Bài 7.- Pháp Tánh.
Thưa các Bạn: Cũng tương tợ như Phật Tánh.- Phật tánh là "cái tánh chân thật" của TÂM . Thì Pháp tánh là "cái tánh chân thật" của vạn PHÁP.
* Pháp Tánh là cái tánh thanh tịnh bản nhiên (vốn có) của các pháp, chớ không phải do diệt đi một cái gì đó rồi sau đó pháp tánh mới hiện ra.
* Tánh thanh tịnh bản nhiên đó là Pháp Tánh.
"Cái tánh chân thật" của vạn PHÁP, của vũ trụ vốn là 'bất khả tư nghì, bất khả thuyết' (không thể nghĩ bàn, không thể nói ra được) . Mà kinh điển gọi là CHÂN NHƯ.
Ở đây nói "Phật Tánh", tức là nói Chơn Như của Tâm. Nói "Pháp tánh" , tức là nói Chơn Như của Pháp. Tuy là hai nhưng tận cùng chỉ một NHƯ.
Nghĩa là: Pháp Tánh là cái tánh Thanh Tịnh Bản nhiên (Tự nó như vậy, không do tu tập, tạo tác mà sanh ra) của vạn vật vô tình chúng sanh (như cái cây, cục đá v.v...).- Pháp Tánh vốn không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không tăng, không giảm, không đến, không đi.- Là Bát Bất mà kinh Bát Nhã nói-
Hỏi: Những gì là Pháp ?
Đáp: Duy Thức học.- Khái quát "Các Pháp" gồm 100 pháp (Xem Đại thừa bách pháp minh môn luận)
kinh Bát Nhã dạy: Ca Diếp Bồ tát bạch Phật: "Pháp tánh của chư Phật nghĩa thế nào ? Mong đức Như Lai giải rộng cho. Theo con hiểu: Pháp tánh có nghĩa là phải xả bỏ sắc thân. Đã xả bỏ sắc thân tức là vô sở hữu, nếu vô sở hữu thì thân không còn. Thân nếu còn tại sao lại nói thân có pháp tánh ? Thân có pháp tánh sao thân lại còn ?
Phật dạy: "Ca Diếp ! Ông chẳng nên nói diệt mới là pháp tánh. Pháp tánh không có diệt.
(hết trích)
Bài Giảng (của HT. Th Từ Thông):
+ Pháp tánh là cái tánh thanh tịnh bản nhiên (vốn có) của các pháp, chớ không phải do diệt đi một cái gì đó rồi sau đó pháp tánh mới hiện ra. Niết Bàn cũng thế. Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh không phải do diệt (chết) cái thân này mới có Niết Bàn.
+ Cực lạc cũng thế, không phải đợi sau khi chết, đức Phật Di Đà mới rước "hồn" người về Cực Lạc. Người tu đúng, thì phải hưởng dụng Cực Lạc ngay tại đây và bây giờ. Vì : " Phật hiệu Di Đà, Pháp giới tàng thân tùy xứ hiện, Quốc danh Cực Lạc, Tịch Quang chơn cảnh cá trung huyền". Đó là Tự tánh Di Đà, duy tâm tịnh Độ.
Ví như người tu Vô Tưởng Định, tuy họ đã được vào Vô Tưởng Thiên, vẫn hưởng được phước báu cõi Vô Tưởng Thiên, mà thân sắc ấm này vẫn còn.
Kinh dạy: Này Ca Diếp ! Cảnh giới của Như Lai chẳng phải chỗ biết của Thanh Văn, Duyên Giác. Chẳng nên nói thân của Như Lai là pháp diệt. Ông không nên nghĩ Như Lai ở chỗ nào, đi chỗ nào, thấy, vui, chỗ nào ? Pháp thân của Phật, các thứ phương tiện chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải điều mà các ông biết được.
+ Nếu dùng cái trí hạn hẹp so đo của Nhị thừa, thì không thể thấy biết được Cảnh giới của Như Lai. Phải dùng quán trí của Đại thừa mới có thể thấy được "Tánh thanh tịnh bản nhiên". Tánh thanh tịnh bản nhiên đó là Pháp Tánh.
(hết trích)
+++++++++++++++++++
Tư duy:
* Pháp Tánh:
Là tánh "Thanh tịnh bản nhiên" của vạn pháp. Tánh ấy thường NHƯ, "Như" là không thể nghĩ bàn, nhưng kinh khái quát có các đặc tính như sau:
1/. Bất sanh: Là các pháp do duyên sanh, nhưng duyên không có tự tánh, nên duyên mà "không duyên", nghĩa là không thực có các duyên để sanh các pháp, thật tế các pháp là "Bất sanh".
