tritanhtv95

Tìm hiểu hạnh đầu đà

tritanhtv95

Registered
Phật tử
Tham gia
26/7/24
Bài viết
1
Điểm tương tác
2
Điểm
3
Nam Mô A Di Đà Phật, các Phật tử cho con hỏi con có ý định theo hạnh đầu đà. Nhưng con không biết hành trang con đã chuẩn bị sau đây có phù hợp hay không? Mong quý Phật tử cho con một số gợi ý để giúp con hoàn thiện hơn trên con đường tu tập (Con cũng có tìm hiểu sơ lược qua 13 pháp tu hạnh đầu đà).
1. Do con không biết may y phấn tảo nên con sử dụng 1 bộ đồ lam và đem theo 1 cái giỏ và 1 bình bát.
2. Con có cần phải thuộc kinh Phật hay không hay chỉ cần tham thiền?
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
28/7/16
Bài viết
1,837
Điểm tương tác
904
Điểm
113
Nam Mô A Di Đà Phật, các Phật tử cho con hỏi con có ý định theo hạnh đầu đà. Nhưng con không biết hành trang con đã chuẩn bị sau đây có phù hợp hay không? Mong quý Phật tử cho con một số gợi ý để giúp con hoàn thiện hơn trên con đường tu tập (Con cũng có tìm hiểu sơ lược qua 13 pháp tu hạnh đầu đà).
1. Do con không biết may y phấn tảo nên con sử dụng 1 bộ đồ lam và đem theo 1 cái giỏ và 1 bình bát.
2. Con có cần phải thuộc kinh Phật hay không hay chỉ cần tham thiền?
Kính chào đạo hữu,

Nghe qua "hành trang" mà đạo hữu chuẩn bị để dấn thân thực hành 13 Hạnh Đầu Đà của Ngài Đại Ca Diếp thì Ba Tuần biết đạo hữu chưa sẵn sàng đâu, vì "hành trang" đạo hữu hiểu nó không giống hành trang của bậc xuất trần hành pháp đầu đà, vì hành trang bậc xuất trần người ta gọi là "tư lương" là cái nội tâm, là cái chí hướng, cái mục đích, cái giá sẵn sàng đánh đổi (bỏ thân, mất mạng chẳng hạn), chứ đâu có phải là vật ngoài thân, tạm coi là phương tiện như y phấn tảo, Kinh sách hay pháp môn tham thiền..

Ở đây có Thầy @vienquang2 , là bậc xuất gia theo Pháp và Luật Phật chế, có lòng tàm quý, tự hổ tự khiêm, có trí liễu tử sinh, đời đạo kiêm tu, chúng sanh thệ độ, là chỗ y cứ khả tín trong thời nhiêu nhương ngũ trược này.

Nếu đạo hữu có trí xuất trần, có lòng cầu đạo vô thượng hãy lên tiếng với lòng chí thành chân thiết, hãy tới và đảnh lễ cầu pháp xuất thế, rèn dũa lâu dài, đức hạnh đủ đầy thì mới xét lại trí hướng trên còn mãnh liệt nữa không, rồi quyết định sau cũng chưa muộn.

Ba Tuần nói từ cái tâm của người đã đi và không ngừng đi, mong đạo hữu lặng tâm xét kỹ, thấy có lý thì nghe, bằng không cứ hỏi và nghe nơi khác vậy.

Kính mến,
Ba Tuần.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
869
Điểm tương tác
853
Điểm
93
Bài 1.- Trình kiến giải Thánh hạnh Đầu Đà.

Kính Bạn tritanhtv95, Ngài Ba Tuần và các Bạn.

Xin cảm ơn Ngài Ba tuần đã tryền cho VQ cái gánh nặng.- Giải trình về Pháp tu của Bậc Thánh và "Tri kiến về hạnh Đầu Đà" cho VQ trong "thời nhễu nhương ngũ trược này !"

Kính các Bạn.
Theo VQ nghĩ : Chỉ có các Vị Chức Sắc, hàng Giáo Phẩm trong GHPGVN, các Vị trong truyền thừa hạnh Khất Sĩ "Chánh Thống" như chư Tôn Đức ở Thiền Viện Phước Sơn Hệ PG Nguyên Thủy, chư Tôn Đức ở 6 Giáo Đoàn Hệ Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam, mới đủ tư cách, đủ chức trách, đủ trí tuệ, đủ thẩm quyền để tuyên bố và khẳng định về hạnh tu cao cả của Thánh Tăng Đại Ca Diếp .
Nhưng trong khi chờ đợi đủ duyên lành "Có giáo chỉ của hàng giáo Phẩm PGVN ban hành". VQ xin Chư Thánh Đức từ bi tạm để VQ "Phạm Thượng" mà tạm "Đồ lại các nét mà Ngài Ba Tuần và Bạn tritanhtv95 đã nêu bậc ở trên".

Ở bài thảo luận này VQ sẽ giải trình các phân đoạn (Đã được các vị nêu ra), như sau:

1/. Lịch Sử các Vị Thánh Tăng hành pháp Đầu Đà.
...........1a). Thánh Hạnh Đầu Đà.
...........1b). Thiên Hạnh Đầu Đà.
...........1c). Phạm Hạnh Đầu Đà.

2/. Hành trang (Tư Lương) của "hành giả" phát tâm tu hạnh Đầu Đà.
* Chư Tổ trong các Tông Phái PG thực hành 13 hạnh Đầu Đà.

3/. Giới Luật của Phật và Tổ dạy về hạnh Đầu Đà.

4/. Phần kết luận.- Nên tìm hiểu, tu học Hạnh Đầu Đà "Đúng Chánh Pháp" ở đâu ?

Kính mong các Bậc Tôn Túc, các Thiện Tri Thức góp ý chỉ giáo.
(VQ kính xin chuyển về Luật Tạng để tỏ lòng cung kính Thánh Hạnh này)

Cung kính Quý Ngài.
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
869
Điểm tương tác
853
Điểm
93
Bài 2.- 1/. Lịch Sử các Vị Thánh Tăng hành pháp Đầu Đà.

a). Thánh Tăng Ma Ha Ca Diếp.

Vì sao gọi là Thánh Tăng ? Vì sao gọi là Thánh Hạnh ?

Đáp:

+ Trong hàng Đệ Tử Phật, có những bậc Thượng thủ, đã chứng Quả A la Hán, hoặc 52 quả vị Bồ Tát, như Ngài Ma ha Ca Diếp chứng A la Hán. Ngài Quan Âm là Bồ Tát Thập Địa v.v... gọi là Thánh Tăng.

+ Trong các hạnh tu của chư Thánh Tăng, có những vị tu về các hạnh:

- Thiền định, bố thí, nhẫn nhục v.v... gọi là Thiên Hạnh.

- Trì Giới không khiếm khuyết, thanh tâm quả dục v.v... gọi là Phạm Hạnh.

- Có các vị Thánh hành Đầu Đà, vô vi (nghĩa là an trú Niết Bàn.- Vì A la hán là "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa".).- Gọi là Thánh Hạnh.

* Tích Ngài Ma Ha Ca Diếp:

Sứ Mệnh và Hạnh “Đầu Đà” của Ma Ha Ca Diếp
Vào năm 30 tuổi, Ma Ha Ca Diếp bắt đầu hành trình tìm kiếm đạo trong rừng sâu, cũng là thời điểm Đức Phật Thích Ca thành đạo dưới gốc Bồ Đề. Nghe về sự hiện diện của Đức Phật, Ma Ha Ca Diếp không ngần ngại tìm đến thành Vương xá, và ngày ngày theo Thánh chúng đến nghe pháp.

Trong quá trình tu hành, Ma Ha Ca Diếp ấp ủ hạnh “Đầu Đà”, một hành trình tu tập với năng lực tịnh hóa tâm hồn. Để tuân thủ hạnh này, Ma Ha Ca Diếp cần phải giữ đủ 10 điều, nhưng trong số đó, ngài chỉ tuân thủ đủ 9 điều. Ngài chọn ở nơi hoang vắng, sinh hoạt bằng phép trì bình, thường ở tại một nơi, ngày ăn một bữa, và sống tại các bãi tha ma. Tuy nhiên, điều mà Ma Ha Ca Diếp không làm là khất thực trước nhà người giàu, vì ngài tin rằng họ đã có đủ phước đức, trong khi những người nghèo lại cần được gieo trồng phước đức.
Hạnh đầu đà có năng lực tịnh hóa tâm hồn, khi tu theo hạnh này cần giữ đủ 10 điều.

1. Chọn ở nơi hoang vắng.
2. Sinh hoạt bằng phép trì bình.
3. Thường ở tại một nơi.
4. Ngày ăn một bữa.
5. Khất thực không phân biệt giàu nghèo.
6. Tài sản gồm có 3 y, một bình bát.
7. Tư duy dưới gốc cây.
8. Thường ngồi giữa đồng trống.
9. Mặc áo phấn tảo.
10. Sống tại các bãi tha ma.

Với 10 điều kiện trên, Tôn giả tuân giữ trọn vẹn chỉ có 9 điều, riêng điều khất thực số 5 Tôn giả không theo giáo đoàn, Tôn giả chỉ đến khất thực trước nhà người nghèo. Theo Ngài người giàu đã thừa phước đức, ta không cần phải mang phước đến cho họ, còn người nghèo vì thiếu phước đức ta cần đem phước điền cho họ gieo trồng. Trong hàng đệ tử Phật người đi khất thực ngược với Đại Ca Diếp là Ngài Tu Bồ Đề, chỉ đi khất thực nhà giàu. Nghe Tôn giả chỉ khất thực nhà nghèo, Đức Phật khiển trách và khuyên nên đem tâm bình đẳng khất thực, từ bỏ tâm phân biệt.

Với Tôn giả Phật còn khuyên không nên quá khổ hạnh, vì khổ hạnh là một cực đoan Đức Phật đã bỏ sau khi bị kiệt sức ở xứ Ba La Nại, tu với 5 anh em Kiều Trần Như. Ngài đã tìm ra con đường trung đạo, và đạt được địa vị giác ngộ giải thoát.
ca diếp.jpg
 
Last edited:

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
28/7/16
Bài viết
1,837
Điểm tương tác
904
Điểm
113
Bài 2.- 1/. Lịch Sử các Vị Thánh Tăng hành pháp Đầu Đà.

a). Thánh Tăng Ma Ha Ca Diếp.

Vì sao gọi là Thánh Tăng ? Vì sao gọi là Thánh Hạnh ?

Đáp:

+ Trong hàng Đệ Tử Phật, có những bậc Thượng thủ, đã chứng Quả A la Hán, hoặc 52 quả vị Bồ Tát, như Ngài Ma ha Ca Diếp chứng A la Hán. Ngài Quan Âm là Bồ Tát Thập Địa v.v... gọi là Thánh Tăng.

+ Trong các hạnh tu của chư Thánh Tăng, có những vị tu về các hạnh:

- Thiền định, bố thí, nhẫn nhục v.v... gọi là Thiên Hạnh.

- Trì Giới không khiếm khuyết, thanh tâm quả dục v.v... gọi là Phạm Hạnh.

- Có các vị Thánh hành Đầu Đà, vô vi (nghĩa là an trú Niết Bàn.- Vì A la hán là "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa".).- Gọi là Thánh Hạnh.

* Tích Ngài Ma Ha Ca Diếp:

Sứ Mệnh và Hạnh “Đầu Đà” của Ma Ha Ca Diếp
Vào năm 30 tuổi, Ma Ha Ca Diếp bắt đầu hành trình tìm kiếm đạo trong rừng sâu, cũng là thời điểm Đức Phật Thích Ca thành đạo dưới gốc Bồ Đề. Nghe về sự hiện diện của Đức Phật, Ma Ha Ca Diếp không ngần ngại tìm đến thành Vương xá, và ngày ngày theo Thánh chúng đến nghe pháp.

Trong quá trình tu hành, Ma Ha Ca Diếp ấp ủ hạnh “Đầu Đà”, một hành trình tu tập với năng lực tịnh hóa tâm hồn. Để tuân thủ hạnh này, Ma Ha Ca Diếp cần phải giữ đủ 10 điều, nhưng trong số đó, ngài chỉ tuân thủ đủ 9 điều. Ngài chọn ở nơi hoang vắng, sinh hoạt bằng phép trì bình, thường ở tại một nơi, ngày ăn một bữa, và sống tại các bãi tha ma. Tuy nhiên, điều mà Ma Ha Ca Diếp không làm là khất thực trước nhà người giàu, vì ngài tin rằng họ đã có đủ phước đức, trong khi những người nghèo lại cần được gieo trồng phước đức.
Hạnh đầu đà có năng lực tịnh hóa tâm hồn, khi tu theo hạnh này cần giữ đủ 10 điều.

1. Chọn ở nơi hoang vắng.
2. Sinh hoạt bằng phép trì bình.
3. Thường ở tại một nơi.
4. Ngày ăn một bữa.
5. Khất thực không phân biệt giàu nghèo.
6. Tài sản gồm có 3 y, một bình bát.
7. Tư duy dưới gốc cây.
8. Thường ngồi giữa đồng trống.
9. Mặc áo phấn tảo.
10. Sống tại các bãi tha ma.

Với 10 điều kiện trên, Tôn giả tuân giữ trọn vẹn chỉ có 9 điều, riêng điều khất thực số 5 Tôn giả không theo giáo đoàn, Tôn giả chỉ đến khất thực trước nhà người nghèo. Theo Ngài người giàu đã thừa phước đức, ta không cần phải mang phước đến cho họ, còn người nghèo vì thiếu phước đức ta cần đem phước điền cho họ gieo trồng. Trong hàng đệ tử Phật người đi khất thực ngược với Đại Ca Diếp là Ngài Tu Bồ Đề, chỉ đi khất thực nhà giàu. Nghe Tôn giả chỉ khất thực nhà nghèo, Đức Phật khiển trách và khuyên nên đem tâm bình đẳng khất thực, từ bỏ tâm phân biệt.

