng thấy cũng không đủ sức thoát hiểm - nên ổng niệm MÔ PHẬT ! .
NHÂN niệm 1 tiếng MÔ PHẬT mà qua bao kiếp trầm luân - QUẢ lành vẫn không mất - "ông đó" là vị đệ tử cuối cùng đắc quả A-LA-HÁN của ĐỨC PHẬT - khi ngài sắp nhập NIẾT BÀN .
MÔ PHẬT ! xin CUNCON đừng có nói như vầy nữa [ tổn đức ] nhe ! TIGON cũng vậy .

KÍNH
bangtam
 

cunconmocoi

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
7 Tháng 5 2009
Bài viết
467
Điểm tương tác
106
Điểm
43
Địa chỉ
vn
<!--[if gte mso 9]><xml> <o:OfficeDocumentSettings> <o:RelyOnVML/> <o:AllowPNG/> </o:OfficeDocumentSettings> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:DoNotOptimizeForBrowser/> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> [NEN="http://i854.photobucket.com/albums/ab102/cunconmocoi/rong3.jpg"]



CÚN thương !
Đức PHẬT THÍCH-CA kể cho chư TĂNG nghe : vào 1 kiếp lâu xa , lâu....xa dử lắm - có 1 ông nọ vô rừng [ bt hỏng nhớ để làm gì ] - mà
bị con sư tử nó thấy - nó rượt chạy - xong rồi quýnh quá ổng leo lên cây - Nhưng thấy cũng không đủ sức thoát hiểm - nên ổng niệm MÔ PHẬT ! .
NHÂN niệm 1 tiếng MÔ PHẬT mà qua bao kiếp trầm luân - QUẢ lành vẫn không mất - "ông đó" là vị đệ tử cuối cùng đắc quả A-LA-HÁN của ĐỨC PHẬT - khi ngài sắp nhập NIẾT BÀN .
MÔ PHẬT ! xin CUNCON đừng có nói như vầy nữa [ tổn đức ] nhe ! TIGON cũng vậy .

KÍNH
bangtam
Anh bangtam kính mến !
Một người đã gieo duyên với Phật pháp (dù là thuận duyên hay nghịch duyên) cái duyên ấy sẽ còn mãi, còn mãi với thời gian (nếu thời gian còn tồn tại) cho đến khi nào cõi vô minh nầy tan biến thì cái duyên ấy mới mất.
Cho nên anh bangtam yên chí sẽ không có một chúng sinh nào ra khỏi vòng tay cứu độ của Chư Phật cả. Nhưng có điều, nếu chúng ta CHÁNH TÍN thì chúng ta đi con đường ngắn nhất, còn nếu MÊ TÍN thì chúng ta tự phỉnh phờ mình để đi rong chơi lòng vòng trong 3 cõi 6 đường thêm một khoảng thời gian chừng vài triệu năm nữa cho thực sự thấm thía: thế nào là "Ta Bà khổ _ Ta bà quá khổ, Tịnh độ vui _ Tịnh độ còn quá xa", cái đó tùy chúng ta thôi.
Nực cười, có người nằm mơ thấy người thân quay về báo mộng, cũng khẳng định là người thân của mình đã vãng sanh. Chèn đét ui ! người quá cố nếu đã vãng sanh thì giờ phút đó đã nhập thai trong bông sen có đi đâu được, chừng ra khỏi bông sen thì chúng ta đã đầu thai hàng triệu kiếp rồi, chứ có đâu mới vừa chết hồi chiều, buổi tối về báo mộng mà gọi là vãng sanh. Vã lại điều kiện tiên quyết để vãng sanh là KHÔNG ĐƯỢC VƯỚNG BẬN TÌNH CẢM VỚI NGƯỜI THÂN, nếu có vướng bận thì chắc chắn là sẽ quày đầu HƯỚNG VÔ MINH chứ không có HƯỚNG TÂY PHƯƠNG được nữa rồi.
Bangtam có MÊ TÍN thì cũng mê tín ít ít thôi, chừa chỗ cho cúncon mê tín với chứ !
hi...hi....!



[/NEN]
 

hoatigon

Active Member
Thượng toạ
Tham gia
25 Tháng 5 2009
Bài viết
374
Điểm tương tác
45
Điểm
28
<!--[if gte mso 9]><xml> <o:OfficeDocumentSettings> <o:RelyOnVML/> <o:AllowPNG/> </o:OfficeDocumentSettings> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:DoNotOptimizeForBrowser/> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> [NEN="http://i950.photobucket.com/albums/ad346/Thuhanguynth/nenhoati2.jpg"]




CÚN thương !
Đức PHẬT THÍCH-CA kể cho chư TĂNG nghe : vào 1 kiếp lâu xa , lâu....xa dử lắm - có 1 ông nọ vô rừng [ bt hỏng nhớ để làm gì ] - mà
bị con sư tử nó thấy - nó rượt chạy - xong rồi quýnh quá ổng leo lên cây - Nhưng thấy cũng không đủ sức thoát hiểm - nên ổng niệm MÔ PHẬT ! .
NHÂN niệm 1 tiếng MÔ PHẬT mà qua bao kiếp trầm luân - QUẢ lành vẫn không mất - "ông đó" là vị đệ tử cuối cùng đắc quả A-LA-HÁN của ĐỨC PHẬT - khi ngài sắp nhập NIẾT BÀN .
MÔ PHẬT ! xin CUNCON đừng có nói như vầy nữa [ tổn đức ] nhe ! TIGON cũng vậy .