2/. Bất diệt: Vì không sanh nên đâu có để diệt.
3/. Bất Cấu: Là không có trần cấu, uế trược. Do có sanh. lão, bệnh, tử khổ nên gọi là Cấu uế, nhưng không sanh, thì không có lão, bệnh, tử vì vậy nên không có cấu uế.
4/. Bất Tịnh: Vì vốn không có cấu uế, nên cũng không phân biệt gì là Tịnh.- Đó là Bất tịnh (chẳng có Tịnh).
5/. Bất Tăng: Nghĩa là không thêm (tăng thượng). Vì các pháp xưa nay nó vốn là như vậy: chẳng sanh, chẳng diệt v.v..., nó vốn là NHƯ vậy, nên chẳng có gì Tăng.
6/. Bất Giảm: Vì nó vốn là NHƯ vậy, nên chẳng có gì Giảm.
7/. Bất Đoạn: Chẳng phải đoạn kiến (chết là hết) vì không có sanh, thì đâu có chết để hết.
8/. Bất thường: Cũng chẳng phải thường còn vĩnh viễn: Vì vốn không sanh, thì lấy cái gì để thường còn.
9/. Bất khứ, bất lai: Không đến, không đi vì bản chất các pháp vốn thường hằng khắp cả chỗ, nên không đến, không đi.
10/. Bất Nhất- Bất dị: Không phải một cũng chẳng phải khác. Vì các pháp là Bất Nhị là NHƯ.
Nói tóm lại PHÁP TÁNH là TÁNH RỐT RÁO THANH TỊNH của các Pháp.
Phật Tánh và Pháp Tánh vốn không hai.
Luận Hiển Dương chánh Giác nói:
" Phật Tánh tại hữu tình,
Pháp Tánh tại vô tri.
Phật- Pháp bổn lai vô nhị tánh,
Nhất hỏa năng thiêu bách vạn sài."
Nghĩa là vốn cùng là Chơn như, nhưng tác động vào hữu tình thì gọi là Phật Tánh, tác động Ở vô tình thì là Pháp Tánh đó. Giống như chỉ là một thứ lửa mà có thể đốt tất cả các loại củi vậy.
* Không chỉ riêng Như Lai là rốt ráo thanh tịnh, mà vạn pháp trên cõi đời này tất cả đều rốt ráo thanh tịnh. Thế thì vạn vật ngàn sai muôn khác. Nhưng tất cả đều đồng một tánh là Tánh Thanh Tịnh.
Tuq duy về .- Tự Tánh Thanh Tịnh Bản Nhiên:
Tự tánh Thanh Tịnh Bản Nhiên.- là cái tánh vốn nó thanh tịnh, không có làm khổ ai, không não hại ai, tóm lại là không vô minh (tham, sân, si v.v.... và không ngã tướng) của vạn pháp.
Vạn pháp tuy nhiều, nhưng theo kinh Thủ Lăng nghiêm tóm lại, gồm có 2 phần.
+ Phần tâm thức, có 2, là Kiến Đại và Thức Đại.
a/. Kiến Đại là 1 trong các nguyên tố tạo thành tâm của con người, đại diện cho kiến, văn, giác, tri (tức thấy, nghe, hay, biết).
b/. Thức Đại, là sự tích lũy, tư duy, nhận thức của con người, gồm có 8 thức là: mắt, tai, mũi, lưõi, thân, ý thức. mạc na thức và A lại da thức.
+ Phần vật chất. Gồm có 5 Đại là: đất, nước, gió, lửa và hư không (địa, thủy, hỏa, phong, không đại).
7 Đại này tánh vốn nó thanh tịnh, không có làm khổ ai, không não hại ai,
* Tự Tánh Thanh Tịnh Bản Nhiên của Kiến Đại và Thức Đại (Hữu Tình), còn gọi là Tánh Giác hay Phật Tánh.
* Tự Tánh Thanh Tịnh Bản Nhiên của 5 Đại (Vô Tình) là: địa, thủy, hỏa, phong, không đại, còn gọi là Tánh Tịnh hay Pháp Tánh.
* Hòa hợp Phật Tánh và Pháp Tánh, là Tăng Tánh.
Kính các Bạn.- Pháp Tánh bất sanh bất diệt.- Nên Pháp Tánh là Chơn Đế.