Với Tôn giả Phật còn khuyên không nên quá khổ hạnh, vì khổ hạnh là một cực đoan Đức Phật đã bỏ sau khi bị kiệt sức ở xứ Ba La Nại, tu với 5 anh em Kiều Trần Như. Ngài đã tìm ra con đường trung đạo, và đạt được địa vị giác ngộ giải thoát.
ca diếp.jpg
Kính Thầy,

Y theo lời Kinh Tương Ưng Bộ II, phẩm Du hành, thì mục số 3: "thường ở tại một nơi" thì không hẳn đã đầy đủ, theo ý con, nên bổ sung thế này:

Thường chẳng chấp trú tại một xứ nhất định.

Từ "chẳng chấp trú" ý là tâm không vì lợi dưỡng, vì tiện nghi mà tham đắm một trú xứ nhất định, nếu tại trú xứ nào, dục ái về nơi ấy chưa sinh được sinh, dục ái về nơi ấy đã sinh được tăng trưởng, thời nên dời đi.

Mến kính,
Ba Tuần.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
869
Điểm tương tác
853
Điểm
93
Bài 3.- Ngài Ma Ha Ca Diếp.- Chủ trương - khuynh hướng - tư tưởng.

Trong thời Đức Phật tại thế. Trong Tăng Đoàn đã có 2 khuynh hướng rõ rệt:

1. Thượng Tọa Bộ: Chủ trương bảo thủ, giữ nguyên kinh luật theo Nguyên Thủy Đức Phật đã dạy.- Pháp Thiền của Thượng Tọa Bộ là Thiền Vipassanā
2. Đại Chúng Bộ: Chủ Trương phát triển từ kinh luật theo Tư Tưởng Đức Phật đã dạy. (Trong đó LUẬT có thể thêm hoặc bớt cho phù hợp.- Khế Cơ- Còn thiền thì theo khuynh hướng "Kiến Tánh" theo tích Niêm Hoa Đức Phật thân truyền cho Ngài Ma Ha Ca Diếp làm Tổ thứ I)

Theo VNCPHVN:
Sau khi Đức Phật nhập diệt và kỳ kiết tập thứ nhất được tổ chức, 500 vị A-la-hán do ngài Đại Ca-diếp làm chủ tọa đã tuyên bố giữ nguyên giới luật Phật chế không được thêm bớt. (hết trích)
giacngo.vn

* Để hiểu rõ hơn về hạnh đầu đà, chúng ta hãy xem xét trường hợp của Ngài Ca Diếp (Mahakassapa), một trong những đệ tử chính của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người nổi tiếng với việc thực hành các hạnh đầu đà một cách nghiêm ngặt.

Với 10 điều kiện trên, Tôn giả tuân giữ trọn vẹn chỉ có 9 điều, riêng điều khất thực số 5 Tôn giả không theo giáo đoàn, Tôn giả chỉ đến khất thực trước nhà người nghèo. Theo Ngài người giàu đã thừa phước đức, ta không cần phải mang phước đến cho họ, còn người nghèo vì thiếu phước đức ta cần đem phước điền cho họ gieo trồng. Trong hàng đệ tử Phật người đi khất thực ngược với Đại Ca Diếp là Ngài Tu Bồ Đề, chỉ đi khất thực nhà giàu. Nghe Tôn giả chỉ khất thực nhà nghèo, Đức Phật khiển trách và khuyên nên đem tâm bình đẳng khất thực, từ bỏ tâm phân biệt.

khổ hạnh1.jpg


Với Tôn giả Phật còn khuyên không nên quá khổ hạnh, vì khổ hạnh là một cực đoan Đức Phật đã bỏ sau khi bị kiệt sức ở xứ Ba La Nại, tu với 5 anh em Kiều Trần Như. Ngài đã tìm ra con đường trung đạo, và đạt được địa vị giác ngộ giải thoát.

Hạnh đầu đà của Ngài Ca Diếp là những phương pháp tu tập khổ hạnh nghiêm túc nhằm rèn luyện sự thanh tịnh, kỷ luật và lòng kiên nhẫn. Qua việc thực hành các hạnh đầu đà này, Ngài Ca Diếp đã đạt được sự thanh tịnh nội tại và trở thành tấm gương sáng cho các hành giả Phật giáo noi theo. Hạnh đầu đà không chỉ là những phương pháp tu tập mà còn là cách để sống một cuộc sống đơn giản, thanh tịnh và hạnh phúc.

* Nếu gọi 10 Pháp Đầu Đà là "GIỚI LUẬT ĐẦU ĐÀ" thì rõ ràng Ngài Ma Ha Ca Diếp.- Chủ trương "luật Đầu Đà" có thể THÊM hoặc BỚT cho phù hợp Thế Gian Tất Đàn, và Đối Trị Tất Đàn.- Điển hình có 10 Pháp Đầu Đà, mà Ngài Ma Ha Ca Diếp chỉ hành có 9 Pháp Đầu Đà.

* Từ những hành trạng của ngài Ma Ha Ca Diếp.- Chúng ta thấy được:

* Pháp tu Hạnh Đầu Đà là Khổ Hạnh mà Đức Thế Tôn đã từng tu tập.

Chủ trương khuynh hướng tư tưởng của Ngài Ma Ha Ca Diếp là Dung Hòa Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ.- Vì :

  • Về THIỀN ĐỊNH ngài Ma Ha Ca Diếp làm Tổ Thứ I Pháp Thiền Kiến Tánh.- Bất Lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền.
  • Về GIỚI LUẬT Ngài Ma Ha Ca Diếp cho phép bớt hoặc thêm cho phù hợp .- Giống như ngài đã bớt 1 trong 10 điều ở Khổ Hạnh Đầu Đà.
ĐH Ba Tuần nêu ý kiến:

Y theo lời Kinh Tương Ưng Bộ II, phẩm Du hành, thì mục số 3: "thường ở tại một nơi" thì không hẳn đã đầy đủ, theo ý con, nên bổ sung thế này:

Thường chẳng chấp trú tại một xứ nhất định.

Từ "chẳng chấp trú" ý là tâm không vì lợi dưỡng, vì tiện nghi mà tham đắm một trú xứ nhất định, nếu tại trú xứ nào, dục ái về nơi ấy chưa sinh được sinh, dục ái về nơi ấy đã sinh được tăng trưởng, thời nên dời đi.

Mến kính,
Ba Tuần.
Vâng ! Tuy là hợp lý. Nhưng vấn đề Thêm hoặc bớt trong Pháp tu Thánh Hạnh Đầu Đà. VQ chưa đủ thẩm quyền để quyết định ạ (Phải chờ ý kiến của GH Tăng Đoàn )
 
Last edited:

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
28/7/16
Bài viết
1,837
Điểm tương tác
904
Điểm
113
Kính Thầy,

Y theo lời Kinh Tương Ưng Bộ II, phẩm Du hành, thì mục số 3: "thường ở tại một nơi" thì không hẳn đã đầy đủ, theo ý con, nên bổ sung thế này:

Thường chẳng chấp trú tại một xứ nhất định.

Từ "chẳng chấp trú" ý là tâm không vì lợi dưỡng, vì tiện nghi mà tham đắm một trú xứ nhất định, nếu tại trú xứ nào, dục ái về nơi ấy chưa sinh được sinh, dục ái về nơi ấy đã sinh được tăng trưởng, thời nên dời đi.

Mến kính,
Ba Tuần.
Chỗ này con nhớ không chính xác tên Kinh, chính xác là Tăng Chi Bộ, chương Năm Pháp, phẩm Sống quá lâu, mới đúng:

1. Có năm nguy hại này, này các Tỷ-kheo, nếu sống quá lâu tại một chỗ. Thế nào là năm?

2. Ðồ dùng nhiều, cất chứa nhiều đồ dùng; nhiều dược phẩm, cất chứa nhiều dược phẩm; nhiều việc làm, nhiều công việc phải làm, không khéo léo trong những công việc gì phải làm; sống lẫn lộn với gia chủ và xuất gia, tùy thuận trong sự liên hệ với gia chủ; và khi ra đi bỏ trú xứ ấy, ra đi với sự luyến tiếc.

Này các Tỷ-kheo, đó là năm nguy hại nếu sống quá lâu tại một chỗ.

3. Có năm lợi ích này, này các Tỷ-kheo, nếu sống đồng đều tại mỗi chỗ. Thế nào là năm?

4. Ðồ dùng không nhiều, không cất chứa nhiều đồ dùng; dược phẩm không nhiều, không cất chứa nhiều dược phẩm; không có nhiều việc làm, không nhiều công việc phải làm, khéo léo trong những công việc phải làm; không sống lẫn lộn với gia chủ và xuất gia, không tùy thuận trong sự liên hệ với gia chủ; và khi ra đi bỏ trú xứ ấy, ra đi không với sự luyến tiếc.

Này các Tỷ-kheo, đó là năm lợi ích nếu sống đồng đều tại một chỗ.


Mến kính,
Ba Tuần.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
869
Điểm tương tác
853
Điểm
93
Bài 4.- Ngài Tân Đầu Lô Phả La Đọa.

Trong một Tăng nào cũng vậy.- Tuy ít người thực hành cùng một hạnh, nhưng không phải chỉ có một vị là Ngài Maha Ca Diếp. Vâng ! Trong đó có Ngài Tân Đầu Lô.
đầu lô.jpg

Ngài là người đứng đầu trong 16 vị La Hán. Tôn giả Tân Đầu Lô trụ thế lâu dài, hiện tướng tóc bạc mày dài, nên có tên gọi là Trường Mi Tăng hay Trường Mi Sa Môn. Tên Tân Đầu Lô ý dịch là Bất Động , họ Phả La Đọa nghĩa là Lợi Căn . Ông vâng lời đức Phật sống lâu trên cõi đời mạt pháp để thọ nhận cúng dường của chúng sanh, giúp cho họ tạo phước điền; nên ông có tên là Phước Điền Đệ Nhất.

Tôn giả Tân Đầu Lô Phả La Đọa gọi tắt là Tân Đầu Lô xuất thân từ dòng Bà La Môn, là một bậc lợi căn đại thần danh tiếng của vua Ưu Điền. Ngài ý thức cuộc đời vô thường, giả huyễn nên xuất gia theo Phật rồi vào rừng sâu thiền định. Sau khi chứng Thánh quả, ngài cỡi hươu về triều khuyến hóa nhà vua tu tập, nhân đó được tặng tôn hiệu La hán Cỡi Hươu.

Một hôm, ngài cùng Tôn giả Mục Kiền Liên ngồi bên bờ sông nghe dân chúng đồn đại có trưởng giả Thọ Đề Già treo chiếc bình bát được làm bằng gỗ quý chiên đàn ở trên ngọn sào cao và ra giá, nếu ai có thể dùng thần thông lên đó lấy xuống được thì bình bát quý là của người ấy.

Ngoại đạo nhiều người đến lấy nhưng không ai đủ đạo lực đành đứng nhìn. Khi ấy, ngài thưa với Tôn giả Mục Kiền Liên:
- Này hiền giả, ngài là bậc đại đệ tử thần thông đệ nhất của đức Thế Tôn, sao không đến lấy bình bát để dùng?
Ngài Mục Kiền Liên đáp:
- Thi triển thần thông để lấy một cái bình bát thật chẳng có ý nghĩa gì cao cả, tôi không thích vậy.
Tôn giả thưa:
- Thưa hiền giả, biết vậy, nhưng lấy được bình bát cũng là chứng minh Phật pháp vi diệu hơn ngoại đạo chứ?
Thấy Tân Đầu Lô muốn đi, ngài Mục Kiền Liên trả lời:
- Ông cũng là bậc A la hán, nếu thích như thế thì một mình ông đi đi.
Liền khi đó Tôn giả Tân Đầu Lô vận thần thông, đem theo cả tảng đá lớn mình đang ngồi, bay lượn quanh thành mấy vòng làm cho dân chúng sợ đá rơi xuống, dẫm đạp lên nhau chạy trốn, rồi sau đó mới đến đầu sào lấy chiếc bình bát và từ từ hạ xuống. Dân chúng cả vạn người thấy vậy vỗ tay reo hò.

Sau khi về đến tinh xá, đức Phật hay tin dùng vô số phương tiện quở trách rằng:
- Trước mặt thiên hạ mà ông biểu diễn thần thông, không những chẳng ích lợi gì cho việc hoằng dương Phật pháp, trái lại dễ làm mọi người ngộ nhận cho rằng tu học Phật pháp cũng chỉ để biểu diễn thần thông mà thôi.

Nhân đó, đức Thế Tôn dạy Tôn giả Tân Đầu Lô không được nhập niết bàn, mà phải ở lại thế gian làm phước điền cho chúng sinh gieo trồng thiện căn.
(Ngài Tân Đầu Lô phãi vĩnh cữu hành hạnh Đầu Đà như thế)

* Hành trạng của Ngài Thánh giả Đầu Đà :

Vào đời Ngũ Đại, vua nước Ngô Việt là Tiền Lưu rất thâm tín Phật pháp. Có lần nhà vua tổ chức đàn tràng trai tăng cúng dường thì bỗng nhiên xuất hiện một vị Hòa thượng lạ, tướng mạo gầy ốm, lông mày vừa trắng vừa dài, từ hướng núi phía Tây bay qua cửa sổ, đến ngồi trên chỗ khách quý ăn uống vui vẻ trước sự ngạc nhiên của mọi người. Lát sau, ngài đứng dậy nói:
- Cúng dường Tam bảo công đức vô lượng! Ta là Tân Đầu Lô. Ta đi đây!