KÍNH
bangtam
Anh bangtam ui !
Chúng em nói dùm cho những ai tin mà không biết phân biệt, suy xét tí tẹo nào, để mặc cho những phần tử "đầu cơ tôn giáo" lợi dụng mà không hề hay biết. Mọi người không cám ơn chúng em thì chớ, cớ sao lại quay lại "đem oán trả ân".
Tương lai của những người Mê tín đi về đâu ? Chúng em không biết, nhưng có lẻ không phải một "bến bờ giác ngộ" nào cả.

Có một em bé nặng nghiệp chướng, khi vừa có mặt ở trần thế đã mang một cái thân tứ đại không vẹn toàn, trong khi chúng bạn đùa vui chạy nhẩy thì em phải khó khăn lắm mới cử động chân tay chút đỉnh, trong khi chúng bạn ca hát líu lo thì em chỉ ú ớ có 2 từ vô nghĩa, đến năm em 11 tuổi thì "một chút xíu dầu trong cây đèn đã cạn" ("đay" _ "chít" í mà), em phải theo nghiệp mà bỏ xác, người thân đem đi thiêu, Thầy đặt pháp danh cho là "Thiện ...."
Ít lâu sau trên một trang web Phật giáo, người ta thấy hình ảnh của em với câu TÔN XƯNG rất "hoành tráng" : Niệm Phật vãng sanh lưu Xá Lợi, BỒ TÁT THIỆN....
Trời đất ! Nếu vong linh của em í có đọc được bài viết ấy, chắc em đã "nổi khùng" :
_ Cả đời tui chưa phát âm được tiếng thứ 3, có đâu 4 hay 6 chữ mà mấy ông gán ghép cho tui là "Niệm Phật". Còn cái hình ảnh Xá Lợi gì đó thì tui không biết, các Ông làm "phép thuật" ra làm sao ? Chớ tui mà có Xá-Lợi thì Hítller chắc còn có nhiều hơn tui vạn bội.



[/NEN]
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
CÚN VÀ GON THƯƠNG !
Đọc hai câu truyện " hoành tráng " của 2 em thì bt thấy có 1 điểm chung chung đó là hơi hơi giống giống nhau nhau - và đáng lẻ
là bt thua rồi - nhưng mà hỏng chịu thua - tại vì bt thấy như vầy nè ! - Tuy trong cái MÊ nhưng tin mà niệm PHẬT thì cái tin trong
MÊ đó cũng được gọi là TÍN ! _ Từ MÊ [ TÍN ] sẽ có cái MÊ tiếp theo là mong cầu được vảng sinh -thì cái MÊ cầu mong được vảng
sinh đó cũng có thể gọi là NGUYỆN _ và với cái NGUYỆN trong MÊ đó thì nhất định sẽ có sự giảm thiểu bớc đi cái ác - có thể được
chấp nhận là tạm có HẠNH ! .
Vậy thì suy cho cùng - cân nhắc cho kỷ - cái MÊ TÍN ở đây vẫn có lợi nhiều hơn hại hé CÚN và GON thương ! .

KÍNH
bangtam
* bt đã năn nỉ rồi mà sao CÚN cứ kính ví bt quài vậy CÚN ? chắc bt đi thưa quá ! .
 

cunconmocoi

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
7 Tháng 5 2009
Bài viết
467
Điểm tương tác
106
Điểm
43
Địa chỉ
vn
<!--[if gte mso 9]><xml> <o:OfficeDocumentSettings> <o:RelyOnVML/> <o:AllowPNG/> </o:OfficeDocumentSettings> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:DoNotOptimizeForBrowser/> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> [NEN="http://i854.photobucket.com/albums/ab102/cunconmocoi/rong3.jpg"]



CÚN VÀ GON THƯƠNG !
Đọc hai câu truyện " hoành tráng " của 2 em thì bt thấy có 1 điểm chung chung đó là hơi hơi giống giống nhau nhau - và đáng lẻ
là bt thua rồi - nhưng mà hỏng chịu thua - tại vì bt thấy như vầy nè ! - Tuy trong cái MÊ nhưng tin mà niệm PHẬT thì cái tin trong
MÊ đó cũng được gọi là TÍN ! _ Từ MÊ [ TÍN ] sẽ có cái MÊ tiếp theo là mong cầu được vảng sinh -thì cái MÊ cầu mong được vảng
sinh đó cũng có thể gọi là NGUYỆN _ và với cái NGUYỆN trong MÊ đó thì nhất định sẽ có sự giảm thiểu bớc đi cái ác - có thể được
chấp nhận là tạm có HẠNH ! .
Vậy thì suy cho cùng - cân nhắc cho kỷ - cái MÊ TÍN ở đây vẫn có lợi nhiều hơn hại hé CÚN và GON thương ! .