Đến đời vua A Dục thỉnh ba mươi vạn Hòa thượng đến hoàng cung thọ trai.Chư vị hòa thượng chí thành cung thỉnh Tôn giả Tân Đầu Lô. Chốc lát quả nhiên Tân Đầu Lô từ trên trời bay xuống.
Công nguyên năm 490, Lương Võ Ðế bị một cơn bạo bệnh. Tối đến, vua nằm mộng thấy một vị Hòa thượng có đôi mắt sáng quắc tự xưng là Tân Đầu Lô nói rằng:
- Bệnh của ông là do ham thích hưởng thụ phú quý, không đoái hoài gì đến sự đói khát cơ hàn khốn khổ của dân chúng. Do đó, muốn khỏi bệnh phải khai mở quốc khố, cứu giúp muôn dân nghèo khổ, cúng dường mười phương Tăng chúng, đồng thời phải tự mình gieo trồng thiện căn công đức. Được như thế thì sẽ liền khỏi bịnh.
Tôn giả Tân Đầu Lô Phả La Đọa là bậc thường trụ ứng cúng trong cõi trời và người. Cho nên ngày nay nếu chúng ta thiết trai cúng dường mà thành tâm nguyện thỉnh thì ngài sẽ thị hiện tiếp nhận. ( trích từ Bồ Đề Phật Quốc)

* Tân Đầu Lô bị bạc đãi ( Từ điển PH online viết)

Đức Phật lkhông cho phép ông (Tân Đầu Lô) nhập Niết Bàn, mà phải thường trụ trên thế gian, hộ trì chánh pháp, thọ nhận sự cúng dường của chúng sanh thời mạt pháp. Vì vậy, tại Trai Đường của các tự viện, thường có một chỗ ngồi ở hàng đầu phía Tây, tức là chỗ của Hòa Thượng Thủ Tòa , nhưng lại không có ai ngồi. Tuy nhiên tại chỗ đó vẫn thường xuyên có thiết dọn thức ăn, vật uống, chén đũa, v.v., để cúng dường Tôn Giả. Khi cúng dường Trai Tăng, Tôn Giả sẽ hiện thân Tỳ Kheo đến thọ nhận cúng dường. Cho nên khi chú nguyện cúng dường thường có câu: “Nam Mô Tân Đầu Lô Phả La Đọa Xà Tôn Giả tác đại chứng minh.” Tương truyền có một phú ông nọ phát tâm cúng dường Trai Tăng cho 1000 vị tăng với mục đích cầu phước và mong được La Hán đến thọ nhận. Ông thiết lễ trai đàn trong 3 ngày, đến tối thứ 3 ông nằm mộng thấy một lão Tỳ Kheo mặc áo quần lam lũ, trên trán nỗi 3 cục u ghê sợ hiện đến bảo phú ông rằng: “Tôi là Tân Đầu Lô đây !” “Ồ, ngài là Tân Đầu Lô sao ? Ngài có đến dự cúng dường không ?” Tôn Giả đáp: “Có chứ ! Ngày thứ nhất, tôi đến thì người giữ cửa không cho vào. Tôi bảo là tôi đến để ban phước cho chủ nhà này. Người canh cổng không tin, bảo rằng áo quần tôi lam lũ thế này, lấy gì có phước mà ban cho người khác. Nói xong người ấy dùng gậy đánh tôi, làm cho trán tôi u lên một cục. Đến ngày thứ hai, tôi lại bị đánh u thêm một cục nữa. Qua ngày thứ ba, tôi tưởng là ngày cuối cùng có thể vào được, nhưng cũng bị đánh thêm lần nữa.” Phú ông tỉnh dậy, biết được sự thật, vô cùng tiếc nuối không có phước duyên để đón tiếp Thánh tăng. Lại có một ông quan huyện, nghe đồn cúng dường Trai Tăng nhất định sẽ có Thánh tăng Tân Đầu Lô quang lâm thọ cúng dường. Ông bèn thiết trai cúng dường tại Thiên Đồng Tự ở Ninh Ba . Đến thời thọ trai buổi trưa, ông chợt thấy một vị Tỳ Kheo mặc áo quần lam lũ, già khụm, nước miệng nước mũi chảy nhễ nhại, chẳng chút oai nghi nào, bước đi ngã nghiêng, tiến về phía chỗ ngồi của vị Thủ Tòa. Thông thường vị trí này luôn dành để cúng dường cho Thánh tăng. Ông quan huyện đến gần xem, nhìn kỹ thấy toàn thân từ trên xuống dưới của vị Tỳ Kheo ấy nhơ nhớp không thể chịu được. Ông bèn dùng tay xách lỗ tai vị kia kéo xuống ngồi hàng ghế cuối cùng. Sau khi thọ trai xong, quan huyện hỏi Thiên Đồng Thiền Sư xem thử hôm nay Thánh tăng có đến tham dự không ? Thiền Sư trả lời có. Nghe vậy, quan huyện mừng rỡ hỏi xem đó là ai ? Đáp: “Đó chính là vị Tỳ Kheo mà ông xách lỗ tai.” Lão quan huyện kinh ngạc, run bắn người thốt lên rằng: “Quả là có mắt mà không tròng. Ta đã làm nhục Thánh tăng rồi ! Tội lỗi tày trời !” Theo Đại Tống Tăng Sử Lược quyển 3, phần Phương Đẳng Giới Đàn cho biết rằng khi Luật Sư Đạo Tuyên ở Chung Nam Sơn kiến lập Linh Cảm Giới Đàn tại Tinh Xá Thanh Quan Thôn , có vị tăng lông mày dài đến trước Giới Đàn tán thán. Như trong Tăng Nhất A Hàm Kinh quyển 3 có đoạn: “Hàng phục ngoại đạo, lý hành chánh pháp, sở vị Tân Đầu Lô Tỳ Kheo thị hàng phục ngoại đạo, thực hành chánh pháp, đó gọi là Tỳ Kheo Tâm Đầu Lô).” Cũng lại trong Tăng Nhất A Hàm Kinh quyển 44, đức Phật thọ ký cho 4 vị Thanh Văn, trong đó có Tân Đầu Lô rằng: “Ngô kim niên dĩ suy hao, niên hướng bát thập dư, nhiên kim Như Lai hữu tứ đại Thanh Văn, kham nhiệm du hóa, trí tuệ vô tận, chúng đức cụ túc. Hà đẳng vi tứ ? Sở vị Đại Ca Diếp Tỳ Kheo, Quân Đồ Bát Tỳ Kheo, Tân Đầu Lô Tỳ Kheo, La Vân Tỳ Kheo. Nhữ đẳng tứ đại Thanh Văn yếu bất bát Niết Bàn, tu ngô pháp một tận, nhiên hậu nãi đương bát Niết Bàn năm nay ta đã suy yếu, tuổi đã hơn tám mươi, tuy nhiên nay Như Lai có bốn vị đại Thanh Văn, có thể đảm nhiệm việc du hóa, trí tuệ vô tận, các đức đầy đủ. Thế nào là bốn ? Đó là Tỳ Kheo Đại Ca Diếp, Tỳ Kheo Quân Đồ Bát, Tỳ Kheo Tân Đầu Lô, Tỳ Kheo La Vân. Các người, bốn đại Thanh Văn này chủ yếu không nhập Niết Bàn, đến khi pháp của ta diệt hết, sau đó mới nhập Niết Bàn).” (hết trích)
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
869
Điểm tương tác
853
Điểm
93
Bài 5.- La Vân Tỳ Kheo.(rāhula)

Tức là Tôn giả La-hầu-la (tiếng Phạn: Rāhula; tiếng Trung: 羅睺羅 nghĩa là Phú Chướng, nghĩa là "sự chướng ngại") là một trong thập đại đệ tử của đức Phật (mật hạnh đệ nhất). Ông cũng là người con duy nhất của Thái Tử Tất-đạt-đa (siddhārtha). Còn mẹ của La-hầu-la là công nương Da-du-đà-la (yaśodharā). La-hầu-la được sinh ra khoảng khi thái tử Tất-đạt-đa lúc ấy đã 29 tuổi, quyết định rời bỏ gia đình, xuất gia tu hành và đi tìm chân lý đích thật, tuy nhiên sau này có thể thấy chính Đức Phật là người đích thân dạy dỗ con trai mình trên con đường đạt đạo. Nhờ vậy La-hầu-la đã sớm giác ngộ khi mới ngoài 20 tuổi. La-hầu-la được tôn giả Xá-lợi-phất (sśāriputra) đưa vào Tăng-già từ lúc chín tuổi và mất trước Phật, có lẽ khi chưa đến 50 tuổi (khoảng năm 560 TCN). Trong Phật giáo Bắc Tông thì La Hầu La chính là một vị La hán trong Thập Bát La hán (18 vị La hán) mà ông chính là La hán Trầm Tư thường được tạc tượng với hình tượng là một vị tăng dung mạo tuấn tú, tay chống cằm suy tư.
Screenshot (50).png

Kinh Tạng A hàm có bài kinh
KINH LA-VÂN NHẪN NHỤC

Tôn giả A-nan nói:

Tôi theo Đức Phật được nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật trú tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Thu Lộ Tử cùng La-vân, vào lúc rạng sáng mặc y, mang bát vào thành khất thực. Khi ấy, có kẻ xấu từ xa trông thấy hai vị liền nghĩ: “Đệ tử bậc nhất của Sa-môn Cù-đàm cùng La-vân đi xin ăn.” Rồi khởi ý ác, lấy đất cát bỏ vào bát của Thu Lộ Tử, đánh lên đầu La-vân. Thu Lộ Tử thấy La-vân máu chảy đầy cả mặt, nên nói:

–Là đệ tử của Phật, cẩn thận chớ khởi tâm ác, nên đem tâm Từ thương xót chúng sinh. Đức Thế Tôn thường dạy: “Nhẫn là an vui nhất.” Chỉ người trí tuệ mới có thể nghe được lời dạy của Đức Phật, trọn đời không phạm. Ta tự thâu giữ tâm, lấy nhẫn làm vật báu. Tâm phóng túng làm điều ác, giống như tự gieo mình vào lửa. Tự thị cao ngạo, người ngu cho là khỏe mạnh, bất kể tai họa sẽ trở lại hại mình. Cái họa của sự buông thả tâm, nặng hơn đầu đội núi Tu-di, khi hết tuổi thọ rồi sẽ chịu tội ác, trong mười sáu phần chưa giảm một phần. Người ngu hướng đến Sa-môn trì giới thanh tịnh gây điều ác, giống như cầm đuốc đi ngược gió, cuồng ngu không bỏ ắt tự thiêu đốt thân. Kẻ xấu ôm lòng ác độc, tự cho là trí tuệ, như Tỳ-kheo chấp vào bốn đạo Sa-môn. Là đệ tử của Phật thường nên điều phục tâm mình. Điều ác phát sinh liền diệt trừ ngay, trong các sức mạnh nó là hơn hết. Thiên thần, đế vương tuy gọi là nhiều lực, nhưng không bằng nhẫn chịu điều ác, sức mạnh đó không gì hơn.

La-vân thấy máu chảy xuống cùng mặt, đến lấy nước rửa mặt tự nói: “Ta đau đây chỉ trong giây lát, nhưng nghĩ người ác kia phải chịu khổ lâu dài, ở nơi cũng ác như thế. Ta không khởi tâm tức giận, mà thương họ, nên làm gì cho họ?” Đức Phật là bậc tôn quý của ta, dạy ta đại Từ. Đối với người cuồng loạn, hung bạo, Sa-môn nên lặng thinh nhẫn chịu mới thành bậc cao đức. Đối với kẻ hung bạo thì người ngu kính sợ, còn đối với Sa-môn giữ nhẫn, người ngu lại khinh khi. Kẻ ác này ta không hề giận họ. Họ sẽ bị luân hồi vô tận, đâu chỉ có một đời mà thôi. Ta muốn đem kinh Phật chí chân để dạy bảo cho kẻ ngu tối, giống như đem kiếm bén cắt tử thi hôi thối, tử thi không biết đau, chẳng phải kiếm kia không bén mà do tử thi vô tri. Đem cam lồ của trời cho lợn kia ăn, lợn lại bỏ đi, chẳng phải cam lồ không ngon, mà do loài vật hôi hám mới không biết quý trọng. Đem lời chân chánh của Phật dạy bảo cho kẻ ngu si hung bạo ở đời cũng giống như vậy.”

Thầy trò cùng trở về, thọ thực xong, rửa bát, rửa tay, súc miệng rồi đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật. Thu Lộ Tử lui ra ngồi xuống, đem đầy đủ đầu đuôi sự việc xảy ra trình bày với Đức Phật.

Đức Thế Tôn nói:

–Ai khởi lên tâm ác là biểu lộ sự suy kém của mình. Kẻ khinh bạc kia đến nửa đêm nay sẽ qua đời, đọa vào địa ngục Vô gián, quỷ ngục làm cho đau khổ không cùng, trải qua tám vạn bốn ngàn năm thọ mạng mới hết, thần hồn lại thọ thân mãng xà, ngậm nọc độc, chất độc trở lại hại thân mình, chết rồi trở lại như trước, tiếp tục thọ thân loài rắn, thường ăn đất cát, vạn năm mới hết. Do hướng ý sân giận đến người trì giới, nên nhận chịu thân độc hại, đem đất cát bỏ vào bát, nên đời đời ăn đất cát mà chết, hết tội mới thoát khỏi, được sinh làm người, khi mẹ mang thai, thường bị bệnh nặng, trong nhà ngày càng suy hao. Đứa bé sinh ra ngu độn, không có chân tay, cha mẹ kinh sợ, dòng họ cũng vậy. Nói: “Yêu quái gì đây? Sẽ là điềm chẳng lành”, nên vứt ngay đi, liền đem đến bỏ ở ngả tư đường. Người qua lại ai thấy cũng kinh ngạc, hoặc lấy ngói đá ném, hoặc dùng dao gậy đánh lên đầu, giẫm đạp lên não, đau khổ cùng cực, trải qua mười tháng mới chết. Sau khi chết, thần hồn liền sinh trở lại cũng không tay chân, ngu độn như trước, trải qua năm trăm đời, tội nặng đó mới hết. Sau đó làm người, thường mắc bệnh đau đầu.

Đức Thế Tôn lại nói với Thu Lộ Tử:

–Người kia ở đời không những chịu vậy mà sinh đến đâu cũng không gặp Phật ở đời, lìa Pháp, xa Tăng, thường ở trong ba đường dữ, chết rồi liền sinh lại như cũ, kiếp số như trước. Nếu nhờ phước còn lại, sinh ra làm người thì bẩm tánh thường ngu, bạo ngược tùy ý, tâm vẫn ghét Thánh, hủy báng bậc chí tôn, là người xấu xa, ai cũng oán ghét, sinh ra bần cùng, chẳng được làm quan, cầu không toại nguyện, Thiên thần, Thánh hiền đều không trợ giúp, đêm thường mộng ác, thấy toàn yêu quái, gieo họa khắp nơi, chẳng chỗ nào yên, tâm luôn sợ sệt. Nguyên do vì không chế phục tâm ác, nên khiến như vậy. Người nhẫn chịu được những hành vi ác, sinh ở nơi nào cũng được yên vui, các tai họa đều tiêu diệt, cầu điều gì cũng được như ý, dung mạo sáng, thân thể khỏe mạnh, ít bệnh, giàu sang phú quý đều do sự nhẫn nhục, Từ bi cứu giúp chúng sinh mà được. Nhẫn đó là phước, bản thân, cha mẹ được yên ổn, dòng họ hòa thuận, hưng thịnh, thường được vui vẻ. Người trí càng hiểu càng kính phục tinh thần ấy. Kẻ ác là người sai lầm, phá nhà hại thân, bị phép vua giết, chết đọa vào địa ngục bị thiêu nấu, hoặc làm ngạ quỷ, hoặc làm súc sinh, đều do lỗi của tâm.

Đức Thế Tôn lại nói:

–Thà lấy kiếm bén đâm vào bụng, lột da, gieo mình trong lửa, cẩn thận chớ che đậy điều ác. Thà đội núi Tu-di, hủy bỏ thân mạng, hoặc trầm mình xuống biển cả cho cá kình nuốt, nên cẩn thận chớ làm điều ác. Không biết nghĩa này, dè dặt chớ nói dối. Sự sáng tỏ của pháp Phật cùng thế tục trái nhau, cái thế tục tôn quý thì đạo coi rẻ, trong đục khác dòng, trí ngu khác hướng, trung nịnh nghịch nhau, tà thường kỵ chánh, nên người ham muốn chẳng muốn mình tu hạnh không ham muốn. Thà nuốt viên sắt nóng, chứ không phỉ báng Tam bảo.

Nhẫn là ánh sáng hơn cả nhật, nguyệt. Sức mạnh của Long tượng có thể gọi là rất mạnh nhưng so với nhẫn thì vạn vạn lần chẳng bằng một. Vẻ sáng ngời của bảy báu được người phàm tục quý trọng, nhưng rồi sẽ chuốc lấy ưu buồn, vì đưa đến tai nạn. Nhẫn là của báu khiến cho trọn đời an vui. Bố thí khắp mười phương, tuy có phước lớn nhưng phước đó không bằng nhẫn. Tâm sẵn nhẫn nhục, hành hạnh Từ bi, đời đời không oán, trong lòng thản nhiên, chẳng điều độc hại. Đời không có chỗ nương tựa, chỉ có nhẫn mới đáng cậy nhờ. Nhẫn là là ngôi nhà an ổn, chẳng sinh ra tai nạn, yêu quái. Nhẫn là giáp thần, đao binh không núng, nhẫn là thuyền lớn vượt qua hiểm nạn, nhẫn là thuốc hay cứu mạng chúng sinh. Chí của người nhẫn cầu gì chẳng được? Nếu ước nguyện làm Phi Hành hoàng đế (Chuyển luân thánh vương) cai trị bốn thiên hạ, Đế Thích nơi cõi trời thứ hai và lên cõi trời thứ sáu, thọ mạng vô cùng, thân thể sạch thơm thì điều ước nguyện đều tự nhiên liền được thành tựu, giống như đồ vật trong nhà lấy dùng. Bốn đạo Sa-môn thanh tịnh cầu thì có thể được, do sự hướng đến của mình. Nay ta thành Phật, được chư Thiên tôn kính, một mình bước ra ba cõi là nhờ sức nhẫn mà đạt được.

Phật bảo các Sa-môn:

–Các thầy nên tụng kinh Nhẫn chớ quên, khoảnh khắc nào cũng nhớ nghĩ, hiểu biết, đọc tụng, tuyên dương, truyền bá đức Nhẫn để cứu giúp chúng sinh.

Đức Phật giảng nói kinh này rồi, các Sa-môn đều rất vui mừng đảnh lễ lui ra.(hết trích)

Kính các Bạn: La Vân Tỳ Kheo được Đức Phật chỉ định.- Trụ thế lâu dài ở thế gian, để cùng với Ngài Ma ha Ca Diếp bảo vệ Phật Pháp và điều chỉnh hạnh đầu đà. Ngài đã thêm HẠNH NHẪN NHỤC vào 10 hạnh Đầu Đà, và bớt đi 2 hạnh là 9. Mặc áo phấn tảo.10. Sống tại các bãi tha ma.Thành 9 hạnh gồm:

1. Chọn ở nơi hoang vắng.
2. Sinh hoạt bằng phép trì bình.
3. Thường ở tại một nơi.
4. Ngày ăn một bữa.
5. Khất thực không phân biệt giàu nghèo.
6. Tài sản gồm có 3 y, một bình bát.
7. Tư duy dưới gốc cây.
8. Thường ngồi giữa đồng trống.
9. Nhẫn nhục Ba la mật
 

trừng hải

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,240
Điểm tương tác
876
Điểm
113
Mô Phật

Kinh văn Hán tạng thật làm lay động lòng người, sanh tâm hướng thượng
Nam mô Nhẫn nhục Bồ tát Ma ha tát

trừng hải
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
869
Điểm tương tác
853
Điểm
93
Bài 6.- Tứ Đại Thánh Tăng Đầu Đà.

Cũng lại trong Tăng Nhất A Hàm Kinh quyển 44, đức Phật thọ ký cho 4 vị Thanh Văn rằng:

“Ngô kim niên dĩ suy hao, niên hướng bát thập dư, nhiên kim Như Lai hữu tứ đại Thanh Văn, kham nhiệm du hóa, trí tuệ vô tận, chúng đức cụ túc. Hà đẳng vi tứ ? Sở vị Đại Ca Diếp Tỳ Kheo, Quân Đồ Bát Tỳ Kheo, Tân Đầu Lô Tỳ Kheo, La Vân Tỳ Kheo. Nhữ đẳng tứ đại Thanh Văn yếu bất bát Niết Bàn, tu ngô pháp một tận, nhiên hậu nãi đương bát Niết Bàn"

nghĩa:

Năm nay ta đã suy yếu, tuổi đã hơn tám mươi, tuy nhiên nay Như Lai có bốn vị đại Thanh Văn, có thể đảm nhiệm việc du hóa, trí tuệ vô tận, các đức đầy đủ. Thế nào là bốn ? Đó là Tỳ Kheo Đại Ca Diếp, Tỳ Kheo Quân Đồ Bát, Tỳ Kheo Tân Đầu Lô, Tỳ Kheo La Vân. Các người, bốn đại Thanh Văn này chủ yếu không nhập Niết Bàn, đến khi pháp của ta diệt hết, sau đó mới nhập Niết Bàn).” (hết trích)

Trên đã kể 3 vị Đại Thánh Tăng. Đây là nói về vị thứ 4.
la han 1.jpg
* Ngài Thánh Tăng Quân đồ bát thán :
Phạm: Kundapadhaịiyaka . Cũng gọi Quân đầu bà hán. Một trong 4 vị Đại thanh văn hộ pháp ở đời.

Tên gọi này ít thấy trong kinh luận. Cứ theo kinh Xá lợi phất vấn thì khi cháu của vua A dục là Phất sa di đa la làm vua, phá hủy các chùa, tháp 500 vị La hán phải lên núi Nam sơn lánh nạn, lúc ấy Quân đồ bát thán ra đời giữ gìn kinh điển, nhờ đó mới còn truyền đến đời sau. [X.phẩm Đệ tử trong kinh Tăng nhất a hàm Q.3; kinh Di lặc hạ sinh; luận Phân biệt công đức].

(Trên đây là ý nghĩa của từ quân đồ bát thán trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp.)

Có người hiếu kỳ hỏi:

  • Thưa tôn giả, nhưng sao 800 năm nay không ai thấy hình dáng các Ngài?
  • Mười sáu vị Đại A-la-hán này cùng chư đệ tử thường tham dự pháp hội khắp các tự viện. Có điều, khi các Ngài quang lâm toàn bộ cách ăn mặc giống hệt như người thường nên hàng phàm phu mắt thịt chúng ta không biết các Ngài là Đại A-la-hán đó thôi - Nan-đề-mật-đa-la đáp.
  • Thưa Ngài, đến khi nào thì 16 vị La-hán ấy mới xa thế giới của chúng con? Mọi người khẩn thiết hỏi.
  • Mười sáu vị La-hán phải ở mãi đến khi nào thọ mạng con người sống đến 70.000 tuổi, khi Phật pháp đã hưng thịnh ở nhơn gian thì các Ngài mới ra đi. Lúc ấy, 16 vị La-hán sẽ vân tập lại một chỗ, vận thần thông dùng kim ngân, trân châu, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách các món bảo vật của thế gian kiến tạo một bảo tháp, rồi thỉnh xá-lợi của Phật an trí vào bên trong. Sau đó, cùng chúng đệ tử bay lên hư không nhiễu quanh tháp, xưng tán đức Như Lai, rải các thứ hương thơm, hoa báu cúng dường rồi thưa với đức Phật : “Bạch đức Thế Tôn! Nhiệm vụ Ngài giao, chúng con đã hoàn thành viên mãn. Bây giờ, chúng con muốn chuyển sanh đến quốc độ khác để hoằng dương Phật pháp”.

Nói xong, các Ngài dùng chơn hỏa tam muội thiêu thân giữa hư không, nhục thân cháy không còn mảy may.– Nan-đề-mật-đa-la tận tình trình bày để mọi người hiểu rõ việc lưu lại thế gian của 16 vị La-hán. (hết trích)
phapluan.vn

Kính các Bạn.

Như đã kể: Thánh Hạnh Đầu Đà. Chỉ chư Thánh Tăng mới có năng lực hành trì.
Hỏi: Thế Thánh Tăng phải có yếu tố nào ?
Đáp: Đó là Các Vị đã chứng đắc Quả A la Hán (Như 4 vị trên)
Hỏi: Quả A la Hán là thế nào ?
Đáp: A la hán là "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa".).- Gọi là Thánh Tăng.

Kính các Bạn: Vị A la hán thì "những việc cần làm đã làm" Nghĩa là các ngài không cần phải "tu" nữa. Như vậy, thì cần gì có 10 hạnh đầu đà để các ngài "tu" ! Các Ngài "phạm hạnh đã thành" Nghĩa là Các ngài đâu có giới gì cần phải giữ !

Đó là các Bậc: Phật dạy "Ngô Pháp, niệm vô niệm niệm, hành vô hành hành, ngôn vô ngôn ngôn, tu vô tu tu. Hội giả cận nhĩ, mê giả viễn hồ. Ngôn ngữ đạo đoạn, phi vật sở câu, sai chi hào ly, thất chi tu du."

Dịch Nghĩa:

Đức Phật dạy: " Pháp của Ta, nghĩ mà không nghĩ; làm mà không làm; nói mà không nói; tu mà không tu. Kẻ biết thì gần, người mê thì xa; đường ngôn ngữ đứt hết, chẳng bị vật gì ràng buộc; sai đi một ly ắt mất trong khoảnh khắc."
(Tứ Thập Nhị Chương Kinh)

Kính các Bạn . Có thể nói tóm lại: Thánh Hạnh Đầu Đà. Chỉ chư Thánh Tăng mới có năng lực hành trì. Hàng phàm phu chúng ta. Không thể nghĩ bàn. Không thể Phạm Thượng.

Phàm phu Chúng ta chỉ có thể tập tu theo các Hạnh Đầu Đà thấp hơn. Đó là THIÊN HẠNH ĐẦU ĐÀ, và PHẠM HẠNH ĐẦU ĐÀ.

Thế nào là THIÊN HẠNH ĐẦU ĐÀ ?
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
869
Điểm tương tác
853
Điểm
93
Bài 7.- 1b). 13 Thiên Hạnh có gì khác với 13 Phạm Hạnh Đầu Đà ?

Thiên Hạnh và Phạm Hạnh đều có đủ 13 Hạnh Đầu Đà. Chỉ khác về Nhân và Quả.

Gồm 13 hạnh:

1. Chọn ở nơi hoang vắng.
2. Không ở lâu một nơi.
3. Ngày ăn một bữa.
4. Khất thực không phân biệt giàu nghèo.
5. Tài sản gồm có 3 y, một bình bát.
6. Tư duy dưới gốc cây.


7/Tỳ khưu phải luôn luôn ở trong rừng. (Chống lại việc nhận lãnh tịnh cốc, hay trú sở, do tín đồ phát tâm dâng cúng.
8/Tỳ khưu chi nhận thức ăn- không nhận tiền bạc. (Chống lại việc nhận lời dùng bữa tại nhà thí chủ hảo tâm).
9/Tỳ khưu phải luôn luôn mặc y phục, do mình lượm vải dơ, bỏ trong nghĩa địa hay các bãi tha ma, đem về giặt sạch và khâu lấy, tiếng Phạn (hay Pàlì) gọi là Pansukulacìvara, nay gọi là y phấn tảo, y bá nạp (Chống lại việc nhận tam y, do tín đồ có thiện tâm dâng hiến).
10/Tỳ khưu phải luôn luôn ngụ dưới bóng cây, gò mã. bãi tha ma (ngày nay là Chống lại việc có chùa to tượng lớn).
11/Tỳ khưu phải luôn luôn cữ ăn cá và thịt. (Chống lại việc đi khất thực, người ta cho cái gì không có sinh mạng, thì ăn cái ấy).
12/ Chỉ đi bộ
13/ Chỉ ngũ ngồi.

* Ở bài này, chúng ta sẽ lượt qua 6 điều Khổ hạnh phía trước và khảo sát từ điều thứ 7 đến thứ 13 của Thiên Hạnh Đầu Đà.

Hạnh Đầu Đà Chu-th10


Lưu Ý chúng ta cần nhận thức kỷ - phân biệt rõ:

* Các hạnh lành, như: Thiền định, bố thí, nhẫn nhục v.v...cho chí đến 13 khổ hạnh Đầu Đà.- Nếu không hướng đến Phật quả.- Thì chỉ là Thiên Hạnh.

* Cũng các Hạnh trên: Thiền định, bố thí, nhẫn nhục v.v...cho chí đến 13 khổ hạnh Đầu Đà.- Nếu quy y Tam Bảo, phát Bồ Đề Tâm.- Thì đó là Phạm Hạnh. Khi Phạm Hạnh đã thành, thì chứng Thánh Quả, cho đến Phật quả (vì được Dự Lưu).

* 13 Thiên Hạnh Đầu Đà .- Về "Nhân" Không cần 3 ngôi Tam Bảo, Hành Giả Thiên Hạnh Đầu Đà không cần làm tu sĩ. Nên "Quả" (làm thiện) được sanh Thiên.

* Khác với 13 Phạm Hạnh Đầu Đà (là bước đệm để lên Thánh Hạnh Đầu Đà) "Nhân" do Tăng Đoàn PG chủ trương.- có Giới luật, có phương thức đúng lời Phật dạy, nên "Quả" là Đắc Thánh Quả -nhà Phật-, được Niết Bàn -Phật - (Sẽ nói sau)
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
869
Điểm tương tác
853
Điểm
93
Bài 8.- Khổ Hạnh của Đề Bà Đạt Đa.(Thiên Hạnh Đầu Đà).

K. Pháp Hoa.- Phẩm Đề Bà Đạt Đa thứ 12:
Kinh văn:
" Phật bảo hàng tứ chúng : "Qua vô lượng kiếp về sau, ông Đề-Bà-Đạt-Đa sẽ được thành Phật hiệu là Thiên-Vương Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn. Cõi nước đó tên là Thiên-Đạo, lúc Thiên-Vương Phật trụ ở đời hai mươi trung kiếp, rộng vì các chúng sanh mà nói pháp mầu, hằng-hà-sa chúng sanh được quả A-la-hán, vô lượng chúng sanh phát tâm Duyên-giác, hằng-hà-sa chúng sanh phát tâm vô thượng đạo, được vô-sanh-nhẫn đến bậc Bất-thối-chuyển."(hết trích)

Thưa Các Bạn.- Đề Bà Đạt Đa chính là Thiên Vương. Nên VQ gọi 13 khổ hạnh Đầu Đà do ngài đề bạt gọi là Thiên Hạnh Đầu Đà.- Qua truyện tích sau (Giác ngộ online)

Devadatta, phiên âm Hán Việt quen thuộc ở nước ta là Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) vốn là anh em họ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, từng gia nhập Tăng đoàn thời Đức Thế Tôn tại thế.

Sau khi trực tiếp yêu cầu Đức Phật giao phó Tăng đoàn cho mình lãnh đạo không thành, ông đã mượn thế lực của vua A-xà-thế để thực hiện âm mưu ám hại Đức Phật bằng cách cử sát thủ đến, thả voi say, lăn đá từ sườn núi… Nhưng những sát thủ hay những chú voi đều được Đức Phật cảm hóa hoặc run sợ trước uy nghi của Ngài, trở thành vô hại, chỉ có hòn đá lăn làm Ngài bị tổn thương nhẹ.

Devadatta sau đó lập nhóm riêng và đề ra những nguyên tắc “khổ hạnh”, thường được nhắc đến như biểu tượng chỉ cho những người giới hạnh không nghiêm, gây chia rẽ hay nghi kỵ trong Tăng đoàn và trong quần chúng....

Hãy nhớ Devadatta xuất gia chân chánh, nhưng chưa chứng đắc các thánh quả, nên tâm ông chưa thuần tịnh. Mỗi khi tâm đưa được điều phục cho thuần tịnh thì vẫn còn có thể bị danh, lợi, quyền thế chi phối và che lấp tâm trong sáng ban đầu. Vì tham vọng lãnh đạo mà ông đánh mất lý tưởng xuất gia chân chánh của mình.

Ở một góc độ khác, chúng ta có thể nói rằng Phật tái sinh nơi nào thì Devadatta tái sinh nơi ấy. Nhưng đừng vì thế mà hoảng hốt, lo lắng. Bởi như Đức Phật từng dạy: “Chính vì Ta thường gặp Devadatta nên chóng chứng đạo Bồ-đề”. Cũng như bóng tối làm ánh sáng thêm nổi bật, Devadatta chính là mặt tối trong mỗi người chúng ta.

Trở lại câu chuyện Devadatta, Đức Phật chẳng xử phạt gì. Ngài chỉ nói với Tăng chúng là Devadatta không còn là thành viên của Tăng đoàn nữa. Vì sao? Với tuệ giác, Đức Phật nhìn thấy ông trong nhiều kiếp, nhiều đời, nhìn thấy Phật tính và khả năng thành Phật của ông.

Chuyện xưa kể rằng khi Devadatta gần chết, một nỗi hối tiếc không ngừng giày vò tâm tư ông. Ông bước về hướng tịnh xá Kỳ Viên để xin Phật tha lỗi, nhưng chân ông bỗng dính chặt vào mặt đất, ngã quỵ, và lửa địa ngục đã phụt ra, phủ lên linh hồn lẫn thể xác của ông. Sau khi nghe kể lại về cái chết ấy, Đức Phật nói “Mặc dù Devadatta có nhiều hành động xấu, nhưng những phạm hạnh ông thực hiện trong thời gian đầu làm Tỳ-kheo, dưới sự hướng dẫn của Như Lai, vẫn trổ quả tốt trong tương lai”.

Nghĩa là khả tính thành Phật trong Devadatta vẫn còn. Cũng như Phật tính trong lòng chúng ta ai cũng có, chỉ vì vô minh và tham dục che lấp mà chúng ta không nhận ra được mà thôi. Phật biết Devadatta trong vô lượng kiếp, cụ thể trong 60 kiếp, không đọa ba đường ác nữa, đi đến trong cõi trời người, sau được thân người, cắt tóc râu đi tu, mặc ba pháp y, sau thành một vị Bích-chi Phật...”.

Việc Devadatta được thọ ký thành Phật cho chúng ta thấy rằng, không có gì mà không cải thiện được. Vạn vật luôn luôn vô thường. Trở thành giác ngộ giải thoát, hay trở thành sa đọa trầm luân, đều do chính ta. Đức Phật đã nhiều lần nhắc nhở, “Ta là nơi nương nhờ của ta”(Attàhi attano nàtho), hay ta là đấng cứu tinh của chính ta, và làm gương cho người khác. Câu chuyện của Devadatta có thể cho những ai, dù nhất thời phạm tội, vẫn còn một hy vọng, rằng khi đã biết quay về nẻo chánh là có lối thoát!

Hãy đón nhận Devadatta

Hãy xem Devadatta là người người bạn tốt vì như tinh thần mà luận Bảo vương Tam muội đề cập, “Hãy lấy ma quân làm đạo bạn; lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ; lấy người chống đối làm bạn giao du”, huống hồ Devadatta là người từng xuất gia. Trong kinh ghi “Do người bạn tốt Devadatta mà làm cho Như Lai hoàn bị sáu pháp ba-la-mật, bốn tâm vô hạn, ba mươi hai tướng quý, tám mươi vẻ đẹp, thân màu hoàng kim, mười đại năng lực, bốn sự không sợ, bốn sự nhiếp hóa, mười tám sự đặc biệt, sức mạnh thần thông, sức mạnh tuệ giác, trở thành Bậc Biết khắp và đúng, hóa độ sâu rộng các loại chúng sinh, toàn là do người bạn tốt Đề-bà-đạt-đa (Kinh Pháp hoa, bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Quang). Nghĩa là nhờ Devadatta mà Phật thành Phật và Devadatta cũng sẽ thành Phật. Vì Devadatta luôn có mặt bên ta, trong ta, như một thử thách, một chướng ngại phải vượt qua, khiến người tu hành chân chánh thêm dũng mãnh, tinh tấn.


Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) vẫn không ngừng tay, lần thứ ba ông phục rượu một con voi nổi tiếng hung dử, tên là Nàlàgiri, để thả ra trên đường đi của Phật. Nhưng đức Phật với tinh thần an trụ, thanh tịnh, Ngài đã rải tâm từ bi đến con vật cuồng loạn, làm cho nó tỉnh táo, rồi ngoan ngoản quì xuống trước mặt Ngài, như sám hối….


Qua ba lần thất bại trước mắt dân chúng, và vì không chiu nổi cảnh thầy trò đức Phật Cồ-Đàm vẫn bình yên. Sau cùng Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) phải đổi phương pháp. Ông quay qua nghĩ cách làm giảm giá trị hạnh tu theo Phật, gây lung lay niềm tin của những đệ tử, hầu chia rẽ cộng đồng tăng chúng, bằng cách chế ra 5 điều luật, và công khai đề nghị Phật phê chuẩn. Đó là các điều khổ hạnh đầu đà:

1/Tỳ khưu phải luôn luôn ở trong rừng. (Chống lại việc nhận lãnh tịnh cốc, hay trú sở, do tín đồ phát tâm dâng cúng. ).

2/Tỳ khưu phải luôn luôn khất thực mà ăn. (Chống lại việc nhận lời dùng bữa tại nhà thí chủ hảo tâm).

3/Tỳ khưu phải luôn luôn mặc y phục, do mình lượm vải dơ, bỏ trong nghĩa địa hay các bãi tha ma, đem về giặt sạch và khâu lấy, tiếng Phạn (hay Pàlì) gọi là Pansukulacìvara, nay gọi là y phấn tảo, y bá nạp (Chống lại việc nhận tam y, do tín đồ có thiện tâm dâng hiến).

4/Tỳ khưu phải luôn luôn ngụ dưới bóng cây, gò mã. (Chống lại việc có chùa to tượng lớn).

5/Tỳ khưu phải luôn luôn cữ ăn cá và thịt. (Chống lại việc đi khất thực, người ta cho cái gì không có sinh mạng, thì ăn cái ấy).

6/. Chỉ đi bộ.

7/. Chỉ ngũ ngồi.

Đức Phật với lòng từ bi, nhận thấy 7 đề nghị kể trên sẽ chỉ gây ra sự khắc khổ không cần thiết, đối với tăng chúng, nhất là những đệ tử mới tập tu, chứ 7 điều ấy không gia tăng trình độ tu tập, tiến tới giác ngộ giải thoát, nên Ngài đã từ chối.

Thay vào đó, Phật cũng dạy rằng, “Sa-môn nào tình nguyện khổ hạnh, có thể dùng những điều ấy, nhưng luật tỳ khưu không bắt buộc”.

Cái nhìn của đức Phật là cái nhìn vì lợi ích và tiến hóa cho toàn thể chúng sanh, nhất là nhân loại, chứ cái nhìn ấy không nhắm vào thuận duyên cho một thiểu số. Đó quả thật là một cái nhìn rất công chính và thanh tịnh. Ngài không hoàn toàn phủ nhận những gì Đề Bà Đạt Đa đề nghị. Ngài chỉ xem nó như 5 trong số các pháp tu “đầu đà” (Dhutanga), mà Ngài đã từng chấp nhận trong Phật giáo.

Vì Đề Bà Đạt Đa mà sau đó có sự bất đồng tư duy trong hàng ngũ tu Phật. Một thiểu số tỳ khưu đã nghĩ rằng, “Muốn mau đắc thánh quả, thì phải khổ hạnh”. Rồi họ rời Phật, kéo nhau theo Đề-Bà-Đạt-Đa, để thành lập giáo đoàn riêng….

Nhưng khi Đề Bà Đạt Đa thành công trong việc chia rẽ tăng già, thì thần thông do đắc thiền của ông tự nhiên biến mất. Dù ông cố gắng đến mấy, cũng không đạt lại được.- (lượt trích)

Có thể nói Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) là biểu tượng cho việc chia rẽ Tăng chúng, qua thủ đoạn lập giáo đoàn mới, với các điều luật khổ hạnh mới. Cuối cùng kẻ chống Phật, hoại Tăng này đã bị đất rút và sa vào địa ngục.

Hạnh Đầu Đà Debada10


Thiên hạnh mà lệch hướng thì thành tà hạnh là thế (Dĩ nhiên, nếu có thiện tâm vẫn có thiện quả). Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Nếu quên mất Tâm Bồ Đề mà tu hành các thiện pháp, đó là nghiệp ma”.
 
Last edited:

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
28/7/16
Bài viết
1,837
Điểm tương tác
904
Điểm
113
Kính Thầy và các đạo hữu,

Kinh Tăng Nhất A- Hàm Tập 1, số 12. Phẩm Nhập Đạo, Nxb Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh, năm 2011, Tr.157-160. Tiểu Tạng Thanh Văn - Dịch Việt: Thích Đức Thắng - Hiệu Chính Và Chú Thích: Tuệ Sỹ, ghi như sau:

Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

1. “Ai tán thán a-lan-nhã tức là đã tán thán Ta. Vì sao vậy? Vì hiện tại lúc nào Ta cũng tự tán thán hạnh a-lan-nhã. Ai bài báng a-lan-nhã tức là đã bài báng Ta.

2. “Ai tán thán khất thực tức là đã tán thán Ta. Vì sao vậy? Vì lúc nào Ta cũng tán thán người hay khất thực. Ai hủy báng khất thực tức là đã hủy báng Ta.

3. “Ai tán thán người ngồi một mình tức là đã tán thán Ta. Vì sao vậy? Vì Ta thường tán thán người hay ngồi một mình. Ai hủy báng người ngồi một mình tức là đã hủy báng Ta.

4. “Ai tán thán người một lần ngồi một lần ăn tức là đã tán thán Ta. Vì sao vậy? Vì Ta thường tán thán người một lần ngồi một lần ăn. Ai hủy báng người một lần ngồi một lần ăn tức là đã hủy báng Ta.

5. “Ai tán thán người ngồi dưới gốc cây, tức là đã tán thán thân Ta không khác. Vì sao vậy? Vì Ta thường tán thán người ngồi dưới bóng cây. Ai hủy báng người ngồi dưới bóng cây, tức là đã hủy báng Ta.

6. “Ai tán thán người ngồi ngoài trời tức là đã tán thán Ta. Vì sao vậy? Vì Ta thường tán thán người ngồi ngoài trời. Ai hủy nhục người ngồi ngoài trời, tức là đã hủy nhục Ta.

7. “Ai tán thán người ở nơi trống vắng, tức là đã tán thán Ta. Vì sao vậy? Vì Ta thường tán thán người ở nơi trống vắng. Ai hủy nhục người ở nơi trống vắng, tức là đã hủy nhục Ta.

8. “Ai tán thán người khoác y năm mảnh, tức là đã tán thán Ta. Vì sao vậy? Vì Ta thường tán thán người khoác y năm mảnh. Ai hủy nhục người khoác y năm mảnh tức là đã hủy nhục Ta.

9. “Ai tán thán người trì ba y tức là đã tán thán Ta. Vì sao vậy? Vì lúc nào Ta cũng tán thán người trì ba y. Ai hủy nhục người trì ba y tức là đã hủy nhục Ta.

10. “Ai tán thán người ngồi nơi gò mả tức là đã tán thán Ta. Vì sao vậy? Vì Ta thường tán thán người ngồi nơi gò mả. Ai hủy nhục người ngồi nơi gò mả tức là đã hủy nhục Ta.

11. “Ai tán thán người ăn bằng một bát tức là đã tán thán Ta. Vì sao vậy? Vì Ta thường tán thán người ăn bằng một bát. Ai hủy nhục người ăn một lần tức là đã hủy nhục Ta.

12. “Ai tán thán người ăn đúng giữa ngày, tức là đã tán thán thân Ta. Vì sao vậy? Vì Ta thường tán thán người ăn đúng giữa ngày. Ai hủy nhục người ăn đúng giữa ngày, tức là đã hủy nhục Ta.

Ai tán thán hạnh đầu đà tức là đã tán thán Ta. Vì sao vậy? Vì Ta thường tán thán các hạnh đầu đà. Ai hủy nhục hạnh đầu đà, tức là đã hủy nhục Ta.

Nay Ta dạy các Tỳ-kheo nên như sở hành của đại Ca-diếp, không để có điều rơi rớt mất.

Vì sao vậy? Vì Tỳ-kheo Ca-diếp có các hạnh này. Cho nên sở học của các Tỳ-kheo thường nên như Ca-diếp. Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA đã viết:
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản 1988 - PL 2530

PHẨM "ĐỀ-BÀ-ĐẠT-ĐA" THỨ MƯỜI HAI

1. Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các vị Bồ-Tát và hàng trời, người, bốn chúng : "Ta ở trong vô lượng kiếp về thời quá khứ cầu kinh Pháp-hoa không có lười mỏi. Trong nhiều kiếp thường làm vị Quốc-vương phát nguyện cầu đạo vô thượng Bồ-đề, lòng không thối chuyển. Vì muốn đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật nên siêng làm việc bố thí lòng không lẫn tiếc, bố thí voi, ngựa, bảy báu, nước thành, vợ, con, tôi tớ, bạn bè, cho đến đầu, mắt, tủy, óc, thân, thịt, tay, chân, chẳng tiếc thân mạng.

Thuở đó, nhân dân trong đời sống lâu vô lượng, vua vì mến pháp nên thôi bỏ ngôi vua, giao việc trị nước cho Thái-tử. Đánh trống ra lệnh cầu pháp khắp bốn phương: "Ai có thể vì ta nói pháp Đại-thừa, thời ta sẽ trọn đời cung cấp hầu hạ."

Khi ấy có vị tiên nhơn đến thưa cùng vua rằng: "Ta có pháp Đại-thừa tên là kinh "Diệu-Pháp Liên-Hoa", nếu Đại-vương không trái ý ta, ta sẽ vì Đại-vương mà tuyên nói."

Vua nghe lời vị tiên nhơn nói, vui mừng hớn-hở, liền đi theo vị tiên nhơn để cung cấp việc cần dùng: hoặc hái trái, gánh nước, hoặc lượm củi, nấu ăn cho đến dùng thân mình làm giường ghế, thân tâm không biết mỏi. Thuở đó theo phụng thờ vị tiên nhơn trải qua một nghìn năm, vì trọng pháp nên siêng năng cung cấp hầu hạ cho tiên nhơn không thiếu thốn.

Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
2. Ta nhớ kiếp quá khứ

Vì cầu pháp Đại-thừa

Dầu làm vị Quốc vương

Chẳng ham vui ngũ dục

Đánh chuông rao bốn phương

Ai có pháp Đại-thừa

Nếu vì ta giải nói

Thân sẽ làm tôi tớ.

Giờ có tiên Trường-Thọ

Đến thưa cùng Đại-vương

Ta có pháp nhiệm mầu

Trong đời ít có được

Nếu có thể tu hành

Ta sẽ vì ông nói.

Khi vua nghe tiên nói

Sanh lòng rất vui đẹp

Liền đi theo tiên nhơn

Cung cấp đồ cần dùng

Lượm củi và rau trái

Theo lời cung kính dâng

Lòng ham pháp Đại-thừa

Thân tâm không lười mỏi,

Khắp vì các chúng sanh

Siêng cầu pháp mầu lớn

Cũng không vì thân mình

Cùng với vui ngũ dục

Nên dầu làm vua lớn

Siêng cầu được pháp này

Do đó được thành Phật

Nay vẫn vì ông nói.
3. Phật bảo các Tỳ-kheo rằng: "Thuở ấy, vua đó thời chính thân ta, còn tiên nhơn đó nay chính là ông Đề-Bà-Đạt-Đa. Do nhờ ông thiện-tri-thức Đề-Bà-Đạt-Đa làm cho ta đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, từ-bi hỷ-xả, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi món đẹp, thân sắc vàng tía, mười trí lực, bốn món vô-sở-úy, bốn món nhiếp pháp, mười tám món bất cộng, thần thông đạo lực, thành bậc chánh-đẳng chánh-giác rộng độ chúng sanh, tất cả công đức đó đều là nhân thiện-tri-thức Đề-Bà-Đạt-Đa cả.
4. Phật bảo hàng tứ chúng : "Qua vô lượng kiếp về sau, ông Đề-Bà-Đạt-Đa sẽ được thành Phật hiệu là Thiên-Vương Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn. Cõi nước đó tên là Thiên-Đạo, lúc Thiên-Vương Phật trụ ở đời hai mươi trung kiếp, rộng vì các chúng sanh mà nói pháp mầu, hằng-hà-sa chúng sanh được quả A-la-hán, vô lượng chúng sanh phát tâm Duyên-giác, hằng-hà-sa chúng sanh phát tâm vô thượng đạo, được vô-sanh-nhẫn đến bậc Bất-thối-chuyển.

Sau khi đức Thiên-Vương Phật nhập Niết-bàn, chánh-pháp trụ lại đời hai mươi trung kiếp, toàn thân xá-lợi dựng tháp bằng bảy báu, cao sáu mươi do-tuần. Các hàng trời nhân dân đều đem hoa đẹp, hương bột, hương xoa, hương đốt, y phục, chuỗi ngọc, tràng phan, lọng báu, kỹ nhạc, ca tụng để lễ lạy cúng dường tháp đẹp bằng bảy báu đó. Vô lượng chúng sanh được quả A-la-hán, vô lượng chúng sanh ngộ Bích-chi Phật, bất-khả tư-nghì chúng sanh phát tâm Bồ-đề đến bậc Bất thối chuyển.

Mến kính,
Ba Tuần.
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
869
Điểm tương tác
853
Điểm
93
VQ cung kính đảnh lễ Chư Thánh Tăng, Chư Hành Giả Phạm Hạnh Đầu Đà.
Mô Phật.
**************************

Bài 9. Một số Khổ Hạnh.- Hạnh ngũ ngồi (ở Phạm Hạnh).

Đàn kinh- phẩm 8 Đốn Tiệm, có pháp thoại sau:

Chí Thành vâng mệnh đến Tào Khê, theo chúng tham thỉnh, không nói từ đâu đến. Khi ấy Lục Tổ bảo chúng rằng: “Ngày nay có người trộm pháp đang ẩn trong hội này.” Chí Thành liền ra lễ bái và thưa đầy đủ việc của ông. Tổ bảo: “Ông từ Ngọc Tuyền lại nên là kẻ do thám.”

Chí Thành đáp: “Không phải.”Tổ hỏi: “Sao được không phải ?”

Chí Thành thưa: “Chưa nói là phải, đã thưa rồi là không phải.”

Tổ bảo: “Thầy ông dùng cái gì chỉ dạy chúng ?”

Chí Thành thưa: “Thường chỉ dạy Đại chúng trụ tâm quán tịnh, thường ngồi chẳng nằm.”

Tổ bảo: “Trụ tâm quán tịnh là bệnh chứ không phải thiền, thường ngồi là câu chấp nơi thân, đối với lý có lợi ích gì.

Hãy lắng nghe bài kệ của tôi đây:

Khi sống ngồi không nằm,
Khi chết nằm không ngồi,
Vốn là đầu xương thúi,
Vì sao lập công khóa.”
(Sanh lai tọa bất ngọa,
Tử khứ ngọa bất tọa,
Nguyên thị xú cốt đầu,
Hà vi lập công khóa.)

Chí Thành lại lễ bái thưa rằng: “Đệ tử ở chỗ Đại sư Thần Tú, học đạo chín năm mà không được khế ngộ. Ngày nay nghe Hòa thượng nói một bài kệ liền khế ngộ được bản tâm. Sanh tử là việc lớn, đệ tử xin Hòa thượng vì lòng đại bi chỉ dạy thêm.”.(hết trích)

Kính các Bạn: Khổ Hạnh là tự nguyện, Đức Phật không khuyến khích cũng không ngăn cấm.- Do vậy Ngài Ma ha ca diếp tuân thủ giới luật đệ nhất, mà ngài vẫn tự ý lượt bớt hạnh tuần tự khất thực- một trong các hạnh đầu đà (mà vẫn không phạm luật). Ở luật tạng có dạy đủ 4 oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi bình đẳng như nhau.-

Cũng có nhiều Sư hệ Khất Sĩ vẫn tu phép ngũ ngồi. Nhưng đặc biệt phép tu của Phạm Hạnh Tăng Đoàn Khất sĩ đều có Giáo Hội Khất Sĩ kiển tra đôn đốc, không để cho lệch hướng, nhằm ngăn ngừa đi vào ma đạo.(Đó là hạnh ngũ ngồi thuộc Phạm Hạnh - có Thầy chỉ dạy, có kiểm soát pháp Hành, mà không phải là Thiên Hạnh).


Hạnh Đầu Đà Ngo_ng10
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
869
Điểm tương tác
853
Điểm
93
Bài 10.- Hạnh ngũ ngồi của bộ tộc Đan Lai .

Đan Lai là tộc người thiểu số chỉ có duy nhất tại tỉnh Nghệ An, tách biệt thế giới bên ngoài. Một điều mà ai đến nơi đây cũng thấy kỳ lạ là người Đan Lai không có giường vì cả bộ tộc đều... ngủ ngồi.....
Theo ông Hồng, từ xưa các vị già làng đã kể rằng người Đan Lai không phải gốc gác ở đây.....ông Hồng kể.

Khi ngủ ngồi họ có thể gục mặt xuống đầu gối hoặc có thể dùng một hoặc hai chiếc gậy, nắm tay trên đầu gậy và gục mặt xuống ngủ. Trước mặt luôn là đống lửa vừa để sưởi ấm vừa soi rọi ánh sáng. Cũng từ những đêm ngồi mải miết bên đống lửa, những người thuộc bộ tộc Đan Lai còn sáng chế ra một bài cúng dành cho tổ tiên của mình với tên “Xin Lộ Ma Nha” - nghĩa là an nghỉ muôn đời.

Bài cúng có đoạn: “Hỡi những âm hồn xấu xa của tên bạo chúa đừng bao giờ đến bên linh hồn ông cha ta/ Góc rừng và những bước chân trên mảnh đất này sẽ bám lại mãi không thôi/ Hỡi dấu chân nai, đi gieo hạt lúa/ Theo dấu chân hổ, đi trồng hạt ngô/ Lang thang đầu suối, bâng khuâng lưng đèo/ Sống đời nghèo khổ/ Như dòng suối nhỏ/ Như gió rừng chiều/ Như những giấc mơ/ Người về bến đổ, suối reo hát ca/ Hỡi những cánh chim hãy về làm bạn…”.

Theo ông Hồng, trước đây hễ nghe tiếng động của con thú là tháo chạy thoát thân. Do quá sợ, có người còn trèo lên ngủ trên cành cây. Dần dần, hình thức đó ăn sâu vào tâm trí của người dân nên dù có dựng nhà gỗ to thì mọi người vẫn ngủ như vậy. Cho đến gần đây, người dân Đan Lai mới thay đổi tập tục này. “Giờ thì nhà nào cũng có giường, chiếu, chăn màn như đồng bào các dân tộc khác. Riêng nhà tôi có đến 2 cái giường bằng gỗ”, ông Hồng hào hứng khoe.
(lượt trích. www.nguoiduatin.vn)

Hạnh Đầu Đà Ngo_ng11


* Liên quan đến hạnh ngũ ngồi. Ở Đạo Cao Đài có tục Ngũ trong giấc ngũ "Vĩnh hằng".- Gọi là Tọa Táng.

Hạnh Đầu Đà Screen19

  • Lại cũng có phép ngũ (chết) đứng:
  • Tại khu lăng mộ của ông đạo Dừa, chúng tôi gặp hai ông đạo là Nguyễn Thành Hải (76 tuổi) và Võ Đức Lâm (75 tuổi). Có lẽ, đây là những thế hệ cuối cùng từng “kề vai sát cánh” bên ông đạo Dừa những năm tháng cuối đời. Ông Hải là em ruột nhưng cùng cha khác mẹ với ông đạo Dừa. Ông Lâm là đệ tử thân tín, kiêm tài xế lái xe của ông đạo Dừa trong những năm tháng xuôi ngược Sài Gòn đi vận động hòa bình. Từ ngày ông đạo Dừa mất, hai ông đã bỏ gia đình về khu lăng mộ tá túc để ngày ngày hương khói.

Chúng tôi được ông Lâm dẫn đi thăm quan toàn khu lăng mộ, ông giới thiệu những “tổ hợp kiến trúc” vô cùng lạ mang đậm cá tính của ông đạo Dừa lúc sinh thời. Ông Lâm dẫn tôi đến một chiếc tháp nhỏ, ba cạnh dựng đứng, bên trong có họa tiết màu sắc sặc sỡ, bên ngoài ốp kính và có khóa xiết lại. Ông Lâm thắp nén hương khấn vái xong thì giới thiệu: “Đây là nơi cất giữ nhục thân của cậu Hai, ngài được táng đứng, tôi đảm bảo suốt 24 năm qua vẫn còn nguyên vẹn”.

Ông Lâm bảo, trước khi chết ông đạo Dừa tiên tri được thời khắc định mệnh của bản thân. Đó là vào năm 1988, ông đã lệnh cho các đệ tử của mình xây khu lăng mộ, dành cho ông một tủ kính, 2 năm sau ông sẽ chết. Năm 1990, lời tiên tri ứng nghiệm, ông tạ thế thật, đệ tử khắp nơi về đưa tiễn và liệm ông vào hòm. Bên trong hòm không hề bỏ thứ chất ướp nào, những đệ tử nhiều ngày sau chầu để cầu nguyện nhưng vẫn không hề thấy xác ông phân hủy, không bốc mùi, từ đó đến nay vẫn tinh tươm như thế. Nhiều người tin rằng, điều lạ lùng này là do lối tu dị thường của ông đạo Dừa lúc sinh thời, nên khi sang thế giới bên kia cũng không tuân thủ theo quy luật sinh học tự nhiên. Tuy nhiên, đó chỉ là phỏng đoán, chưa cơ quan, đơn vị chức năng nào có một nghiên cứu để có kết luận chính xác. Và đến nay, điều này vẫn là điều kỳ lạ chưa có lời giải.(lượt trích)

Dạ trên đây là một số phép ngũ hoặc chết ngồi, chết đứng của nhiều vị Tiên Nhân (Thiên Hạnh). Vâng ! Rất đáng kinh ngạc, rất đáng kính. Nhưng chí nguyện của người đệ tử Phật. Thì "kính nhi viễn chi".- Đạo bất đồng, bất tương vi mưu- Ý là những người không cùng con đường, không cùng chí hướng thì không thể cùng nhau mưu tính sự nghiệp được, miễn cưỡng thì sự cũng không thành, thậm chí còn đem đến thương tổn cho nhau.

* Hạnh ngũ ngồi của Phạm Hạnh, thì:

Có câu chuyện người anh trong 2 anh em vốn là 2 trưởng lão ở tu viện Cetiyapabbata, để biết thế nào là thiểu dục trong đầu đà hành đạo. Vị này theo khổ hạnh ngủ ngồi một mình mình biết. Một đêm kia, nhơn một làn chớp lóe, người em trông thấy ngài đang ngồi thẳng trên giường và hỏi: "Bạch đại đức, thế ra ngài theo khổ hạnh ngủ ngồi à?" Vì thiểu dục, không muốn để ai biết khổ hạnh của mình, vị ấy bèn nằm xuống (Vô ngại giải đạo 77). Ðiều này áp dụng cho mọi khổ hạnh.
http://phatgiaohue.vn/Tu-lieu/Luan-dien/tid/Hanh-Ðau-da-cua-con-duong-thanh-tinh.html/pid/5587/cid/15
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
869
Điểm tương tác
853
Điểm
93
Bài 11. Ngồi Ngũ hay nằm Ngũ mà được đắc đạo ?

Theo Phật giáo, nằm là một hình thức sinh hoạt mà chúng ta có thể thông qua để tu tập hàng ngày. Nằm đúng oai nghi cũng là một cách tu, tịnh thân thì mới thanh tâm. Tịnh thân là đáng quý, thanh tâm còn đáng quý hơn vì sự khỏe mạnh trong tinh thần sẽ nâng đỡ ta khỏi mọi thiếu thốn, khổ sở và bế tắc.

Tuy nhiên, không phải ai cũng ý thức được rằng cách nằm của mình có liên hệ rất nhiều đến sự an ổn thâm tâm và sức khỏe. Có nhiều người nằm theo thói quen, thích sao thì nằm vậy hoặc nằm xoay trở với nhiều tư thế khác nhau. Những tư thế ngủ không đúng có thể gây ra nhiều phiền phức, ngủ không ngon, tinh thần uể oải, hay nằm mơ ác mộng. Ngủ mà nằm sấp thì dễ dàng sinh sân hận cùng phiền não, ngủ mà nằm ngửa thì sinh lòng tham gây phiền não.
Nằm nghiêng bên phải, hai chân gác lên nhau như sư tử là tư thế hội đủ oai nghi. Đây là tư thế nằm cát tường, tạo ra sự yên lành, an ổn cho thân thể và nhất là tâm luôn đạt được sự giác tỉnh.

4 cách nằm và tư thế ngủ cát tường của Đức Phật

Sau đây là 4 cách nằm theo tuệ giác của Thế Tôn, phản ánh tâm trạng và ảnh hưởng sâu sắc đến sự thanh tịnh trong thâm tâm người nằm. Chuyện kể rằng, một thời trú ở Kosambi, tại khu vườn Ghosita, Thế Tôn dạy các Tỳ kheo có 4 cách nằm. Đó là cách nằm của ngạ quỷ, cách nằm của kẻ hưởng thọ dục vọng, cách nằm của sư tử và cách nằm của Như Lai.

Cách nằm của ngạ quỷ là nằm ngửa. Phần lớn các ngạ quỷ nằm ngửa, thể hiện nỗi khát khao, bị khổ đau dằn vặt. Vì thế, nằm ngửa khó nhiếp phục tâm khát ái, vọng tưởng hơn các tư thế khác. Ngoài ra, nằm ngửa sẽ tạo ra sự hớ hênh, nhất là lúc ngủ say có thể đánh mất oai nghi.
Phần lớn các người hưởng thọ các dục vọng nằm nghiêng phía bên trái. Mặt khác, nằm nghiêng bên trái cũng ảnh hưởng không tốt đến hệ tuần hoàn. Vì thế, người tu thường không nằm theo hai tư thế này.

Nằm nghiêng bên phải, hai chân gác lên nhau như sư tử là tư thế hội đủ oai nghi, một trong những tế hạnh của người tu. Đây là tư thế nằm cát tường, tạo ra sự yên lành, an ổn cho thân thể và nhất là tâm luôn đạt được sự giác tỉnh.

Lý tưởng nhất là nằm với tâm an trú trong an tịnh của Tứ thiền, đây là cách nằm của Như Lai. Để đạt được cách nằm này, tốt nhất là rèn luyện thân tâm với tư thế nằm cát tường của sư tử. Nên nằm nghiêng về bên phải, hai tay buông lỏng, tay phải đặt dưới tai phải, tay trái đặt trên đùi trái, đầu hướng Bắc, mặt quay về Tây. Nằm theo tư thế cát tường thì trong lòng dễ sinh ra thiện niệm, bảo trì chính niệm. Duy trì tư thế ấy thì vừa tự nhiên, vừa thoải mái, tự mình thanh thản và an nhiên.

4 lưu ý để ngủ thật ngon và sâu giấc

1. Ngủ trước giờ Tý (23h)

Phật giáo dưỡng sinh cho rằng ngủ là việc lớn quan trọng nhất của con người. Thức khuya ngủ muộn trong thời gian dài có thể ảnh hưởng tới gan, thận, khí huyết trong người không thông, thân thể mệt mỏi, sắc mặt tiều tụy, tinh thần trì trệ. Vì vậy, tốt nhất là ngủ trước 11 giờ tối để bảo toàn thân thể.

2. Tĩnh tâm trước khi ngủ

Coi như thân này không có gì, hoặc như đang chìm trong nước, trước hòa tan ngón chân, rồi đến bàn chân, đùi, cuối cùng hóa thành hư ảo, tự nhiên ngủ.

Một trong những nguyên nhân gây mất ngủ là do trong đầu có tạp niệm. Lúc này, vì suy nghĩ nhiều nên trằn trọc, hao tâm tổn sức, khó đi vào giấc ngủ. Biện pháp tốt nhất là ngồi dậy, nhắm mắt, thở đều, loại bỏ ý niệm ra khỏi đầu rồi từ từ nằm xuống ngủ tiếp.

Đây là trạng thái tinh thần lý tưởng để đi vào giấc ngủ trong sách thiện y của nhà Phật. “Trước ngủ tâm, sau ngủ mắt”, chính là đạo lý về giấc ngủ của Phật giáo.

3. Nên có giấc ngủ ngắn hoặc tĩnh tọa dưỡng thần vào buổi trưa

Thời gian buổi trưa theo nhà Phật là từ 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều. Nên có một giấc ngủ kéo dài khoảng 20 phút để trí óc và thân thể nghỉ ngơi. Nếu điều kiện hữu hạn thì lúc chính Ngọ (12 giờ) chỉ cần nhắm mắt ngủ thực sự 3 phút thì cũng tương đương với ngủ hai giờ đồng hồ.

4. Không ngủ dậy quá muộn

Dù là mùa đông thì thời điểm rời giường không nên quá 6 giờ sáng, mùa xuân hạ thu thì nên dậy lúc 5 giờ. Đối với dưỡng sinh, sáng sớm rất có lợi cho sự trao đổi chất trong cơ thể người. Sáng sớm là thời điểm thải độc ra ngoài và những cơ quan như trực tràng, tiêu hóa hoạt động rất tốt.

Tóm lại, tu tập cần phải được thực hiện liên tục trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Do vậy, chọn cách nằm đúng pháp theo tư thế cát tường của Đức Phật Như Lai để an tịnh thân tâm là một trong những nội dung tu tập quan trọng của mỗi người con Phật.

Nguồn: Phật Giáo

Kính các Bạn. Đức Phật của chúng ta vẫn ngũ nghĩ theo tư thế nằm cát tường này mà đắc "Đạo". Đến khi Bát Niết Bàn tại câu Thi Na là nơi đức Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết bàn dưới hai tàng cây Sa La. Địa danh này sau được các nhà khảo cổ nhận dạng là Kasia ở quận Deoria của xứ Utta Pradesh.- Vẫn với tư thế nằm Kiết tường . Cho nên rõ ràng.- Nằm vẫn đắc Đạo, thành Phật quả, vẫn đắc Niết Bàn...- Vậy Nằm hay Ngồi là việc Bình thường trong đời sống mà ! Có gì phải làm ầm ỉ nhĩ...

Hạnh Đầu Đà Nban10
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
869
Điểm tương tác
853
Điểm
93
Bài 12. Hạnh đi bộ.

Từ thuở xa xưa ở Ấn Độ. Các Tu sĩ Đạo Phật cũng như các Đạo khác ở Ấn Độ họ đều Khất Thực để sinh sống và lúc đi khất thực họ đi bộ .- Như bài khảo sát sau:

* Tu sĩ Kỳ Na giáo: có 2 trường phái. 1/. lõa thể. 2/. Trường phái Digambara: hướng những người tu hành tới lối sống cổ xưa của những người tiền sử với niềm tin tín ngưỡng rất đơn giản, ban sơ. Những thầy tu Digambara phải sống một cuộc đời khổ hạnh mà theo họ như thế mới là tu hành đích thực. Họ cũng không bao giờ sở hữu bất cứ tài sản nào, vì vậy, ngay cả chăn chiếu, giường ngủ cũng chẳng có, họ sống đúng nghĩa là những kẻ hành khất, nay đây mai đó, màn trời chiếu đất. Các thầy tu Digambara phải tuân theo những nguyên tắc rất khắt khe là phải nhịn đói vài ngày trong tuần, ăn ít hơn những gì cơ thể đòi hỏi, không sở hữu tài sản, từ bỏ những thói quen thường tình (tắm, đánh răng, cạo râu, cắt tóc), tìm tới sống ở nơi u tịch, hành xác (để mặc cơ thể trần trụi trước nắng mưa và ánh nhìn của người đời).

Các thầy tu Digambara coi tu hành là con đường đơn độc, vì vậy họ thường sống một mình, không quan trọng việc xây dựng quan hệ thân thiết với những người xung quanh. Họ không di chuyển bằng các loại phương tiện, chỉ đi bộ, không được ở bất cứ đâu lâu hơn một ngày (trừ khi trời mưa quá nặng hạt khiến họ không thể đi tiếp), phải ăn chay trường, đi xin ăn từng bữa ăn, họ không xin ăn bằng bát mà bằng hai bàn tay khum lại, cứ thế họ ăn mà không được dùng bất cứ đũa bát nào. Họ không đi các nhà xin ăn mà chỉ đứng ở một chỗ chờ người dân mang đồ ăn tới cho, họ cũng không xin nhiều, chỉ cần lòng bàn tay chứa đầy đồ ăn là không xin thêm nữa. Thường các thầy tu im lặng, nhưng nếu buộc phải nói thì họ sẽ nói đạo lý và những triết lý. Các thầy tu Digambara coi việc khỏa thân như một điều kiện tối cần thiết để thực sự trở thành một kẻ hành khất với tâm thế tự do, được cứu rỗi linh hồn khỏi những tham sân si.
Theo: vi.wikipedia.org

* Nhưng trong Đạo Phật.- Đi Bộ chỉ là một phương cách. Đức Phật và Tăng Đoàn vẫn dùng phương cách di chuyển khác. Như bài kinh Đức Phật (không đi bộ) đến cung Trời Đao lợi.- Ở Bài Kinh Ma ha ma da.- Phật thăng Đao Lợi thiên vị mẫu thuyết pháp (Nikaya), hoặc
THIÊN THỨ MƯỜI MỘT: THUYẾT PHÁP ÐỘ PHẬT MẪU Ở CÕI TRỜI ÐẠO LỢI. TRÊN THERAVĀDA

Liền trong khi ấy đức Thế Tôn hiện lên tại cõi trời Ðạo Lợi và ngự trên tảng đá Pandukambala là ngai vàng của đức Ðế Thích. Hào quang của Ngài chiếu trùng cả hào quang của chư Thiên trên cõi trời Ðạo Lợi, làm cho chư Thiên hết sức ngạc nhiên và vô cùng trong sạch với Ngài.

Ðức Thiên Vương Ðế Thích lấy làm hân hoan là được đức Thế Tôn ngự trên ngai của mình....

...........Ðại đức Mục Kiền Liên liền trở về cho dân chúng hay. Ðến rằm tháng chín sau khi làm lễ ra hạ xong. Ngài mới bảo Thiên vương Ðế Thích rằng:

– Này Thiên vương Ðế Thích, hôm nay Như Lai ngự về cõi nhân loại. Ðức Ðế Thích liền hiện ra ba cái thang phân biệt nhau. Cái giữa làm bằng ngọc pha ly trong suốt, bên tay mặt bằng bạc, bên tay trái bằng vàng. Chân thang tại gần cửa thành xứ Sankassa , còn đầu thang thì ở tại chót núi Sineru (Tu Di).

Ðức Thế Tôn ngự đi giữa thang bằng ngọc. Thiên vương Ðế Thích ôm bát đi bên trái, Phạm Thiên che lọng đi bên phải. Còn Càn thát bà ôm đàn đi trước miệng hát tay đàn ca tụng công đức Phật bảo. Khi ấy có Chư Thiên và Phạm Thiên trong tam giới đều hội nhau lại để đảnh lễ đức Thế Tôn và hát lên rằng:

– Hởi này các bạn, tánh cách được sanh lên một vị Chánh đẳng Chánh giác là một chuyện rất hiếm có, và rất phi thường khó cho chúng ta được gặp. Hôm nay chúng ta được gặp thật là duyên lành của chúng ta mà cũng là nhân đem hữu ích lại cho chúng ta.

Khi ấy chúng sanh trong tam giới tuy là xa nhau nhưng lúc ấy trông thấy nhau như là gần bên. Ðức Thế Tôn ngự trên tảng đá gần cửa thành Sankassa. Sau này tảng đá ấy được tên là ACALACETIYA (nghĩa là Tháp ACALA ).- Hết trích -

Vâng thưa các Bạn: Ngoài phương pháp đi bộ. Đức Phật vẫn dùng thần thông, dùng các loại thang ở cõi trời (Nay có thể suy ra là các loại máy bay, xe, thuyền v.v...).

Các vị Thánh Đệ tử Phật: có vị có dùng vật đở chân như Tôn giả Tân Đầu Lô cưởi hươu nai, Ngài Văn Thù dùng Sư tử, Ngài Phổ Hiền cởi voi trắng, Ngài Địa Tạng cởi Đề Thính v.v...

* Nghĩa là Đức Phật và Thánh Đệ Tử không câu chấp vào Giới Cấm Thủ CHỈ ĐI BỘ.

* Hạnh chỉ được phép đi bộ .- chỉ là Thiên Hạnh. Vì thánh Hạnh a la hán phải là do tu tập thiền định về Tứ Diệu Đế mà thành tựu chớ không phải do đi bộ mà thành được.

Hạnh Đầu Đà Vthu_p10
 
Last edited:

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
28/7/16
Bài viết
1,837
Điểm tương tác
904
Điểm
113
Bài 12. Hạnh đi bộ.

Từ thuở xa xưa ở Ấn Độ. Các Tu sĩ Đạo Phật cũng như các Đạo khác ở Ấn Độ họ đều Khất Thực để sinh sống và lúc đi khất thực họ đi bộ .- Như bài khảo sát sau:

* Tu sĩ Kỳ Na giáo: có 2 trường phái. 1/. lõa thể. 2/. Trường phái Digambara: hướng những người tu hành tới lối sống cổ xưa của những người tiền sử với niềm tin tín ngưỡng rất đơn giản, ban sơ. Những thầy tu Digambara phải sống một cuộc đời khổ hạnh mà theo họ như thế mới là tu hành đích thực. Họ cũng không bao giờ sở hữu bất cứ tài sản nào, vì vậy, ngay cả chăn chiếu, giường ngủ cũng chẳng có, họ sống đúng nghĩa là những kẻ hành khất, nay đây mai đó, màn trời chiếu đất. Các thầy tu Digambara phải tuân theo những nguyên tắc rất khắt khe là phải nhịn đói vài ngày trong tuần, ăn ít hơn những gì cơ thể đòi hỏi, không sở hữu tài sản, từ bỏ những thói quen thường tình (tắm, đánh răng, cạo râu, cắt tóc), tìm tới sống ở nơi u tịch, hành xác (để mặc cơ thể trần trụi trước nắng mưa và ánh nhìn của người đời).

Các thầy tu Digambara coi tu hành là con đường đơn độc, vì vậy họ thường sống một mình, không quan trọng việc xây dựng quan hệ thân thiết với những người xung quanh. Họ không di chuyển bằng các loại phương tiện, chỉ đi bộ, không được ở bất cứ đâu lâu hơn một ngày (trừ khi trời mưa quá nặng hạt khiến họ không thể đi tiếp), phải ăn chay trường, đi xin ăn từng bữa ăn, họ không xin ăn bằng bát mà bằng hai bàn tay khum lại, cứ thế họ ăn mà không được dùng bất cứ đũa bát nào. Họ không đi các nhà xin ăn mà chỉ đứng ở một chỗ chờ người dân mang đồ ăn tới cho, họ cũng không xin nhiều, chỉ cần lòng bàn tay chứa đầy đồ ăn là không xin thêm nữa. Thường các thầy tu im lặng, nhưng nếu buộc phải nói thì họ sẽ nói đạo lý và những triết lý. Các thầy tu Digambara coi việc khỏa thân như một điều kiện tối cần thiết để thực sự trở thành một kẻ hành khất với tâm thế tự do, được cứu rỗi linh hồn khỏi những tham sân si.
Theo: vi.wikipedia.org

* Nhưng trong Đạo Phật.- Đi Bộ chỉ là một phương cách. Đức Phật và Tăng Đoàn vẫn dùng phương cách di chuyển khác. Như bài kinh Đức Phật (không đi bộ) đến cung Trời Đao lợi.- Ở Bài Kinh Ma ha ma da.- Phật thăng Đao Lợi thiên vị mẫu thuyết pháp (Nikaya), hoặc
THIÊN THỨ MƯỜI MỘT: THUYẾT PHÁP ÐỘ PHẬT MẪU Ở CÕI TRỜI ÐẠO LỢI. TRÊN THERAVĀDA

Liền trong khi ấy đức Thế Tôn hiện lên tại cõi trời Ðạo Lợi và ngự trên tảng đá Pandukambala là ngai vàng của đức Ðế Thích. Hào quang của Ngài chiếu trùng cả hào quang của chư Thiên trên cõi trời Ðạo Lợi, làm cho chư Thiên hết sức ngạc nhiên và vô cùng trong sạch với Ngài.

Ðức Thiên Vương Ðế Thích lấy làm hân hoan là được đức Thế Tôn ngự trên ngai của mình....

...........Ðại đức Mục Kiền Liên liền trở về cho dân chúng hay. Ðến rằm tháng chín sau khi làm lễ ra hạ xong. Ngài mới bảo Thiên vương Ðế Thích rằng:

– Này Thiên vương Ðế Thích, hôm nay Như Lai ngự về cõi nhân loại. Ðức Ðế Thích liền hiện ra ba cái thang phân biệt nhau. Cái giữa làm bằng ngọc pha ly trong suốt, bên tay mặt bằng bạc, bên tay trái bằng vàng. Chân thang tại gần cửa thành xứ Sankassa , còn đầu thang thì ở tại chót núi Sineru (Tu Di).

Ðức Thế Tôn ngự đi giữa thang bằng ngọc. Thiên vương Ðế Thích ôm bát đi bên trái, Phạm Thiên che lọng đi bên phải. Còn Càn thát bà ôm đàn đi trước miệng hát tay đàn ca tụng công đức Phật bảo. Khi ấy có Chư Thiên và Phạm Thiên trong tam giới đều hội nhau lại để đảnh lễ đức Thế Tôn và hát lên rằng:

– Hởi này các bạn, tánh cách được sanh lên một vị Chánh đẳng Chánh giác là một chuyện rất hiếm có, và rất phi thường khó cho chúng ta được gặp. Hôm nay chúng ta được gặp thật là duyên lành của chúng ta mà cũng là nhân đem hữu ích lại cho chúng ta.

Khi ấy chúng sanh trong tam giới tuy là xa nhau nhưng lúc ấy trông thấy nhau như là gần bên. Ðức Thế Tôn ngự trên tảng đá gần cửa thành Sankassa. Sau này tảng đá ấy được tên là ACALACETIYA (nghĩa là Tháp ACALA ).

Vâng thưa các Bạn: Ngoài phương pháp đi bộ. Đức Phật vẫn dùng thần thông, dùng các loại thang ở cõi trời (Nay có thể suy ra là các loại máy bay, xe, thuyền v.v...).

Các vị Thánh Đệ tử Phật: có vị có dùng vật đở chân như Tôn giả Tân Đầu Lô cưởi hươu nai, Ngài Văn Thù dùng Sư tử, Ngài Phổ Hiền cởi voi trắng, Ngài Địa Tạng cởi Đề Thính v.v...

* Nghĩa là Đức Phật và Thánh Đệ Tử không câu chấp vào Giới Cấm Thủ CHỈ ĐI BỘ.

* Hạnh chỉ được phép đi bộ .- chỉ là Thiên Hạnh. Vì thánh Hạnh a la hán phải là do tu tập thiền định về Tứ Diệu Đế mà thành tựu chớ không phải do đi bộ mà thành được.

Hạnh Đầu Đà Vthu_p10
Kính Thầy,

Như lời Thầy nói con có chỗ thắc mắc,

1. Nếu Phật ngoài dùng thần thông để lên cung trời Đao Lợi thì Phật có thể dùng cách đi bộ hay đi xe ngựa, trâu, nai (thời Phật chưa có động cơ đốt nên chưa có máy bay, tàu hỏa, tên lửa v..v) để lên Đao Lợi Thiên cung thuyết pháp cho thân mẫu đã quá vãng được chăng ?

Nếu thần thông Phật như máy bay, tên lửa v..v vậy giờ chúng ta có thể lên Đao Lợi Thiên Cung bằng máy bay, tên lửa v..v được chăng ?

2. Các đại Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Địa Tạng v..v như thầy nói là cưỡi sư tử, voi, v..v làm "phương tiện" thế thì có được cho là từ bi coi chúng sanh như "con một" nữa không ? Lẽ nào Bồ Tát ví như "mẹ hiền" lại lấy "con" mình ra làm vật cưỡi ?

Nếu đó chẳng phải vật cưỡi, như kiếm là trí tuệ, tiếng thuyết pháp là sư tử rống v..v vậy voi, sư tử v..v đi theo các vị Đại Bồ Tát, biểu trưng cho cái gì ở trong Phật pháp ?

Mến kính,
Ba Tuần.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
869
Điểm tương tác
853
Điểm
93
... có chỗ thắc mắc,

1. Nếu Phật ngoài dùng thần thông để lên cung trời Đao Lợi thì Phật có thể dùng cách đi bộ hay đi xe ngựa, trâu, nai (thời Phật chưa có động cơ đốt nên chưa có máy bay, tàu hỏa, tên lửa v..v) để lên Đao Lợi Thiên cung thuyết pháp cho thân mẫu đã quá vãng được chăng ?

Nếu thần thông Phật như máy bay, tên lửa v..v vậy giờ chúng ta có thể lên Đao Lợi Thiên Cung bằng máy bay, tên lửa v..v được chăng ?

2. Các đại Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Địa Tạng v..v như thầy nói là cưỡi sư tử, voi, v..v làm "phương tiện" thế thì có được cho là từ bi coi chúng sanh như "con một" nữa không ? Lẽ nào Bồ Tát ví như "mẹ hiền" lại lấy "con" mình ra làm vật cưỡi ?

Nếu đó chẳng phải vật cưỡi, như kiếm là trí tuệ, tiếng thuyết pháp là sư tử rống v..v vậy voi, sư tử v..v đi theo các vị Đại Bồ Tát, biểu trưng cho cái gì ở trong Phật pháp ?

Mến kính,
Ba Tuần.
Kính Ngài Ba Tuần. Ngài hỏi 2 câu làm VQ rất khó trả lời ạ.

Câu 1: Nếu Phật dùng thần thông...lên cung trời v.v...vậy giờ chúng ta có thể lên Đao Lợi Thiên Cung bằng máy bay, tên lửa v..v được chăng ?

Đáp: Thần Thông, trí huệ Phật, và Thánh Tăng thì VQ chỉ là phàm phu nên đâu thể nghĩ bàn. Nếu có nghĩ bàn thì chỉ là hý luận, suy tưởng bâng quơ...Nên tốt nhất là chờ VQ gần thành Phật mới biết chính xác ạ.- Còn hiện giờ thì VQ chỉ có niềm Tin nơi Tam Bảo.

Câu 2: Các đại Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Địa Tạng v..v như thầy nói là cưỡi sư tử, voi, v..v làm "phương tiện" thế thì có được cho là từ bi coi chúng sanh như "con một" nữa không ? Lẽ nào Bồ Tát ví như "mẹ hiền" lại lấy "con" mình ra làm vật cưỡi ?

Nếu đó chẳng phải vật cưỡi, như kiếm là trí tuệ, tiếng thuyết pháp là sư tử rống v..v vậy voi, sư tử v..v đi theo các vị Đại Bồ Tát, biểu trưng cho cái gì ở trong Phật pháp ?

Đáp: Bồ Tát Văn Thù biểu trưng cho Tri. Bồ Tát Phổ hiền Biểu trưng cho Hành. Tri - Hành hợp nhất mới là Chân lý.
Nếu như Ngài nói:
"Nếu đó chẳng phải vật cưỡi, như kiếm là trí tuệ, tiếng thuyết pháp là sư tử rống v..v vậy voi, sư tử v..v đi theo các vị Đại Bồ Tát, biểu trưng cho cái gì ở trong Phật pháp ?"
Thì e rằng chỉ là Lý thuyết suông, các Thầy gọi là "bắn bổng". Nghĩa là khó trúng đích !

Nhưng qua câu hỏi của Ngài VQ chợt Tưởng tượng 2 điều (viễn vong chăn ?):

1/. Các vị cao Tăng thời nay...có lẻ e ngại (lấy "con" mình ra làm vật cưỡi).- Nên các ngài biến hiện thần thông, phước đức, trí tuệ thành ra chiếc xe BMW, toyota v.v,.. để làm vật đở chân (Thế mà vẫn bị người ta xâm soi ạ).

2/. Kinh A Di Đà có kể về cảnh giới Cực Lạc có chim nói pháp v.v... nhưng chúng sanh đừng nên nghĩ rằng chim ấy là tội báo sanh ra. Mà là do sức Phật biến hóa ra.... Cũng vậy: Các vị Bồ Tát, có Sư tử Xanh (Đâu phải vật thường) voi trắng 6 ngà (linh Vật), Đề Thính (kỳ thú) v.v... thì Chắc cũng là do Sức Thần của các ngài biến hóa ra nên vẫn từ bi ạ...

Các Việc này Ngài nên trực tiếp hỏi Phật và chư Bồ Tát. Hihi .... VQ chỉ là phàm phu "bắn bổng" mà thôi ạ...

Nhưng cũng có thể suy ra. Ngoài đi Bộ. Còn có các cách đi khác ạ.(Mà vẫn là Phạm Hạnh)

Kính
 
Last edited:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

TOP 5 Tài Thí

Bên trên