KÍNH
bangtam
* bt đã năn nỉ rồi mà sao CÚN cứ kính ví bt quài vậy CÚN ? chắc bt đi thưa quá ! .
Kính anh bang tam ! (cuncon cứ kính đó, hè...hè...làm gì nhau ?)

* Chữ TÍN là tin, sao trong Kinh A-Di-Đà nói :
"Cửu phẫm Liên Hoa vi phụ mẫu" (9 phẫm sen vàng là cha mẹ) mà chúng ta không chịu tin ?, chúng ta bỏ qua giai đoạn nhập thai trong Hoa sen, chúng ta nói :
Không bằng một người chỉ biết có sau chữ “Nam mô A Di Đà Phật” mà được giải thoát.

Phải biết một bậc thượng thượng căn mà được vãng sanh thì cũng phải nhập thai sen THƯỢNG PHẪM THƯỢNG SANH trong một thời gian ngắn (cái thời gian ngắn ở cõi Cực Lạc đó, có thể là ở Ta Bà nầy chúng ta đã trải qua mấy nền văn minh rồi). Có đâu vừa vãng sanh đã liền Giải thoát.

* Chữ HẠNH là gì ?
"Mặc ai nói ngả, nói nghiêng _ Lòng ta vẫn ổn như kiềng ba chân"
Đàng nầy người ta chưa phản đối mình niệm Phật, người ta chỉ nhắc nhở mình trong phạm vi Giáo Lý Tịnh độ, mà mình đã không cám ơn thì chớ, lại đi "nổi khùng" thì HẠNH ở đâu ?

* Còn chữ NGUYỆN là phải đối trước bàn thờ Phật A-Di-Đà phát nguyện rằng :
"Từ nay cho đến hơi thở cuối cùng, con sẽ chỉ có một câu duy nhất NAM-MÔ-A-DI-ĐÀ-PHẬT trong tâm, tuyệt đối không "hí luận huyền đàm", không nói Thiền nói Luận chi cả".

Có đâu lại kiêm học Thiền, "Thiền Tịnh song tu" là KHÔNG TIN LỜI PHẬT, muốn tu "2 chân" cho chắc ăn. Như vầy thì còn lâu mới "Nhất tâm bất loạn", nếu không muốn nói là sẽ KHÔNG BAO GIỜ "Nhất Tâm" được.
Mong sao cho hành giả tu Tịnh độ bỏ hết "thị phi" một lòng niệm Phật.

NAM-MÔ A-DI-ĐÀ-PHẬT




[/NEN]
 

lavinhcuong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
30 Thg 7 2010
Bài viết
803
Điểm tương tác
677
Điểm
93
<!--[if gte mso 9]><xml> <o:OfficeDocumentSettings> <o:RelyOnVML/> <o:AllowPNG/> </o:OfficeDocumentSettings> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:DoNotOptimizeForBrowser/> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> [NEN="http://i1026.photobucket.com/albums/y321/cuong_lavinh/background81.jpg"]



Khi ta có người thân qua đời, với những cái dấu hiệu lạ thường, ví dụ như da mặt đỏ hồng, còn ấm nóng rất lâu chẳng hạn. Cả Giáo hội xúm nhau lại "tôn vinh" là người thân của ta đã VÃNG SANH.
Nếu người đã thực sự vãng sanh thì mọi nghi lễ cầu siêu sau đó ĐÃ KHÔNG CÒN TÁC DỤNG nữa rồi !
Vậy ta có dám hủy bỏ mọi nghi lễ rườm rà của thế gian, để cho người quá cố được nhẹ nhàng NƠI Phật Quốc hay không ?
Nghĩa là không làm lễ cầu siêu, không cúng thất, không cúng 49 ngày, không cúng 100 ngày, không giỗ giáp năm gì nữa.
Khi một Thượng toạ, Pháp Sư nào đó được xác định là Đã Vãng Sanh, chúng môn đồ pháp quyến có dám bỏ qua KHÔNG TỤNG KINH HỒI HƯỚNG cho vị ấy hay không ? Có tổ chức tiệc mừng Vãng Sanh hay không ?
Mọi người đều tán thán vị kia đã vãng sanh, nhưng không ai dám bỏ qua lễ cầu siêu cả.
Có phải thế không các bạn ? Hay là Cường bịa chuyện, rằng thực sự đã có những đám A, đám B, mọi người xúm nhau lại "khui sâm banh" chúc mừng, ở đó không có lễ cầu siêu.
Xin các bạn, ai có biết một trường hợp nào như thế, giới thiệu cho Cường sáng mắt ra đi.
Hình như chúng ta đang dối gạt nhau thì phải ?
Chúng ta niệm Phật thì cứ niệm Phật, nhưng chuyện Vãng Sanh thì hình như có rất nhiều trường hợp do hiểu lầm hay là do thổi phồng quá đáng. Thành thật một tí đi, chúng ta sẽ không bị hụt-hẫng.

NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT


[/NEN]
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
LAVINHCUONG KÍNH .
BT đồng ý Nếu người đã thực sự vãng sanh thì mọi nghi lễ cầu siêu sau đó ĐÃ KHÔNG CÒN TÁC DỤNG nữa rồi !
Nhưng mà trước những lễ nghi quen thuộc khó lòng mà tránh khỏi bởi cái tâm cố chấp sâu dầy - thôi thì dù sao
đi nữa những lễ nghi đó cũng không đến nổi vô ích đâu -" CƯỜNG hãy nghỉ kỷ thì sẽ rõ "- còn đối với người đã thật
vãng sanh rồi thì dĩ nhiên sẽ không cần thiếc nữa .

KÍNH
bangtam
 

hoatigon

Active Member
Thượng toạ
Tham gia
25 Tháng 5 2009
Bài viết
374
Điểm tương tác
45
Điểm
28
<!--[if gte mso 9]><xml> <o:OfficeDocumentSettings> <o:RelyOnVML/> <o:AllowPNG/> </o:OfficeDocumentSettings> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:DoNotOptimizeForBrowser/> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> [NEN="http://i950.photobucket.com/albums/ad346/Thuhanguynth/nenhoati2.jpg"]




LAVINHCUONG KÍNH .
BT đồng ý Nếu người đã thực sự vãng sanh thì mọi nghi lễ cầu siêu sau đó ĐÃ KHÔNG CÒN TÁC DỤNG nữa rồi !
Nhưng mà trước những lễ nghi quen thuộc khó lòng mà tránh khỏi bởi cái tâm cố chấp sâu dầy - thôi thì dù sao
đi nữa những lễ nghi đó cũng không đến nổi vô ích đâu -" CƯỜNG hãy nghỉ kỷ thì sẽ rõ "- còn đối với người đã thật
vãng sanh rồi thì dĩ nhiên sẽ không cần thiết nữa .

KÍNH
bangtam
Kính en bangtam !
Hình như anh Cường đang làm LỄ CẦU SIÊU CHO NHỮNG NGƯỜI CÒN SỐNG đó bangtam ạhh !
hi...hi....!



[/NEN]
 

cát trắng

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 3 2011
Bài viết
29
Điểm tương tác
5
Điểm
3
Hoatigon mến !
Thế nào là LỄ CẦU SIÊU CHO NGƯỜI CÒN SỐNG ?
Em nói, chị nghe không hiểu gì hết.
Mến !
 

cunconmocoi

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
7 Tháng 5 2009
Bài viết
467
Điểm tương tác
106
Điểm
43
Địa chỉ
vn
<!--[if gte mso 9]><xml> <o:OfficeDocumentSettings> <o:RelyOnVML/> <o:AllowPNG/> </o:OfficeDocumentSettings> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:DoNotOptimizeForBrowser/> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> [NEN="http://i854.photobucket.com/albums/ab102/cunconmocoi/rong3.jpg"]



Chị cát trắng kính mến !
Hàng ngày chúng ta niệm Phật đều đặn, há không phải là TỰ CẦU SIÊU CHO CHÍNH MÌNH đấy sao ?
Khuyên một anh đồ tể buông dao để niệm Phật, đó không phải là CẦU SIÊU CHO NGƯỜI CÒN SỐNG hay sao ?
Nhắc nhở một bạn đạo đừng buông lung giải đải nữa, đó không phải là CẦU SIÊU CHO NGƯỜI CÒN SỐNG hay sao ?
Thấy bạn đạo có những hiểu biết lệch lạc về đạo lý, những hiểu lầm, những thiên kiến, biên kiến, tà kiến; chúng ta tuỳ theo khả năng mà nhắc nhở, đó không phải là CẦU SIÊU CHO NGƯỜI CÒN SỐNG hay sao ?
Nếu ta thấy mà không nói, liệu tâm ta có yên hay không ? ta có ích kỹ lắm hay không ?
Một người chỉ lo tu cho riêng chính mình, liệu có phải là Phật tử chân chính hay không ?
Kính !


[/NEN]
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên